2/ TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Âm Hán:
Nam mô tam mãn đà, mẫu đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá, ta nẳng nẫm, đát điệt tha:
Án khư khư, khư hứ, khư hứ, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát nhập phạ ra, để sắt sá để sắt sá, sắt trí rị sắt trí rị, ta phấn tra ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha.
Namah samanta, Buddhanam, apratihatasa, sananam, tadyatha:
OM KHA KHA, KHAHI, KHAHI, HUM HUM, JVALA JVALA, PRAJVALA PRAJVALA, TISTA TISTA, SITIRI SITIRI, SPHATI SPHATI, SHANTIKA, SRIYE SVAHA.
Âm Phạn:
Na ma xa măng ta, bút đa nam, a pờ ra ti ha ta xa, xa na nam, tát gia tha:
Ôm kha kha, kha hi, kha hi, hum hum, gioa la gioa la, pờ ra gioa la, pờ ra gioa la, ti shờ ta, ti shờ ta, sít ti ri, sít ti ri, sờ pha ti, sờ pha ti, shăng ti ka, shi ri giê, xóa ha.
Toàn Bài Chú trên có thể diễn dịch là
“Quy mệnh hết thảy chư Phật, các Bậc Vô Chướng Ngại ở khắp mười phương.
Như vậy! hỡi ánh lửa rực rỡ của Như Lai Vô Kiến Đỉnh Tướng đã thiêu cháy mọi NĂNG CHẤP, SỞ CHẤP hãy tỏa sáng rực rỡ khiến cho con được an trú trong sự gia trì này nhằm phá tan sự trì độn chậm chạp của Nội Chướng và Ngoại Chướng. Đồng thời khiến cho con dứt trừ được mọi tai nạn, thành tựu sự an vui tốt lành”.
Công năng của Thần Chú này được các Kinh ghi nhận là:
“Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự tại cung Trời Tĩnh Cư bảo chư Thiên, Tú Diệu, 12 Cung Thần rằng: “Nay Ta nói Quá Khứ Sa La Vương Như Lai Chân Ngôn. Nếu có quốc vương mà quốc giới của mình bị 5 Tinh (5 vì sao) lấn bức 28 Tú với Đế Tòa thì mỗi ngày vào lúc sáng sớm, ở trong Đạo Trường, kết Ấn, tụng Chân Ngôn 7 biến ắt 5 Tinh, các Diệu chẳng thể lấn bức các Tòa, chẳng thể gây tai họa.
Nếu Hỏa Tinh (Aṅgāraka) muốn vào Nam Đẩu. Nên ở dưới tượng một Tôn Phẫn Nộ (Krodha-nātha) điểm hình Nam Đẩu và điểm Hỏa Tinh. Ở trong đây vẽ hình Thiết Đốt Lỗ (Śātru: Oan gia) ấy, viết tên ở trên trái tim, kết Ấn rồi để Ấn ở trên thân tượng Phẫn Nộ, tụng Chân Ngôn 7 biến. Ở trên câu Sa Phộc Hạ (Svāhā) gia thêm tên Thiết Đốt Lỗ ấy, dùng âm thanh phẫn nộ tụng Chân Ngôn thì hết thảy tai họa sẽ dời đi.
Tướng Ấn đó là: Hai tay cài chéo nhau bên trong rồi nắm quyền. Hợp cứng 2 ngón giữa, đều co ngón trỏ ở phía sau ngón giữa như hình cái chày Kim Cương, đem 2 ngón cái đè lên vạch lóng thứ hai của ngón giữa.
Chân Ngôn này là nơi gia trì của tất cả Như Lai, hay thành biện 8 vạn loại việc cát tường. Hay trừ diệt 8 vạn loại tai họa, mộng ác chẳng lành. Nếu có người thấy nghe các việc Bất Tường thì thanh tĩnh tâm tụng một biến ắt chẳng thể gây tai họa.
Nếu 5 Tinh đi đến Tòa Vị thành lấn bức hoặc xuyên qua hoặc đi lùi xâm lấn.
Liền ở trên câu Sa Phả Ha (Svāhā) gia thêm tên của vì sao ấy, tụng Chân Ngôn 7 biến thì mệnh được 5 Tinh tác thiện (tạo việc tốt lành) chẳng thể gây hại.
Hoặc nhóm sao Thái Bạch đi đến phần dã của các Tú với Đế Tòa ở trong phần dã Tú, như trước ở dưới Tượng vẽ hình người ác đó cũng làm người ấy bị hao tổn, khiến chẳng khởi Ý ác.
Hoặc bị La Hầu che lấp gây khốn đốn. Mặt trời, mặt trăng bị che. Hoặc Tuế Tinh hiện, hoặc hạn hán, sóng to. Nên ở nơi ẩn mật trong Đạo Trường, thân mặc áo màu đen, ngồi hướng mặt về phương Nam. Đem tro đốt tử thi vẽ tam giác. Trong Đàn vẽ nhóm La Hầu (Rāhu) Tuế Tinh (Ketu) ấy. Khi hạn hán, sóng to thì vẽ hình Rồng (Nāga), ở trên trái tim người ấy thì viết tên ngưới ấy. Vào lúc giữa đêm (giờ Tý) hay giờ Ngọ thì đốt An Tất Hương, niệm tụng. Ở trong câu Chân Ngôn, gia thêm tên người đó. Lấy cành Thạch Lựu quất vụt hình người ấy, tụng Chân Ngôn 21 biến, mỗi biến vụt một lần, liền trừ.
Nếu 5 Tinh lấn bức cường thịnh, mệnh suy thì cũng tác Pháp này”.