Trang 04 tiếp theo “Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Đa”

(Từ quyển 599 đến quyển 600)

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ-tát học như vậy thì không học về sắc là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là Không hay bất Không, là ngã hay vô ngã; cũng không học về thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là Không hay bất Không, là ngã hay vô ngã.

Này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ-tát học như vậy thì không học về nhãn là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là Không hay bất Không, là ngã hay vô ngã; cũng không học về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là Không hay bất Không, là ngã hay vô ngã.

Này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ-tát học như vậy thì không học về sắc là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là Không hay bất Không, là ngã hay vô ngã; cũng không học về thanh, hương, vị, xúc, pháp là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là Không hay bất Không, là ngã hay vô ngã.

Này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ-tát học như vậy thì không học về nhãn thức là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là Không hay bất Không, là ngã hay vô ngã; cũng không học về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là Không hay bất Không, là ngã hay vô ngã.

Này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ-tát học như vậy thì không duyên vào sắc là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai, hoặc hành thuộc hiện tại; cũng không duyên vào thọ, tưởng, hành, thức là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai, hoặc hành thuộc hiện tại.

Này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ-tát học như vậy thì không duyên vào nhãn là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai, hoặc hành thuộc hiện tại; cũng không duyên vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai, hoặc hành thuộc hiện tại.

Này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ-tát học như vậy thì không duyên vào sắc là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai, hoặc hành thuộc hiện tại; cũng không duyên vào thanh, hương, vị, xúc, pháp là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai, hoặc hành thuộc hiện tại.

Này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ-tát học như vậy thì không duyên vào nhãn thức là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai, hoặc hành thuộc hiện tại; cũng không duyên vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai, hoặc hành thuộc hiện tại.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát học như vậy, tuy lấy hành tướng của Không, tịch tĩnh, vô ngã để quán sát quá khứ, nhưng không lấy sự hành về Không, tịch tĩnh, vô ngã thuộc quá khứ; tuy lấy hành tướng của Không, tịch tĩnh, vô ngã để quán sát vị lai, nhưng không lấy sự hành về Không, tịch tĩnh, vô ngã thuộc vị lai; tuy lấy hành tướng của Không, tịch tĩnh, vô ngã để quán sát hiện tại, nhưng không lấy sự hành về Không, tịch tĩnh, vô ngã thuộc hiện tại.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành như vậy mặc dù quán pháp quá khứ là Không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không thường còn, an trụ không lâu dài, không thay đổi, nhưng không hành về quá khứ như vậy; mặc dù quán pháp vị lai là Không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không thường còn, an trụ không lâu dài, không thay đổi, nhưng không hành về vị lai như vậy; mặc dù quán pháp hiện tại là Không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không thường còn, an trụ không lâu dài, không thay đổi, nhưng không hành về hiện tại như vậy.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ-tát nào hành được như vậy, trụ như vậy thì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ-tát nào hành được như vậy thì tất cả ác ma không làm hại được. Nếu Bồ-tát hành như vậy thì biết rõ ràng về việc làm của ác ma, không bị các ma làm tổn hại.

Lại nữa. này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát nào hành được như vậy thì không duyên vào sắc; cũng không duyên vào thọ, tưởng, hành, thức. Không duyên vào nhãn; cũng không duyên vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Không duyên vào sắc; cũng không duyên vào thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không duyên vào nhãn thức; cũng không duyên vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Không duyên vào danh sắc.

Không duyên vào tạp nhiễm.

Không duyên vào điên đảo, tà kiến, các triền cái, ái hành.

Không duyên vào tham, sân, si.

Không duyên vào ngã, hữu tình v.v…

Không duyên vào đoạn, thường.

Không duyên vào biên, vô biên.

Không duyên vào cõi Dục, Sắc, Vô sắc.

Không duyên vào duyên khởi.

Không duyên vào địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Không duyên vào hữu tình giới, pháp giới.

Không duyên vào chắc thật, hư vọng.

Không duyên vào trói buộc, lìa trói buộc.

Không duyên vào sự đoạn diệt tham, sân, si.

Không duyên vào bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ.

Không duyên vào niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi.

Không duyên vào sự đoạn điên đảo.

Không duyên vào tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí.

Không duyên vào từ, bi, hỉ, xả.

Không duyên vào khổ, tập, diệt, đạo.

Không duyên vào trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác.

Không duyên vào trí vô trước.

Không duyên vào địa vị của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật.

Không duyên vào thần thông trí kiến.

Không duyên vào giải thoát.

Không duyên vào giải thoát trí kiến.

Không duyên vào Niết-bàn.

Không duyên vào trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại.

Không duyên vào trí lực, vô úy v.v… của Phật.

