LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHÁP UẨN TÚC
Tác giả: Tôn giả Đại Mục Kiền Liên
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 8
Phẩm 13: VÔ SẮC
Một thời, Đức Bạc-già-phạm trú tại khu vườn rừng Thệ Đa – Cấp Cô Độc, thuộc thành Thất-la-phiệt.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với chúng Bí-sô: Có 4 Vô sắc. Những gì là bốn?
1. Như có Bí-sô, vượt quá các tưởng sắc, diệt tưởng có đối, không tư duy về các thứ tưởng, nhập nơi không vô biên, trụ đầy đủ nơi xứ Không vô biên. Đó là thứ nhất.
2. Lại có Bí-sô, vượt quá tất cả thứ nơi xứ Không vô biên, nhập vào thức vô biên, trụ đầy đủ nơi xứ Thức vô biên. Đó là thứ hai.
3. Lại có Bí-sô, vượt quá tất cả thứ nơi xứ Thức vô biên, nhập vào vô sở hữu, trụ đầy đủ nơi xứ Vô sở hữu. Đó là thứ ba.
4. Lại có Bí-sô, vượt quá tất cả thứ nơi xứ Vô sở hữu, nhập vào và trụ đầy đủ nơi xứ Phi tưởng phi phi tưởng. Đó là thứ tư.
Đó gọi là bốn Vô sắc.
*
1. Vô sắc thứ nhất:
Vượt quá các tưởng sắc: Thế nào là các tưởng sắc? Nghĩa là nhãn thức tương ưng với tưởng, cùng tưởng, hiện tiền cùng tưởng, hiểu rõ giữ lấy hình tượng, đã tưởng, sẽ tưởng, gọi chung là tưởng sắc. Có chỗ nói: Cùng với năm thức tương ưng với tưởng, cùng tưởng v.v… cho đến đã tưởng, sẽ tưởng, gọi chung là tưởng sắc. Nay trong nghĩa nầy chỉ nói nhãn thức tương ưng với tưởng cùng tưởng v.v… cho đến đã tưởng, sẽ tưởng, gọi chung là tưởng sắc. Các tưởng sắc như thế, bấy giờ đều siêu vượt, cùng siêu vượt, nên gọi là Vượt quá các tưởng sắc.
Diệt tưởng có đối: Thế nào là tưởng có đối? Nghĩa là bốn thức như nhĩ thức v.v… cùng tương ưng với tưởng, cùng tưởng v.v… cho đến đã tưởng, sẽ tưởng, gọi chung là tưởng có đối. Có chỗ nói: Giận dữ tương ưng với tưởng, cùng tưởng v.v… cho đến đã tưởng, sẽ tưởng, gọi chung là tưởng có đối. Nay trong nghĩa nầy thì bốn thức như nhĩ thức v.v… tương ưng với tưởng, cùng tưởng v.v… cho đến đã tưởng, sẽ tưởng, gọi chung là tưởng có đối. Các tưởng có đối như thế, lúc đó đã đoạn dứt, nhận biết khắp, xa lìa, xa lìa tận cùng, điều phục, điều phục tận cùng, trừ diệt hết hẳn, nên gọi là Diệt tưởng có đối.
Không tư duy về các thứ tưởng: Thế nào là các thứ tưởng? Nghĩa là có sự ngăn che, trói buộc. Tức các tưởng về sắc, thanh, hương, vị, xúc nhiễm ô hiện có, tưởng bất thiện hiện có, tưởng dẫn đến phi lý hiện có, tưởng gây chướng ngại cho định hiện có, gọi chung là các thứ tưởng. Các tưởng ấy bấy giờ không còn dẫn phát, không còn ức niệm, không còn tư duy, không còn đã tư duy sẽ tư duy, nên gọi là Không tư duy về các thứ tưởng.
Nhập nơi không vô biên, trụ đầy đủ nơi xứ Không vô biên: Thế nào là gia hạnh của định xứ Không vô biên? Tu gia hạnh nào để nhập định xứ Không vô biên? Nghĩa là đối với định nầy, người mới tu tập định trước hết nên tư duy về tĩnh lự thứ tư là chướng khổ thô, sau đấy tư duy về xứ Không vô biên là lìa tĩnh diệu.
Bấy giờ, người ấy nếu tâm bị tán loạn, chạy theo cảnh khác, không thể chuyên nhất, không thể giữ niệm khiến trụ nơi một duyên để tu tập định xứ Không vô biên. Như thế chưa gọi là gia hạnh của định xứ Không vô biên, cũng chưa gọi là nhập định xứ Không vô biên.
Lúc đó, người ấy nếu thâu giữ tự tâm khiến không tán loạn, không chạy theo cảnh khác, có thể khiến chuyên nhất, trụ niệm nơi một duyên để tư duy tu tập tướng định xứ Không vô biên. Tư duy như thế để phát khởi sức siêng năng tinh tấn, thế dụng rất mạnh mẽ, hăng hái tột bậc, không gì có thể ngăn cản, tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là gia hạnh của định xứ Không vô biên, cũng gọi là nhập định xứ Không vô biên.
Người ấy đối với đạo như thế đã tu tập, tu tập nhiều, liền khiến các tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, một hướng đẳng trì, không hai không thoái, lúc nầy gọi là đã nhập định xứ Không vô biên.
Lại trong định nầy, các tâm ý thức gọi là định xứ Không vô biên cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là định xứ Không vô biên cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã và sẽ thắng giải, gọi là định xứ Không vô biên cùng có thắng giải.
Lại trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là định xứ Không vô biên cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là định xứ Không vô biên.
*
2. Vô sắc thứ hai:
Vượt quá tất cả thứ nơi xứ Không vô biên: Nghĩa là lúc đó người ấy đối với các tưởng của xứ Không vô biên đều siêu vượt, cùng siêu vượt, nên gọi là vượt quá tất cả thứ nơi xứ Không vô biên.
Nhập vào thức vô biên, trụ đầy đủ nơi xứ Thức vô biên: Thế nào là gia hạnh của định xứ Thức vô biên? Tu gia hạnh nào để nhập định xứ Thức vô biên? Nghĩa là đối với định nầy, người mới tu tập trước hết nên tư duy về xứ Không vô biên là chướng khổ thô, sau đó tư duy về xứ Thức vô biên là lìa tĩnh diệu. Phần còn lại nói rông như nơi xứ Không vô biên.
*
3. Vô sắc thứ ba:
Vượt quá tất cả thứ nơi xứ Thức vô biên: Nghĩa là bấy giờ người ấy đối với các tưởng của xứ Thức vô biên đều siêu vượt, cùng siêu vượt, nên gọi là vượt quá tất cả thứ nơi xứ Thức vô biên.
