49 NGÀY
SIÊU ĐỘ CHO THÂN NHÂN
NGHI THỨC & GIẢNG GIẢI
PHẦN PHỤ GIẢNG
Sau 49 Ngày
Khóa lễ siêu độ cho hương linh đã hoàn mãn.
Bàn Thờ:
Sau 49 ngày, dù cho hương linh đi về cảnh giới nào cũng vậy, không cần giữ bàn thờ đó nữa. Nếu người chủ lễ hoặc thân nhân của hương linh, vì hương linh mà tu tập mỗi ngày, và hồi hướng cho hương linh, thì dù ở bất kỳ một cảnh giới nào, hương linh cũng nhận được sự hồi hướng đó. Đây là việc làm ích lợi cho cả đôi bên.
Người chủ lễ tiếp tục việc tu tập hằng ngày sau 49 ngày, và giữ được trường chay thì tốt, còn nếu không giữ được trường chay, trở lại như cũ cũng vẫn không sao.
Đám Giỗ
Sau 49 ngày, để lưu niệm, thân nhân người quá cố có thể treo lên tường, hoặc đặt hình của người ấy ở một nơi nào đó trong nhà, tùy theo sự trang trí của mỗi nhà.
Mỗi năm, vào đúng ngày người đó qua đời (có người dùng ngày Dương Lịch, có người dùng ngày Âm Lịch, cách nào cũng được cả, miễn là tròn một năm), tất cả thân nhân, bạn bè quen biết của người quá cố, tề tựu lại, người đại diện sẽ có đôi lời nói về thân thế, về những sự đóng góp vào Gia Đình, vào Xã Hội, vào Quốc Gia của người quá cố. Cũng có thể nhắc lại những đức tánh, những việc làm tốt đẹp của người này khi còn sống.
Tất cả mọi người hiện diện trong ngày hôm ấy sẽ ăn chay, và đồng hành lễ Sám Hối, Trì Chú, Niệm Phật.
Sau cùng thì hồi hướng công đức tu tập của ngày hôm đó cho người quá cố.
Cứ mỗi người đem hết tâm thành của mình ra tu tập ngày hôm đó, công đức trao về cho người quá cố một phần, người đó hưởng sáu phần.
Nếu có 20 người tham dự buổi lễ, thì người quá cố sẽ được hưởng 20 phần công đức!
Đó là phương thức tưởng niệm hữu ích nhất cho người sống lẫn người chết.
Bên cạnh đó, nếu thân nhân quyết định hành việc Thiện để hồi hướng cho người đã mất, thì lại là một việc mang đến quá nhiều Phước Báu cho người đã mất.
Nói tóm lại: nghi thức đám giỗ cho hương linh, một năm sau đó, là ăn chay, sám hối, trì Chú, niệm Phật và làm điều phước thiện. Tất cả công đức đó hồi hướng cho hương linh, không phải rườm rà nấu nướng, cúng cơm, làm bàn thờ, lập bài vị gì hết.
Hương linh không trở về nữa để ăn đâu, dù đi bất kỳ một cảnh giới nào, cũng không trở về để ăn được. Về cảnh giới Người thì, đã trở lại làm người rồi, cũng không trở về ăn được. Về cảnh giới Trời, cũng vẫn không trở về để hưởng đâu. Nhưng, những công đức tu tập của thân nhân người quá cố, sẽ giúp cho hương linh ở tại cõi Trời hoặc cõi Người, được hưởng nhiều lợi lạc trong ngày hôm đó.
Nếu về Cực Lạc, là một việc khác nữa! Nếu hương linh về được Cực Lạc, sự tu tập của thân nhân của hương linh, sẽ giúp cho hoa sen của hương linh đó mau nở ra, do đó, lúc nào cũng lợi ích cho cả đôi bên.
Sự tu tập và hồi hướng của thân nhân hằng ngày, sẽ giúp cho hương linh gặp nhiều lợi ích như là may mắn, sức khỏe, được hưởng những thứ tốt đẹp ở cõi trần, nếu hương linh đó đã đầu thai làm người.
Nếu hương linh đó về cõi Trời, thì thọ mạng ở cõi Trời sẽ được kéo dài, nhờ ở công năng tu tập và hồi hướng của thân nhân cho hương linh.
Nếu hương linh đó được may mắn vãng sanh Cực Lạc, thì sự tu tập, hồi hướng của thân nhân sẽ giúp cho hoa sen càng mau nở.
Một thần thức được nhập liên hoa, có nghĩa là được vào trong hoa sen, thì sẽ ở trong đó để tu tập, gột rửa thân tâm của mình trong một thời gian; tùy theo mức độ tu tập của hương linh, mà hoa sen sẽ nở nhanh hay chậm. Nhưng, nếu có được sự ủng hộ, trợ giúp của thân nhân, hoa sen đó sẽ nở lẹ hơn.
Khi hoa sen nở ra, thần thức trong ấy sẽ càng ngày càng lớn, và có cơ hội để cùng với tất cả những thần thức khác tham dự những buổi nghe Pháp, được đi đảnh lễ các chư Phật trong mười phương. Vì vậy mà cần cho hoa sen được nở nhanh! Những người “đới nghiệp vãng sanh” Hạ Phẩm Hạ Sanh, phải mất thời gian rất lâu mới có thể gột rửa được thân tâm của mình. Cho nên, nếu được sự giúp đỡ của thân nhân, nhất là con cái của mình, hoa sen đó sẽ nở nhanh hơn. Khi hoa sen đã nở, thần thức trong ấy sẽ càng ngày càng lớn lên, việc tu tập càng tăng tiến, phẩm vị càng lên cao. Từ Hạ Phẩm Hạ Sanh, Thánh Chúng tiến lần đến Thượng Phẩm Thượng Sanh, chánh thức trở thành Bồ Tát của Cực Lạc, tham dự hết tất cả những công việc cứu độ chúng sanh của hàng Bồ Tát.
Tạo Phước Cho Hương Linh
Người chủ lễ và các thân nhân của vong linh nên làm tất cả mọi việc cho vong với tinh thần của Tứ Vô Lượng Tâm. Với tất cả Tâm Từ Bi Hỷ Xả, thay mặt cho vong mà bố thí, in Kinh, đúc tượng hoặc là giảng Pháp, hay làm bất kỳ một điều gì tạo nên công đức, hồi hướng lại cho vong, đều rất tốt đẹp và lợi lạc cho vong lẫn thân nhân. Trong thời gian 49 ngày, nếu vong được hưởng những công đức đó, xem như là vong có đủ đầy phương tiện để có thể ra đi ở một kiếp tới.
Muốn bố thí và hồi hướng cho người thân quá cố, chỉ có một điều rất là tốt đẹp, là hành sử Tứ Vô Lượng Tâm, Từ Bi Hỷ Xả; một lời tốt đẹp, một hành động tốt đẹp, cái gì tốt đẹp … cũng đều hồi hướng lại cho thân nhân, như vậy rất tốt.
Việc siêu độ cho một vong linh là một công hai việc: vừa giúp cho vong linh được siêu thoát, mà cũng vừa giúp cho bản thân của người chủ lễ được thăng hoa. Nếu việc siêu độ đó là một hành động xuất phát từ tấm lòng chân thật của mình, và vì một chúng sanh mà đem hết tấc dạ chân thành của mình ra để tạo điều An Lạc, vong linh cũng được hưởng, mà chính bản thân mình cũng được hưởng. Công đức đó, vong linh sẽ hưởng một, mà người chủ lễ sẽ hưởng được đến sáu phần. Cho nên, công đức đó không thể nghĩ bàn.