Không duyên vào cõi Phật thanh tịnh.

Không duyên vào tướng hảo thanh tịnh.

Không duyên vào sự viên mãn của Thanh văn.

Không duyên vào sự viên mãn của Độc giác.

Không duyên vào sự viên mãn của Bồ-tát.

Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp chẳng có sở duyên, vì tất cả các pháp chẳng có năng duyên, chẳng phải tất cả pháp có chấp thủ mà cho rằng nó có sở duyên.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có sở duyên tức là có động tác chấp trước; nếu có chấp trước thì sẽ có sầu, than, khổ, ưu, não.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có sở duyên tức là bị trói buộc, không thoát khỏi mà xa lìa đạo. Do đó, làm cho tất cả khổ não tăng trưởng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có sở duyên tức là sự nương chấp, động chuyển và hí luận. Nếu có sở duyên tức là có những đấu tranh, kiện tụng. Nếu có sở duyên tức là có những vô minh, si ám. Nếu có sở duyên tức là có sợ hãi. Nếu có sở duyên tức là bị mắc bẫy và bị sự trói buộc của ma. Nếu có sở duyên tức là có khổ bức bách và tìm cầu sự an lạc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Bồ-tát nào quán sát thấy có những tai họa như vậy thì không duyên vào các pháp. Vì không có sở duyên vào tất cả các pháp nên không có sự chấp thủ, vì không chấp thủ nên không chấp và không trụ vào tất cả các pháp. Bồ-tát tuy không có sở duyên như vậy nhưng đối với cảnh giới nhất định được tự tại. Mặc dù đối với cảnh giới nhất định được tự tại nhưng không có nương chấp, cũng không chỗ trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát có thể hành như vậy, thì không bị phan duyên vào tất cả pháp; nếu không chấp trước và không tranh luận với tất cả pháp thì an trụ không bị nhiễm.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đối với khắp cảnh giới và pháp sở duyên mà các Bồ-tát ấy đều không bị trói buộc thì đã tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ-tát nào hành như vậy và trụ như vậy thì tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Vì vậy, tất cả ác ma không thể nào làm trở ngại được, cả quyến thuộc của quân ma cũng không thể nào khống chế được, có muốn tìm điều xấu của các vị cũng không thể tìm được, cũng không có cách nào quấy nhiễu. Nhưng các vị ấy có thể chinh phục được ma và quân ma, biết rõ tất cả việc của ma, không làm theo việc của ma mà hành một cách tự tại, làm chấn động, thiêu đốt các cung điện của ma, cũng có thể chinh phục tất cả ngoại đạo nhưng không bị ngoại đạo chinh phục; cũng có thể bẻ gãy tất cả các luận phái khác mà không bị các luận phái khác bẻ gãy.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ-tát nào có thể hành như vậy tức là đối với sắc không trụ phân biệt, không phân biệt khác; đối với thọ, tưởng, hành, thức không trụ phân biệt, không phân biệt khác. Đối với nhãn không trụ phân biệt, không phân biệt khác; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý không trụ phân biệt, không phân biệt khác. Đối với sắc không trụ phân biệt, không phân biệt khác; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp không trụ phân biệt, không phân biệt khác. Đối với nhãn thức không trụ phân biệt, không phân biệt khác; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức không trụ phân biệt, không phân biệt khác.

Do nhân duyên này mà các Bồ-tát đối với các danh sắc không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với nhiễm tịnh không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với duyên khởi không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với điên đảo, tà kiến, các triền cái, ái hành không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với đoạn kiến, thường kiến không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với cõi Dục, Sắc, Vô sắc không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với hữu tình giới, pháp giới không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với tham, sân, si không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với chắc thật, hư vọng không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với có trói buộc, lìa trói buộc không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với ngã, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi, trưởng thành, người, ý sanh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và các tưởng kia không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với đoạn điên đảo v.v… không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với khổ, tập, diệt, đạo không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với từ, bi, hỉ, xả không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với địa vị của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với thần thông, trí kiến không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với trí vô trước không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với minh và giải thoát không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với giải thoát, giải thoát tri kiến không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với trí lực, vô úy v.v… của Phật không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với tướng hảo thanh tịnh không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với cõi Phật thanh tịnh không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với sự viên mãn của Thanh văn không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với sự viên mãn của Độc giác không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Đối với sự viên mãn của Bồ-tát không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có phân biệt thì sẽ phân biệt khác. Nếu trường hợp nào không có phân biệt, thì trường hợp ấy không phân biệt khác. Kẻ phàm phu ngu si đều do phân biệt tạo ra và tư tưởng của họ cũng đều do phân biệt khác phát sanh, cho nên Bồ-tát không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói phân biệt tức là biên thứ nhất, nói phân biệt khác tức là biên thứ hai. Đối với trường hợp nào không có phân biệt, không phân biệt khác thì đối với trường hợp ấy đã xa lìa nhị biên, cũng không có chính giữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu nói có chính giữa cũng là phân biệt, mà phân biệt chính giữa cũng gọi là hữu biên; đối với trường hợp nào có phân biệt thì đối với trường hợp ấy sẽ có phân biệt khác. Do nhân duyên này mà không thể đoạn trừ ý nghĩa phân biệt và phân biệt khác.

