SỐ 1560/1
LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ BẢN TỤNG
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

Phẩm thứ 1: PHÂN BIỆT GIỚI (Gồm 44 Tụng)

Bậc Nhất thiết chủng diệt các tối
Cứu chúng sinh khỏi bùn sinh tử
Kính lễ Sư như lý như thế
Luận Đối Pháp Tạng con sẽ nói.
Tuệ tịnh tùy hành gọi Đối pháp
Cùng các tuệ luận có thể đạt
Thâu thắng nghĩa kia dựa nơi đấy
Đây lập tên Đối pháp Câu xá.
Nếu lìa trạch pháp thì nhất định
Không phương tiện hơn diệt các Hoặc
Do Hoặc thế gian trôi biển Hữu
Nhân đấy truyền Phật nói Đối pháp.
Pháp hữu lậu, vô lậu
Trừ đạo còn hữu vi
Nơi lậu kia tùy tăng
Nên nói là hữu lậu.
Vô lậu tức đạo đế
Cùng ba thứ vô vi
Là hư không, hai diệt
Trong ấy: không, vô ngại.
Trạch diệt là ly hệ
Tùy sự buộc đều khác
Hoàn toàn đều sẽ sinh
Riêng được phi trạch diệt.
Lại, các pháp hữu vi
Là năm uẩn như sắc
Cũng thế lộ, ngôn y
Cùng hữu ly hữu sự.
Hữu lậu gọi thủ uẩn
Cũng nói là hữu tránh
Cùng khổ, tập thế gian
Kiến xứ và ba hữu.
Sắc chính là năm căn
Năm cảnh cùng vô biểu
Thức kia dựa sắc tịnh
Gọi năm căn như nhãn.
Sắc hai, hoặc hai mươi
Thanh chỉ có tám thứ
Vị sáu, hương bốn loại
Xúc mười một, là tánh.
Loạn tâm cùng không tâm
Tùy lưu tịnh, bất tịnh
Tánh đại chủng đã tạo
Do đấy nói vô biểu.
Đại chủng là bốn giới
Tức địa thủy hỏa phong
Có thể thành nghiệp trì v.v…
Tánh cứng, ướt, nóng, động.
Địa là hiển, hình sắc
Theo đời tưởng đặt tên
Thủy, hỏa cũng lại thế
Phong tức giới cũng vậy.
Trong ấy căn cùng cảnh
Nhân là mười xứ giới
Thọ lãnh nạp theo xúc
Tưởng lấy tượng làm Thể.
Bốn khác gọi hành uẩn
Như thế thọ cùng ba
Và vô vi, vô biểu
Gọi pháp xứ, pháp giới.
Thức là đều liễu biệt
Đây tức gọi ý xứ
Cùng bảy giới nên biết
Sáu thức chuyển là ý.
Do tức sáu thức thân
Vô gián diệt là ý
Thành chỗ dựa thứ sáu
Mười tám giới nên biết.
Thâu chung tất cả pháp
Do một uẩn, xứ, giới
Chỉ gồm thâu tự tánh
Do đã lìa tha tánh.
Loại cảnh thức là đồng
Tuy hai giới, Thể một
Nhưng vì khiến đoan nghiêm
Mắt cùng đều sinh hai.
Tụ, môn sinh, chủng tộc
Là nghĩa uẩn, xứ, giới
Ngu căn ưa thích ba
Nói uẩn xứ giới ba.
Tránh căn nhân sinh tử
Cùng với thứ lớp nhân
Nơi các tâm sở pháp
Thọ, tưởng riêng làm uẩn.
Uẩn không thâu vô vi
Do nghĩa không tương ưng
Tùy theo thô, nhiễm, vật v.v…
Giới riêng thứ lớp lập.
Năm cảnh trước chỉ hiện
Bốn cảnh chỉ được tạo
Dụng khác, xa, nhanh, sáng
Hoặc theo thứ lớp xứ.
Vì sai biệt tối thắng
Gồm nhiều pháp tăng thượng
Nên một xứ gọi sắc
Một gọi là pháp xứ.
Mâu Ni với pháp uẩn
Số có tám mươi ngàn
Thể kia, ngữ hoặc danh
Sắc ấy thuộc hành uẩn.
Có nói các pháp uẩn
Lượng như luận kia nêu
Hoặc nói tùy theo uẩn
Hành như thật đối trị.
Như thế, uẩn xứ khác
Đều tùy chỗ ứng hợp
Thâu trong phần nêu trước
Nên quán kỹ tự tướng.
Không giới là khoảng trống
Truyền nói là sáng tối
Thức giới, thức hữu lậu
Chỗ dựa, hữu tình sinh.
Một có thấy là sắc
Mười có sắc, có đối
Đây trừ sắc, thanh, tám
Vô ký, ba thứ khác.
Thuộc cõi dục mười tám
Thuộc cõi sắc mười bốn
Trừ hương, vị hai thức
Thuộc vô sắc: Ba sau.
Ý, pháp, ý thức chung
Ngoài ra chỉ hữu lậu
Năm thức có tầm, tứ
Ba sau, ba, khác không.
Nói năm không phân biệt
Do xét tính tùy niệm
Vì ý địa, tuệ tán
Ý thức, niệm làm thể.
Bảy tâm pháp giới nửa
Có đối duyên, khác không
Tám giới trước cùng thanh
Không chấp thọ, khác hai.
Trong xúc giới có hai
Chín khác, sắc được tạo
Một phần pháp cũng thế
Mười sắc được tích tập.
Là chỉ bốn giới ngoài
“Năng chước cùng sở chước”
Cũng sở thiêu, năng xứng
Năng thiêu sở xứng tránh.
Năm trong có thục, nuôi
Thanh không dị thục sinh
Tám vô ngại đẳng lưu
Cũng tánh dị thục sinh.
Khác ba thật chỉ pháp
Sát-na chỉ ba sau
Nhãn cùng nhãn thức giới
Riêng cùng được và không v.v…
Nội là mười hai nhãn v.v…
Sáu như sắc là ngoài
Pháp đồng phần khác hai
Tạo không tạo tự nghiệp.
Mười lăm chỉ tu đoạn
Ba giới sau, chung ba
Không nhiễm, chẳng sáu sinh
Sắc định phi kiến đoạn.
Nhãn, một phần pháp giới
Tám thứ nói là kiến
Năm thức tuệ câu sinh
Chẳng phải kiến, không độ.
Mắt thấy sắc đồng phần
Không kia hay dựa thức
Truyền nói không thể quán
Kia chướng nơi các sắc.
Hoặc hai mắt cùng lúc
Thấy sắc được phân minh
Nhãn, nhĩ, ý căn cảnh
Không đến, ba trái nhau.
Nên biết ba như mũi
Chỉ nhận lượng bằng cảnh
Sau dựa chỉ quá khứ
Năm thức dựa hoặc cùng.
Theo căn đổi thức khác
Nên mắt v.v… gọi là dựa
Kia cùng không chung nhân
Nên theo căn nói thức.
Mắt không ở dưới thân
Sắc thức không trên mắt
Sắc nơi thức tất cả
Hai nơi thân cũng vậy.
Như mắt, tai cũng thế
Tiếp ba đều tự địa
Thân thức tự địa dưới
Ý bất định, nên biết.
Năm ngoại, hai do thức
Thường, pháp giới vô vi
Một phần pháp là căn
Cùng nội giới mười hai.

Phẩm thứ 2: PHÂN BIỆT CĂN (Gồm 74 Tụng)

