NHÂN SINH YẾU NGHĨA
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Thích Minh Định dịch
Hoa Sen Mọc Trong Bùn
Giảng tại Ðài Loan ngày 29/10/1988
“Pháp giới vi thể hữu hà ngại,
Hư không thị dụng vô bất dung
Vạn vật bình đẳng ly phân biệt,
Nhất niệm không sinh tuyệt ngôn tông”.
Nghĩa rằng:
“Pháp giới là thể có gì ngại,
Hư không là dụng dung hết thảy ;
Vạn vật bình đẳng không phân biệt,
Một niệm không sinh bặc lời lẽ”.
Tâm lượng của mỗi người là tận hư không khắp pháp giới, bao hết thảy, dung hết thảy. Cho nên “Tâm bao thái hư, lượng chu sa giới”. Chẳng phải chỉ riêng Phật mới có, mà mỗi chúng sinh đều có năng lượng, có trí huệ này. Nhưng lâu dần không dùng đến trí huệ này, nên bị trần ai che lấp. Cho nên chúng sinh với Phật là không ngại không khác. Nhưng do “bỏ giác hợp trần”, không dùng đến đại trí huệ của chúng ta, chỉ dùng vô minh, tựa như hiểu mà chẳng hiểu, tựa như sáng mà không sáng.
Chúng ta không làm cho trí huệ vốn có xuất hiện lại, ngày ngày dùng vô minh phiền não, cho rằng năng lực của chúng ta, động một chút thì nổi giận. Ðây là gốc tội nghiệp tiền kiếp. Nếu không có tội nghiệp thì không có lửa vô minh, khi phát lửa vô minh thì tham, sân, si liền đến. Các bạn phải hồi quang phản chiếu, tự nhìn mình có phải như thế chăng? Chẳng phải riêng bạn như thế, có thể nói mỗi người đều phạm chứng bệnh này. Tuy nhiên nói mỗi người chúng ta đang tu hành Phật pháp, nhưng trên thực tế thì không cung hành thực tiễn. Cho nên từ sáng đến tối tranh tranh náo náo, phiền phiền não não, cho đến ngủ cũng không yên, bỏ gốc tìm ngọn, tìm phương pháp để làm cho ngủ yên, như uống thuốc ngủ, nhưng uống quá nhiều thì có thể ngủ không tỉnh lại, bạn nói đáng thương xót chăng!
Phiền não nầy đều do vô minh mà ra. Vô minh tức là dục niệm: Tài dục, sắc dục, danh dục, thực dục, thùy dục. Tài dục khiến cho người từ sáng tới tối chuyên nghĩ về tiền bạc, vô bổn thủ lợi, giàu như “phú khả địch quốc” còn chưa biết đủ. Sắc dục thì “quát cốt cang đao” làm cốt tủy đều hư hỏng bại hoại thì sinh ra bách bệnh, cho nên sắc dục thì “yểu mạng dục” (muốn chết sớm).
Phần đông cha mẹ sinh con cái rồi ngày đêm lo lắng. Sinh con trai rồi thì khẩn cấp muốn y hỏi vợ, sinh con gái rồi thì khẩn cấp muốn gả y cho người. Cho rằng hai việc nầy chưa xong thì đại sự chưa hoàn tất. Thực ra sinh con cái thì phải giáo dục chúng cho có học thức, có nghề nghiệp. Cho đến việc kết hôn hay không, bất tất quá bận tâm.
Nếu nhất định muốn chúng hỏi vợ gả chồng tức là muốn chúng đi vào con đường chết, không hy vọng chúng tu hành thành Phật. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều hiện tượng kỳ quái, con cái nếu không kết hôn thì cha mẹ đều phản đối, nhưng nếu con cái hút sách thì không thấy cha mẹ phản đối. Cho nên nói con cái đi lên thì cha mẹ lại sợ ; còn con cái hạ lưu thì ngược lại mà cao hứng, đây là chỗ hồ đồ của bậc làm cha mẹ.
Tôi có một lối nhìn, Phật giáo thì “tố bổn cầu nguyền” phải gọi là “trí huệ giáo”. Vì Phật là tiếng Phạn, nghĩa là “bậc đại trí huệ”. Nghĩa bổn thân chữ Phật là “giác ngộ”. Vì có người khi dề cập đến Phật giáo thì sinh tâm kiêu mạn. Như người tây phương cho rằng Phật giáo là mê tín, nhưng nếu bạn nói Phật giáo là trí huệ giáo thì bất cứ người nào cũng không dám nói trí huệ là mê tín, không thể bạn tin trí huệ là mê tín. Cho nên bạn học Phật là học trí huệ, bạn học trí huệ là học Phật. Có người hỏi tôi, đến tây phương hoằng pháp như thế nào? Tôi nói với bạn rằng tôi nương cậy vào Quán Thế Âm Bồ Tát, Chú Ðại Bi và Chú Lăng Nghiêm. Chú Ðại Bi là đại Chú Ðại Bi tâm, có thể không thiên triệt địa. Nếu bạn kiền thành tụng Chú Ðại Bi, mỗi ngày 108 biến, liên tục trong ba năm, lúc đó bạn dùng Chú Ðại Bi để vì người mà trị bệnh thì, tay rờ đến bệnh liền tiêu trừ. Tôi đã từng có trăm ngàn vạn ức lần cảm ứng khiến cho kẻ chết sống lại. Cho nên nói Chú Ðại Bi là minh tâm kiến tánh, biến hóa khó lường, diệu dụng vô cùng. Lần nầy tôi đến Ðài Loan, muốn dùng đến tâm thành, dùng Chú Ðại Bi để hộ quốc, dùng Chú Ðại Bi làm tiêu tai, dùng Chú Ðại Bi làm tăng trưởng thiện căn và trí huệ của chúng sinh.
Chú Ðại Bi và Bồ Tát Quán Âm là hai mà chẳng hai, không hai mà hai, hai mà không thể phân biệt. Tôi hy vọng các vị thiện tri thức đủ tâm thành tụng trì Chú Ðại Bi, tất nhiên sẽ tiêu trừ tai nạn. Tôi đã đắc được chỗ diệu dụng của Chú Ðại Bi, cho nên hôm nay mới bày hết ra.
Tôi hay nói công hiệu của Chú Ðại Bi, hy vọng mỗi người dùng sức lực Chú Ðại Bi để cứu vãn thế giới, khiến cho nhân loại vĩnh viễn không có tai nạn, khiến cho chánh pháp thường trụ thế gian.