Lợi Ích Của Việc Siêu Độ Cho Vong Linh
– Nhờ có việc siêu độ vong linh, người đã tu tập, đã bước qua giai đoạn tập tểnh tu tập rồi, sẽ được gia tăng phước huệ.
– Nhờ có việc siêu độ vong linh, người chưa từng tu tập, có dịp bước vào việc tu tập, để rồi từ đó, làm đà cho những bước tiến nhảy vọt trong vấn đề tu tập.
Chúng sanh từ người giàu có cho đến người bần hàn, không ai thoát được cái chết cả. Ngày hôm nay mình siêu độ cho một người, ngày sau người khác sẽ siêu độ cho mình. Nếu mình không đem tấc dạ chân thành để siêu độ cho người, thì sẽ khó có người đem tấc dạ chân thành để siêu độ cho mình. Đó là nguyên tắc chánh yếu, thường tình, không thoát đâu được hết.
Cho nên, dù có muốn bước vào việc tu tập, hay chưa muốn bước vào việc tu tập, vẫn phải hiểu rằng, trước sau gì tôi cũng phải đi vào con đường tử vong. Đã có sinh thì phải có tử. Khi tôi chạm mặt với cái chết, nếu tất cả mọi người đều cùng mang một ý nghĩ như tôi là sống chết mặc ai, thì như vậy, ai sẽ là người giúp siêu độ cho tôi?
Vì vậy mà tôi phải nhớ rằng: việc bước vào con đường tu tập là một việc đương nhiên, không tránh khỏi, vì kẻ đi trước, người đi sau. Không bước vào con đường tu tập, sẽ không có dịp làm quen đến vòng nghiệp lực, đến việc làm sao phá được vòng nghiệp lực, làm sao để tiêu trừ được nghiệp chướng. Tất cả những việc đó đều có liên quan đến Tâm – Ý – Tánh. Hiểu được một cách sâu sắc vòng nghiệp lực, là tự mình trui rèn con người của mình, để tự biến cải mình, từ xấu hóa tốt, từ tốt ít biến thành tốt hơn, để rồi từ đó, có cơ hội đi lên.
Cho nên, việc siêu độ cho một vong linh, là cửa ngõ giúp cho mình bước vào con đường tu tập, và hiểu được rằng, việc tu tập rất là quan trọng và cần thiết cho bất kỳ một người nào. Một nguyên tắc chánh yếu cần phải ghi nhớ là, mình có làm cho người thì người mới làm cho mình! Nếu mình từ chối người thì người sẽ từ chối mình! Do đó, nhân và quả như bóng với hình, không bao giờ rời nhau nửa bước. Vì vậy đừng kinh sợ, đừng hoảng hốt khi nghe đến hai chữ tu tập. Thật sự ra, nó đem lại cho mình bao nhiêu điều lợi ích, trên đường Đời lẫn đường Đạo.
Sự tu tập giúp cho mình được an nhiên tự tại trong cuộc sống, rồi một mai mình bỏ thân xác ra đi, mình cũng sẽ thăng hoa một cách dễ dàng. Sự tu tập cũng giúp cho mình có được cơ hội giúp người, để cho người có thể được thăng hoa. Người thăng hoa mà mình cũng thăng hoa, vì công đức mình hưởng đến sáu phần, công đức của người mình siêu độ chỉ có một phần mà thôi. Cho nên điều này có lợi chớ không bao giờ có hại. Vì vậy, những điều hiểu biết của mình trong vấn đề siêu độ, đem ra phổ biến cho người này người kia để cùng nhau tu tập, cùng nhau biết cách siêu độ, đó là một điều rất tốt. Cũng là thuộc trong Tứ Vô Lượng Tâm!
Người đời thường nói: “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người.”
Siêu độ cho một vong linh là cứu Thân Huệ Mạng của thần thức. Điều này còn quan trọng hơn cả cứu thân người nữa. Thân người dù có thương tích đầy mình, dù có gặp hiểm nguy, nếu được thuốc hay thầy giỏi, việc lành lặn cũng chỉ mất thời gian.
Đối với một vong linh, sở dĩ không siêu thoát là do Trí Huệ bị lu mờ, đôi khi rơi vào cảnh giới tối tăm, không thể tháo gỡ vướng mắc của mình.
Trí huệ ví tựa ngọn đèn; ngọn đèn đã tắt hay chỉ còn mờ ảo, vong linh phải quờ quạng mà đi, tìm đâu ra được nẻo đúng đường ngay?
Vong linh biết rằng tôi phải đi về hướng đó, nhưng hiện giờ còn bị kẹt lối trong đám rừng già, quanh đi ngoảnh lại chỉ một màu đen, thì nẻo đường vong muốn tiến tới, biết đến bao giờ tìm ra phương hướng?
Siêu độ cho vong linh là giúp cho vong linh thắp sáng lại ngọn đèn Trí Huệ của mình, phá tan bóng đêm, tìm ra phương hướng mà mình muốn đến.
Người chủ lễ thành tâm đem hết Đạo Lực cùng Tâm Lực của mình để giúp cho một thần thức, từ cảnh giới Đọa lên đến cảnh giới Người, và thậm chí, nếu người đó gia sức lên thì cũng có thể đưa lên đến cảnh giới Trời hay cảnh giới Phật được. Đó là một công đức không thể nghĩ bàn, vì đã giúp cho một thần thức từ dưới vực sâu lên đến núi cao.
Không có người chủ lễ, nghi thức dù có hay đến mấy, cũng vẫn không giúp được gì cho hương linh đâu! Vì vậy, cần phải kêu gọi mọi người, nên vì hương linh mà tu tập, để rồi sau đó, có thể làm điều lợi lạc cho cả đôi bên.
Thật ra không phải mình giúp không cho vong linh đâu, mà chính là, mình vừa giúp cho vong linh, vừa hưởng được lợi lạc, và cũng chính mình chuẩn bị cho người khác giúp mình trong tương lai, khi mình đối diện với cái chết.
Đây cũng là cách duy nhất để giúp cho một người con, làm tròn được chữ hiếu của mình đối với cha mẹ đã mất đi. Chỉ có con cái, mới có thể có đủ một lực rất mạnh, để đưa cha mẹ của mình, hay ông bà của mình về được một cảnh giới tốt đẹp, vì đó là một tình cảm chân thành xuất phát từ Tâm! Vì vậy, nếu người con đã sẵn biết tu tập, tức là đã có được một đạo lực rồi, bây giờ cộng thêm với Tâm Lực nữa, thì đó là một điều quá tốt đẹp.
Nhưng, nếu người con chưa biết tu tập, chỉ có một Tâm Lực mạnh mẽ mà thôi, thì vẫn được như thường, và đây là một dịp để cho người đó bước vào đường tu tập vì cha mình, vì mẹ mình, vì ông bà của mình, thì lợi lạc cho cả đôi bên.
Sau 49 ngày, người phát tâm siêu độ sẽ tìm thấy được một sự thay đổi lớn lao trong cuộc đời của mình, nhưng phải với một điều kiện tiên quyết là có một Tâm Lực vô cùng mạnh mẽ.