Nhập vào vô sở hữu, trụ đầy đủ nơi xứ Vô sở hữu: Thế nào là gia hạnh của định xứ Vô sở hữu? Tu gia hạnh nào để nhập định xứ Vô sở hữu? Nghĩa là đối với định nầy, người mới tu tập trước hết nên tư duy về xứ Thức vô biên là chướng khổ thô, sau đó tư duy về xứ Vô sở hữu là lìa tĩnh diệu. Phần còn lại nói rộng như nơi xứ Không vô biên.
*
4. Vô sắc thứ tư:
Vượt quá tất cả thứ nơi xứ Vô sở hữu: Nghĩa là bấy giờ người ấy đối với các tưởng của xứ Vô sở hữu đều siêu vượt, cùng siêu vượt, nên gọi là vượt quá tất cả thứ nơi xứ Vô sở hữu.
Nhập vào và trụ đầy đủ nơi xứ Phi tưởng phi phi tưởng: Thế nào là gia hạnh của định xứ Phi tưởng phi phi tưởng? Tu gia hạnh nào để nhập định xứ Phi tưởng phi phi tưởng? Nghĩa là đối với định nầy, người mới tu tập trước hết nên tư duy về xứ Vô sở hữu là chướng khổ thô, sau đó tư duy về xứ Phi tưởng phi phi tưởng là lìa tĩnh diệu. Phần còn lại nói rộng như nơi xứ Không vô biên.
***
Phẩm 14: TU ĐỊNH
Một thời, Đức Bạc-già-phạm trú tại khu vườn rừng Thệ Đa – Cấp Cô Độc, thuộc thành Thất-la-phiệt.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với chúng Bí-sô: Có 4 cách Tu Định. Những gì là bốn?
1. Như có cách tu định: Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều để có thể khiến chứng đắc Hiện pháp lạc trụ.
2. Lại có cách tu định: Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều để có thể khiến chứng đắc Trí kiến thù thắng.
3. Lại có cách tu định: Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều để có thể khiến chứng đắc Tuệ phân biệt thắng diệu.
4. Lại có cách tu định: Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều để có thể khiến chứng đắc Các lậu vĩnh viễn dứt hết.
Đó gọi là bốn cách Tu định.
Ở đây:
1. Thế nào là tu định: Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều để có thể khiến chứng đắc Hiện pháp lạc trụ?
Đáp: Nghĩa là có Bí-sô, đối với tự thân đạt ly sinh hỷ lạc, thấm nhuần thấm nhuần khắp, sung mãn sung mãn khắp, vui thích vui thích khắp, do được ly sinh hỷ lạc nên trong tự thân không một phần nhỏ nào là không sung mãn. Đó gọi là tu định đạt được Hiện pháp lạc trụ.
2. Thế nào là tu định: Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều để có thể khiến chứng đắc Trí kiến thù thắng?
Đáp: Nghĩa là có Bí-sô, đối với tưởng quang minh đã khéo thâu giữ, tư duy, tu tập, thông đạt, hoặc ngày hoặc đêm không có sai biệt, hoặc trước hoặc sau không có sai khác, hoặc trên hoặc dưới không sai biệt. Mở tâm trí, lìa ngăn che, dùng ánh sáng tu chiếu cùng tâm, diệt trừ tâm tối tăm, tu vô lượng định. Đó gọi là tu định đạt được Trí kiến thù thắng.
3. Thế nào là tu định: Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều để có thể khiến chứng đắc Tuệ phân biệt thắng diệu?
Đáp: Nghĩa là có Bí-sô, khéo nhận biết các thọ sinh, thọ trụ, thọ diệt, dứt hết hẳn, ở đây đều trụ niệm không phải là không trụ niệm. Lại khéo nhận biết các tưởng, các tầm v.v… ở đây luôn trụ niệm không phải là không trụ niệm. Đó gọi là tu định đạt được Tuệ phân biệt thắng diệu.
4. Thế nào là tu định: Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều để có thể khiến chứng đắc Các lậu vĩnh viễn dứt hết?
Đáp: Nghĩa là có Bí-sô, đối với năm thủ uẩn thường xuyên tùy quán chúng trụ nơi sinh diệt. Tức quán đây là sắc, đây là sự tập hợp của sắc, đây là sắc bị diệt. Đây là thọ tưởng hành thức, đây là sự tập hợp của thọ tưởng hành thức, đây là sự diệt của thọ tưởng hành thức. Đó gọi là tu định đạt được Các lậu vĩnh viễn dứt hết.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thâu tóm các nghĩa đã nói trên, nên đọc tụng:
Đoạn dục tưởng ưu não
Lìa hôn trầm ố tác
Được xả niệm thanh tịnh
Pháp tầm tứ hành trước.
Hiện pháp lạc là đầu
Kế: thắng tri kiến, tuệ
Trừ các lậu: vô minh
Sau chứng quả giải thoát.
*
1. Tu định thứ nhất:
Đối với tự thân: Nghĩa là thân cũng gọi là thân, căn cũng gọi là thân, năm sắc căn cũng gọi là thân, tụ do bốn đại chủng tạo nên cũng gọi là thân. Nay trong nghĩa nầy ý nói tụ do bốn đại chủng tạo nên gọi là thân.
Ly sinh hỷ lạc: Nghĩa là ở bậc tĩnh lự thứ nhất hiện có hỷ lạc, thọ bình đẳng, thuộc về thọ, thân khinh an, tâm khinh an, đó gọi là hỷ lạc. Hỷ lạc như thế từ chỗ lìa bỏ các dục và pháp ác bất thiện sinh khởi cùng sinh khởi, tụ tập xuất hiện, nên gọi là ly sinh hỷ lạc.
Thấm nhuần thấm nhuần khắp, sung mãn sung mãn khắp, vui thích vui thích khắp: Nghĩa là đối với tự thân là tụ do bốn đại chủng tạo nên, có ly sinh hỷ lạc dấy khởi cùng khởi, phát sinh cùng sinh, tụ tập xuất hiện: Thấm nhuần thấm nhuần khắp là một nghĩa, sung mãn sung mãn khắp là một nghĩa, vui thích vui thích khắp là một nghĩa, là do sự nuôi lớn nơi bậc hạ, trung, thượng có sai biệt. Ví như nông phu, trong ba giai đoạn trước, giữa, sau đã dùng ba lượng nước ít, vừa, nhiều để tưới cho vùng ruộng cao khiến ruộng ấy lần lượt được thấm ướt, đầy đủ và dồi dào. Các Bí-sô cũng như thế, đầu tiên dùng ly sinh hỷ lạc thuộc phẩm hạ để nuôi lớn thân là tụ do các đại chủng tạo nên, bấy giờ tự thân được thấm nhuần thấm nhuần khắp. Thứ đến dùng ly sinh hỷ lạc thuộc phẩm trung nuôi lớn thân là tụ do các đại chủng tạo nên, khi đó tự thân sung mãn sung mãn khắp. Sau thì dùng ly sinh hỷ lạc thuộc phẩm thượng để nuôi lớn thân là tụ do các đại chủng tạo nên, lúc nầy tự thân được vui thích vui thích khắp.