Nếu đối với trường hợp nào không phân biệt thì với trường hợp ấy sẽ không phân biệt khác. Do sự việc này mà có ý nghĩa đoạn trừ phân biệt và phân biệt khác.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đoạn trừ phân biệt nghĩa là trong đó hoàn toàn không có gì để đoạn trừ cả. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì do sức phân biệt, phân biệt khác là không sở hữu, hư vọng nên phát sanh điên đảo; vì nó tịch tĩnh nên điên đảo cũng không có; vì điên đảo cũng không nên hoàn toàn không có chỗ đoạn trừ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì không có sự đoạn trừ nên biết, hiển bày khái niệm về khổ đoạn. Nghĩa là trong đó không có một chút khổ nào để đoạn trừ nên gọi là khổ đoạn.

Nếu tự tánh của khổ mà có một chút nào chân thật thì mới có thể đoạn trừ. Nhưng tự tánh của khổ không có một chút gì là chân thật nên không có chỗ để đoạn trừ.

Nếu chỉ thấy khổ thì không thể gọi là khổ đoạn, nghĩa là biết rõ của khổ hoàn toàn không có một chút phần tự tánh nào có thể đắc, nên gọi là khổ đoạn.

Nếu mọi người đối với khổ mà hoàn toàn không phân biệt và phân biệt khác thì gọi là khổ tịch tĩnh, tức là làm cho khổ không còn có ý nghĩa phát sanh nữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát thấy như vậy thì đối với các pháp không khởi phân biệt và không phân biệt khác. Này Thiện Dũng Mãnh! Đó gọi là Bồ-tát biết rõ tánh phân biệt và phân biệt khác mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ-tát nào hành như vậy và trụ như vậy để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì mau được viên mãn. Cho nên tất cả ác ma không thể nào làm chướng ngại họ được. Chúng quân mà có làm việc gì các vị ấy đều biết rõ, nên làm việc gì vị ấy cũng không theo việc của ma, ngược lại được tự tại khiến cho bọn ác ma tự nhiên lui tan, đánh bại bọn chúng làm cho ít dần. Thân tâm các vị ấy thanh thản không hề sợ hãi nên quân ác ma không thể nào quấy nhiễu họ được. Nhờ vậy mà chấm dứt tất cả nhân sanh về cõi ác, đoạn trừ và bít lấp những con đường tà trong thế gian, xa lìa các ám chướng băng qua dòng thác mạnh.

Đối với tất cả pháp được mắt thanh tịnh, đem lại ánh sáng lớn cho các loài hữu tình, nối dõi hưng thạnh hạt giống Phật để không bị đoạn mất. Chứng đắc tánh bình đẳng của đạo chơn đạo, thương xót hữu tình mà có pháp nhãn thanh tịnh, đầy đủ tinh tấn, xa lìa giải đãi, đạt được tâm an nhẫn và xa lìa sân giận, nhập thắng tĩnh lự không còn chỗ nương tựa, đắc được chân trí tuệ, thành tựu trí tuệ thông đạt, trừ bỏ các việc ác, viễn ly các triền cái, thoát khỏi bẫy rập của ác ma, chặt đứt lưới ái, an trụ trong chánh niệm, không bị quên mất, được giới thanh tịnh đến bờ tịnh giới, an trụ vào các công đức, xa lìa các tội lỗi, được sức định tuệ, không thể lay động. Tất cả các luận phái khác không thể nào bẻ gãy được, được các pháp thanh tịnh, vĩnh viễn không cho mất, giảng nói các pháp mà không có lo sợ, vào giữa đại chúng tâm không rụt rè. Bố thí diệu pháp không giấu tiếc, đem đạo bình đẳng làm sạch các đạo lộ, thề xa lìa tà đạo, tu những điều nên tu, đem các pháp thanh tịnh huân sâu vào những điều nên huân tập, đem trí tuệ thanh tịnh làm sạch những điều nên làm sạch, lòng độ lượng rộng sâu như biển lớn, trong lặng bất động khó mà lường được, biển pháp vô biên hơn số lượng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành như vậy, được thành tựu hạnh đó và vô biên các công đức khác thì công đức ấy khó lường được bờ của nó, ngoài Phật Thế Tôn ra không ai có thể biết được.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy thì sắc đẹp không giảm, tài của và địa vị không giảm, quyến thuộc không giảm, nòi giống không giảm, gia tộc không giảm, quốc độ không giảm, không sanh nơi biên địa, không gặp chỗ nạn, không ở chung với hữu tình xấu ác, cũng không gần gũi lân cận với sự nghiệp nhơ nhuốc, tự tâm không thối lui, trí tuệ không giảm sút, nghe và thọ nhận những pháp môn nơi người khác đều thể nhập vào pháp tánh bình đẳng, nói dõi hạt giống về trí nhất thiết trí của Phật, làm cho hưng thạnh mãi không bị đoạn mất.