Truyền nói năm nơi bốn
Bốn căn nơi hai thứ
Năm, tám trong nhiễm, tịnh
Đều riêng là tăng thượng.
Rõ tự cảnh tăng thượng
Lập chung nơi sáu căn
Từ thân lập hai căn
Nữ nam tánh tăng thượng.
Nơi đồng trụ tạp nhiễm
Nên thanh tịnh tăng thượng
Tức biết mạng, năm thọ
Tín cùng lập làm căn.
Vị đương tri, dĩ tri
Cụ tri căn cũng thế
Đối đắc sau sau đạo
Niết-bàn cùng tăng thượng.
Tâm sở dựa riêng ấy
Trụ ấy, tạp nhiễm ấy
Tư lương ấy, tịnh ấy
Do lượng ấy lập căn.
Hoặc chỗ dựa lưu chuyển
Cùng sinh trụ thọ dụng
Kiến lập mười bốn trước
Hoàn diệt sau cũng thế.
Thân không vui gọi khổ
Tức vui ấy gọi lạc
Cùng ba định tâm vui
Xứ khác đấy gọi hỷ.
Tâm không vui gọi ưu
Giữa xả, hai không khác
Đạo kiến, tu vô học
Dựa chín lập ba căn.
Chỉ vô lậu, ba sau
Có sắc mạng ưu khổ
Nên biết chỉ hữu lậu
Chung hai, chín căn khác.
Mạng chỉ là dị thục
Ưu cùng tám sau: không
Sắc ý bốn thọ khác
Mỗi mỗi đều chung hai.
Ưu định có dị thục
Tám trước, ba sau không
Ý, thọ khác và tín v.v…
Mỗi một đều chung hai.
Tám căn sau chỉ thiện
Ưu chung thiện, bất thiện
Ý, thọ khác ba thứ
Tám trước chỉ vô ký.
Thuộc dục, sắc, vô sắc
Thứ lớp trừ ba sau
Gồm nữ, nam, ưu, khổ
Cùng trừ sắc hỷ, lạc.
Ý ba thọ chung ba
Ưu: kiến, tu cùng đoạn
Chín chỉ do tu đoạn
Năm tu phi ba không.
Dục: thai, noãn, thấp, sinh
Đầu được hai dị thục
Hoá sinh sáu, bảy, tám
Sắc sáu, trên chỉ mạng.
Các căn đang chết, diệt
Vô sắc ba, sắc tám
Dục tức mười, chín, tám
Dần bốn thiện, tăng năm.
Chín đắc biên hai quả
Bảy, tám, chín: Hai giữa
Mười một A-la-hán
Dựa một nên thuyết có.
Thành tựu mạng, ý xả
Đều định thành tựu ba
Nếu thành tựu thân lạc
Đều định thành tựu bốn.
Thành nhãn v.v… cùng với hỷ
Đều định thành năm căn
Nếu thành tựu khổ căn
Kia định thành tựu bảy.
Nếu thành nữ, nam, ưu
Tín cùng đều thành tám
Hai vô lậu, mười một
Vô lậu đầu mười ba.
Cực ít tám không thiện
Thành thọ thân mạng ý
Ngu sinh cõi vô sắc
Thành thiện mạng ý xả.
Cực nhiều thành mười chín
Hai hình trừ ba tịnh
Thánh giả chưa lìa dục
Trừ hai tịnh một hình.
Dục vi tụ không thanh
Không căn có tám sự
Có thân căn chín sự
Mười sự có căn khác.
Tâm tâm sở tất cùng
Các hành tướng hoặc đắc
Tâm sở lại có năm
Pháp đại địa cùng khác.
Thọ, tưởng, tư, xúc, dục
Tuệ, niệm cùng tác ý
Thắng giải, Tam-ma-địa
Khắp nơi tất cả tâm.
Tín cùng không phóng dật
Khinh an, xả, tàm, quý
Hai căn cùng bất hại
Cần chỉ khắp tâm thiện.
Si, dật, đãi, bất tín
Hôn, trạo luôn chỉ nhiễm
Chỉ khắp tâm bất thiện
Không tàm cùng không quý.
Phẫn, phú, xan, tật, não
Hại, hận, siểm, cuống, kiêu
Loại như thế gọi là
Pháp tiểu phiền não địa.
Cõi dục có tầm, tứ
Ở trong phẩm tâm thiện
Hai mươi hai tâm sở
Có lúc thêm ố tác.
Nơi bất thiện không chung
Kiến cùng chỉ hai mươi
Bốn phiền não như phẫn…
Ố tác hai mươi mốt.
Hữu phú có mười tám
Vô phú cho mười hai
Thùy miên khắp không trái
Nếu có đều tăng một.
Định một trừ bất thiện
Cùng ố tác, thùy miên
Định giữa lại trừ tầm
Trên gồm trừ cả tứ.
Không hổ thẹn, không trọng
Nơi tội không thấy sợ
Ái kính là tín, hổ
Chỉ nơi dục, sắc có.
Tầm, tứ tâm thô tế
Mạn đối tha tâm cao
Kiêu do nhiễm tự pháp
Tâm cao không nhìn xét.
Tâm, ý, thức, thể một
Tâm tâm sở có dựa
Có duyên, có hành tướng
Nghĩa tương ưng có năm.
Tâm bất tương ưng hành
Đắc, phi đắc đồng phần
Vô tưởng, hai định, mạng
Tướng danh thân các loại.
Đắc là được thành tựu
Phi đắc trái với đấy
Đắc, phi đắc chỉ ở
Tự tương tục hai diệt.
Pháp ba đời đều ba
Thiện cùng chỉ là thiện
Có thuộc, tự cõi đắc
Không thuộc, đắc chung bốn.
Phi học, vô học ba
Không đoạn có hai thứ
Vô ký đắc cùng khởi
Trừ hai thông biến hóa.
Hữu phú sắc cũng cùng
Dục, sắc không trước khởi
Phi đắc thuộc vô ký
Đời khứ lai đều ba.
Ba cõi không buộc ba
Nhân Thánh đạo phi đắc
Gọi là tánh phàm phu
Đắc pháp chuyển địa xả.
Đồng phần nơi hữu tình
Vô tưởng trong vô tưởng
Tâm tâm sở pháp diệt
Dị thục ở Quảng quả.
Định vô tưởng như thế
Tĩnh lự sau cầu thoát
Thiện chỉ thuận sinh thọ
Phi Thánh đắc một đời.
Định diệt tận cũng vậy
Là tĩnh trụ Hữu đảnh
Thiện hai, thọ bất định
Thánh do gia hạnh đắc.
Thành Phật đắc không trước
Nơi ba mươi bốn niệm
Hai định dựa dục, sắc
Diệt định đầu trong người.
Mạng căn thể tức thọ
Có thể giữ noãn thức
Tướng là các hữu vi
Tánh sinh, trụ, dị diệt.
Đây có sinh của sinh v.v…
Nơi tám, một có thể
Sinh, chủ thể, đối tượng
Không lìa nhân duyên hợp.
Danh thân cùng đó là
Tưởng chương, chữ, nói chung
Dục, sắc thuộc hữu tình
Tánh đẳng lưu, vô ký.
Đồng phần cũng như thế
Cùng vô sắc dị thục
Đắc tướng chung ba loại
Phi đắc, định đẳng lưu.
Năng tác cùng câu hữu
Đồng loại và tương ưng
Biến hành và dị thục
Là nhân chỉ sáu thứ.
Trừ tự còn năng tác
Câu hữu, cùng là quả
Như tướng đại hiện tướng
Tâm nơi tâm tùy chuyển.
Tâm sở hai luật nghi
Kia cùng các tướng tâm
Là pháp tâm tùy chuyển
Do thời cùng quả thiện.
Nhân đồng loại tương tợ
Tự bộ địa sinh trước
Đạo chín địa lần lượt
Chỉ cùng thắng làm quả.
Gia hạnh sinh cũng thế
Do văn, tư tạo thành
Nhân tương ưng quyết định
Tâm tâm sở đồng dựa.
Biến hành là biến trước
Là đồng địa nhân nhiễm
Nhân dị thục bất thiện
Cùng thiện chỉ hữu lậu.
Biến hành với đồng loại
Hai đời, ba đời, ba
Quả hữu vi ly hệ
Vô vi không nhân quả.
Nhân sau quả dị thục
Nhân trước quả tăng thượng
Đồng loại biến đẳng lưu
Câu, tương ưng, sĩ dụng.
Dị thục pháp vô ký
Hữu tình hữu ký sinh
Đẳng lưu giống tự nhân
Ly hệ do tuệ tận.
Hoặc nhân lực kia sinh
Quả ấy gọi sĩ dụng
Pháp hữu vi trước khác
Hữu vi quả tăng thượng.
Năm nhận quả chỉ hiện
Hai cho quả cũng thế
Quá, hiện cho: hai nhân
Một cho chỉ quá khứ.
Nhiễm ô, dị thục sinh
Còn đầu Thánh như tiếp
Trừ dị thục, biến hai
Cùng đồng loại còn sinh.
Đây là tâm tâm sở
Còn cùng trừ tương ưng
Nói có bốn thứ duyên
Nhân duyên tánh năm nhân.
Đẳng vô gián, không sau
Tâm tâm sở đã sinh
Sở duyên tất cả pháp
Tăng thượng tức năng tác.
Hai nhân nơi đang diệt
Ba nhân nơi đang sinh
Hai duyên khác trái nhau
Mà hưng khởi tác dụng.
Tâm tâm sở do bốn
Hai định chỉ do ba
Còn do hai duyên sinh
Phi thiên nên thứ lớp.
Đại là hai nhân đại
Là năm thứ được tạo
Tạo là tạo ba thứ
Vì đại chỉ một nhân.
Cõi dục có bốn tâm
Thiện ác, phú vô phú
Sắc, vô sắc trừ ác
Vô lậu có hai tâm.
Cõi dục thiện sinh chín
Đây lại từ tám sinh
Nhiễm từ mười sinh bốn
Còn từ năm sinh bảy.
Sắc thiện sinh mười một
Đây lại từ chín sinh
Hữu phú từ tám sinh
Đây lại sinh nơi sáu.
Vô phú từ ba sinh
Đây lại hay sinh sáu
Vô sắc thiện sinh chín
Đây lại từ sáu sinh.
Hữu phú từ bảy sinh
Vô phú như sắc biện
Học từ bốn sinh năm
Còn từ năm sinh bốn.
Mười hai làm hai mươi
Là tâm thiện ba cõi
Phần gia hạnh, sinh đắc
Dục vô phú phân bốn.
Dị thục, đường oai nghi
Xứ công xảo, thông quả
Cõi sắc trừ công xảo
Số còn như trước nói.
Trong tâm nhiễm ba cõi
Đắc sáu, sáu, hai thứ
Sắc thiện ba, học bốn
Còn đều tự đạt được.

Phẩm thứ 3: PHÂN BIỆT THẾ GIỚI (Gồm 99 Tụng)