Do được ly sinh hỷ lạc nên trong tự thân không một phần nhỏ nào là không sung mãn: Nghĩa là từ chân đến đầu, ly sinh hỷ lạc đã tạo sự nuôi lớn thảy đều sung mãn.
Đó gọi là tu định: Thế nào là định? Nghĩa là đối với tự thân đã có ly sinh hỷ lạc thấm nhuần thấm nhuần khắp, sung mãn sung mãn khắp, vui thích vui thích khắp, nên tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, không hề tán loạn, thâu giữ đẳng trì, tánh tâm một cảnh, gọi chung là định. Thế nào là tu? Nghĩa là đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, luôn hành luôn tác, không bỏ gia hạnh, gọi chung là tu.
Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều: Nghĩa là hiển bày đối với định nầy có thể đạt được tự tại.
Có thể khiến chứng đắc Hiện pháp lạc trụ: Nghĩa là đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều, thì ở trong hiện pháp chứng được lạc trụ. Rất đáng yêu mến, ưa thích, vừa ý, không hề trông mong, không hề mến mộ, tịch tĩnh an ổn, nên gọi là Lạc trụ. Đối với lạc trụ nầy, đạt được thành tựu, gần gũi xúc chứng, nên gọi là Chứng đắc.
Lại nữa, tĩnh lự thứ nhất gồm thâu ly sinh hỷ lạc cùng hành tánh tâm một cảnh, nên gọi là định. Tức đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, luôn hành luôn tác, không bỏ gia hạnh, nên gọi là tu. Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều: Tức hiển bày sự tự tại kia. Có thể khiến chứng đắc Hiện pháp lạc trụ: Về nghĩa đều như trước đã nói.
*
2. Tu định thứ hai:
Đối với tưởng quang minh:
Thế nào là gia hạnh của định quang minh? Tu gia hạnh nào để nhập định quang minh? Nghĩa là đối với định nầy, người mới tu tập trước nên khéo giữ lấy tướng của vầng trăng sáng hay tướng của vầng mặt trời sáng, hoặc ánh sáng của vật thuốc, Mạt-ni, cung điện của chư Thiên, các tinh tú. Hoặc khéo giữ lấy ánh sáng của đèn đuốc. Hoặc khéo giữ lấy ánh sáng của thành ấp, sông đất bị thiêu đốt. Hoặc khéo giữ lấy ánh sáng của núi, đầm, đồng rộng bị đốt cháy. Hoặc lại khéo giữ lấy ánh sáng của củi bị đốt cháy hoặc mười gánh, hoặc hai mươi gánh, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, một trăm, một ngàn, một trăm ngàn, hoặc vô lượng trăm gánh, vô lượng ngàn, vô lượng trăm ngàn gánh. Ánh sáng của lửa ấy sáng rực, sáng rực tột cùng, tỏa rộng, tỏa rộng khắp, theo đấy chọn lấy một thứ tướng ánh sáng rồi tư duy xét kỹ, hiểu rõ, quan sát thắng giải, vững trụ phân biệt.
Bấy giờ, người ấy nếu tâm bị tán loạn, chạy theo cảnh khác, không thể chuyên nhất, không thể giữ niệm khiến trụ nơi một duyên để tư duy về các tướng ánh sáng đã chọn, đến đây chưa gọi là gia hạnh của định quang minh, cũng chưa gọi là nhập định quang minh.
Lúc đó, người ấy nếu thâu giữ tự tâm khiến không tán loạn, không chạy theo cảnh khác, có thể khiến chuyên nhất, trụ niệm nơi một duyên, tư duy về tướng của các ánh sáng như thế. Tư duy như vậy để phát khởi sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng, lúc nầy mới gọi là gia hạnh của định quang minh, cũng gọi là nhập định quang minh.
Người đó đối với đạo như thế đã tu tập, tu tập nhiều, liền khiến tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, một hướng đẳng trì, không hai không thoái, để tư duy về tướng của các ánh sáng như thế, bấy giờ gọi là đã nhập định quang minh, nhưng chưa gọi là tưởng của định quang minh.
Thế nào là tưởng của định quang minh? Nghĩa là nương dựa theo định quang minh ở trước, tư duy về tướng của các thứ ánh sáng như trước, các tưởng cùng tưởng, hiểu rõ, giữ lấy hình tượng đã tưởng, sẽ tưởng, đó gọi là tưởng của định quang minh.
Tưởng của định quang minh nầy gọi là Tưởng quang minh.
Đối với tưởng quang minh đã khéo thâu giữ: Nghĩa là đối với tưởng nầy đã cung kính, ân cần thâu giữ, tôn trọng, tư duy về nhân, về môn, về lý, về phương tiện, về hành tướng, nên gọi là khéo thâu giữ.
Khéo tư duy: Nghĩa là đã thường xuyên khởi tưởng quang minh rồi thì luôn tư duy về tướng quang minh, nên gọi là khéo tư duy.
Khéo tu tập: Nghĩa là đối với tưởng ấy luôn tu luôn tập, luôn hành luôn tác, nên gọi là khéo tu tập.
Khéo thông đạt: Nghĩa là nơi tưởng nầy, cùng hiểu rõ xét kỹ, cùng quan sát thẩm định, nên gọi là khéo thông đạt.
Hoặc ngày hoặc đêm không có sai biệt: Nghĩa là như đối với ban ngày đã xét kỹ, tư duy, hiểu rõ, quan sát, thắng giải, trụ vững, phân biệt về các tướng ánh sáng như trước v.v… như thế nào, thì đến phần đêm cũng hành tác đầy đủ như thế. Rồi như ban đêm đã tìm xét, tư duy, quan sát, thắng giải phân biệt, thì sang ngày hôm sau cũng vậy. Thế nên gọi là hoặc ngày hoặc đêm không có sai biệt.
Hoặc trước hoặc sau không có sai khác: Nghĩa là nơi các trường hợp đối diện, không đối diện, thời gian trước đây hay hiện tại đều tìm xét tư duy hiểu rõ, quan sát thắng giải phân biệt các tướng ánh sáng như trước đã nêu hoàn toàn như nhau không khác. Thế nên gọi là hoặc trước hoặc sau không có sai khác.