Đối với pháp của chư Phật đã được ánh sáng và được gần gũi với trí nhất thiết trí. Nếu có ác ma muốn đến chỗ của vị ấy để quấy nhiễu thì khiến cho ma và quyến thuộc của chúng đều thành tro tàn, làm cho biện tài của chúng tan nát và võng lưới đều dứt hẳn. Giả sử có triệu, ức quyến thuộc chúng ma đến quấy nhiễu, nhưng tâm của vị ấy không hề dao động. Khi ấy, ác ma và quân chúng ma đều kinh hãi lui tan và nghĩ rằng: Bồ-tát này đã vượt qua cảnh giới của ta, vị ấy sẽ không thực hành điều gì trong cảnh giới của chúng ta, cũng không an trụ và không hề đắm trước. Ngược lại còn làm cho các hữu tình khác đều ra khỏi cảnh giới của ta và mau được giải thoát.

Sau khi ác ma suy nghĩ như vậy buồn rầu ảo não, bèn nói với nhau như vầy: “Bồ-tát đã gây tổn hại đến bè đảng quyến thuộc của chúng ta, làm cho không còn thế lực nữa.” Nói xong, ác ma buồn khổ hối hận.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thể hội Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì khi ấy cung điện của ma đều mất oai lực ánh sáng, khắp mọi nơi đều từ từ phát ra tướng khói lửa. Ác ma kinh hãi, buồn khổ và lo sợ giống như bị dao đâm vào tim, như trúng mũi tên độc. Tất cả chúng đều than thở như vầy: Nay Bồ-tát này làm cho hữu tình không còn tiếp nhận sự khuyến dụ của chúng ta nữa.

Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình đi ra cảnh giới của chúng ta.

Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình thoát khỏi cảnh giới của chúng ta.

Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình không sống trong cảnh giới của chúng ta.

Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình đoạn diệt cảnh giới của chúng ta.

Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình phá hủy võng lưới của chúng ta.

Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình vĩnh viễn thoát khỏi các dục nhơ đục.

Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình thoát khỏi lưới của các kiến.

Bồ-tát này sẽ làm cho hữu tình ra khỏi con đường tà của triền cái.

Bồ-tát này an lập các hữu tình, làm cho họ được sống trong chánh đạo.

Bồ-tát này dẫn các hữu tình vĩnh viễn ra khỏi rừng rậm của các kiến.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các ác ma thấy Bồ-tát này có pháp thù thắng và lợi ích như vậy nên buồn khổ ưu sầu giống như bị mũi tên găm trúng vào tim, như nguời bị mất kho báu lớn mà âu sầu khổ não cùng cực. Vì ác ma ấy thân tâm hối hận, ưu sầu khổ não, như bị trúng mũi tên độc và ngày đêm kinh hoàng ngồi không yên.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thể hội Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì lúc ấy ác ma tập trung lại một chỗ suy nghĩ và tìm cách để phá hoại Bồ-tát. Chúng nói với nhau như vầy: “Chúng ta sẽ lập mưu gì, làm việc gì để phá hoại chánh hạnh mà Bồ-tát này đã tu hành.”

Khi ấy, tâm bọn ác ma nghi ngờ mê loạn liền âu sầu, khổ não không vui như bị trúng mũi tên độc, chúng khuyến khích lẫn nhau cùng đến chỗ Bồ-tát để rình tìm chỗ hở của vị ấy, làm cho vị ấy lo sợ mà thay đổi công việc. Nhưng nhờ sức oai thần của Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, làm thần lực của các ác ma mất hết, thậm chí bọn chúng không thể động đến đầu sợ lông của Bồ-tát, huống gì làm cho thân tâm của Bồ-tát thay đổi. Vì biết Bồ-tát đã xa lìa sự sợ hãi nên ác ma kinh hoàng rợn tóc gáy. Các ác ma lại tìm mọi cách để làm mê hoặc nhưng vì tâm thần bị suy yếu và lo sợ nên các kế hoạch của chúng đều thất bại. Bấy giờ, vua ác ma liền nghĩ như vầy: Ta còn không phá hoại được Bồ-tát này, huống gì quyến thuộc của ta hay những người khác làm sao có thể phá vị ấy được. Nghĩ vậy, vua ác ma lo sợ hết đường tính toán, bèn quay trở về cung điện của mình sống trong sầu khổ.

Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đầy đủ oai lực lớn như vậy, quyến thuộc của ác ma không thể nào làm cho tâm vị ấy mê hoặc dù chừng khoảnh khắc, huống gì có thể làm chướng ngại các việc khác.

Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, thành tựu công đức trí tuệ và sức oai thần lớn như vậy, giả sử có các hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều biến thành ma, mỗi ác ma dẫn theo chúng ác ma như vậy, vì muốn quấy nhiễu nên đến chỗ Bồ-tát và dùng hết thần lực của mình, cũng không thể nào làm chướng ngại sự tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa của vị ấy. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì khi ấy, Bồ-tát đã thành tựu sức đao kiếm của trí tuệ (Bát-nhã) sâu xa, cũng thành tựu không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, và sức trí tuệ không gì sánh bằng, nên không bị bọn ác ma hung bạo chinh phục.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đao lớn gọi là đao trí tuệ (Bát-nhã), kiếm lớn gọi là kiếm trí tuệ. Đao lớn là đao trí tuệ, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là cảnh giới hoạt động của bọn ác ma.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Các ngoại đạo tu tiên đã đắc bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc, còn vượt khỏi cảnh giới của ác ma ở cõi Dục, để sanh vào trong bốn cảnh giới Vô sắc của các Phạm thiên. Vậy đối với diệu trí ở thế gian mà Bồ-tát đã thành tựu chẳng phải cảnh giới hoạt động của họ, huống gì là đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chân thật, thì làm sao ác ma có thể hoạt động trong cảnh giới này được. Với diệu trí của những vị tiên nhơn ngoại đạo đã đắc được Sắc, Vô sắc định, cũng chẳng phải cảnh giới của ác ma hoạt động, huống gì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Khi nào Bồ-tát thành tựu Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì khi ấy Bồ-tát được gọi là người thành tựu oai lực lớn. Nếu ai thành tựu oai lực Bát-nhã thì gọi là người thành tựu đao trí tuệ sắc bén, nếu có ai thành tựu đao bén Bát-nhã thì gọi là người thành tựu đao trí tuệ sắc bén. Cho nên các quân ma không thể nào chiến thắng được, ngược lại vị ấy có thể chiến thắng tất cả quân ma.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát thành tựu đao kiếm sắc bén của Bát-nhã ba-la-mật-đa, có đầy đủ oai lực lớn thì các Bồ-tát không nương vào đâu cả, làm việc gì cũng không bị lệ thuộc. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì có lệ thuộc thì có di chuyển, có di chuyển thì có dao động, có dao động thì có hí luận.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các hữu tình có lệ thuộc, có chuyển động, có dao động, có hí luận thì các hữu tình đó theo sức của ma mà hành, chưa thoát khỏi cảnh giới của ma.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các hữu tình dù sanh lên trên đến trời Hữu Đảnh cũng trụ ở chỗ ấy, bị lệ thuộc vào chỗ ấy, nương tựa vào chỗ ấy. Như vậy tất cả đều rơi vào cảnh giới của ác ma, chưa ra khỏi bẫy rập của ác ma, nên bị ác ma trói buộc và luôn chạy theo ác ma. Giống như Mãnh Hý Tử (Uất-đầu-lam-phất) và A-la-đồ Ca-la-ma Tử cùng tất cả tiên nhơn ngoại đạo khác cũng trụ Vô sắc, bị lệ thuộc vào nơi ấy, nương tựa cõi ấy.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thể hội Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì các Bồ-tát ấy không trụ vào đâu và làm việc gì cũng không hề lệ thuộc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát dõng mãnh tinh tấn tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và tùy thuận an trụ, thì lúc ấy Bồ-tát không nương trụ vào sắc; cũng không nương trụ vào thọ, tưởng, hành, thức.

Không nương trụ vào nhãn; không nương trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

Không nương trụ vào sắc; không nương trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Không nương trụ vào nhãn thức; không nương trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Không nương trụ vào danh sắc.

Không nương trụ vào điên đảo, tà kiến, các triền cái và các ái hành.

Không nương trụ vào duyên khởi.

Không nương trụ vào cõi Dục, Sắc, Vô sắc.

Không nương trụ vào ngã, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi, trưởng thành, người, ý sanh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và các tưởng khác.