Địa ngục, bàng sinh, quỷ
Người cùng sáu trời dục
Gọi cõi dục: Hai mươi
Do địa ngục, châu khác.
Mười bảy xứ trên đây
Gọi cõi sắc, trong ấy
Ba tĩnh lự đều ba
Tĩnh lự thứ tư: tám.
Cõi vô sắc không xứ
Do sinh có bốn thứ
Dựa đồng phần cùng mạng
Khiến tâm cùng nối tiếp.
Trong ấy như địa ngục v.v…
Mục danh nói năm nẻo
Chỉ vô phú, vô ký
Hữu tình không trung hữu.
Thân khác cùng tưởng khác
Thân khác đồng một tưởng
Trái đây: thân tưởng một
Cùng ba vô sắc dưới.
Nên thức trụ có bảy
Còn không có tổn hoại
Nên biết gồm Hữu đảnh
Cùng hữu tình vô tưởng.
Là chín hữu tình cư
Khác phi chẳng ưa trụ
Bốn thức trụ nên biết
Bốn uẩn chỉ tự địa.
Nói riêng thức phi trụ
Hữu lậu bốn trường hợp
Trong ấy, có bốn sinh
Hữu tình là như noãn…
Người, bàng sinh đủ bốn
Địa ngục và các trời
Trung hữu chỉ hóa sinh
Quỷ chung hai thai, hóa.
Giữa hai hữu tử, sinh
Năm uẩn gọi trung hữu
Chưa đến xứ nên đến
Trung hữu không phải sinh.
Như lúa thóc nối tiếp
Xứ vô gián tiếp sinh
Tượng thật có chẳng thành
Không cùng nên không dụ.
Một xứ không hai vật
Không nối tiếp hai sinh
Nói có Kiện-đạt-phược
Cùng với Kinh Ngũ Thất.
Một nghiệp này dẫn khởi
Như hình bản hữu đương
Bản hữu là trước tử
Ở sau sát-na sinh.
Đồng, thiên nhãn tịnh thấy
Nghiệp thông nhanh đủ căn
Không đối, không thể chuyển
Ăn hương không trụ lâu.
Tâm đảo hướng cảnh dục
Thấp, hóa nhiễm xứ hương
Trời đầu trên, ba ngang
Địa ngục, đầu quay xuống.
Một, nơi nhập Chánh tri
Hai, ba gồm trụ, xuất
Bốn nơi tất cả vị
Cùng noãn luôn vô tri.
Ba loại nhập thai trước
Là Luân vương, hai Phật
Nghiệp trí cùng thù thắng
Như tiếp bốn sinh khác.
Không ngã chỉ các uẩn
Phiền não nghiệp tạo thành
Do trung hữu nối tiếp
Nhập thai như đèn sáng.
Như dẫn thứ lớp tăng
Tương tục do hoặc nghiệp
Lại hướng nơi đời khác
Nên có vòng không đầu.
Các duyên khởi như thế
Mười hai chi: Ba phần
Phần trước, sau: đều hai
Giữa tám, dựa viên mãn.
Vị Hoặc trước vô minh
Các nghiệp trước là hành
Thức chính uẩn kết sinh
Danh sắc trước sáu xứ.
Từ sinh căn như nhãn v.v…
Sáu xứ trước ba hòa
Nơi ba thọ nhân khác
Chưa biết rõ gọi xúc.
Trước dâm ái là thọ
Tham vật, dâm là ái
Vì được các cảnh giới
Cầu tìm khắp là thủ.
Hữu: Là đang tạo tác
Nghiệp dẫn quả vị lai
Kết hữu sau là sinh
Đến thọ sau: Lão tử.
Truyền cho dựa nơi vị
Theo thắng lập tên chi
Nơi đời trước, sau, giữa
Vì trừ bỏ ngu lầm.
Ba phiền não, hai nghiệp
Bảy sự cũng gọi quả
Lược quả cùng lược nhân
Do giữa so hai kia.
Từ Hoặc sinh Hoặc, nghiệp
Từ nghiệp sinh nơi sự
Từ sự, sự hoặc sinh
Chi hữu lý chỉ đấy.
Ở đây ý chính nói
Nhân khởi, quả đã sinh
Minh đối trị vô minh
Như không phải thân, thật.
Nói là kiết cùng với
Không phải tuệ ác kiến
Do cùng kiến tương ưng
Nói có thể nhiễm tuệ.
Danh bốn uẩn vô sắc
Xúc sáu, ba hòa sinh
Năm tương ưng có đối
Thứ sáu cùng tăng ngữ.
Minh, vô minh chẳng hai
Vô lậu nhiễm ô khác
Ái, giận hai tương ưng
Thuận ba thọ như lạc v.v…
Từ đấy sinh sáu thọ
Năm thuộc thân còn tâm
Đây lại thành mười tám
Do ý cận hành khác.
Dục duyên dục mười tám
Sắc mười hai, trên ba
Hai duyên dục mười hai
Tám tự, hai vô sắc.
Sau hai duyên, dục sáu
Bốn tự một duyên trên
Đầu vô sắc cận phần
Duyên sắc bốn tự một.
Bốn gốc cùng ba biên
Chỉ một duyên tự cảnh
Mười tám chỉ hữu lậu
Còn đã nói, sẽ nói.
Trong đây, nói phiền não
Như chủng, lại như rồng
Như cỏ rễ, cây cành
Cũng như trấu bọc gạo.
Nghiệp như gạo có trấu
Như cỏ thuốc, như hoa
Các sự quả dị thục
Như ăn uống thành thục.
Ở trong bốn thứ hữu
Sinh hữu chỉ nhiễm ô
Do phiền não tự địa
Còn ba, vô sắc ba.
Hữu tình do ăn trụ
Đoạn, dục thể chỉ ba
Phi sắc không thể tăng
Tự căn và giải thoát.
Ba thực: Xúc, tư, thức
Hữu lậu chung ba cõi
Ý thành và cầu sinh
Trong hữu ăn hương khởi.
Hai trước tăng đời này
Đối tượng, chủ thể dựa
Hai sau, hữu vị lai
Dẫn khởi như thứ lớp.
Đoạn căn thiện cùng tiếp
Lìa dục, thoái tử sinh
Cho chỉ trong ý thức
Tử sinh chỉ xả thọ.
Phi định không tâm hai
Hai vô ký Niết-bàn
Dần chết, chân rốn, tim
Sau cùng ý thức diệt.
Dưới người trời bất sinh
Đoạn Mạt-ma do nước
Tụ chánh, tà bất định
Thánh tạo vô gián khác.
An lập khí thế gian
Phong luân ở thấp nhất
Lượng ấy rộng vô số
Dày mười sáu Lạc-xoa.
Kế trên thủy luân sâu
Mười một ức, hai vạn
Nước dưới tám Lạc-xoa
Còn ngưng kết thành kim.
Thủy luân, kim luân rộng
Ngang mười hai Lạc-xoa
Ba ngàn bốn trăm rưỡi
Chu vi gấp ba lần.
Tô-mê-lô ở giữa
Đến Du-kiện-đạt-la
Núi Y-sa-đà-la
Núi Khiết-địa-lạc-ca.
Tô-đạt-lê-xá-na
Át-thấp-phược-yết-noa
Núi Tỳ-na-đát-ca
Núi Ni-dân-đạt-la.
Ở bên ngoài châu lớn
Có núi Thiết Luân Vi
Bảy trước, vàng tạo thành
Tô-mê-lô bốn báu.
Vào nước đều tám vạn
Diệu Cao nhô cũng thế
Tám kia nửa nửa thấp
Rộng đều cùng lượng cao.
Giữa núi có tám biển
Bảy trước gọi là trong
Biển đầu rộng tám vạn
Bốn bên đều gấp ba.
Sáu kia nửa nửa hẹp
Thứ tám, gọi là ngoài
Ba Lạc-xoa, hai vạn
Hai ngàn du-thiện-na.
Trong ấy: Tướng châu lớn
Nam Thiệm Bộ như xe
Ba biên đều hai ngàn
Biên Nam có ba rưỡi.
Đông, châu Tỳ-đề-ha
Tướng như hình bán nguyệt
Ba biên như Thiệm Bộ
Biên Đông ba trăm rưỡi.
Tây: Châu Cù-đà-ni
Hình tướng tròn không khuyết
Dài hai ngàn năm trăm
Chu vi thì gấp ba.
Bắc: Câu Lô dạng vuông
Mặt đều là hai ngàn
Châu vừa lại có tám
Bên bốn châu đều hai.
Bắc đây, chín Hắc sơn
Trong núi Tuyết, Hương, Túy
Ao Vô nhiệt rộng lớn
Năm mươi du-thiện-na.
Dưới đấy quá hai vạn
Vô gián, sâu rộng đồng
Trên bảy Nại-lạc-ca
Tám tăng đều mười sáu.
Là tro nóng, thây phẩn
Dao nhọn, sông sôi tăng
Đều trụ bốn phương kia
Tám khác: Địa ngục lạnh.
Nhật nguyệt nửa Mê Lô
Năm mươi mốt, năm mươi
Nửa đêm mặt trời lặn
Nhật xuất nơi bốn châu.
Mùa mưa, tháng thứ hai
Chín sau đêm tăng dần
Lạnh thứ tư cũng thế
Đêm giảm, ngày ngược lại.
Ngày đêm tăng: Lạp-phược
Lúc đi đường nam bắc
Gần nhật bóng tự che
Nên thấy mặt trăng khuyết.
Diệu Cao có bốn tầng
Cách nhau đều mười ngàn
Bên nhô mười sáu ngàn
Lượng tám, bốn, hai ngàn.
Kiên thủ cùng Trì man
Hằng kiêu, Đại vương chúng
Như thế ở bốn cấp
Cũng trụ bảy núi khác.
Đỉnh Diệu Cao tám vạn
Trời Ba Mươi Ba ngụ
Bốn góc có bốn ngọn
Do Kim Cang Thủ trụ.
Cung giữa gọi Thiện Kiến
Vòng vạn du-thiện-na
Cao một rưỡi, thành vàng
Nhiều màu sắc đất nhuyễn.
Trong có điện Thù Thắng
Vòng ngàn du-thiện-na
Ngoài bốn vườn trang nghiêm
Chúng xa, Thô, Tạp, Hỷ.
Ao đẹp ở bốn phía
Cách nhau đều hai mươi
Đông bắc: Cây Viên sinh
Tây nam: Thiện pháp đường.
Trên đây trời có sắc
Trụ cung điện nương không
Sáu thọ dục giao ôm
Nắm tay, cười nhìn: Dâm.
Mới như năm đến mười
Sắc viên mãn, có áo
Dục sinh ba, người trời
Lạc sinh ba, chín xứ.
Như lượng kia cách dưới
Cách trên số cũng thế
Lìa thông lực nương khác
Dưới không lên thấy trên.
Bốn châu lớn, nhật, nguyệt
Tô-mê-lô trời dục
Phạm thế đều một ngàn
Gọi một Tiểu thiên giới.
Gấp ngàn Tiểu thiên này
Nói là một Trung thiên
Đại thiên gấp ngàn ấy
Đều đồng một thành, hoại.
Người ở châu Thiệm Bộ
Cao bốn ba khuỷu rưỡi
Người châu Đông, Tây, Bắc
Thứ lớp tăng gấp bội.
Trời dục câu-lô-xá
Bốn phần mỗi mỗi tăng
Trời sắc du-thiện-na
Bốn đầu tăng nửa nửa.
Trên đấy tăng gấp bội
Chỉ Vô Vân giảm ba
Châu Bắc định ngàn tuổi
Tây Đông nửa nửa giảm.
Châu này thọ không định
Sau mười, đầu chẳng lượng
Năm mươi năm nhân gian
Một ngày đêm trời dưới.
Nhân đấy thọ năm trăm
Năm trên bội bội tăng
Sắc: Ngày đêm không khác
Kiếp số bằng thân lượng.
Vô sắc: Đầu hai vạn
Sau sau hai hai tăng
Trên dưới trời Thiểu Quang
Một một nửa đại kiếp.
Sáu trên như Đẳng hoạt
Thứ lớp như trời dục
Thọ là một ngày đêm
Thọ lượng cũng đồng kia.
Cực nhiệt nửa trung kiếp
Vô gián một trung kiếp
Bàng sinh nhất một trung
Quỷ, tháng ngày năm trăm.
Thọ lượng Át-bộ-đàm
Như một Bà-ha-ma
Trăm năm trừ một, hết
Sau sau, gấp hai mươi.
Các xứ có trung, yểu
Trừ châu Bắc Câu Lô
Cực vi chữ sát-na
Sắc danh thời nhỏ nhất.
Cực vi, vi kim thủy
Thố, Dương, Ngưu, Khích, Trần
Kỉ, Sắt, Mạch, Chỉ, Tiết
Sau sau tăng gấp bảy.
Hai mươi bốn chỉ: khuỷu
Bốn khuỷu là lượng cung
Năm trăm: Câu-lô-xá
Tám này: Du-thiện-na.
Trăm hai mươi Sát-na
Là một Đát-sát-na
Lạp-phược: Sáu mươi đấy
Ba mươi này: Tu du.
Ba mươi ấy: Ngày đêm
Ba mươi ngày đêm: Tháng
Mười hai tháng là năm
Trong ấy đêm giảm nửa.
Trong mùa lạnh, nóng, mưa
Một tháng rưỡi đã qua
Nơi nửa tháng còn lại
Bậc trí biết đêm giảm.
Nên biết có bốn kiếp
Là hoại, thành, trung, đại
Hoại từ ngục chẳng sinh
Đến khí ngoài đều dứt.
Kiếp thành từ gió khởi
Đến địa ngục mới sinh
Trung kiếp từ vô lượng
Giảm đến thọ chỉ mười.
Tiếp tăng giảm mười tám
Sau tăng tới tám vạn
Như thế, thành rồi trụ
Gọi hai mươi trung kiếp.
Thành hoại, hoại rồi không
Thời đều bằng kiếp trụ
Tám mươi trung: Đại kiếp
Đại kiếp ba: Vô số.
Giảm tám vạn đến trăm
Chư Phật hiện thế gian
Độc giác thời tăng giảm
Lân giác dụ trăm kiếp.
Luân vương trên tám vạn
Kim, Ngân, Đồng, Thiết luân
Một, hai, ba, bốn châu
Ngược lớp riêng như Phật.
Khác đón tự đến hóa
Tranh trận thắng không hại
Tướng không thẳng tròn sáng
Nên so Phật không bằng.
Đầu kiếp như trời sắc
Sau dần tăng tham vị
Do đọa: Trữ, giặc khởi
Phòng vệ: Người giữ ruộng.
Nghiệp đạo tăng, thọ giảm
Đến mười, ba tai hiện
Là đao binh, bệnh, đói
Bảy ngày, tháng năm dứt.
Ba tai: Lửa, nước, gió
Ba định trên là đỉnh
Như thứ lớp nội tai
Bốn không do bất động.
Nhưng khí kia chẳng thường
Tình đều cùng sinh diệt
Nên bảy lửa một nước
Bảy nước lửa sau gió.