Hoặc trên hoặc dưới không có sai biệt: Nghĩa là nơi các phương trên, dưới đều hành tác như nhau để tìm xét tư duy, hiểu rõ, quan sát thắng giải phân biệt các tướng ánh sáng như trước đã nêu. Thế nên gọi là hoặc trên hoặc dưới không có sai biệt.
Mở tâm trí: Nghĩa là phát khởi tâm cùng hành với ánh sáng đang tỏa chiếu rực rỡ.
Lìa ngăn che: Nghĩa là xa lìa các thứ hôn trầm thùy miên đang che, buộc tâm.
Dùng ánh sáng tu chiếu cùng tâm: Nghĩa là tu tập ánh sáng rực rỡ có tâm cùng hành.
Diệt trừ tâm tối tăm: Nghĩa là trong tâm nầy không khởi tướng tối tăm, chỉ khởi tướng ánh sáng, như ánh sáng của đèn đuốc xua trừ bóng tối.
Tu vô lượng định: Nghĩa là tu vô lượng định có tướng quang minh.
Đó gọi là tu định: Thế nào là định? Nghĩa là đối với ánh sáng tìm xét, tư duy, hiểu rõ, quan sát, thắng giải, trụ vững, phân biệt để khởi tâm trụ cùng trụ v.v… cho đến tánh tâm một cảnh, gọi chung là định. Thế nào là tu? Nghĩa là đối với định nầy hoặc tu hoặc tập, luôn hành luôn tác, không bỏ gia hạnh, gọi chung là tu.
Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều: Nghĩa là hiển bày đối với định nầy có thể đạt được tự tại.
Có thể khiến chứng đắc Trí kiến thù thắng: Thế nào gọi là trí kiến thù thắng? Nghĩa là đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều, đạt đến phần vị viên mãn, nên từ nơi đôi mắt cũ phát khởi thiên nhãn thanh tịnh do các đại chủng của cõi Sắc tạo nên. Nương vào thiên nhãn nầy, sinh ra nhãn thức thanh tịnh, dựa nơi nhãn thức thanh tịnh nầy có thể quán xét khắp các sắc trước sau, trên dưới, hai biên. Như như từ đôi mắt cũ đã khởi Thiên nhãn thanh tịnh do các đại chủng nơi cõi Sắc tạo nên, như thế như thế sinh nhãn thức thanh tịnh, dựa vào nhãn thức nầy để lãnh nhận quan sát các thứ sắc kia. Đó gọi là Trí kiến thù thắng. Có chỗ nói: Nghĩa là do ý tịnh nên thắng giải quán thấy, tức nhục nhãn của người biến thành Thiên nhãn, nên gọi là Trí kiến thù thắng. Nay trong nghĩa nầy như trước đã nói, nhãn thức thanh tịnh tương ưng với thắng tuệ, nên gọi là trí, cũng gọi là kiến. Tức là thức của thiên nhãn tương ưng với thắng tuệ nên lãnh nhận, quan sát các thứ sắc kia. Đó gọi là Trí kiến thù thắng. Người ấy đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều, tức có thể chứng được Trí kiến thù thắng, đạt đến thành tựu, gần gũi xúc chứng trí kiến thù thắng, nên gọi là Chứng đắc.
Lại nữa, tưởng quang minh cùng hành với tánh tâm một cảnh, nên gọi là định. Tức đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, luôn hành luôn tác, không bỏ gia hạnh, nên gọi là tu. Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều: Tức hiển bày sự tự tại kia. Có thể khiến chứng đắc Trí kiến thù thắng: Về nghĩa đều như trước đã nói.
*
3. Tu định thứ ba:
Khéo nhận biết các thọ sinh, thọ trụ, thọ diệt, dứt hết hẳn: Nghĩa là quán xét kỹ về thọ sinh, thọ trụ, thọ diệt, trừ dứt hết hẳn các thứ đó.
Trụ niệm không phải là không trụ niệm: Nghĩa là khi quan sát kỹ về thọ sinh thì đủ niệm chánh tri. Khi quan sát kỹ về thọ trụ, thọ diệt, dứt trừ hết hẳn cũng đủ niệm chánh tri.
Khéo nhận biết các tưởng, các tầm v.v…: Nghĩa là quán xét kỹ về tưởng tầm sinh, tưởng tầm trụ, tưởng tầm diệt để diệt trừ hết hẳn.
Trụ niệm không phải là không trụ niệm: Nghĩa là quán xét kỹ về tưởng tầm lúc sinh, lúc trụ, lúc diệt, trừ dứt hết hẳn đều đủ niệm chánh tri.
Đó gọi là tu định:
Thế nào là định? Tức bấy giờ người ấy khởi suy nghĩ: “Nay ta đối với các pháp nên chánh tư duy, không khởi các pháp bất thiện, khởi các pháp thiện, không khởi các pháp vô ký, khởi các pháp hữu ký, khiến các pháp bất thiện chẳng trụ lâu, khiến các pháp thiện được trụ lâu, khiến các pháp vô ký không trụ lâu, khiến các pháp hữu ký được trụ lâu”. Người ấy bấy giờ cũng quan sát tâm, cũng quan sát các pháp tâm sở. Khi quan sát các pháp tâm và tâm sở, tức khởi tâm trụ cùng trụ v.v… cho đến tánh tâm một cảnh, gọi chung là định.
Thế nào là tu? Nghĩa là đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, luôn hành luôn tạo, không bỏ gia hạnh, gọi chung là tu.
Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều: Nghĩa là hiển bày đối với định nầy có thể đạt được tự tại.
Có thể khiến chứng đắc Tuệ phân biệt thắng diệu: Nghĩa là đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều, tức có thể khiến tất cả tuệ bất thiện, tuệ dẫn đến phi lý, và tuệ bất thiện hiện có làm chướng ngại định đều được phá trừ, xả bỏ, không khởi các tuệ trái ngược ấy, sinh trưởng bền trụ tuệ thiện, do đấy nên nói có thể khiến chứng đắc Tuệ phân biệt thắng diệu. Tức đối với tuệ nầy được thành tựu gần gũi xúc chứng, nên gọi là Chứng đắc.
Lại nữa, quán xét kỹ về tầm thọ tưởng cùng hành với tánh tâm một cảnh, nên gọi là định. Tức đối với định nầy hoặc tu hoặc tập, luôn hành luôn tạo, không bỏ gia hạnh, nên gọi là tu. Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều: Tức hiển bày sự tự tại kia. Có thể khiến chứng đắc Tuệ phân biệt thắng diệu: Về nghĩa đều như trước đã nói.