Siêu Độ Cho Thân Nhân Bị Đọa Tam Đồ
Địa Ngục
Nếu một vong linh, nhờ một duyên may nào đó, chợt hiểu ra rằng, do mình đã gây tạo ra điều không lành, nên bị đọa vào địa ngục, tức khắc Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ hiện đến. Ngài giúp cho vong linh đó 3 cơ hội để báo mộng cho thân nhân, hoặc người quen biết nào, có khả năng giúp cho vong được siêu thoát.
Trong trường hợp này, không làm chay siêu độ cho vong linh như người mới mất đâu. Thân nhân của vong linh đó cũng phải đem hết tất dạ chân thành, lòng thương yêu tha thiết đặt vào một Tâm Lực vững mạnh, nếu người đó không biết tu tập.
Thân nhân biết tu tập thì Đạo Lực của họ phải hợp với Tâm Lực, sẽ nhân danh vong linh đang ở trong địa ngục, mà sám hối một cách chân thành tha thiết.
Sám Hối là điều vô cùng … vô cùng quan trọng, không cần lời Kinh, chỉ cần lời sám hối chân thành.
Và cũng trong 49 ngày, tha thiết sám hối và tu tập, giữ giới, phát nguyện trường chay, vì hương linh đang bị đọa đày đó mà tu tập, và hồi hướng cho hương linh đó. Đồng thời cũng phải giảng Pháp cho vong linh nghe. Vong linh không thể nào về theo như mình triệu thỉnh được, nhưng những lời người chủ lễ nói ra, vong linh vẫn cảm nhận được. Sự tha thiết, sự chân thành của người chủ lễ sẽ khiến cho vong linh hiểu được và rung động, địa ngục tức khắc sẽ tiêu tan, khi đó, hương linh sẽ được ung dung tự tại ra đi theo nghiệp kế tiếp của mình.
Hai nghi thức này thật ra đều giống nhau vì cùng có chung phần sám hối, tuy nhiên, vong đang ở địa ngục thì không thể triệu thỉnh được và cũng không có phần vật thực, chỉ có Pháp thực mà thôi.
Cảnh giới lang thang vất vưởng là cảnh giới mà vong bị đọa, không thoát ra được. Đó cũng chính là địa ngục của vong linh.
Nếu người chủ lễ, trong giấc mộng thấy được người thân, hay người quen biết của mình ở trong cảnh giới lang thang vất vưởng, thì phải hiểu rằng: vong linh đang bị đọa địa ngục và khi siêu độ cho vong linh sẽ không thể nào triệu thỉnh vong linh về được.
Triệu thỉnh chỉ được đối với vong vừa mới mất, còn trong thời hạn 49 ngày mà thôi.
Vong đã mất lâu rồi thì không thể triệu thỉnh được đâu!
Điều đáng ghi nhận là, chỉ có vong mới mất (còn trong thời hạn 49 ngày), là mới có thể hoán chuyển từ ở kiếp đọa đày này bước sang cảnh giới khác.
Nếu trung ấm thân báo cho biết rằng vong bị đọa đày,1 nhưng nhờ sự giúp đỡ chân thành của người chủ lễ, cũng có thể khiến cho vong từ đọa đày tiến lên cảnh giới Người hay cảnh giới Trời.
Vong đã bị đọa lâu trong địa ngục, tức là thời gian đặc ân 49 ngày đã qua rồi, sẽ không thể nào hoán chuyển cảnh giới được. Thân nhân của người chết phải hiểu rõ, đó là điều rất quan trọng! Muốn làm bất kỳ điều gì giúp cho vong, phải trong vòng 49 ngày. Quá 49 ngày thì phải theo một nghi thức siêu độ khác và với nghi thức đó, khi vong đã cảm nhận được rồi, vong sẽ theo nghiệp kế tiếp của mình mà đi. Không thể nào nói rằng có thể hướng dẫn cho vong về cõi Trời hay cõi Phật được.
Có những người tự bản chất của họ, luôn luôn, lúc nào cũng Sân Hận, mang một nỗi Sân Hận triền miên, không tháo gỡ được. Cái Sân Hận đó, hoặc là do ở tánh Sân của người đó không sửa đổi, hoặc là do họ bị vướng mắc vào một việc nào đó khiến họ phải Sân; cái độ Sân đó rất là cực mạnh. Khi họ hắt hơi, chắc chắn rằng họ bị thác sanh vào Ngạ Quỷ. Ngạ Quỷ hay Súc Sanh cũng vẫn là một cái “địa ngục.”
Thần thức nằm trong Súc Sanh tối mò mò, không nhìn thấy được bất kỳ một hướng đi nào cả. Thần thức ở trong Ngạ Quỷ vẫn còn sáng hơn loài súc sanh, nhưng bị lôi kéo bởi cái Sân. Cái Sân đó phải nói là một cái Sân không diễn tả được. Cho nên thần thức cũng không nhận ra được rằng, mình phải làm như thế nào để thoát được cái lốt Ngạ Quỷ mà mình đang mang. Đó cũng là địa ngục của mình! Thần thức ở trong Ngạ Quỷ phải làm sao để hạ cái Sân xuống, làm cho tiêu lần cái Sân đi.
Muốn hạ cái Sân, bắt buộc phải dùng ngọn đèn Trí Huệ để đốt nó; mà muốn có ngọn đèn trí huệ thì phải làm sao?
Phải sám hối, sám hối rất là nhiều!
Một người Sân Hận, khi còn tại thế, rất dễ dàng làm chuyện sai lầm, vì quá Sân nên không nhận chân ra được rằng, mình đã làm chuyện này sai, mình đã làm chuyện kia sai, và đã tạo ra quá nhiều nghiệp chướng với kẻ khác. Cho nên, việc đầu tiên là phải sám hối, cực kỳ sám hối!
Người chủ lễ muốn giúp cho một thần thức đọa Ngạ Quỷ, phải đem hết tâm lực của mình, thậm chí đến khóc được để sám hối giùm cho thần thức đó. Khi đã sám hối rồi, phải trì Chú và niệm Phật để cho thần thức đó được sáng lên … sáng lên, để đốt được lửa Sân. Dùng lửa Trí Huệ của câu Chú và lời niệm Phật để đốt ngọn lửa Sân.
Sau cùng là giảng Pháp cho thần thức nghe, phải xoay quanh vấn đề Sân Hận rất … rất là nhiều. Phải giúp sao cho thần thức đó bỏ xuống cái sân hận. Nếu người chủ lễ biết được tâm tình của người đã mất thì rất là tốt, rất là dễ dàng để khuyên lơn thần thức đó. Còn nếu không biết được, việc giảng Pháp phải xoay quanh vấn đề Sân Hận, vấn đề Tâm Bình. Phải bỏ cái sân hận xuống, giữ cho được tâm bình, và phải giảng về vấn đề Nghiệp Lực. Chính vì cái sân hận mà thần thức đó khi còn sống đã tạo quá nhiều nghiệp chướng. Cũng phải nói về Tâm – Ý – Tánh, vì cái tánh sân hận, cho nên cái tâm không lành, nảy sanh các ý tưởng hại người, do đó phải sửa đổi.