Phẩm thứ 4: PHÂN BIỆT NGHIỆP (Gồm 131 Tụng)

Thế khác do nghiệp sinh
Tư cùng tư đã tạo
Tư tức là ý nghiệp
Đã tạo là thân, ngữ.
Hai nghiệp thân, ngữ này
Tánh cùng biểu, vô biểu
Thân biểu là hình riêng
Chẳng hành động làm Thể.
Do các pháp hữu vi
Có sát-na diệt hết
Nên không là không nhân
Sinh nhân nên hay diệt.
Hình cũng không thật có
Tức nên hai căn nhận
Không có riêng cực vi
Ngữ biểu là ngôn thanh.
Nói ba sắc vô lậu
Tăng không phải tạo tác
Đây đại chủng hay tạo
Khác với chỗ dựa biểu.
Vô biểu dục: Niệm sau
Dựa đại chủng quá sinh
Hữu lậu dựa tự địa
Vô lậu theo xứ sinh.
Vô biểu không chấp thọ
Cũng đẳng lưu, thuộc tình
Tán, dựa tánh đẳng lưu
Có thọ khác đại sinh.
Định sinh dựa nuôi lớn
Không thọ, không khác đại
Biểu chỉ tánh đẳng lưu
Thuộc thân, có chấp thọ.
Vô biểu ký, còn ba
Bất thiện chỉ nơi dục
Vô biểu chung dục, sắc
Biểu chỉ có tứ hai.
Dục không biểu, hữu phú
Do không có đẳng khởi
Giải thoát: Thiện thắng nghĩa
Căn, hổ thẹn: Tự tánh.
Tương ưng kia tương ưng
Đẳng khởi là sắc nghiệp
Trái đấy gọi bất thiện
Vô ký thắng: Hai thường.
Đẳng khởi có hai loại
Nhân cùng sát-na kia
Như thứ lớp nên biết
Gọi chuyển, gọi tùy chuyển.
Thức: Kiến đoạn chỉ chuyển
Năm thức chỉ tùy chuyển
Ý: Tu đoạn chung hai
Vô lậu dị thục không.
Nơi chuyển tánh như thiện v.v…
Tùy chuyển đều gồm ba
Mâu ni thiện tất đồng
Vô ký tùy hoặc thiện.
Vô biểu ba: luật nghi
Bất luật nghi, phi hai
Luật nghi biệt giải thoát
Tĩnh lự cùng đạo sinh.
Luật nghi đầu tám thứ
Thể thật chỉ có bốn
Hình chuyển nên danh khác
Đều riêng, không trái nhau.
Thọ lìa năm, tám, mười
Tất cả thứ nên lìa
Lập Cận sự, Cận trụ
Cần sách cùng Bí-sô.
Đều được gọi Thi la
Hạnh diệu, nghiệp, luật nghi
Chỉ biểu, vô biểu đầu
Gọi nghiệp đạo biệt giải.
Tám thành biệt giải thoát
Được tĩnh lự, Thánh giả
Thành tĩnh lự, đạo sinh
Hai sau, tùy tâm chuyển.
Vị chí, chín vô gián
Cùng sinh hai gọi đoạn
Chánh tri, chánh niệm hợp
Gọi luật nghi ý căn.
Trụ biệt giải: Vô biểu
Chưa xả, luôn thành hiện
Sau sát-na thành quá
Bất luật nghi cũng thế.
Được luật nghi tĩnh lự
Luôn thành tựu quá, vị
Thánh đầu trừ quá khứ
Trụ trong định đạo thành.
Trụ trung có vô biểu
Đầu thành trung, sau hai
Trụ luật, bất luật nghi
Khởi vô biểu nhiễm tịnh.
Đầu thành trung, sau hai
Đến thế nhiễm tịnh hết
Biểu đang tạo thành trung
Sau thành quá không vị.
Hữu phú cùng vô phú
Chỉ thành tựu hiện tại
Hạnh ác, giới ác, nghiệp
Nghiệp đạo bất luật nghi.
Thành biểu, không vô biểu
Trụ trung, tư kém tạo
Thánh xả chưa sinh biểu
Thành vô biểu không biểu.
Định sinh đắc địa định
Thánh kia đắc đạo sinh
Luật nghi biệt giải thoát
Đạt được do tha giáo.
Luật nghi biệt giải thoát
Suốt đời, hoặc ngày đêm
Giới ác không ngày đêm
Là không như thọ thiện.
Cận trụ vào sáng sớm
Tòa dưới theo thầy thọ
Tùy giáo nói đủ chi
Ngày đêm lìa trang sức.
Giới không dật chi cấm
Bốn, một, ba thứ lớp
Và ngăn các tánh tội
Thất niệm cùng kiêu dật.
Cận trụ, khác cũng có
Không thọ tam quy, không
Xưng Cận sự phát giới
Thuyết giảng như Bí-sô.
Nếu đều đủ luật nghi
Sao nói là một phần
Theo chủ thể trì nói
Hạ, trung, thượng tùy tâm.
Quy y thành Phật Tăng
Vô học hai thứ pháp
Cùng Niết-bàn trạch diệt
Là nói đủ tam quy.
Hạnh tà rất đáng trách
Dễ lìa, được, bất tác
Được luật nghi như thệ
Không gồm nơi nối tiếp.
Do mở lời hư dối
Liền vượt các học xứ
Trong già chỉ lìa rượu
Vì giữ luật nghi khác.
Trừ tất cả, hai hiện
Được luật nghi cõi dục
Từ căn bản luôn thời
Được tĩnh lự, vô lậu.
Luật từ các hữu tình
Chi nhân nói bất định
Bất luật nghi tất cả
Hữu tình chi, không nhân.
Các được bất luật nghi
Do tạo cùng thệ thọ
Được các vô biểu khác
Do ruộng thọ hành trọng.
Xả biệt giải điều phục
Do cố xả, mạng chung
Và hai hình cùng sinh
Đoạn căn thiện, đêm hết.
Có thuyết: Do phạm trọng
Thuyết khác: Do pháp diệt
Ca-thấp-di-la nói
Phạm hai như giàu nợ.
Xả định sinh pháp thiện
Do đổi địa thoái chuyển
Xả Thánh do đắc quả
Luyện căn cùng thoái mất.
Xả giới ác do chết
Được giới, hai hình sinh
Xả trung do thọ thế
Tạo sự thọ căn đoạn.
Xả thiện phi sắc dục
Do căn đoạn, sinh trên
Do đạo đối trị sinh
Xả các nhiễm phi sắc.
Giới ác: Người trừ bắc
Hai hoàng môn, hai hình
Luật nghi cũng ở trời
Chỉ người đủ ba thứ.
Thiên sinh dục, cõi sắc
Có luật nghi tĩnh lự
Vô lậu cùng vô sắc
Trừ trung định, vô tưởng.
Nghiệp an, bất an, phi
Gọi thiện, ác, vô ký
Phước, phi phước, bất động
Nghiệp thiện dục gọi phước.
Bất thiện gọi phi phước
Thiện cõi trên bất động
Theo xứ sở tự địa
Quả của nghiệp không động.
Thuận lạc, khổ phi hai
Thiện đến ba: Thuận lạc
Các bất thiện: Thuận khổ
Thiện trên: Thuận phi hai.
Thuyết khác: Dưới cũng có
Do trung chiêu dị thục
Lại cho ba nghiệp này
Không phải trước, sau thục.
Thuận thọ gồm có năm:
Tức tự tánh, tương ưng
Đối tượng duyên, dị thục
Hiện tiền có sai biệt.
Đây có định, bất định
Định ba như thuận hiện
Hoặc nói nghiệp có năm
Sư khác nói bốn chứng.
Bốn thiện hợp cùng tạo
Dẫn đồng phần chỉ ba
Các xứ tạo bốn thứ
Địa ngục thiện trừ hiện.
Vững nơi địa lìa nhiễm
Phàm phu không tạo sinh
Thánh không tạo sinh lậu
Cùng dục, Hữu đảnh, thoái.
Trong dục có thể tạo
Hai mươi hai thứ nghiệp
Đều thuộc thuận hiện thọ
Là một loại đồng phần.
Do Hoặc nặng tâm tịnh
Cùng là luôn tạo tác
Nơi ruộng công đức khởi
Hại cha mẹ nghiệp định.
Do ruộng ý, thù thắng
Cùng định chiêu dị thục
Được mãi lìa địa nghiệp
Định chiêu quả hiện pháp.
Nơi Tăng Phật đứng đầu
Cùng định diệt, vô tránh
Từ kiến tu đạo xuất
Nghiệp tổn ích tức thọ.
Các nghiệp thiện không tầm
Chỉ chiêu cảm tâm thọ
Ác chỉ chiêu thân thọ
Là nghiệp chiêu thọ khác.
Tâm cuồng chỉ ý thức
Do dị thục nghiệp sinh
Cùng sợ, hại, trái, ưu
Tại dục trừ châu Bắc.
Nói nghiệp cong, uế trược
Dựa, siểm, sân, tham sinh
Dựa khác như đen đen
Đã nói bốn thứ nghiệp.
Ác, thiện cõi dục, sắc
Vô lậu có thể diệt
Nên biết như thứ lớp
Gọi đen trắng, câu phi.
Bốn pháp nhẫn lìa dục
Tám vô gián trước cùng
Mười hai tư vô lậu
Chỉ diệt nghiệp thuần đen.
Lìa dục bốn tĩnh lự
Vô gián thứ chín, tư
Một diệt tạp thuần đen
Bốn khiến thuần trắng hết.
Có thuyết: Địa ngục thọ
Dục khác nghiệp đen tạp
Có thuyết: Dục kiến diệt
Nghiệp khác dục đen cùng.
Nghiệp thân ngữ vô học
Tức ý ba Mâu ni