*
4. Tu định thứ tư:
Đối với năm thủ uẩn thường xuyên tùy quán chúng trụ nơi sinh diệt: Nghĩa là nhận biết đúng như thật về sắc sinh cùng biến hoại. Nhận biết đúng như thật về thọ, tưởng, hành, thức sinh cùng biến hoại.
Đó gọi là tu định:
Thế nào là định? Nghĩa là thường xuyên tùy quán về sự sinh diệt của năm thủ uẩn nầy, khởi lên tâm trụ cùng trụ v.v… cho đến tánh tâm một cảnh, gọi chung là định.
Thế nào là tu? Nghĩa là đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, luôn hành luôn tạo, không bỏ gia hạnh, gọi chung là tu.
Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều: Nghĩa là hiển bày đối với định nầy có thể đạt được tự tại.
Có thể khiến chứng đắc Các lậu vĩnh viễn dứt hết: Lậu tức ba thứ lậu: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Người ấy đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều, tức có thể khiến ba lậu dứt hết cùng dứt hết, dứt sạch rốt ráo, nên gọi là Các lậu vĩnh viễn dứt hết. Nơi sự dứt sạch nầy được thành tựu, gần gũi xúc chứng, nên gọi là Chứng đắc.
Lại nữa, ở bậc tĩnh lự thứ tư gồm thâu xả niệm thanh tịnh cùng hành, tiến đến quả A-la-hán, đạo vô gián gồm thâu tánh tâm một cảnh, nên gọi là định. Tức đối với định nầy, hoặc tu hoặc tập, luôn hành luôn tạo, không bỏ gia hạnh, nên gọi là tu. Hoặc tu hoặc tập, hoặc hành tác nhiều: Tức hiển bày sự tự tại kia. Có thể khiến chứng đắc Các lậu vĩnh viễn dứt hết: Về nghĩa đều như trước đã nói.
***
Phẩm 15: GIÁC CHI, phần 1
Một thời, Đức Bạc-già-phạm trú tại khu vườn rừng Thệ Đa – Cấp Cô Độc, thuộc thành Thất-la-phiệt.
Bấy giờ, có Bí-sô đến chỗ Phật, đảnh lễ nơi chân Phật, đứng qua một bên, bạch Phật: Đức Thế Tôn thường nói đến Giác chi. Vậy Giác chi được nói ấy nghĩa như thế nào?
Đức Thế Tôn bảo: Giác chi đây nói rõ là 7 Giác chi. Những gì là bảy? 1. Giác chi niệm. 2. Giác chi trạch pháp. 3. Giác chi tinh tấn. 4. Giác chi hỷ. 5. Giác chi khinh an. 6. Giác chi định. 7. Giác chi xả. Các giác chi như thế lần lượt sinh khởi, theo thứ tự chứng đắc tu tập khiến viên mãn.
Khi đó, Bí-sô kia lại bạch Phật: Thế nào là các Giác chi theo thứ tự sinh khởi, theo thứ tự chứng đắc tu tập khiến viên mãn?
Đức Phật bảo Bí-sô: Nếu đối với thân luôn theo dõi quán thân, an trụ trong chánh niệm, xa lìa ngu si, bấy giờ liền khởi giác chi niệm. Được giác chi niệm nên tu tập khiến được viên mãn. Người ấy do niệm nầy nên đối với các pháp đã lựa chọn, lựa chọn tận cùng, tầm tư khắp, xét tìm khắp, xét tìm rất kỹ lưỡng, khi đó liền khởi giác chi trạch pháp. Được giác chi trạch pháp thì tu tập khiến được viên mãn. Người ấy do trạch pháp nên phát khởi sức siêng năng tinh tấn, tâm không thấp kém, bấy giờ liền khởi giác chi tinh tấn. Được giác chi tinh tấn tức tu tập khiến được viên mãn. Người ấy do tinh tấn nên phát sinh hỷ thù thắng, xa lìa ái vị, lúc nầy liền khởi giác chi hỷ. Được giác chi hỷ nên tu tập khiến được viên mãn. Người ấy do hỷ nầy nên thân tâm đều được khinh an, xa lìa mọi thứ thô nặng, bấy giờ liền khởi giác chi khinh an. Được giác chi khinh an tức tu tập khiến được viên mãn. Người ấy do khinh an nên thọ nhận diệu lạc, an lạc nên tâm định, khi đó liền khởi giác chi định. Được giác chi định thì tu tập khiến được viên mãn. Người ấy do tâm định nên có thể diệt trừ các tham ưu trụ nơi xả tăng thượng, bấy giờ liền khởi giác chi xả. Được giác chi xả nên tu tập khiến được viên mãn.
Đối với Thọ, Tâm, Pháp trụ nơi tuần tự quán Thọ Tâm Pháp nói rộng cũng như vậy. Các giác chi như thế, theo thứ tự sinh khởi, thứ tự chứng đắc, tu tập khiến được viên mãn.
*
1. Thế nào là giác chi Niệm?
Đáp: Nghĩa là như Đức Thế Tôn nói: Nếu các đệ tử Thánh đối với nội thân nầy, trụ nơi tuần tự quán thân, có đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ bỏ các tham ưu của thế gian. Đối với ngoại thân, đối với nội ngoại thân, cũng trụ nơi tuần tự quán thân, có đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ bỏ mọi tham ưu của thế gian. Lại đối với nội, ngoại, cả nội ngoại của ba thứ Thọ Tâm Pháp, nói rộng cũng như vậy.
Khi tu tập bốn Niệm trụ như thế, các tác ý vô lậu hiện có đều tương ưng với các niệm, tùy niệm, chuyên niệm, ức niệm, không quên không mất, không sót không thiếu, tánh không mất pháp, tánh tâm ghi rõ, gọi chung là niệm, cũng gọi là niệm căn, cũng gọi là niệm lực, cũng gọi là niệm giác chi, cũng gọi là chánh niệm. Đây là đạo tùy hành, đạo cùng có, đạo không chấp giữ, đạo vô lậu xuất thế gian của Phật tùy chuyển, có thể chính thức diệt hết các khổ, tạo được biên vực tận cùng của khổ. Những vị hữu học nơi các hành như đã thấy, nên tư duy quan sát khiến đạt đến cứu cánh. Ở trong các hành nên thấy sâu về các lỗi lầm tai họa của chúng. Đối với Niết-bàn luôn thấy rõ về công đức. Hoặc bậc A-la-hán như tâm giải thoát nên tư duy quan sát khiến đạt đến cứu cánh. Các tác ý vô lậu hiện có đều tương ưng với các niệm, tùy niệm v.v… nói rộng cho đến tánh tâm ghi rõ. Đó gọi là giác chi Niệm.