Tóm lại là phải giúp thần thức ở trong cái lốt Ngạ Quỷ đó tu tập, như vậy mới thoát ra khỏi cái lốt Ngạ Quỷ của mình được.
Phân biệt: Vong bị đọa địa ngục – vong lang thang – vong không siêu thoát.
Vào phút lâm chung, nếu hơi ấm cuối cùng tụ vào 2 bàn chân, đó là dấu hiệu cho biết thần thức sẽ bị đọa vào Địa Ngục. Nếu không được siêu độ đúng cách, sau 49 ngày, vong linh sẽ theo đúng nghiệp đọa địa ngục của mình mà đi.
Nghiệp lực nào khởi sắc nhất, mạnh mẽ nhất trong tất cả nghiệp lực của vong linh, sẽ hiện ra địa ngục, với vô số khổ đau có liên quan đến nghiệp lực đó. Vong linh sẽ chịu những đọa đày trong cái địa ngục Nghiệp Lực của chính mình tạo nên.
Những vong lang thang cũng vẫn là bị đọa vào Địa Ngục Lang Thang của họ.
Nếu vong linh không bị đọa Tam Đồ, nhưng không được siêu độ đúng cách để đi đúng cảnh giới, vong linh không siêu thoát được, bỗng nhiên trở thành vất vưởng, giống như người không nhà vậy. Họ cứ lẩn quẩn mà không biết phải đi về đâu. Họ không thể nào tìm được hướng đi đúng.
Đó là những vong linh, phải nói một cách rõ ràng rằng, bị đọa đày một cách oan uổng. Đúng lý ra họ cũng dễ dàng siêu thoát, nhưng vì thiếu sự dẫn dắt, nên bỗng dưng trở thành vất vưởng, nay đây, mai đó.
Giúp cho vong linh tu tập, người của cõi Ta Bà sẽ bớt được tánh hung hãn và sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Một vong linh được dạy dỗ đúng mức, được chỉ vẽ tận tường tất cả mọi việc, đúng sai phải trái, nên hay không nên, sẽ rất lợi lạc cho thân xác mới mà vong linh thác sanh vào. Cho nên, giúp đỡ cho vong linh, là giúp đỡ cho người trên Dương Thế được tốt đẹp hơn!
Ở vào phút lâm chung, trên thân thể của người quá cố, nếu hơi ấm cuối cùng tụ vào ở hai đầu gối, thân nhân có thể đoán biết rằng người này bị đọa vào SÚC SANH.
Nếu việc siêu độ trong 49 ngày không được hành trì đúng cách, vong linh đó sẽ theo nghiệp đọa Tam Đồ của mình mà đi.
Vong linh bị đọa vào SÚC SANH, chắc chắn rằng có dính líu rất nhiều đến chữ Si, cho nên trí huệ gần như tối đen, vô phương vùng vẫy. Thần thức của vong linh đó cảm nhận được hết tất cả những sự ràng buộc, sự đau khổ, sự sợ hãi, sự khó khăn của con vật đang dung chứa thần thức đó.
Rồi thì con vật mãn kiếp, thần thức thoát ra ngoài, nếu kiếp đọa đày chưa chấm dứt, thần thức lại bước vào một con vật khác, đúng với lời Kinh Địa Tạng đã nói: “địa ngục này hoại thì bước vào địa ngục khác.”
Thân xác của con vật chính là cái địa ngục giam cầm thần thức đó. Có điều rằng: một thần thức ở trong cái địa ngục của chính mình, vẫn còn dễ thở hơn là ở trong cái địa ngục là một súc sanh.
Bị đọa Địa Ngục hay Ngạ Quỷ, còn có thể báo mộng cho thân nhân được. Thần thức đã ở trong súc sanh rồi thì vô phương, không làm gì được hết, vì chung quanh là một màu tối đen, thần thức không biết được gì hết, khó lòng báo mộng!
Người sống phải làm sao đây khi không biết được rằng thân nhân của mình có SIÊU THOÁT được hay không?
Các trường hợp sau đây cần phải ghi nhận:
A. Nếu hơi ấm sau cùng tụ lại ở hai đầu gối của người vừa mãn phần, tức là dấu hiệu bị đọa súc sanh.
Thân nhân phải nỗ lực siêu độ trong suốt 49 ngày đặc ân này.
Dù biết tu tập hay chưa tu tập, chính thân nhân phải nên đem hết Tâm Lực, Tâm Thành của mình để siêu độ cho vong linh, giúp cho vong linh dốc lòng tu tập, đặc biệt là sám hối thật nhiều, thật tha thiết.
Khi giảng Pháp, chú trọng nhiều về NHÂN QUẢ, về THAM – SÂN – SI, về NGHIỆP LỰC; nhấn mạnh đến sự MÊ ĐẮM của vong linh khi còn sống, đưa đến việc hủy hoại đi Trí Huệ của mình và gây tạo quá nhiều nghiệp chướng.
Sự tận tâm, tận lực của người chủ lễ trong suốt thời gian 49 ngày siêu độ, có thể giúp được cho vong linh thoát khỏi cảnh giới súc sanh (còn trong thời gian 49 ngày đặc ân, làm đúng theo nghi thức siêu độ).
B. Biết được rằng vong linh bị đọa súc sanh (qua dấu hiệu của hơi ấm cuối cùng), nhưng đã qua 49 ngày rồi, tức là thời gian đặc ân để hoán chuyển cảnh giới không còn nữa.
Nếu muốn siêu độ cho vong linh này, vị chủ lễ cũng phải đem hết Tâm Thành, làm tất cả nghi thức siêu độ, chỉ trừ có phần nhập vị, phần triệu thỉnh và cúng cơm cho vong linh. Bàn thờ vong vẫn phải có với hình của vong linh để người chủ lễ dễ dàng quán tưởng khi giảng Pháp.
Người chủ lễ sẽ vì hương linh mà sám hối, vì hương linh mà trì Chú, vì hương linh mà niệm Phật, và cũng vì hương linh mà giảng Pháp để giúp cho cái tối đen ở trong súc sanh đó được sáng lên, bật ngọn đèn Trí Huệ để thần thức đó thấy được mờ mờ sự vật chung quanh mình, nhưng vẫn không thể thoát ra được, còn phải chờ cho tới khi con vật đó chết đi (vì nó có thời gian sống của nó), thì thần thức mới thoát ra được.
Khi đã thoát ra khỏi thân xác của súc sanh, thần thức đó thay vì tối mò như người mù, không thấy đường đi, thì bây giờ, nhờ việc siêu độ mà thần thức đã thấy mờ mờ con đường mình đi rồi. Những vướng mắc mà thần thức đã lôi kéo theo, cũng được nhẹ nhàng, nhẹ nhàng buông bỏ xuống. Thần thức biết được rằng: tôi sẽ phải đi về hướng nào để tìm chỗ thác sanh.
Khi hành trì việc siêu độ cho thần thức ở trong súc sanh, người chủ lễ chỉ cần khấn tên họ, ngày tháng năm sanh, ngày tháng năm mất, bao nhiêu tuổi (lúc mất). Mỗi lần làm lễ, đều kêu tên họ của thần thức.
Thí dụ:
– Thần thức Nguyễn Văn A hãy cùng chủ lễ sám hối, tha thiết chân thành sám hối những tội của mình…
– Thần thức Nguyễn Văn A hãy cùng chủ lễ trì Chú, nhất tâm trì Chú để đốt sáng lên ngọn đèn trí huệ của mình.