Ba thanh tịnh nên biết
Tức ba thứ hành diệu.
Nghiệp thân ngữ ý ác
Gọi là ba hành ác
Cùng tham, sân, tà kiến
Ba hành diệu trái đây.
Nói về mười nghiệp đạo
Gồm thâu hành diệu ác
Phẩm thô là tánh ấy
Như hợp thành thiện ác.
Sáu ác định vô biểu
Kia tự tạo, dâm hai
Bảy thiện, thọ sinh hai
Định sinh chỉ vô biểu.
Gia hạnh định có biểu
Vô biểu hoặc có không
Hậu khởi trái với đây
Gia hạnh ba căn khởi.
Nên vô gián kia sinh
Tham cùng ba căn sinh
Thiện ở trong ba vị
Đều ba căn thiện khởi.
Sát, thô ngữ, sân hận
Đều tạo thành do sân
Trộm cắp, tà hạnh, tham
Đều do tham tạo thành.
Tà kiến do si tạo
Số còn lại do ba
Hữu tình, vật, danh sắc
Danh thân các xứ khởi.
Cùng chết và chết trước
Không căn dựa đã khác
Đông người nếu đồng sự
Đều thành như người tạo.
Sát sinh do cố ý
Tưởng khác, không giết lầm
Không cho lấy vật khác
Sức trộm lấy thuộc mình.
Hành dục tà, bốn loại
Hành chốn không nên hành
Nhiễm, tưởng khác, phát ngôn
Hiểu nghĩa nói hư dối.
Do nhãn nhĩ ý thức
Cùng ba chỗ chứng khác
Như thứ lớp gọi là
Đã thấy, nghe, hiểu, biết.
Tâm nhiễm hoại tha ngữ
Gọi là lời ly gián
Phi ái: Lời thô ác
Các nhiễm lời uế tạp.
Có nói nhiễm khác ba
Nịnh, ca hát, tà luận v.v…
Dục ác của khác tham
Hữu tình ghét giận, dữ.
Kiến chấp bác thiện, ác
Gọi nghiệp đạo tà kiến
Trong ấy ba chỉ đạo
Bảy nghiệp cũng là đạo.
Chỉ tà kiến đoạn thiện
Căn sinh đắc cõi dục
Bác nhân quả hết thảy
Dần đoạn, hai cùng bỏ.
Người ba châu, nam, nữ
Kiến, hành đoạn phi đắc
Nối thiện, nghi hữu kiến
Chóng hiện trừ ngũ nghịch.
Nghiệp đạo, tư cùng chuyển
Bất thiện: Một đến tám
Thiện: Mở chung đến mười
Riêng ngăn một, tám, năm.
Trong địa ngục, bất thiện
Thô, tạp, sân chung hai
Tham, tà kiến tạo nên
Châu Bắc thành ba sau.
Tạp ngữ chung hiện thành
Dục còn mười chung hai
Thiện nơi tất cả xứ
Ba sau chung hiện thành.
Vô sắc, trời vô tưởng
Bảy trước chỉ thành tựu
Xứ khác chung thành hiện
Trừ địa ngục, châu Bắc.
Đều chiêu cảm dị thục
Quả đẳng lưu, tăng thượng
Đây khiến khác thọ khổ
Đoạn mạng hoại uy lực.
Tham sinh thân ngữ nghiệp
Tà mạng thì khó trừ
Chấp mạng, tham tự sinh
Trái kinh nên phi lý.
Đoạn đạo, nghiệp hữu lậu
Có đầy đủ năm quả
Nghiệp vô lậu có bốn
Là chỉ trừ dị thục.
Hữu lậu thiện ác khác
Cũng bốn, trừ ly hệ
Vô lậu, vô ký khác
Ba trừ hai thứ trên.
Nghiệp thiện ở nơi thiện
Trước có bốn, hai, ba
Giữa có hai, ba, bốn
Sau, hai, ba, ba quả.
Quá nơi ba đều bốn
Hiện nơi vị cũng thế
Hiện nơi hiện hai quả
Vị nơi vị quả ba.
Đồng địa có bốn quả
Dị địa hai hoặc ba
Học nơi ba đều ba
Vô học một, ba, hai.
Phi học phi vô học
Có hai, hai, năm quả
Nghiệp do kiến đạo đoạn
Mỗi mỗi đều nơi ba.
Trước có ba, bốn, một
Giữa hai, bốn, ba quả
Sau có một, hai, bốn
Đều như thứ lớp ấy.
Nghiệp nhiễm không nên tạo
Có thuyết: Cũng hoại phép
Nghiệp nên tạo trước đây
Đều trái đây: Thứ ba.
Một nghiệp dẫn một đời
Nhiều nghiệp nên tròn đủ
Hai định không tâm đắc
Không thể dẫn, khác chung.
Ba chướng, nghiệp vô gián
Cùng phiền não thường hành
Và tất cả nẻo ác
Châu Bắc, trời Vô tưởng.
Ba châu có vô gián
Không phải hàng hoàng môn
Ít ân, ít hổ thẹn
Chướng khác chung năm nẻo.
Trong năm vô gián này
Bốn nghiệp thân một ngữ
Ba sát một nói dối
Một gia hạnh sát sinh.
Tăng phá, không hòa hợp
Tâm bất tương ưng hành
Tánh vô phú, vô ký
Tăng bị phá đã thành.
Chủ thể phá, chỉ thành
Tội nói hư dối ấy
Một kiếp quả vô gián
Tùy tội tăng, khổ tăng.
Bí sô kiến hạnh tịnh
Phá xứ khác kẻ ngu
Lúc nhận Đạo sư khác
Gọi phá không qua đêm.
Châu Thiệm Bộ chín người
Mới phá pháp luân Tăng
Chỉ phá Yết-ma Tăng
Chung ba châu, tám người.
Đầu, sau trước chia rẽ
Phật diệt, chưa kiết giới
Nơi sáu vị như thế
Không phá pháp luân Tăng.
Hủy hoại ruộng ân đức
Chuyển hình cũng thành nghịch
Mẹ là nhân huyết kia
Lầm cùng không hoặc có.
Cố ý đả thương Phật
Sau hại vô học, không
Tạo gia hạnh định nghịch
Không lìa nhiễm, đắc quả.
Nói hư dối, phá Tăng
Ở trong tội lớn nhất
Tư cảm hữu thứ nhứt
Quả lớn trong thiện đời.
Ô (nhiễm) mẹ, Ni vô học
Giết Bồ-tát trụ định
Cùng Thánh giả hữu học
Đoạt duyên hòa hợp Tăng.
Phá hoại Tốt-đổ-ba
Là đồng loại vô gián
Sắp đắc nhẫn Bất hoàn
Nghiệp vô học là chướng.
Từ tu nghiệp tướng diệu
Bồ-tát đắc tên định
Sinh nhà sang, nẻo thiện
Đủ nam, niệm kiên cố.
Nam Thiệm Bộ đối Phật
Phật tư, tư được thành
Ngoài trăm kiếp mới tu
Đều trăm phước trang nghiêm.
Nơi ba vô số kiếp
Đều cúng dường bảy vạn
Lại thứ lớp cúng dường
Năm, sáu, bảy ngàn Phật.
Đủ ba vô số kiếp
Nghịch thứ gặp Thắng Quán
Phật Nhiên Đăng, Bảo Kế
Thích Ca Mâu Ni đầu.
Chỉ do bi thí khắp
Bị xẻ thân không giận
Tán thán Phật Để Sa
Đến Bồ-đề vô thượng.
Sáu Ba-la-mật-đa
Nơi bốn vị như thế
Một, hai lại một, hai
Thứ lớp tu viên mãn.
Ba loại thí, giới, tu
Đều tùy chỗ ứng hợp
Nhận tên sự phước nghiệp
Sai biệt như nghiệp đạo.
Do xả ấy, gọi thí
Cúng dường, tạo lợi ích
Thân, ngữ cùng phát khởi
Chiêu cảm quả phước lớn.
Vì lợi ích tự tha
Không vì hai hành thí
Do chủ, của, ruộng khác
Nên quả thí sai biệt.
Chủ khác, do nơi tin
Kính trọng hành bố thí
Được tôn trọng yêu mến
Đúng thời khó mất quả.
Của khác do nơi sắc v.v…
Được sắc diệu tên tốt
Chúng yêu, thân mềm mại
Có tùy thời lạc xúc.
Ruộng khác, do nẻo khổ
Ân đức có sai biệt
Bồ-tát thoát nơi thoát
Thí thứ tám tối thắng.
Cha mẹ, bệnh, Pháp sư
Bồ-tát đời sau cùng
Như chẳng phải chứng Thánh
Quả thí cũng vô lượng.
Hậu khởi ruộng căn bản
Gia hạnh, tư, ý lạc
Do nơi dưới trên ấy
Nghiệp thành phẩm hạ thượng.
Do thẩm tư trọn đủ
Không ố tác, đối trị
Có trợ bạn dị thục
Nghiệp ấy gọi tăng trưởng.
Phước, tháp miếu loại xả
Như từ bi không thọ
Ruộng xấu có quả ái
Trồng quả không điên đảo.
Lìa phạm giới cùng ngăn
Gọi giới đều có hai
Không phân phạm giới, hoại
Dựa nơi trị diệt, tịnh.
Đồng dẫn thiện gọi tu
Có thể huân tập tâm
Giới tu thắng thứ lớp
Cảm sinh thiên giải thoát.
Chiêu cảm kiếp sinh thiên
Là lượng một phạm phước
Pháp thí là như thật
Không nhiễm, biện giải kinh.
Thuận phước, thuận giải thoát
Thuận phần quyết trạch: Ba
Cảm quả ái, Niết-bàn
Thứ lớp Thánh đạo thiện.
Các như lý đã khởi
Ba nghiệp cùng chủ phát
Thứ lớp là tự thể
Sách, in, toán, văn, số.
Thiện vô lậu gọi diệu
Nhiễm có tội, che kém
Thiện hữu vi ứng tập
Giải thoát gọi vô thượng.