*
2. Thế nào là giác chi Trạch pháp?
Đáp: Nghĩa là như Đức Thế Tôn nói: “Nếu hàng đệ tử Thánh có thể nhận biết đúng như thật về pháp thiện, pháp bất thiện, pháp có tội, pháp không tội, pháp nên tu, pháp không nên tu, pháp thấp kém, pháp thắng diệu, pháp đen trắng, pháp có đối nghịch, pháp duyên sinh v.v…”.
Ở đây:
Có thể nhận biết đúng như thật về pháp thiện, pháp bất thiện: Thế nào là pháp thiện? Nghĩa là nghiệp thân, ngữ thiện, tâm và tâm sở pháp thiện, tâm thiện không tương ưng với hành cùng trạch diệt, đó gọi là pháp thiện. Thế nào là pháp bất thiện? Nghĩa là nghiệp thân, ngữ bất thiện, tâm và tâm sở pháp bất thiện, tâm bất thiện không tương ưng với hành, đó gọi là pháp bất thiện. Người ấy đối với pháp thiện, pháp bất thiện như thế, dùng chánh tuệ như thật để lựa chọn, lựa chọn tận cùng, tầm tư khắp, tìm xét khắp, tìm xét thật kỹ lưỡng. Đó gọi là có thể nhận biết đúng như thật về pháp thiện, pháp bất thiện.
Có thể nhận biết đúng như thật về pháp có tội, pháp không tội: Thế nào là pháp có tội? Nghĩa là ba hành ác, ba căn bất thiện, mười đạo nghiệp bất thiện, đó gọi là pháp có tội. Thế nào là pháp không tội? Nghĩa là ba hành diệu, ba căn thiện, mười đạo nghiệp thiện, đó gọi là pháp không tội. Người ấy đối với pháp có tội, pháp không tội như thế, dùng chánh tuệ như thật để lựa chọn, lựa chọn tận cùng, tầm tư khắp, tìm xét khắp, tìm xét thật kỹ lưỡng. Đó gọi là có thể nhận biết đúng như thật về pháp có tội, pháp không tội.
Có thể nhận biết đúng như thật về pháp nên tu, pháp không nên tu: Thế nào là pháp nên tu? Nghĩa là ba hành diệu, ba căn thiện, mười đạo nghiệp thiện, gần gũi các bậc Thiện sĩ, lắng nghe chánh pháp, tác ý như lý, pháp tùy pháp hành, cung kính lắng nghe, thưa hỏi, nghiêm giữ căn môn, ăn uống biết chừng mực, đầu hôm cuối đêm luôn thức, siêng tu pháp thiện v.v…, đó gọi là pháp nên tu. Lại nữa, bốn niệm trụ, bốn chánh thắng, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám chi Thánh đạo, bốn chánh hành, bốn pháp tích, Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na v.v… cũng gọi là pháp nên tu. Thế nào là pháp không nên tu? Nghĩa là ba hành ác, ba căn bất thiện, mười đạo nghiệp bất thiện, gần gũi với không phải bậc Thiện sĩ, lắng nghe pháp tà, tác ý không như lý, hành hạnh phi pháp, không cung kính lắng nghe, không cung kính thưa hỏi, không nghiêm giữ căn môn, ăn uống không biết chừng mực, đầu hôm cuối đêm ham ngủ nghỉ, không siêng tu pháp thiện v.v…, đó gọi là pháp không nên tu. Người ấy đối với pháp nên tu, pháp không nên tu như thế, dùng chánh tuệ như thật để lựa chọn, lựa chọn tận cùng, tầm tư khắp, tìm xét khắp, tìm xét thật kỹ lưỡng. Đó gọi là có thể nhận biết đúng như thật về pháp nên tu, pháp không nên tu.
Có thể nhận biết đúng như thật về pháp thấp kém, pháp thắng diệu: Thế nào là pháp thấp kém? Nghĩa là pháp bất thiện, pháp hữu phú vô ký, đó gọi là pháp thấp kém. Thế nào là pháp thắng diệu? Nghĩa là các pháp thiện, pháp vô phú vô ký, đó gọi là pháp thắng diệu. Người ấy đối với pháp thấp kém, pháp thắng diệu như thế, dùng chánh tuệ như thật để lựa chọn, lựa chọn tận cùng, tầm tư khắp, tìm xét khắp, tìm xét thật kỹ lưỡng. Đó gọi là có thể nhận biết đúng như thật về pháp thấp kém, pháp thắng diệu.
Có thể nhận biết đúng như thật về pháp đen trắng: Thế nào là pháp đen trắng? Pháp bất thiện gọi là đen, pháp thiện gọi là trắng. Pháp có tội gọi là đen, pháp không tội gọi là trắng. Pháp không nên tu gọi là đen, pháp nên tu gọi là trắng. Pháp thấp kém gọi là đen, pháp thắng diệu gọi là trắng v.v… Người ấy đối với pháp đen trắng như thế, dùng chánh tuệ như thật để lựa chọn, lựa chọn tận cùng, tầm tư khắp, tìm xét khắp, tìm xét thật kỹ lưỡng. Đó gọi là có thể nhận biết đúng như thật về pháp đen trắng.
Có thể nhận biết đúng như thật về pháp có đối nghịch: Thế nào là pháp có đối nghịch? Nghĩa là tham, không tham đối nghịch nhau, sân giận, không sân giận, si mê, không si mê v.v… đối nghịch nhau, đó gọi là pháp có đối nghịch. Người ấy đối với pháp có đối nghịch như thế, dùng chánh tuệ như thật để lựa chọn, lựa chọn tận cùng, tầm tư khắp, tìm xét khắp, tìm xét thật kỹ lưỡng. Đó gọi là có thể nhận biết đúng như thật về pháp có đối nghịch.
Có thể nhận biết đúng như thật về pháp duyên sinh: Thế nào là pháp duyên sinh? Nghĩa là pháp duyên khởi và pháp duyên đã sinh, gọi chung là pháp duyên sinh. Người ấy đối với pháp duyên sinh như thế, dùng chánh tuệ như thật để lựa chọn, lựa chọn tận cùng, tầm tư khắp, tìm xét khắp, tìm xét thật kỹ lưỡng. Đó gọi là có thể nhận biết đúng như thật về pháp duyên sinh.