– Thần thức Nguyễn Văn A hãy cùng chủ lễ niệm Phật, thành tâm niệm Phật, một lòng quy hướng Phật, cầu xin Phật thương xót phóng hào quang tiếp dẫn thần thức mau thoát kiếp đọa tam đồ…
– Thần thức Nguyễn Văn A hãy lắng nghe lời giảng Pháp, thâm nhập lời Pháp, trí huệ bừng sáng mới mong thoát khỏi tam đồ.
Tuy rằng ở trong súc sanh, toàn một màu đen tối, thần thức vẫn rung động, vẫn giao cảm được với người chủ lễ, nếu vị này hết dạ chân thành, mong muốn giúp đỡ cho thần thức thoát được sự đọa đày và sáng suốt nhận ra được hướng đi kế tiếp của mình.
Khi giảng Pháp, nên đặt hình của vong linh ở trước mặt để dễ dàng quán tưởng, cứ nhìn hình mà giảng Pháp, mà nói chuyện, y như nói với người còn sống vậy.
Người bị đọa vào trong Súc Sanh, nguyên nhân chánh yếu chính là Mê, từ đó kéo đến chuyện Si, tức là không còn cái trí huệ nữa. Cái Mê nơi đây là một sự đắm chìm vào những điều không đúng, không tốt.
Thí dụ: mê cờ bạc, mê sắc dục, mê tiền, mê danh lợi, mê rượu chè, mê hút sách, v.v…
Những điều làm cho con người càng ngày càng lụn lần, càng nặng nề, không vượt lên cao được. Từ cái Mê mới đưa đến cái mù quáng, cái mù quáng đó là gì? Chính là làm mà không suy nghĩ, làm mà không hiểu rằng tại sao mình làm. Tức là đi đến cái Si.
Khi giảng Pháp cho một thần thức nằm trong Súc Sanh, phải cắt nghĩa cho thần thức đó biết được cái lỗi lầm của mình lúc còn sống, là mình đã quá đắm chìm vào trong những điều không đúng. Mà những điều không đúng đó xuất phát từ đâu? Nó xuất phát từ ở cái Dục. Dục Lạc quá nhiều, không phân biệt được cái Dục nào cần thiết cho sự tăng tiến của mình và những cái Dục nào làm cho mình càng ngày càng lụn bại. Chính cái Dục Lạc đó đã khiến cho mình trở thành một con người, không còn cái tư cách của một con người nữa. Việc mê đắm dục lạc đã đưa mình đến chỗ tâm trí không còn sáng suốt, đầu óc tối đen, giống như người bị mất đi căn thức, thân thể cử động nhưng không có căn thức, sẽ không khác gì một người máy, chỉ biết cử động mà không có sự suy nghĩ. Cho nên tất cả mọi thứ đều rơi vào một lỗ hổng tối đen.
Dục Lạc tự bản thân nó không có xấu.
Đơn cử một thí dụ sau đây:
Mọi người trong gia đình đều muốn có một cuộc sống thơ thới, êm ả, cho nên tự tiết giảm cái Dục riêng của mình, để tạo nên cái Dục Lạc chung cho tất cả mọi người trong gia đình. Đó chính là việc tạo dựng một Hạnh Phúc. Hạnh phúc gia đình chính là một Dục Lạc.
Tại sao gọi nó là Dục Lạc?
Từ ngữ Hạnh Phúc diễn tả sự mong muốn đem lại niềm An Lạc, sự thoải mái, dễ chịu cho tất cả mọi người. Cái Dục Lạc đó là một cái Dục Lạc chấp nhận được!
Nếu cũng là Hạnh Phúc, nhưng chỉ cho riêng bản thân mình, mà bất cần sự đau khổ của kẻ khác, thì cái hạnh phúc đó vẫn không chấp nhận được.
Người Si Mê luôn luôn nghĩ đến bản thân mình, họ hành sử rất nhiều hai chữ Dục Lạc, nhưng chỉ riêng cho bản thân mình, mà không hề nghĩ đến kẻ khác.
Dục Lạc mà chỉ nghĩ cho riêng bản thân mình, sẽ dễ dàng biến thành ra Si Mê. Một người đắm chìm trong Si Mê, Trí Huệ chẳng những bị lu mờ, mà còn tắt hẳn luôn ngọn đèn Trí Huệ. Vì vậy mà Tâm thức không còn sáng nữa. Khi Tâm thức không còn sáng, làm sao có thể phân định được việc đúng hay việc sai, việc nên hay không nên? Chỉ làm như cái máy, làm để thỏa mãn cái Dục Lạc của mình, cái Hạnh Phúc cho riêng bản thân mình. Vì vậy, cái bản chất đó, cái tính cách đó, đã khiến cho người này tạo biết bao nhiêu nghiệp chướng và sẽ phải nếm biết bao nhiêu bài học trong tương lai.
Giảng Pháp cho một thần thức nằm trong Súc Sanh là phải giảng cho thật kỹ càng hai chữ Si-Mê, phải nói rất nhiều về Lục Dục Thất Tình (hỷ, nộ, ái, ố, ai, bi, dục lạc), vì Dục Lạc nằm trong Lục Dục Thất Tình. Và chắc chắn rằng, thần thức này cũng phải được biết qua về Nhân Quả, về Nghiệp Lực và về cái Tánh của mình. Mà nói về cái Tánh là luôn luôn dính liền với cái Tâm và cái Ý. Không có bất kỳ một thần thức nào bị đọa vào Tam Đồ, mà không có liên quan đến Tâm – Ý – Tánh.
C. Hoàn toàn không biết được thân nhân mãn phần của mình có siêu thoát được hay không và đã thác sanh về đâu?
Nếu người còn sống chí thành tu tập, làm muôn điều tốt đẹp, hằng ngày đem công đức tu tập của mình, đem phước huệ của mình thu thập được, hồi hướng lại cho thân nhân quá cố, thì dù cho thân nhân vẫn còn bị đọa đày nơi chốn Tam Đồ, nhưng nhờ sự hồi hướng này mà tìm lại ánh sáng Trí Huệ, chờ đợi ngày mãn kiếp của Súc Sanh, thần thức thoát ra ngoài, và với một chút Trí Huệ có được, với Công Đức do thân nhân còn sống tu tập và hồi hướng cho, thần thức sẽ dứt kiếp đọa đày và biết được hướng đi kế tiếp của mình để thác sanh.
Nếu thân nhân quá cố đã về một cảnh giới tốt đẹp, như cõi Trời hay cõi Người, thì việc mình tu tập cũng không có gì là bỏ sông bỏ biển cả. Nếu thân nhân mình được thác sanh về cõi Người, thì công đức mà mình hồi hướng đó, sẽ giúp cho thân nhân mình được tốt đẹp hơn, nói nôm na là giàu có thêm. Ngoài ra, nếu mình tu tập và cũng luôn nguyện cầu cho thân nhân của mình, gặp được Thiện Tri Thức dẫn dắt, và cũng biết tu tập để có thể thăng hoa, thì đó lại là một chuyện rất … rất tốt!