Không nương trụ vào địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Không nương trụ vào hữu tình giới, pháp giới.

Không nương trụ vào sơ tĩnh lự, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Không nương trụ vào hữu ái.

Không nương trụ vào không hữu ái.

Không nương trụ vào đoạn kiến, thường kiến.

Không nương trụ vào hữu tánh.

Không nương trụ vào vô tánh.

Không nương trụ vào bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ.

Không nương trụ vào niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi.

Không nương trụ vào các đoạn điên đảo.

Không nương trụ vào tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí.

Không nương trụ vào khổ, tập, diệt, đạo.

Không nương trụ vào trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác.

Không nương trụ vào trí vô trước.

Không nương trụ vào minh và giải thoát.

Không nương trụ vào giải thoát tri kiến.

Không nương trụ vào địa vị của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật.

Không nương trụ vào pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật.

Không nương trụ vào Niết-bàn.

Không nương trụ vào trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại.

Không nương trụ vào tánh bình đẳng của ba đời.

Không nương trụ vào trí lực, vô úy v.v… của Phật.

Không nương trụ vào trí nhất thiết trí.

Không nương trụ vào sự viên mãn của tướng hảo.

Không nương trụ vào sự viên mãn của cõi Phật.

Không nương trụ vào sự viên mãn của Thanh văn.

Không nương trụ vào sự viên mãn của Độc giác.

Không nương trụ vào sự viên mãn của Bồ-tát.

Không nương trụ vào tất cả pháp.

Không nương trụ vào sự di chuyển.

Không nương trụ vào sự dao động.

Không nương trụ vào sự hí luận.

Do không nương trụ nên trừ bỏ tất cả, cũng không chấp trước và không nương trụ đạo. Đối với không nương trụ cũng không nương chấp; cũng không đắc đây là nương trụ, cũng không đắc ở đây nương trụ, cũng không đắc lệ thuộc nương trụ này, cũng không đắc dựa vào nương trụ này. Đối với chỗ nương trụ cũng không nương chấp.

Nếu đối với các nương trụ như vậy mà Bồ-tát không dựa, không đắc, không chấp, không thủ, không nói, không mừng, không vướng, mà trụ, không bị ô nhiễm tất cả sự nương trụ, cũng không bị chướng ngại thì vị ấy sẽ chứng pháp thanh tịnh của tất cả sự nương trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ-tát này y vào tất cả pháp, nương trụ vào trí kiến vi diệu thanh tịnh để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhờ đó mà ác ma không thể làm hại được, cả quân của ác ma cũng không thể chiến thắng được, nhưng ngược lại các vị ấy có thể chiến thắng tất cả quân ma.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát chưa phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì trước tiên nên tích tập vô lượng, vô số tư lương căn lành, cúng dường nhiều đức Phật, tôn thờ nhiều bạn lành, thưa hỏi pháp yếu với nhiều đức Phật, phát thệ nguyện rộng lớn, ý vui đầy đủ, thích thực hành bố thí cho các hữu tình, tôn trọng, giữ gìn giới thanh tịnh, nhẫn nhục và hòa nhã với mọi người, tinh tấn dõng mãnh lìa bỏ các giải đãi, tôn trọng tu hành tĩnh lự trong sáng, cung kính tu học tuệ thanh tịnh, thì đó là các Bồ-tát đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, phải siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, lấy sức trí tuệ để đánh bại các chúng ma và luôn nghĩ: Đừng để ác ma rình tìm chỗ sơ hở của chúng ta mà làm những việc quấy nhiễu.

Nhờ sức lực này khiến cho ác ma không thể làm hại, gây chướng ngại sự tu học, cũng khiến cho chúng ma không khởi tâm như vầy: Chúng ta phải rình tìm chỗ sơ hở của các Bồ-tát ấy và làm nhiễu loạn để gây chướng ngại sự tu học của họ.

Giả sử ác ma có khởi tâm ấy thì chúng sẽ tự nghĩ biết: Ta làm như vậy chắc chắn sẽ gặp khổ lớn. Do đó, tâm bọn chúng rất lo sợ: Nay chúng ta chớ có để tan thân mất mạng, nên dứt bỏ tâm quấy nhiễu ấy ngay. Thế rồi tâm xấu của ác ma biến mất.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nhờ nhân duyên này mà ác ma không làm chướng ngại sự học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa liền sanh tâm thuần tịnh thì sẽ tăng trưởng ý vui, thâm tâm tôn trọng khen ngợi công đức và tưởng vị ấy như Đại sư, nghe nói giáo pháp tương ưng với sáu Ba-la-mật-đa, cũng không sanh tâm do dự hay nghi ngờ.