Người ấy nhận biết đúng thật về pháp thiện, pháp bất thiện v.v… nói rộng cho đến pháp duyên sinh, lúc nầy tác ý vô lậu hiện có tương ưng đối với pháp đều lựa chọn, lựa chọn kỹ lưỡng, lựa chọn tận cùng, nhân đấy đã hiểu rõ, cùng hiểu rõ, hiểu gần, thông đạt sáng tỏ thẩm xét tường tận, tuệ giác soi rõ hành Tỳ-bát-xá-na, gọi chung là tuệ, cũng gọi là tuệ căn, cũng gọi là tuệ lực, cũng gọi là giác chi trạch pháp, cũng gọi là chánh kiến. Đây là đạo tùy hành, đạo cùng có, đạo không chấp giữ, đạo vô lậu xuất thế của Phật tùy chuyển, có thể chính thức diệt hết các khổ, trụ nơi biên vực tận cùng của khổ. Các vị hữu học nơi các hành như đã thấy, nên tư duy quan sát khiến đạt đến cứu cánh. Ở trong các hành nên thấy sâu về các lỗi lầm tai họa của chúng. Đối với Niết-bàn luôn thấy rõ về công đức. Hoặc bậc A-la-hán như tâm giải thoát nên tư duy quan sát khiến đạt đến cứu cánh. Các tác ý vô lậu hiện có tương ưng đối với pháp đều lựa chọn v.v… nói rộng cho đến hành Tỳ-bát-xá-na. Đó gọi là giác chi Trạch pháp.
*
3. Thế nào là giác chi Tinh tấn?
Đáp: Nghĩa là như Đức Thế Tôn nói: Như các đệ tử Thánh:
a. Vì nhằm đoạn trừ các pháp ác bất thiện đã sinh, nên phát khởi những mong muốn (mong muốn), phát sinh sức siêng năng tinh tấn, thúc đẩy tâm, giữ vững tâm. b. Vì nhằm ngăn trừ các pháp ác bất thiện chưa sinh sẽ không sinh, nên phát khởi những mong muốn, phát sinh sức siêng năng tinh tấn, thúc đẩy tâm, giữ vững tâm. c. Vì khiến các pháp thiện chưa sinh được sinh, nên phát khởi những mong muốn, phát sinh sức siêng năng tinh tấn, thúc đẩy tâm, giữ vững tâm. d. Vì khiến các pháp thiện đã sinh được bền trụ, không quên, luôn tu đầy đủ, bội tăng rộng lớn đến trí tác chứng, nên phát khởi những mong muốn, phát sinh sức siêng năng tinh tấn, thúc đẩy tâm, giữ vững tâm.
Người ấy khi tu tập bốn Chánh thắng như thế, tác ý vô lậu hiện có đều tương ưng với các sức siêng năng tinh tấn, thế dụng mạnh mẽ, hăng hái tột bậc, khó ngăn cản, tâm ý luôn cố gắng không dừng, gọi chung là tinh tấn, cũng gọi là căn tinh tấn, cũng gọi là lực tinh tấn, cũng gọi là giác chi tinh tấn, cũng gọi là chánh cần. Đây là đạo tùy hành, đạo cùng có, đạo không chấp giữ, đạo vô lậu xuất thế của Phật tùy chuyển, có thể chính thức diệt hết các khổ, trụ nơi biên vực tận cùng của khổ. Các vị hữu học nơi các hành như đã thấy, nên tư duy quan sát khiến đạt đến cứu cánh. Ở trong các hành nên thấy sâu về các lỗi lầm tai họa của chúng. Đối với Niết-bàn luôn thấy rõ về công đức. Hoặc bậc A-la-hán như tâm giải thoát nên tư duy quan sát khiến đạt đến cứu cánh. Các tác ý vô lậu hiện có đều tương ưng với các sức siêng năng tinh tấn v.v… nói rộng cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giác chi Tinh tấn.
*
4. Thế nào là giác chi Hỷ?
Đáp: Nghĩa là như Đức Thế Tôn nói: Đại Danh nên biết! Nếu các đệ tử Thánh do tướng như thế theo đấy nhớ nghĩ đến chư Phật, gọi đây là Đức Thế Tôn, là Như Lai, A La Hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật – Bạc Già Phạm. Các đệ tử Thánh ấy khi dùng tướng như thế để nhớ nghĩ đến Phật, nên tham không trói buộc tâm, sân không trói buộc tâm, si không trói buộc tâm. Ở chỗ Như Lai tâm người ấy chánh trực, tâm chánh trực nên được uy lực của nghĩa, được uy lực của pháp. Ở chỗ Như Lai có thể dẫn phát niềm vui, vui nên sinh tâm hỷ, hỷ nên thân an, thân an nên thọ lạc, lạc nên tâm định, tâm định nên đối với các hữu tình bất bình đẳng được trụ nơi bình đẳng, đối với các hữu tình có não hại được trụ nơi không não hại, được dự vào dòng pháp. Ở chỗ chư Phật tu tập tùy niệm v.v… cho đến có thể chứng đắc Niết-bàn cứu cánh.
Lại nữa, Đại Danh nên biết! Nếu các đệ tử Thánh do tướng như thế theo đấy nhớ nghĩ đến chánh pháp. Nghĩa là chánh pháp của Phật đã khéo giảng nói, hiện thấy, không bức não, đúng thời, dẫn dắt, quán gần, người trí được nội chứng. Các đệ tử Thánh ấy khi dùng tướng như thế để nhớ nghĩ đến pháp, nên tham sân si không trói buộc tâm. Ở chỗ chánh pháp tâm người ấy chánh trực. Tâm chánh trực nên được uy lực của nghĩa, được uy lực của pháp. Ở chỗ chánh pháp có thể dẫn phát niềm vui. Vui nên sinh tâm hỷ. Hỷ nên thân an. Thân an nên thọ lạc. Lạc nên tâm định. Tâm định nên đối với các hữu tình bất bình đẳng được trụ nơi bình đẳng, đối với các hữu tình có não hại được trụ nơi không não hại, được dự vào dòng pháp. Ở chỗ chánh pháp tu tập tùy niệm v.v… cho đến có thể chứng đắc Niết-bàn cứu cánh.