Phẩm thứ 5: PHÂN BIỆT TÙY MIÊN (Gồm 69 Tụng)

Tùy miên: Gốc các hữu
Có sáu loại sai biệt
Tức tham, giận cũng mạn
Vô minh, kiến và nghi.
Sáu do tham chia bảy
Hữu tham, hai cõi trên
Ở nơi nội môn chuyển
Đã ngăn tưởng giải thoát.
Sáu, do kiến khác, mười
Khác là hữu thân kiến
Biên chấp kiến, tà kiến
Kiến thủ, giới cấm thủ.
Sáu: Hành, bộ, giới khác
Nên thành chín mươi tám
Cõi dục, kiến khổ đoạn
Mười, bảy, bảy, tám, bốn.
Như thứ lớp đủ lìa
Ba, hai kiến, kiến nghi
Sắc, vô sắc trừ sân
Còn lại như cõi dục.
Nhẫn tổn hại tùy miên
Hữu đảnh chỉ kiến đoạn
Chỗ khác: Kiến, tu đoạn
Trí tổn hại chỉ tu.
Ngã, ngã sở, đoạn, thường
Bác không kém cho hơn
Phi nhân đạo vọng cho
Là tự thể năm kiến.
Đối với Đại tự tại
Không phải nhân chấp nhân
Theo thường, ngã, đảo sinh
Nên chỉ kiến khổ đoạn.
Tự thể bốn điên đảo
Là từ nơi ba kiến
Chỉ do đảo suy tăng
Tưởng tâm tùy sức kiến.
Mạn bảy, chín từ ba
Đều do kiến, tu đoạn
Thánh giả như triền v.v… sát
Có tu đoạn không hành.
Loại mạn cùng ngã mạn v.v…
Trong ố tác bất thiện
Thánh giả đều không khởi
Đã tăng do kiến, nghi.
Do kiến khổ, tập đoạn
Các kiến nghi tương ưng
Cùng vô minh không chung
Biến hành tự cõi địa.
Trong ấy trừ hai kiến
Còn chín duyên địa trên
Trừ đắc, còn tùy hành
Cũng là thuộc biến hành.
Do kiến diệt, đạo đoạn
Tà kiến, nghi tương ưng
Cùng vô minh không chung
Sáu hay duyên vô lậu.
Trong ấy duyên nơi diệt
Chỉ duyên diệt tự địa
Duyên đạo sáu, chín địa
Do trị cùng nhân khác.
Tham, sân, mạn hai thủ
Đều không duyên vô lậu
Nên lìa cảnh không oán
Tánh tịch tĩnh, tịnh thắng.
Tùy miên biến chưa đoạn
Nơi tự địa tất cả
Không biến nơi tự bộ
Đối tượng duyên: Tùy tăng.
Vô lậu duyên trên không
Không gồm thâu hữu trái
Tùy nơi pháp tương ưng
Tương ưng nên tùy tăng.
Tùy miên hai cõi trên
Cùng thân, biên cõi dục
Kia thuộc si, vô ký
Ngoài ra đều bất thiện.
Căn bất thiện: Cõi dục
Tham, sân, si bất thiện
Căn vô ký có ba
Ái, si, tuệ, vô ký.
Chẳng phải hai cao khác
Phương ngoài lập bốn thứ
Trong ái, kiến, mạn, si
Ba định đều do si.
Nên hoàn toàn phân biệt
Hỏi lại và từ chối
Như tử sinh thù thắng
Ngã, uẩn là một khác.
Nếu ở trong ấy sự
Chưa đoạn tham, sân, mạn
Quá, hiện nếu đã khởi
Vị lai ý biến hành.
Năm đáng sinh tư thế
Không sinh cũng biến hành
Quá, vị biến hành khác
Hiện đang duyên hệ thuộc.
Do nói ba đời có
Nên hai có quả cảnh
Nêu ba đời là có
Nhân Thuyết Nhất Thiết Hữu.
Ở đây có bốn thứ
Loại, tướng, vị đãi khác
Thứ ba theo tác dụng
Lập đời là tốt nhất.
Gì ngăn dụng, vì sao?
Không khác đời liền hoại
Có gì chưa sinh diệt
Tánh pháp này sâu xa.
Nơi kiến khổ đã đoạn
Tùy miên biến hành khác
Cùng phẩm trước đã đoạn
Còn duyên đây còn buộc.
Kiến khổ, tập, tu đoạn
Nếu hệ thuộc cõi dục
Tự cõi ba, sắc một
Chỗ hành thức vô lậu.
Sắc tự dưới đều ba
Trên một cảnh thức tịnh
Vô sắc chung ba cõi
Đều ba duyên thức tịnh.
Do kiến diệt, đạo đoạn
Đều tăng hành tự thức
Vô lậu trong ba cõi
Ba sau cảnh thức tịnh.
Tâm có tùy miên, hai
Là có nhiễm, không nhiễm
Tâm có nhiễm chung hai
Không nhiễm chỉ tùy tăng.
Vô minh, nghi, tà kiến
Biên kiến, giới, kiến thủ
Tham, mạn, sân như thế
Do trước dẫn sau sinh.
Do tùy miên chưa đoạn
Và theo cảnh hợp hiện
Tác ý phi lý khởi
Nói là đủ nhân duyên.
Phiền não, triền, cõi dục
Trừ si gọi dục lậu
Hữu lậu: Hai cõi trên
Chỉ phiền não, trừ si.
Nội môn đồng vô ký
Địa định nên hợp nhất
Vô minh gốc các hữu
Nên lập riêng một lậu.
Bộc lưu, ách cũng thế
Lập riêng kiến do lợi
Kiến thường không thuận trụ
Nơi lậu không lập riêng.
Dục hữu, ách và si
Kiến phân hai gọi thủ
Vô minh không biệt lập
Do không phải năng thủ.
Vi tế hai tùy tăng
Tùy trục cùng tùy phược
Trụ, chảy trôi hợp giữ
Là nghĩa của tùy miên.
Do kiết v.v… có sai biệt
Lại nói có năm thứ
Chín kiết vật thủ cùng
Lập hai kiết: kiến, thủ.
Do hai chỉ bất thiện
Cùng tự tại sinh khởi
Trong triền chỉ tật, xan
Kiến lập làm hai kiết.
Hoặc hai thường hiện hành
Là nhân của bần tiện
Hiển bày khắp tùy Hoặc
Não loạn nơi hai bộ.
Lại, năm thuận phần dưới
Do hai không vượt dục
Do ba lại hoàn dưới
Thâu môn căn nên ba.
Hoặc không muốn phát hướng
Mê lầm đạo nghi đạo
Hay chướng ngại giải thoát
Nên chỉ nói đoạn ba.
Thuận phần trên cũng năm
Sắc, vô sắc hai tham
Trạo cử, mạn, vô minh
Khiến không vượt cõi trên.
Phược ba do ba thọ
Tùy miên trước đã nói
Tùy phiền não ngoài đây
Tâm sở nhiễm hành uẩn.
Triền tám: Không hổ thẹn
Tật, xan cùng hối, miên
Và trạo cử, hôn trầm
Hoặc mười thêm phẫn, phú.
Không hổ, xan, trạo cử
Đều từ nơi tham sinh
Không thẹn, miên, hôn trầm
Theo vô minh sinh khởi.
Tật, phẫn từ sân sinh
Hối theo nghi, phú, tránh
Phiền não cấu sáu: Não
Hại, hận, siểm, cuống, kiêu.
Cuống, kiêu từ tham sinh
Hại, hận theo sân khởi
Não từ kiến thủ khởi
Siễm theo các kiến sinh.
Triền, không hổ thẹn, miên
Hôn, trạo: Kiến tu đoạn
Còn cùng phiền não cấu
Tùy ý chỉ tu đoạn.
Dục ba, hai còn ác
Cõi trên đều vô ký
Siễm, cuống: Dục định một
Ba cõi ba dục khác.
Kiến đạo đoạn mạn, miên
Tùy phiền não tùy ý
Đều chỉ địa ý khởi
Còn dựa chung sáu thức.
Các phiền não cõi dục
Tham tương ưng hỷ, lạc
Sân ưu, khổ, si khắp
Tà kiến ưu cùng hỷ.
Nghi, ưu, còn năm: Hỷ
Tất cả tương ưng xả
Địa trên đều tùy ứng
Khắp các thọ tự thức.
Trong các tùy phiền não
Tật, hối, phẫn cùng não
Hại, hận, ưu đều khởi
Xan tương ưng hỷ thọ.
Siễm, cuống cùng miên, phú
Chung ưu, hỷ cùng khởi
Kiêu: hỷ lạc, đều xả
Còn bốn tương ưng khắp.
Cái: Năm, chỉ cõi dục
Thực trị dụng là đồng
Tuy hai lập một cái
Chướng uẩn nên chỉ năm.
Nhận biết khắp sở duyên
Đoạn chủ thể duyên kia
Đoạn đối tượng duyên ấy
Đối trị khởi nên đoạn.
Đối trị có bốn thứ:
Là đoạn, trì, viễn, yếm
Nên biết từ sở duyên
Tức khiến các Hoặc đoạn.
Tánh xa có bốn thứ:
Là tướng, trị, xứ, thời
Như đại chủng, thi la
Phương khác nơi hai đời.
Các Hoặc không đoạn lại
Lìa buộc được nhiều lần
Là trị sinh, đắc quả
Luyện căn trong sáu thời.
Có chín biết khắp đoạn
Dục đoạn hai đầu một
Hai đều một, hợp ba
Cõi trên ba cũng thế.
Còn năm thuận phần dưới
Sắc, tất cả đoạn ba
Trong ấy, quả nhẫn sáu
Ba khác là quả trí.
Quả vị chí tất cả
Căn bản năm hoặc tám
Biên vô sắc một quả
Ba căn bản cũng vậy.
Tục quả hai, Thánh chín
Pháp trí ba, loại hai
Phẩm pháp trí quả sáu
Phẩm loại trí quả năm.
Được vô lậu đoạn đắc
Cùng thiếu hữu thứ nhất
Diệt hai nhân vượt cõi
Nên lập chín biết khắp.
Trụ vị kiến đế không
Hoặc thành một đến năm
Tu thành sáu, một, hai
Vô học chỉ thành một.
Do vượt cõi đắc quả
Hai xứ tập biết khắp
Xả một, hai, năm, sáu
Đắc cũng thế trừ năm.

Phẩm thứ 6: PHÂN BIỆT HIỀN THÁNH (Gồm 83 Tụng)