Siêu Độ Cho Người Tự Tử
Một người đã đi đến quyết định tự tử, hành động đó nói lên được rằng: bản thân người này đã mang quá nhiều uẩn khúc trong lòng. Người này xa lìa trần thế, kéo theo một toa xe nặng trĩu SÂN HẬN, nặng trĩu KHỔ ĐAU, ngập tràn NƯỚC MẮT, đầy dẫy OÁN HỜN. Chỉ có thân nhân ruột thịt, hay bạn bè thâm giao, mới có thể thấu hiểu được một phần nào nỗi đau đớn, vày vò của người quá cố, khi họ còn tại thế; và nguyên nhân nào đã khiến cho người này tự kết liễu cuộc đời mình.
Do đó, thân nhân hãy tự mình, đem hết Tâm Thành, đem hết Tình Thương Yêu sâu đậm để siêu độ cho người quá vãng, không nên nhờ ai hết!
Chỉ có thân nhân mới giao cảm được với vong linh và giúp cho vong linh thoát được địa ngục do chính mình tạo ra. Người tự tử mang theo biết bao nhiêu nghiệp lực chưa thanh toán xong, chính những nghiệp lực này, tạo thành một địa ngục kiên cố, bao chặt lấy vong linh, do đó, việc vong linh thác sanh trở lại kiếp Người, không phải là việc đương nhiên đâu!
Muốn cho vong linh trở lại cõi Người, thân nhân phải giúp đỡ cho vong rất nhiều, kể cả công sức của chính vong linh nữa thì mới được.
Trong suốt 49 ngày, mỗi ngày thân nhân phải thỉnh vong về để cùng làm lễ Sám Hối, vì chỉ có sám hối mới làm cho tiêu bớt nghiệp chướng mà thôi. Sau đó thì trì Chú, niệm Phật và sau cùng là giảng Pháp.
Lời Pháp sẽ giúp cho vong bừng sáng, nhận ra những điều sai trái của mình, vong xả bỏ những sân hận, phiền não, chăm lo tu tập, vong được nhẹ nhàng cất bước tìm đường thác sanh.
Tuy nhiên, không thể mong mỏi một cuộc đời sắp tới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn đâu.
Vong từ cảnh giới địa ngục, bước qua được cảnh giới Người, là một việc đòi hỏi rất nhiều sự chân thành hết dạ sám hối ăn năn. Muốn nguyện cầu cho vong có sự an bình, ít phiền não trong kiếp vị lai và nhất là được sanh ở một nơi có Phật Pháp, gặp được Thiện Tri Thức để dẫn dắt tu tập, việc đó trông chờ rất nhiều… rất nhiều vào công năng tu tập của chính thân nhân, đem công đức tu tập của mình, đem hạnh bố thí của mình mà hồi hướng cho vong linh, cả hai đều cùng lợi lạc cả.
Thân nhân nên chịu khó đọc các bài Pháp nói về: Nhân Quả, Nghiệp Lực, Tự Ái, Tham Sân Si, Nghiệp Chướng Nền Tảng, Địa Ngục Của Mỗi Chúng Sanh … để có đủ ý tưởng mà nói chuyện với vong linh, khuyên giải vong linh xả bỏ tất cả phiền não, sân hận và thành tâm sám hối, trì Chú, niệm Phật, để cho được nhẹ nhàng, mới có thể siêu thoát được.
Với một tình yêu thương sâu đậm, dạt dào dành cho người quá cố, thân nhân đem hết tình cảm thiết tha đó để vào từng lời khấn nguyện, từng lời Kinh sám hối, từng lời khuyên tha thiết, để hương linh sớm nhận chân ra được những điều lầm lỗi của mình khi còn sống, hương linh sẽ chân thành sám hối ăn năn, thần thức rung động, hương linh sẽ nhẹ nhàng cất bước.
Trong phần giảng Pháp cho hương linh, thân nhân sẽ lần lượt đề cập đến những điểm sau đây:
1. Tự tử là một hành động gây tạo bởi Nhân và Quả.
Trong quá khứ (tiền kiếp), một người đã gây tạo nhiều sân hận, nhiều đau khổ cho kẻ khác, đã khiến cho kẻ đó phải rơi lệ, phải uất ức và nhất là không biện bạch được, cho đến nỗi kẻ đó phải dùng cái chết của mình để minh bạch nỗi oan tình.
Cái Quả nhận được ngày hôm nay, cho người đã gây tạo một cái Nhân không lành trong quá khứ, là đón nhận hết tất cả những nỗi đớn đau mà mình đã từng áp đặt lên kẻ khác. Mình cũng lại được nếm cái hương vị đắng cay của việc “có miệng mà chẳng thốt nên lời,” đưa đến một sự uất ức vô cùng cực, dẫn đến việc hủy hoại mạng sống của mình.
2. Tất cả những cảnh huống mà người quá cố đã gặp phải, đã đối diện, đều là kết quả của việc người này đã gieo đau khổ cho kẻ khác trong quá khứ.
3. Cái Nhân không lành mà người quá cố đã gieo trong quá khứ, đã tạo nên một nghiệp không lành, đó chính là Nghiệp Sát trong quá khứ.
Tuy rằng người này không trực tiếp giết hại người, nhưng những điều mà họ gieo rắc cho kẻ khác, đã khiến kẻ đó tức tưởi mà Tự Sát. Trách nhiệm đó, người này vẫn bắt buộc phải gánh vác.
4. Việc dễ dàng làm đau đớn kẻ khác, xuất phát từ cái Tánh Ngã Mạn, thiếu Từ Bi, thiếu sự Để Tâm và Bất Cần. Chính cái Tánh quá lẫy lừng đó trong quá khứ, đã trở thành tập khí cho cuộc đời ngày hôm nay, lúc nào cũng chiêu cảm những nghiệp không lành, đem đến nhiều nghịch duyên cho người quá cố.
5. Chính cái Nhân không lành của quá khứ đã tạo nên một TỰ ÁI xoay quanh sự khổ đau, sự oan ức, sự dễ sân hận, dễ bực tức … Bất kỳ một hành động, một sự việc gì có liên quan đến những điều trên, sẽ khiến cho TỰ ÁI nổi lên và người quá cố sẽ vô cùng tủi thân và nghĩ ngay đến cái chết.
6. Người tự tử phải hiểu rõ tư cách của người sống trên dương thế.
Phải nhận chân ra rằng, việc được làm Người là một duyên rất lớn, không thể tự ý hủy bỏ cuộc đời mình, chỉ vì mình nhận được trái không ngon, không ngọt, không tốt đẹp. Từ chối quyền sống của mình, là một hành động không được chấp nhận trên phương diện Bổn Phận và Trách Nhiệm buộc ràng với Gia Đình, với Xã Hội, với Quốc Gia.
Giữa người quá cố và con cái vẫn còn một nghiệp lực chưa thanh toán xong.
Giữa người quá cố và những người quen biết khác vẫn còn oan trái chưa giải quyết xong.
Tự tử là một hành động trốn nợ, nhưng chắc chắn rằng vẫn không trốn được mà trái lại, vốn lời chồng chất, nợ càng lên cao.
Người quá cố gặp quá nhiều cảnh huống trong cuộc Đời, đó chẳng qua là vì người này có quá nhiều nghiệp lực cần phải thanh toán.