Lại nữa, Đại Danh nên biết! Nếu các đệ tử Thánh do tướng như thế theo đấy nhớ nghĩ đến Tăng già. Nghĩa là các đệ tử Phật có đầy đủ hành diệu, hành ngay thẳng, thành thật, hành như lý, hành pháp tùy pháp, hành hòa kính, hành thuận pháp v.v… Lại, các đệ tử Phật có hướng Dự lưu, quả Dự lưu, có hướng Nhất lai, quả Nhất lai, có hướng Bất hoàn, quả Bất hoàn, có hướng A-la-hán, quả A-la-hán. Như vậy gọi chung là có bốn hướng bốn quả Bổ-đặc-già-la. Tăng già như thế có đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ, đầy đủ giải thoát, đầy đủ giải thoát tri kiến, nên được mời thỉnh, nên quy phục, nên cung kính, là phước điền vô thượng, đáng được thế gian cúng dường. Các đệ tử Thánh khi dùng tướng như thế để nhớ nghĩ đến Tăng già, nên không bị tham sân si trói buộc tâm. Ở chỗ Tăng già tâm người ấy chánh trực. Tâm chánh trực nên được uy lực của nghĩa, được uy lực của pháp. Ở chỗ Tăng già có thể khởi sinh niềm vui. Vui nên sinh tâm hỷ. Hỷ nên thân an. Thân an nên thọ lạc. Lạc nên tâm định. Tâm định nên đối với các hữu tình bất bình đẳng được trụ nơi bình đẳng, đối với các hữu tình có não hại được trụ nơi không não hại, được dự vào dòng pháp. Ở chỗ Tăng già tu tập tùy niệm v.v… cho đến có thể chứng đắc Niết-bàn cứu cánh.
Lại nữa, Đại Danh nên biết! Nếu các đệ tử Thánh do tướng như thế theo đấy nhớ nghĩ đến giới của mình. Nghĩa là tịnh giới của mình không hề thiếu sót, không có uế tạp, có thể thọ nhận cúng dường, không ẩn giấu, khéo rốt ráo, khéo thọ trì, bậc trí luôn khen ngợi, không hề chê trách. Các đệ tử Thánh ấy khi dùng tướng như thế để nhớ nghĩ đến giới của mình, nên không bị tham sân si trói buộc tâm. Ở chỗ tự giới tâm người ấy chánh trực, tâm chánh trực nên được uy lực của nghĩa, được uy lực của pháp. Ở chỗ tự giới có thể phát khởi niềm vui, vui nên sinh tâm hỷ, hỷ nên thân an, thân an nên thọ lạc, lạc nên tâm định, tâm định nên đối với các hữu tình bất bình đẳng được trụ nơi bình đẳng, đối với các hữu tình có não hại được trụ nơi không não hại, được dự vào dòng pháp. Ở chỗ tự giới tu tập tùy niệm v.v… cho đến có thể chứng đắc Niết-bàn cứu cánh.
Lại nữa, Đại Danh nên biết! Nếu các đệ tử Thánh do tướng như thế theo đấy nhớ nghĩ đến hành thí của mình. Nghĩa là ta nay khéo có được thắng lợi, tuy đang ở giữa các chúng sinh bị trói buộc do vô số cấu uế của tham lam keo kiệt, nhưng tâm luôn xa lìa nẻo xấu ác, có thể hành tuệ thí. Tuy ở tại gia, nhưng không tham đắm nơi tất cả tiền tài, vật báu, luôn rộng hành bố thí, tạo cúng tế lớn, cúng dường các bậc phước điền, ban thí đầy đủ, vui thích phân phát bình đẳng. Các đệ tử Thánh ấy dùng tướng như thế để nhớ nghĩ đến hành thí của mình, nên không bị tham sân si trói buộc tâm. Ở chỗ tự hành thí tâm người ấy chánh trực, tâm chánh trực nên được uy lực của nghĩa, được uy lực của pháp. Ở chỗ tự hành thí có thể khởi sinh niềm vui, vui nên sinh tâm hỷ, hỷ nên thân an, thân an nên thọ lạc, lạc nên tâm định, tâm định nên đối với các hữu tình bất bình đẳng được trụ nơi bình đẳng, đối với các hữu tình có não hại được trụ nơi không não hại, được dự vào dòng pháp. Ở chỗ tự hành thí tu tập tùy niệm v.v… cho đến có thể chứng đắc Niết-bàn cứu cánh.
Lại nữa, Đại Danh nên biết! Nếu các đệ tử Thánh do tướng như thế theo đấy nhớ nghĩ đến chư Thiên. Nghĩa là có trời Tứ Đại vương chúng, trời Ba Mươi Ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại v.v… Các trời như thế do đã thành tựu về tín, giới, văn, xả, tuệ, nên khi ở xứ nầy qua đời, được sinh trong các cõi trời ấy thọ hưởng diệu lạc. Nay ta cũng có các thứ tín, giới, văn, xả, tuệ, cũng sẽ được sinh lên các cõi đó, cùng với chúng chư Thiên đồng thọ hưởng diệu lạc. Các đệ tử Thánh ấy khi dùng tướng như thế để nhớ nghĩ đến chư Thiên, nên không bị tham sân si trói buộc tâm. Ở chỗ chư Thiên tâm người ấy chánh trực, tâm chánh trực nên được uy lực của nghĩa, được uy lực của pháp. Ở chỗ chư Thiên có thể sinh khởi niềm vui, vui nên sinh tâm hỷ, hỷ nên thân an, thân an nên thọ lạc, lạc nên tâm định, tâm định nên đối với các hữu tình bất bình đẳng được trụ nơi bình đẳng, đối với các hữu tình có não hại được trụ nơi không não hại, được dự vào dòng pháp. Ở chỗ chư Thiên tu tập tùy niệm v.v… cho đến có thể chứng đắc Niếtbàn cứu cánh.
Người ấy khi tu tập sáu pháp tùy niệm như thế, nên tác ý vô lậu hiện có tương ưng với tâm vui, rất vui, hiện tiền rất vui, tánh vui, loại vui, hợp ý, vừa ý, tánh hỷ, loại hỷ, thích hòa hợp, không biệt ly, hân hoan, tánh có thể đảm nhận công việc, phấn khích, tánh phấn khích, hoan hỷ, tánh hoan hỷ, gọi chung là Hỷ, cũng gọi là giác chi Hỷ. Đây là đạo tùy hành, đạo cùng có, đạo không chấp giữ, đạo vô lậu xuất thế gian của Phật tùy chuyển, có thể chính thức diệt hết các khổ, trụ nơi biên vực tận cùng của khổ. Các vị hữu học nơi các hành như đã thấy, nên tư duy quan sát khiến đạt đến cứu cánh. Ở trong các hành nên thấy sâu về các lỗi lầm tai họa của chúng. Đối với Niết-bàn luôn thấy rõ về công đức. Hoặc bậc A-la-hán như tâm giải thoát nên tư duy quan sát khiến đạt đến cứu cánh. Tác ý vô lậu hiện có tương ưng với tâm vui, rất vui v.v… nói rộng cho đến hoan hỷ, tánh hoan hỷ. Đó gọi là giác chi Hỷ.
HẾT – QUYỂN 8