Nhờ nghe pháp sâu xa mà tâm không bị mê loạn, cũng không do dự và nghi ngờ, quyết không gây nhân tạo nghiệp thiếu pháp, tâm cũng không đưa đến quả báo thiếu pháp, khuyến khích, hướng dẫn vô lượng, vô biên hữu tình tin thọ tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, khen ngợi, động viên vô lượng, vô biên hữu tình, làm cho họ tin thọ tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa.

Các Bồ-tát ấy ý vui đầu tiên thanh tịnh, tất cả ý vui không bị tạp nhiễm, các quân ma không thể nào làm chướng ngại được. Vì vị ấy biết rõ tất cả việc làm của quân ma, nên tất cả quân ma không thể nào xâm phạm được. Do đó, các vị ấy không theo sức lực của ác ma mà tu hành tự tại.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nhờ nhân duyên này mà các Bồ-tát ấy không bị quyến thuộc ác ma quấy nhiễu nữa.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không hành sắc là tướng hợp; không hành sắc là tướng lìa. Không hành thọ, tưởng, hành, thức là tướng hợp; không hành thọ, tưởng, hành, thức là tướng lìa.

Không hành nhãn là tướng hợp; không hành nhãn là tướng lìa. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng hợp; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng lìa.

Không hành sắc là tướng hợp; không hành sắc là tướng lìa. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng hợp; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng lìa.

Không hành nhãn thức là tướng hợp; không hành nhãn thức là tướng lìa. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng hợp; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng lìa.

Không hành tướng của sắc là tướng hợp, lìa. Không hành tướng của thọ, tưởng, hành, thức là tướng hợp, lìa.

Không hành tướng của nhãn là tướng hợp, lìa. Không hành tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng hợp, lìa.

Không hành tướng của sắc là tướng hợp, lìa. Không hành tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng hợp, lìa.

Không hành tướng của nhãn thức là tướng hợp, lìa. Không hành tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng hợp, lìa.

Không hành sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành duyên với sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành duyên với thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành duyên với nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành duyên với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành duyên với sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành duyên với thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành duyên với nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành duyên với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành sự phát sanh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành sự phát sanh của thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành sự phát sanh của nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành sự phát sanh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành sự phát sanh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành sự phát sanh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành sự phát sanh của nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành sự phát sanh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với tự tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với tự tánh của nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với tự tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với tự tánh của nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành bản tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành bản tánh của nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành bản tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành bản tánh của nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với bản tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với bản tánh của nhãn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với bản tánh của sắc là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với bản tánh của nhãn thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành thọ, tưởng, hành, thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành nhãn của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành nhãn thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với thọ, tưởng, hành, thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với nhãn của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với nhãn thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành như vậy thì không cùng sắc hoặc hợp, hoặc lìa; không cùng thọ, tưởng, hành, thức hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng nhãn hoặc hợp, hoặc lìa; không cùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng sắc hoặc hợp, hoặc lìa; không cùng thanh, hương, vị, xúc, pháp hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng nhãn thức hoặc hợp, hoặc lìa; không cùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng danh sắc hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng điên đảo, tà kiến, các triền cái, và các ái hành hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng cõi Dục, Sắc, Vô sắc hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng tham, sân, si hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng ngã, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi, trưởng thành, người, ý sanh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và có tưởng hay không có tưởng hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng đoạn kiến, thường kiến hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng giới, xứ hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng hữu tình giới, pháp giới hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng duyên khởi hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng năm diệu dục hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng tạp nhiễm, thanh tịnh hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng đoạn điên đảo v.v… hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng khổ, tập, diệt, đạo hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng thiền chỉ, thiền quán hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng minh và giải thoát hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng giải thoát tri kiến hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng vô lượng thần thông hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng địa vị của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác, trí vô trước hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng sanh tử, Niết-bàn hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng trí lực, vô úy v.v… của Phật hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng tướng hảo viên mãn hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng cõi Phật trang nghiêm hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng sự viên mãn của Thanh văn hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng sự viên mãn của Độc giác hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng sự viên mãn của Bồ-tát hoặc hợp, hoặc lìa.

Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả các pháp không hợp, lìa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chẳng phải tất cả pháp vì hợp hay lìa mà hiện tiền.

Này Thiện Dũng Mãnh! Hợp nghĩa là thường, mà lìa nghĩa là đoạn.