Người quá cố tưởng rằng tự tử là phủi tay, là rảnh hết nợ đời, nhưng không phải thế, nghiệp lực không trả được ở kiếp này thì cũng phải trả ở kiếp vị lai, không trốn đâu cho được cả. Chỉ e rằng bổn cũ soạn lại, thì phải mất thêm một kiếp người nữa, cứ đi vòng lẩn quẩn, không bao giờ chấm dứt.
Nếu thân nhân cảm thấy rằng, mình cũng đã góp một phần vào việc gây tạo nỗi đau buồn cho người quá cố, điều tốt nhất là nên đối trước bàn thờ của vong linh, thành tâm, thành ý, hết dạ ăn năn, cầu xin lời tha thứ. Vong linh xả bỏ nỗi ưu phiền, làm nhẹ một phần nào gánh nặng mang theo.
Cố gắng giúp cho vong linh sám hối và phát nguyện tu tập, như thế mới có thể xóa được cái địa ngục mà vong sẽ phải thọ lãnh sau 49 ngày.
Nên nhớ: 49 ngày là thời gian đặc ân dành cho vong linh, nương vào sự thành tâm sám hối, tu tập để hoán chuyển cảnh giới. Cho nên, thân nhân nên giúp cho hương linh hoán chuyển từ cảnh giới Địa Ngục qua cảnh giới Người. Đó cũng là một cách để thân nhân tỏ rõ tình thương sâu đậm của mình, sự quan tâm, sự chăm sóc đến người quá cố.
Nói chuyện giảng Pháp cho vong linh nên chậm rãi, lặp đi lặp lại, vì vong linh không còn ngũ căn, nên không thể lãnh hội nhanh được.
Siêu Độ Cho Người Bị Chết Oan
Việc một người bị chết oan, việc đó cũng ít xảy ra, nhưng vẫn có, chớ không phải là không có.
Chết oan có nghĩa là chết trước cái thọ mạng của mình. Vấn đề này cũng rất khó diễn tả, vì có đôi khi, thoạt xem qua thì cho là chết oan, nhưng thật sự ra thì không oan.
Thường thì một người, nếu thật sự chết oan, sẽ có sự báo mộng của người đó cho thân nhân là mình bị chết oan.
Người thật sự bị chết oan hay người qua đời một cách đột ngột, đều cùng giống nhau ở một điểm, đó là: họ mang cái SÂN trong người và một cảm giác SỢ HÃI.
Người chủ lễ phải giải thích để vong linh hiểu được rằng, tất cả những cảm giác tức tối, giận dữ, sợ hãi đó, vong linh cần phải buông xuống, buông bỏ để được nhẹ nhàng. Tiếng nói là “chết oan” nhưng vẫn có dính líu đến một nghiệp lực, chớ không phải không có đâu!
Dù chết một cách đột ngột, cũng vẫn là do ở sự hoạt động bất bình thường của cơ thể, chớ không phải tự nhiên mà chết. Chỉ trừ một trường hợp duy nhất, xảy ra cho người tu tập cao dày, việc ra đi của người này cũng rất là nhanh. Thật sự ra, thọ mạng của người ấy cũng đã chấm dứt, nhưng vì được đặc biệt “Tiếp Dẫn,” nên việc ra đi trở thành đột ngột.
Tóm lại, những cái gì gọi là cảm giác xấu, xảy đến cho một người trước khi hắt hơi cuối cùng, vị chủ lễ đều khuyên vong linh phải buông xuống hết. Và sau đó, nghi thức siêu độ cũng đều y như nhau. Nhưng đặc biệt trong phần giảng Pháp, phải giảng cho thần thức đó hiểu được rằng, Sân Hận là điều không nên giữ, và phải nên buông bỏ tất cả những điều làm cho mình bực dọc, nặng nề trước khi nhắm mắt. Cần phải bỏ xuống hết, để có được sự nhẹ nhàng mà cất bước ra đi.
Riêng đối với những người được nghi ngờ là chết oan, người chủ lễ hoặc thân nhân phải tu tập thật là nhiều để hồi hướng lại cho những vong linh đó. Xem như là một sự đền bù, cho khoảng thời gian mà vong linh đó còn hưởng được sự sống trên dương thế, để bù đắp lại cho vong linh đó, để cho hướng đi của họ được dễ dàng hơn, và coi như họ sẽ mang được nhiều công đức đi theo họ về một cảnh giới mới.
Siêu Độ Cho Thai Nhi Bị Sẩy Hoặc Phá Thai
Khi một người Nam và một người Nữ giao hợp, đúng vào lúc có hiện tượng THỤ THAI, là đã có sự hiện diện của Thần Thức rồi.
Nhưng sau đó, người Mẹ bị sẩy thai, tức là Thần Thức đã bước ra ngoài khỏi Thai noãn. Nên ghi nhận những trường hợp sau đây:
1. Thần thức thấy rằng không thể tồn tại được trong người của Bà Mẹ vì:
– Người Mẹ bị bịnh, không thể nào giữ cái thai đến đúng ngày sinh nở được.
– Người Mẹ có vật lạ xâm nhập vào người.
2. Cũng có thể rằng người Mẹ, hoặc luôn cả người Cha đã làm nhiều việc thiện, tích lũy Phước Đức. Phước Đức này sẽ giống như một MÀN CHẮN, không cho Thần Thức tiến vào, nếu Thần Thức đó quá hung hãn, quyết một lòng đòi nợ.
Khi người Mẹ bị sẩy thai, Thần Thức bước ra khỏi thai noãn, xem như nghiệp lực giữa đôi bên còn chưa bộc phát.
Thần thức ra đi, mang theo nhiều SÂN HẬN vì không phải dễ dàng tìm được:
– Nơi chốn thác sanh
– Cha mẹ có dây tương quan nghiệp lực, phối hợp được với Thần Thức, để mọi việc được THUẬN DUYÊN.
Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng phải khó nhọc mới giúp được cho vong linh tìm đúng cha mẹ, tìm được đúng chỗ thác sanh.
Vuột mất một cơ hội, khiến cho Thần Thức rất là buồn bã đến đâm ra sân hận.
Việc siêu độ cho thai nhi bị sẩy được hành trì theo đúng nghi thức, nhưng chỉ cần 21 ngày, tức là 3 tuần lễ. Ngài Địa Tạng sẽ giúp cho vong linh trong trường hợp này, tìm cha mẹ khác để thác sanh trong vòng 21 ngày.
Người chủ lễ phải khuyên giải thần thức để cho thần thức được nhẹ nhàng, hiểu rõ rằng, chỉ trừ trường hợp người mẹ có ý muốn hủy diệt cái thai, còn việc sẩy thai không do ý muốn của người mẹ, thần thức cũng không nên sân hận quá nhiều.
Phá Thai
Đối với những người có ý muốn tiêu diệt cái thai, trong trường hợp này, có khi không tiêu diệt được, có khi tiêu diệt được.
Nếu không tiêu diệt được, nghiệp lực dồn lại cái trước lẫn cái sau.
Nếu trong trường hợp tiêu hủy được, người mẹ mang nghiệp sát, và cái nghiệp này sẽ cộng thêm với cái nghiệp đã gây tạo ra lúc trước giữa hai thần thức.
Vì vậy, nếu gặp một thần thức bướng bỉnh, thần thức đó sẽ tìm cách nhập thai trở lại. Đây là một cách để tỏ sự sân hận.