Đã nói phiền não đoạn
Do kiến đế tu đạo
Kiến đạo chỉ vô lậu
Tu đạo chung hai thứ.
Đế bốn trước đã nêu
Là khổ, tập, diệt, đạo
Tự thể kia cũng vậy
Thứ lớp tùy hiện quán.
Khổ do ba khổ hợp
Như ứng hợp hết thảy
Vừa ý, không vừa ý
Pháp hành hữu lậu khác.
Kia biết phá liền không
Tuệ tánh khác cũng thế
Như bình nước thế tục.
Khác đấy gọi thắng nghĩa.
Sắp hướng tới kiến đế
Nên trụ giới siêng tu
Văn, tư, tu tạo thành
Là danh cùng nghĩa cảnh.
Thân, tâm đều xa lìa
Không bất túc, đại dục
Là đã được chưa được
Cầu nhiều gọi đều không.
Đối trị trái cõi ba
Vô lậu tánh không tham
Bốn Thánh chủng cũng thế
Ba trước chỉ hỷ túc.
Ba sinh đủ nghiệp sau
Là trị bốn ái sinh
Tạm dứt, vĩnh viễn trừ
Dục, ngã sở, ngã sự.
Nhập tu cần hai cửa
Quán bất tịnh, tức niệm
Người tầm tham tăng thượng
Như thứ lớp nên tu.
Là trị chung bốn tham
Lại biện quán đốt xương
Rộng đến biển, lại lược
Gọi vị mới hành tập.
Trừ chân đến nửa đầu
Gọi đã tu thành thục
Buộc tâm giữa chân mày
Gọi vị vượt tác ý.
Tánh không tham mười địa
Duyên dục, sắc, người sinh
Bất tịnh duyên tự đời
Hữu lậu chung hai đắc.
Tức niệm tuệ, năm địa
Duyên gió dựa thân dục
Hai đắc thật, ngoại không
Có sáu, nghĩa là sổ v.v…
Thở vào ra tùy thân
Dựa hai sai biệt chuyển
Hữu tình không chấp thọ
Đẳng lưu không duyên dưới.
Dựa nơi chỉ đã tu
Là quán tu niệm trụ
Dùng tự tướng, cộng tướng
Quán thân, thọ, tâm, pháp.
Tự tánh tuệ như văn v.v…
Khác, sở duyên tương tạp.
Nói thứ lớp tùy sinh
Trị điên đảo chỉ bốn.
Ở nơi pháp niệm trụ
Quán chung bốn sở duyên
Tu vô thường và khổ
Hành tướng không, vô ngã.
Từ đấy, sinh pháp noãn
Quán đủ bốn Thánh đế
Tu mười sáu hành tướng
Tiếp sinh đảnh cũng thế.
Hai căn thiện như vậy
Đều trước pháp sau bốn
Tiếp nhẫn chỉ pháp niệm
Phẩm hạ, trung đồng đảnh.
Thượng chỉ quán dục khổ
Một hành, một sát-na
Thế đệ nhất cũng vậy
Đều tuệ năm, trừ đắc.
Thuận phần quyết trạch này
Bốn đều do tu thành
Sáu địa, hai hoặc bảy
Dựa thân cõi dục, chín.
Ba nữ, nam đắc hai
Thứ tư nữ cũng thế
Thánh do địa mất, xả
Phàm phu do mạng chung.
Đầu hai cũng thoái, xả
Dựa gốc tất kiến đế
Xả rồi đắc chẳng trước
Hai xả tánh phi đắc.
Noãn tất đến Niết-bàn
Đảnh trọn không đoạn thiện
Nhẫn không đọa nẻo ác
Đệ nhất nhập ly sinh.
Chủng tánh Thanh văn chuyển
Hai thành Phật, ba khác
Lân giác Phật, không chuyển
Một tọa thành tựu giác.
Trước thuận phần giải thoát
Nhanh ba đời giải thoát
Ba nghiệp văn, tư thành
Sinh tại ba châu người.
Thế đệ nhất vô gián
Tức duyên khổ cõi dục
Sinh pháp nhẫn vô lậu
Nhẫn tiếp sinh pháp trí.
Tiếp duyên khổ cõi khác
Sinh loại nhẫn, loại trí
Duyên tập, diệt, đạo đế
Đều sinh bốn cũng thế.
Mười sáu tâm như vậy
Gọi hiện quán Thánh đế
Đây gồm có ba loại
Là kiến, duyên và sự.
Đều cùng thế đệ nhất
Đồng dựa nơi một địa
Nhẫn, trí như thứ lớp
Đạo vô gián, giải thoát.
Mười lăm trước: Kiến đạo
Thấy điều chưa từng thấy
Gọi Tùy, Tín pháp hành
Do căn độn, lợi khác.
Tu đủ, Hoặc đoạn một
Đến năm hướng quả đầu
Đoạn tiếp ba, hướng hai
Lìa tám địa, hướng ba.
Đến tâm thứ nười sáu
Tùy ba hướng trụ quả
Là Tín giải, Kiến chí
Cũng do độn, lợi khác.
Trong các vị đắc quả
Chưa đắc đạo quả hơn
Nên chưa khởi đạo thắng
Gọi trụ quả không hướng.
Địa địa lỗi đức chín
Hạ, trung, thượng đều ba
Chưa đoạn, tu đoạn lỗi
Trụ quả tối đa bảy.
Đoạn ba, bốn phẩm dục
Ba, hai, sinh: Gia gia
Đoạn đến năm: Hướng hai
Đoạn sáu, quả Nhất lai.
Đoạn bảy, hoặc tám phẩm
Một sinh gọi Nhất gián
Đây tức hướng thứ ba
Đoạn chín: Quả Bất hoàn.
Trung Sinh Hữu hành này
Vô hành bát Niết-bàn
Thượng lưu nếu cùng tu
Sinh đến Sắc cứu cánh.
Siêu, bán siêu, biến một
Khác sinh nơi Hữu đảnh
Hành vô sắc có bốn
Trụ đấy bát Niết-bàn.
Hành cõi sắc có chín
Là ba đều phân ba
Nghiệp Hoặc căn có khác
Nên thành ba, chín riêng.
Lập bảy nẻo Thiện sĩ
Do thượng lưu không khác
Hành thiện, không hành ác
Có đến không trở lại.
Vượt cõi dục, sinh Thánh
Không sinh đến cõi khác
Đây cùng đến trên sinh
Không luyện căn cùng thoái.
Trước tạp tu thứ tư
Thành do một niệm tạp
Vì thọ sinh, hiện lạc
Cùng ngăn phiền não thoái.
Do tu xen năm phẩm
Sinh có năm Tịnh cư
Bất hoàn đắc diệt định
Chuyển gọi là Thân chứng.
Trong tu Hoặc cõi trên
Đoạn một phẩm định một
Đến tám phẩm Hữu đảnh
Đều hướng A-la-hán.
Đạo vô gián thứ chín
Gọi định kim cang dụ
Tận đắc cùng tận trí
Thành quả vô học ứng.
Hữu đảnh do vô lậu
Khác do hai lìa nhiễm
Thánh tu hai, lìa tám
Đều hai lìa buộc đắc.
Đạo vô lậu, vị chí
Hay lìa tất cả địa
Tám khác lìa tự, trên
Hữu lậu lìa tiếp dưới.
Cận phần lìa nhiễm dưới
Đầu ba, sau giải thoát
Căn bản hoặc cận phần
Địa trên chỉ căn bản.
Vô gián giải thoát thế
Như thứ duyên dưới trên
Tạo hành thô khổ chướng
Cùng ba tĩnh diệu ly.
Bất động sau tận trí
Tất khởi vô sinh trí
Tận khác, hoặc chánh kiến
Ứng quả này đều có.
Đạo tịnh tánh Sa-môn
Quả hữu vi, vô vi
Đây có tám mươi chín
Đạo giải thoát và diệt.
Năm nhân lập bốn quả
Xả từng được thắng đạo
Đoạn tập đắc tám trí
Đốn tu mười sáu hành.
Đạo thế đã đoạn được
Do Thánh đã được cùng
Vô lậu được giữ lấy
Cũng gọi quả Sa-môn.
Nói về tánh Sa-môn
Cũng gọi Bà-la-môn
Cũng gọi là Phạm luân
Do đã chuyển chân Phạm.
Trong ấy chỉ kiến đạo
Được gọi là Pháp luân
Do nhanh giống bánh xe
Hoặc cùng chuyển đầy đủ.
Ba dựa dục, sau ba
Do trên không kiến đạo
Không nghe không duyên dưới
Không chán cùng kinh nói.
A-la-hán có sáu
Là Thoái đến Bất động
Năm trước Tín giải sinh
Gọi chung Thời giải thoát.
Sau: Bất thời giải thoát
Từ Kiến chí trước sinh
Có trước là chủng tánh
Có sau luyện căn được.
Bốn từ chủng tánh thoái
Năm từ quả, không trước
Học phàm phu cũng sáu
Luyện căn không kiến đạo.
Nên biết thoái có ba
Đã, chưa đắc thọ dụng
Phật chỉ có loại cuối
Lợi giữa, sau độn ba.
Tất cả từ quả thoái
Tất được không mạng chung
Trụ quả đã không làm
Hổ tăng nên không tạo.
Vị vô học luyện căn
Chín vô gián, giải thoát
Tập lâu nên học một
Vô lậu dựa người ba.
Vô học dựa chín địa
Hữu học chỉ dựa sáu
Bỏ quả, đạo quả thắng
Chỉ đạt được đạo quả.
Bảy Thanh văn, hai Phật
Sai biệt do chín căn
Gia hạnh, căn, định diệt
Giải thoát nên thành bảy.
Sự này riêng chỉ sáu
Nơi ba đạo đều hai
Câu do đắc định diệt
Khác gọi tuệ giải thoát.
Hữu học gọi là mãn
Do căn quả, định ba
Vô học được tên mãn
Chỉ do căn, định hai.
Nên biết tất cả đạo
Lược nói chỉ có bốn:
Đạo gia hạnh, vô gián
Đạo giải thoát, thắng tấn.
Thông hành có bốn thứ:
Lạc, dựa định căn bản
Khổ dựa nơi địa khác
Trì, Tốc căn độn, lợi.
Giác phần ba mươi bảy
Là như bốn niệm trụ v.v…
Giác là tận vô sinh
Thuận đấy nên gọi Phần.
Đây thật sự chỉ mười
Là tuệ, cần, định, tín
Niệm, hỷ, xả, khinh an
Và giới, tầm làm thể.
Bốn niệm trụ, chánh đoạn
Thần túc tùy tăng thượng
Nói là tuệ, cần, định
Thật các gia hạnh thiện.
Nghiệp đầu thuận quyết trạch
Cùng vị tu kiến đạo
Bảy phẩm như niệm trụ v.v…
Nên biết thứ lớp tăng.
Bảy giác, tám đạo chi
Hoàn toàn là vô lậu
Ba, bốn, năm căn lực
Đều chung nơi hai thứ.
Tĩnh lự đầu, tất cả
Vị chí trừ hỷ căn
Tĩnh lự hai, trừ tầm
Ba, bốn trung, trừ hai.
Ba địa vô sắc trước
Trừ giới, hai thứ trước
Nơi cõi dục, Hữu đảnh
Trừ giác chi, đạo chi.
Chứng tịnh có bốn thứ:
Là Phật, Pháp, Tăng, Giới
Kiến ba được pháp giới
Kiến đạo gồm Phật, Tăng.
Pháp toàn bộ ba đế
Đạo Bồ-tát, Độc giác
Tín, giới hai làm Thể
Bốn đều chỉ vô lậu.
Hữu học còn bị buộc
Không chi chánh thoát trí
Giải thoát là vô vi
Tức thắng giải Hoặc diệt.
Hữu vi chi vô học
Tức hai giải thoát uẩn
Chánh trí, như nói giác
Là tận, vô sinh trí.
Tâm vô học lúc sinh
Chính từ chướng giải thoát
Đạo chỉ vị chánh diệt
Có thể khiến chướng đoạn.
Vô vi nói ba cõi
Cõi lìa chỉ lìa tham
Cõi đoạn, đoạn kiết khác
Cõi diệt, diệt sự kia.
Chán tuệ duyên khổ, tập
Lìa: Duyên bốn hay đoạn
Tương đối cùng rộng hẹp
Nên thành bốn trường hợp.

Phẩm thứ 7: PHÂN BIỆT TRÍ (Gồm 61 Tụng)