Cũng có khi thần thức hiền hậu hơn, không bướng bỉnh, lúc đó ngài Địa Tạng sẽ giúp cho đi tìm chỗ thác sanh. Tuy nhiên, nghiệp lực cũng đã tạo ra giữa người mẹ đó với thần thức.
Nếu một người mẹ phá thai đã lâu mà vẫn còn thấy đứa con của mình, điều đó có nghĩa là vong linh đó chưa siêu thoát, chưa tìm chỗ thác sanh, cho nên người mẹ có cơ hội nhìn thấy con. Sự việc khi đó sẽ rất là phức tạp, rối rắm và lắm điều sầu thảm. Nghiệp lực giữa đôi bên cũng vẫn buộc ràng. Rồi thì cũng có thể gặp nhau trên dương thế để đòi nợ nhau.
Vì vậy phải cẩn thận rất nhiều, đừng xem việc phá thai như một trò đùa. Đừng xem thường những thai nhi còn trong bụng Mẹ.
Y khoa khuyên không nên phá thai khi thai nhi đã tượng hình (từ tuần thứ 20 trở lên), nhưng thật sự ra thì một mạng sống đã bắt đầu từ khi cha mẹ giao hợp và thụ thai, chớ không phải đợi tới lúc tượng hình đàng hoàng!
Người đời nhìn tất cả mọi việc với ngũ căn, có nghĩa là có giới hạn, không thể nhìn xuyên qua cái giới hạn đó được.
Nếu có thể thấu suốt xuyên qua cái giới hạn, chắc có lẽ người đời không dám làm sai, làm chuyện sái quấy đâu!
Người phá thai phải nhớ rằng, mình đã tạo nghiệp sát bên cạnh cái nghiệp chưa thanh toán giữa mình và đứa nhỏ chưa ra đời đó. Hai nghiệp chồng lên nhau, sẽ rất là nặng nề, tạo nên vô số cảnh huống, nhiều bi kịch khi hai thần thức đối diện nhau qua một cơ duyên nào đó.
Có thể nói rằng, công việc của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát vô cùng cực nhọc và phức tạp. Ngài phải giúp đỡ cho các vong linh rất nhiều.
Việc đi tìm chỗ cho vong linh thác sanh cũng không phải là điều dễ dàng. Công việc của Ngài ở cõi Âm phải nói rằng: “trùng trùng điệp điệp.” Nếu chúng sanh trong cõi Ta Bà biết tu tập, làm giảm nghiệp lực, thì công việc của Ngài ở cõi Âm sẽ được giảm bớt rất nhiều.
Khi sẩy thai còn có thể siêu độ được, nhưng khi phá thai, khó siêu độ lắm!
Người chủ lễ siêu độ cho một thần thức bị phá thai khó vô cùng. Hãy nghĩ rằng, mình muốn sống mà người ta nở chặt đứt đường sống của mình, niềm sân hận sẽ lên đến đâu? Cho nên thần thức đó đã trở thành một oan gia trái chủ rất lớn của người muốn hủy diệt nó.
Nếu người mẹ đó vừa mới phá thai, thần thức chưa kịp đi tìm chỗ thác sanh khác, người chủ lễ còn có cơ hội để khuyên bảo. Việc tu tập trong trường hợp này rất là cần thiết, và lợi lạc cho cả hai bên: cho người Mẹ lẫn cho thần thức của thai nhi. Người Mẹ cần phải thành tâm sám hối rất nhiều, phải tha thiết sám hối, phải bố thí, phải hành Thiện và hồi hướng tất cả công đức của sự Tu Tập Chân Chính cho thần thức đó.
Chỉ có Tu Tập Chân Chính mới có thể giải quyết được ổn thỏa. Nên nhớ rằng, tất cả những vong linh đều cảm nhận sự Chân Thật một cách rất là nhạy bén. Nếu không chân thật, lời đó không xuất phát từ tâm mà xuất phát từ miệng, sẽ không bao giờ có thể giải quyết được bất kỳ một việc gì ở cõi Âm đâu.
Triệu Thỉnh Hương Linh
Khi triệu thỉnh vong về để cúng, có khi nào mời nhầm một cô hồn uổng tử hoặc một vong linh khác đi cùng với vong linh (thân nhân) để vào nhà hay không?
Nếu vong nhập vị thì luôn luôn bên cạnh của vong đều có hai Vị Hộ Pháp. Còn nếu không cho vong nhập vị, thì phải khấn Chư Thần Thổ Địa nơi mình cư trú và xin phép để cho vong tên đó, họ đó, mất ngày nào đó, được vào nhà để mình siêu độ cho vong. Sẽ không có việc các vong khác ồ ạt kéo đến đâu. Chỉ trừ khi nào gia đình đó có một nghiệp lực sâu dày với một vong linh nào đó, thì mới có việc vong linh đó vào để dựa nhập. Ngoài ra thì không có việc một vong linh nào đó cùng đi với vong linh (thân nhân) để mà vào nhà.
Thế giới cõi Âm cũng có những quy luật rất là chặt chẽ. Tất cả những vong linh trong thế giới cõi Âm, đều có một kỷ luật đâu vào đó. Không thể nào tự ý muốn làm gì thì làm. Vẫn có một sự tổ chức hẳn hòi, trừ khi là oan gia, nghiệp chướng, thì đó là một việc khác. Không phải bất kỳ một vong linh nào cũng được quyền xuất nhập trong nhà của người trên dương thế đâu.
Một người đã phát nguyện tu tập, và biết cách thức tu tập “chân chính,” luôn luôn có Chư Thần, Hộ Pháp theo bảo vệ Đạo Tràng, Kinh điển, và luôn cả chính bản thân của người tu tập nữa. Cho nên không dễ dàng để cho bất kỳ một vong linh nào dựa nhập được hết. Chỉ trừ khi nào là oan gia, nghiệp chướng thì chuyện đó là một chuyện khác.
Muốn có được sự hộ trì của Ơn Trên, hành giả bắt buộc phải là một người tu tập chân chính: luôn giữ Giới, Tâm phải được kiểm soát thường xuyên, tránh không chao động. Những Ý tưởng bất thiện, kém hoặc không cao thượng đều phải được ngăn chận, và hủy bỏ đúng lúc, đúng thời; sửa Tánh, giùi mài Tánh và trau giồi Tánh. Như thế mới giữ được tư cách cùng nét oai nghi của người tu tập. Sự tu tập nếu chỉ thể hiện qua lời nói sẽ khó lòng nhận được sự hộ trì.
Nên nhớ rằng: tất cả những sự hộ trì đều là đặc ân, đền bù cho người đã bỏ nhiều công sức, bỏ nhiều thì giờ vào việc tu tập. Một người tu tập chân chính đúng nghĩa, sẽ là một vị Bồ Tát của Cực Lạc trong tương lai, cho nên tự họ sẽ được bảo vệ. Nếu vì một lý do nào đó mà họ dứt đường tu tập, không tiếp tục, thì lúc đó họ sẽ không còn nhận được sự hộ trì nữa. Còn nếu họ vẫn tiếp tục tu tập chân chính, đúng Pháp, trong tương lai, họ sẽ là Bồ Tát của Cực Lạc, thì việc hộ trì cho họ là chuyện đương nhiên!