Thánh tuệ nhẫn phi trí
Tận, vô sinh phi kiến
Khác hai tuệ hữu lậu
Đều trí, sáu tánh kiến.
Trí mười gồm có hai
Hữu lậu, vô lậu khác
Hữu lậu xưng thế tục
Vô lậu gọi pháp, loại.
Thế tục khắp làm cảnh
Pháp trí cùng loại trí
Như tiếp dục, cõi trên
Đế như khổ v.v… làm cảnh.
Pháp loại do cảnh khác
Lập bốn tên như khổ
Đều chung tận, vô sinh
Trước chỉ khổ, tập loại.
Pháp loại, đạo, thế tục
Có thành tha tâm trí
Nơi vị căn địa thắng
Đời khứ, lai không biết.
Pháp, loại không cùng biết
Thanh văn, Lân dụ Phật
Thứ lớp biết kiến đạo
Hai, ba niệm tất cả.
Trí đối bốn Thánh đế
Biết mình đã nhận biết
Không còn phải nhận biết
Là tận trí, vô sinh.
Do tự tánh đối trị
Hành tướng, cảnh hành tướng
Gia hạnh, biện, nhân tròn
Nên kiến lập mười trí.
Pháp trí duyên diệt, đạo
Ở trong vị tu đạo
Gồm trị tu đoạn trên
Loại không đối trị dục.
Pháp trí và loại trí
Hành tướng cùng mười sáu
Thế tục đây và khác
Bốn đế trí đều bốn.
Tha tâm trí vô lậu
Chỉ bốn là duyên đạo
Hữu lậu duyên tự tướng
Cũng chỉ duyên một sự.
Tận vô sinh: mười bốn
Là lìa không, vô ngã
Tịnh không vượt mười sáu
Sư khác nói có luận.
Hành tướng thật mười sáu
Thể ấy chỉ là tuệ
Năng hành có sở duyên
Sở hành, các pháp hữu.
Tánh tục ba, chín thiện
Dựa địa: Tục tất cả
Tha tâm trí chỉ bốn
Pháp sáu, bảy khác, chín.
Hiện khởi chỗ dựa thân
Tha tâm dựa dục, sắc
Pháp trí chỉ dựa dục
Tám khác chung ba cõi.
Các trí thuộc niệm trụ
Diệt trí chỉ sau cùng
Tha tâm trí ba sau
Tám trí khác chung bốn.
Các trí cùng duyên nhau
Pháp, loại, đạo đều chín
Khổ, tập trí đều hai
Bốn đều mười, diệt không.
Sở duyên gồm có mười
Là ba cõi, vô lậu
Vô vi đều có hai
Tục duyên mười, pháp năm.
Loại bảy, khổ tập sáu
Diệt duyên một, đạo hai
Tha tâm trí duyên ba
Tận, vô sinh đều chín.
Tục trí trừ tự phẩm
Duyên chung tất cả pháp
Là hành tướng phi ngã
Chỉ văn, tư tạo thành.
Phàm phu, Thánh kiến đạo
Niệm đầu định thành một
Hai định thành ba trí
Bốn sau mỗi mỗi tăng.
Tu đạo định thành bảy
Lìa dục thêm tha tâm
Vô học căn độn, lợi
Định thành chín, thành mười.
Kiến đạo, nhẫn trí khởi
Tức vị lai tu kia
Ba loại trí gồm tu
Tục trí hiện quán biên.
Không sinh tự, địa dưới
Khổ, tập bốn sau diệt
Cảnh hành tướng tự đế
Chỉ do gia hạnh được.
Tu đạo: Sát-na đầu
Tu sáu hoặc bảy trí
Đoạn tám địa vô gián
Có hữu dục đạo khác.
Tám giải thoát, Hữu đảnh
Đều tu nơi bảy trí
Vô gián trên đạo khác
Thứ lớp tu sáu, tám.
Vô học: Sát-na đầu
Tu chín, hoặc tu mười
Căn lợi, độn sai biệt
Đạo thắng tấn cũng thế.
Luyện căn, đạo vô gián
Học sáu, vô học bảy
Khác: Học sáu, bảy, tám
Ứng tám, chín, tất cả.
Tạp tu chung vô gián
Học bảy, ứng tám, chín
Đạo khác, học tu tám
Ứng chín hoặc hết thảy.
Thánh khởi công đức khác
Cùng các vị phàm phu
Tu đạt trí nhiều ít
Đều như lý nên xét.
Các đạo dựa đây đắc
Tu hữu lậu địa ấy
Vì lìa được khởi đây
Tu vô lậu đây dưới.
Chỉ tận đầu tu khắp
Đức hữu lậu chín địa
Sinh trên, không tu dưới
Từng đã được, không tu.
Lập tu đắc, tu tập
Dựa pháp thiện hữu vi
Dựa các pháp hữu lậu
Lập tu trị, tu trừ.
Mười tám pháp bất cộng
Là mười lực v.v… của Phật
Lực xứ, phi xứ mười
Nghiệp tám, trừ diệt, đạo.
Định căn, giải giới chín
Biến thủ chín hoặc mười
Túc trụ, sinh tử tục
Tận sáu hoặc mười trí.
Trí túc trụ, sinh tử
Dựa tĩnh lự thông khác
Thân Phật nam, Thiệm Bộ
Nơi cảnh không chướng ngại.
Thân lực Na-la-diên
Hoặc tiết tiết đều thế
Như voi v.v… bảy, mười tăng
Xúc xứ ấy làm tánh.
Bốn vô úy thứ lớp
Lực đầu mười, hai, bảy
Ba niệm trụ: Niệm tuệ
Duyên cùng cảnh thuận nghịch.
Đại bi chỉ tục trí
Tư lương, hành tướng, cảnh
Bình đẳng cùng phẩm thượng
Khác bi do tám nhân.
Do tư lương pháp thân
Lợi tha Phật tương tợ
Thọ lượng, chủng tánh lượng
Chư Phật có sai biệt.
Lại có pháp Phật khác
Chung Thánh khác phàm phu
Là vô tránh, nguyện trí
Các đức vô ngại giải v.v…
Vô tránh thế tục trí
Sau tĩnh lự, bất động
Ba châu duyên chưa sinh
Cõi dục Hoặc hữu sự.
Nguyện trí hay duyên khắp
Còn lại như vô tránh
Vô ngại giải có bốn
Là Pháp, Nghĩa, Từ, Biện.
Danh nghĩa ngôn thuyết đạo
Trí không thoái làm tánh
Pháp từ, chỉ tục trí
Nương dựa năm, hai địa.
Nghĩa mười, sáu, biện chín
Đều dựa tất cả địa
Chỉ đắc tất đủ bốn
Còn như nói vô tránh.
Sáu dựa biên tế đắc
Biên tế sáu, định sau
Thuận khắp đến cứu cánh
Ngoài Phật gia hạnh được.
Thông sáu là Thần cảnh
Thiên nhãn, Nhĩ, Tha tâm
Túc trụ, Lậu tận thông
Thuộc đạo giải thoát, tuệ.
Bốn tục, tha tâm năm
Lậu tận thông như lực
Năm dựa bốn tĩnh lự
Tự, địa dưới làm cảnh.
Thanh văn, Lân dụ Phật
Hai, ba ngàn, vô số
Chưa từng: Do gia hạnh
Từng tu: Lìa nhiễm đắc.
Niệm trụ, đầu ba thân
Tha tâm ba, khác bốn
Thiên nhãn, nhĩ vô ký
Bốn thông khác chỉ thiện.
Thứ năm, hai, sáu minh
Đối trị ngu ba đời
Sáu chân hai giả nói
Học có tối, không minh.
Thứ nhất: Bốn, sáu đạo
Giáo giới đạo là tôn
Định do thông tạo thành
Dẫn đến quả lợi lạc.
Thể của thần: Đẳng trì
Cảnh hai là hành hóa
Hành ba, ý thế Phật
Vận chuyển thắng giải chung.
Hóa hai là dục, sắc
Tánh bốn, hai ngoại xứ
Đây đều có hai thứ
Là giống thân tự tha.
Tâm chủ hóa: Mười bốn
Quả định hai, đến năm
Như chỗ dựa định đắc
Từ tịnh tự, sinh hai.
Hóa sự do tự địa
Ngữ thông do tự dưới
Hóa thân và Hóa chủ
Ngữ tất cùng phi Phật.
Trước lập nguyện giữ thân
Sau khởi tâm khác ngữ
Có tử, lưu thể chắc
Thuyết khác không nghĩa lưu.
Đầu nhiều tâm một hóa
Thành mãn trái với đây
Tu đắc thuộc vô ký
Khác đắc chung ba tánh.
Thiên nhãn, nhĩ là căn
Tức sắc tịnh, địa định
Luôn đồng phần, không thiếu
Nhận chướng vi tế, xa.
Thần cảnh năm: Tu sinh
Chú dược nghiệp thành tựu
Tha tâm tu sinh chú
Lại thêm chiêm tướng thành.
Ba tu sinh nghiệp thành
Trừ tu đều ba tánh
Người chỉ không sinh đắc
Địa ngục đầu hay biết.

Phẩm thứ 8: PHÂN BIỆT ĐỊNH (Gồm 39 Tụng)

Tĩnh lự bốn, đều hai
Trong ấy, đã nói sinh
Định là thiện nhất cảnh
Cùng bạn tánh năm uẩn.
Trước đủ tứ hỷ lạc
Sau dần lìa chi trước
Vô sắc cũng như vậy
Bốn uẩn lìa địa dưới.
Cùng ba cận phần trên
Gọi chung, trừ tưởng sắc
Vô sắc là không sắc
Sắc sau khởi từ tâm.
Ba như không vô biên
Danh theo gia hạnh lập
Phi tưởng phi phi tưởng
Tối kém nên lập tên.
Đẳng chi căn bản tám
Bảy trước đều có ba
Là vị, tịnh, vô lậu
Sau hai thứ vị, tịnh.
Vị là tương ưng ái
Tịnh là thiện thế gian
Đây tức chấp trước vị
Vô lậu là xuất thế.
Tịnh lự đầu: Năm chi
Tầm, tứ, hỷ, lạc, định
Tĩnh lự hai bốn chi:
Nội tịnh, hỷ, lạc, định.
Tĩnh lự ba năm chi:
Xả, niệm, tuệ, lạc, định
Tĩnh lự bốn bốn chi:
Xả, niệm, trung thọ, định.
Thật sự có mười một
Đầu hai: Lạc khinh an
Nội tịnh tức tín căn
Hỷ tức là hỷ thọ.
Nhiễm: Thứ lớp từ đầu
Không hỷ, lạc, nội tịnh
Chánh niệm, tuệ, xả niệm
Khác nói: không an, xả.
Thứ tư gọi bất động
Tức lìa tám tai họa
Tám thứ là tầm, tứ
Bốn thọ, nhập xuất tức.
Tĩnh lự sinh từ đầu
Có hỷ, lạc, xả thọ
Cùng hỷ xả, lạc xả
Chỉ xả thọ như thế.
Sinh ba tĩnh lự trên
Khởi ba thức biểu tâm
Đều thuộc tĩnh lự một
Chỉ vô phú, vô ký.
Toàn không thành mà đắc
Tịnh do lìa nhiễm sinh
Vô lậu do lìa nhiễm
Nhiễm do sinh cùng thoái.
Vô lậu tiếp sinh thiện
Trên dưới đến thứ ba
Tịnh tiếp sinh cũng thế
Gồm sinh nhiễm tự địa.
Nhiễm sinh từ tịnh nhiễm
Cùng một địa dưới tịnh
Chết tịnh sinh tất cả
Nhiễm sinh tự, nhiễm dưới.
Định tịnh có bốn loại
Tức là thuận phần thoái
Thuận trụ, thuận thắng tấn
Thuận thuộc phần quyết trạch.
Tuần tự thuận phiền não
Tự, địa trên vô lậu
Cùng đối chiếu, thứ lớp
Sinh hai, ba, ba, một.
Hai loại định thuận, nghịch
Cùng cách tiếp và vượt
Đến cách vượt là thành
Ba châu, lợi, vô học.
Các định dựa tự, dưới
Không phải trên: vô dụng
Chỉ sinh Hữu đảnh Thánh
Khởi dưới diệt hết Hoặc.
Định vị duyên tự thuộc
Tịnh vô lậu duyên khắp
Vô sắc thiện căn bản
Không duyên hữu lậu dưới.
Vô lậu đoạn trừ Hoặc.
Và các cận phần tịnh
Cận phần tám, xả tịnh
Đầu cũng Thánh hoặc ba.
Tĩnh lự trung, không tầm
Đủ ba, chỉ xả thọ
Đầu, dưới có tầm tứ
Giữa chỉ tứ, trên không.
Không là không, vô ngã
Vô tướng là diệt bốn
Vô nguyện là mười khác
Tương ưng hành tướng đế.
Đây chung tịnh vô lậu
Vô lậu: Ba môn thoát
Lớp hai, duyên vô học
Giữ tướng không, vô thường.
Sau duyên định vô tướng
Phi trạch diệt là tĩnh
Hữu lậu, người, bất thời
Lìa bảy cận phần trên.
Để đắc hiện pháp lạc
Tu các tĩnh lự thiện
Để đạt tri kiến thắng
Tu thiên nhãn thông tịnh.
Vì đắc tuệ phân biệt
Tu các gia hạnh thiện
Để được các lậu tận
Tu định kim cang dụ.
Vô lượng có bốn thứ
Là để đối trị sân v.v…
Từ bi: Tánh không sân
Hỷ, hỷ xả không tham.
Hành tướng này thứ lớp
Ban vui cùng cứu khổ
Tạo an lạc hữu tình
Duyên hữu tình cõi dục.
Hỷ, hai tĩnh lự đầu
Khác sáu hoặc năm, mười
Không thể đoạn các Hoặc
Người khởi định thành ba.
Giải thoát có tám thứ
Ba trước: Tánh không tham
Hai hai, một một định
Bốn định vô sắc thiện.
Diệt thọ tưởng giải thoát
Vi vi, vô gián sinh
Do tâm tịnh tự địa
Cùng vô lậu dưới xuất.
Ba cảnh dục thấy được
Bốn cảnh loại đạo phẩm
Tự trên khổ, tập, diệt
Phi trạch diệt, hư không.
Thắng xứ có tám thứ
Hai như giải thoát đầu
Hai tiếp, như thứ hai
Bốn sau, như thứ ba.
Biến xứ có mười thứ
Tám như tịnh giải thoát
Hai sau: Vô sắc tịnh
Duyên bốn uẩn tự địa.
Diệt định như trước biện
Khác đều chung hai đắc
Vô sắc dựa ba cõi
Còn chỉ nẻo người khởi.
Hai cõi do nhân nghiệp
Nên khởi định vô sắc
Cõi sắc khởi tĩnh lự
Cũng do lực pháp nhĩ.
Chánh pháp Phật có hai
Là giáo, chứng làm thể
Có người trì, thuyết hành
Đấy tức trụ thế gian.
Ca-thấp-di-la bàn lý thành
Tôi dựa nhiều đấy giải Đối pháp
Có ít xét chê: Lỗi do tôi
Phán pháp chánh lý tại Mâu Ni.
Đại sư mắt thế gian đã khép
Các bậc chủng pháp không còn nhiều
Không thấy chân lý, không quản người
Do suy xét hẹp, loạn Thánh giáo.
Tự giác đã quy tịch tĩnh thắng
Người trì giáo kia cũng diệt theo
Đời không chốn dựa, các đức mất
Không tự buộc giữ Hoặc, tùy chuyển.
Đã biết chánh pháp Như Lai thọ
Lần lượt chìm mất như hơi thở
Lúc sức các phiền não ấy tăng
Nên cầu giải thoát chớ phóng dật.

HẾT