Này Thiện Dũng Mãnh! Bản tánh của các pháp không do giác sát mà có hợp, có lìa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Bản tánh của các pháp không vì hợp, lìa mà hiện tiền. Thiện Dũng Mãnh! Nếu bản tánh các pháp vì hợp, vì lìa mà hiện tiền, thì các pháp ấy có thể đắc có người làm, người sai làm, người phát khởi, người sai phát khởi, người nhận, người sai nhận, người biết, người khiến biết, người thấy, người khiến thấy, người hợp, người khiến hợp, người lìa, người khiến lìa.

Nếu là như vậy thì Như Lai cũng có thể thiết lập ra các pháp, đây là người làm, người sai làm, cho đến người lìa, người khiến lìa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Do tánh các pháp không vì hợp, lìa mà hiện tiền, nên các pháp không có người làm, người sai làm, cho đến người lìa, người khiến lìa, đều không có một chút gì mà có thể đắc hay không thể đắc, cho nên Phật không thiết lập ra pháp ấy.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các pháp đều do điên đảo mà phát sanh, chứ các điên đảo không có hợp, có lìa. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì các điên đảo không có một chút nào có thể đắc, và tánh thật sanh khởi của nó cũng không thể đắc. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì điên đảo chẳng phải thật, chỉ là hư vọng dối trá, không có sở hữu, nên ở trong đó không có một chút pháp nào thật để gọi là điên đảo.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì điên đảo mê hoặc mà hữu tình thiết lập hữu tình, hiển hiện các loài hữu tình hư vọng phân biệt, làm cho các hữu tình vọng sanh nương chấp, động chuyển và hí luận.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như nắm tay không mà lừa gạt trẻ con, nó không biết cho là vật thật. Kẻ phàm phu ngu si cũng như vậy, bị hư vọng điên đảo làm mê hoặc, đối với tánh của các pháp không có hợp, lìa mà thấy sai lầm hợp, lìa nên cho là thật có. Do ngu si điên đảo, ở trong không thật có mà khởi tưởng là thật có, nên khó giải thoát. Thế nên, tất cả phàm phu ngu si vì thấy sai lầm về hợp, lìa mà  bị điên đảo trói buộc nên rong ruổi, trôi lăn trong sanh tử. Vì cho rằng, đắc hợp, trụ hợp, thấy hợp, chấp hợp, liền có sự chấp có; còn lìa nghĩa là trừ bỏ hợp mà đắc lìa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu trường hợp nào có hợp thì trường hợp đó có lìa. Nếu ở trong hợp mà không đắc, không nương dựa và không khởi chấp trước thì không thấy lìa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu ở trong lìa mà có đắc, có nương dựa và khởi chấp trước thì đó là có hợp, nên khổ đau sanh tử chưa thể giải thoát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ-tát ấy quán sát thật nghĩa này, nên đối với tánh các pháp chẳng hợp, chẳng lìa; cũng không vì pháp hoặc hợp, hoặc lìa mà có làm hoặc có tu học.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nhờ biết rõ về hợp, lìa mà các Bồ-tát đã tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Bồ-tát nào an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, thì vị ấy mau viên mãn pháp trí nhất thiết.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì không hành sắc là dính mắc hay không dính mắc. Không hành thọ, tưởng, hành, thức dính mắc hay không dính mắc.

Không hành nhãn dính mắc hay không dính mắc. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý dính mắc hay không dính mắc.

Không hành sắc dính mắc hay không dính mắc. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp dính mắc hay không dính mắc.

Không hành nhãn thức dính mắc hay không dính mắc. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức dính mắc hay không dính mắc.

Không hành sự thanh tịnh của sắc dính mắc hay không dính mắc. Không hành sự thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức dính mắc hay không dính mắc.

Không hành sự thanh tịnh của nhãn dính mắc hay không dính mắc. Không hành sự thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý dính mắc hay không dính mắc.

Không hành sự thanh tịnh của sắc dính mắc hay không dính mắc. Không hành sự thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp dính mắc hay không dính mắc.

Không hành sự thanh tịnh của nhãn thức dính mắc hay không dính mắc. Không hành sự thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức dính mắc hay không dính mắc.

Không hành sắc duyên dính mắc hay không dính mắc. Không hành thọ, tưởng, hành, thức duyên dính mắc hay không dính mắc.

Không hành nhãn duyên dính mắc hay không dính mắc. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý duyên dính mắc hay không dính mắc.

Không hành sắc duyên dính mắc hay không dính mắc. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp duyên dính mắc hay không dính mắc.

Không hành nhãn thức duyên dính mắc hay không dính mắc. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức duyên dính mắc hay không dính mắc.

Không hành sắc dính mắc hay không dính mắc hợp hay lìa. Không hành thọ, tưởng, hành, thức dính mắc hay không dính mắc hợp hay lìa.

Không hành nhãn dính mắc hay không dính mắc hợp hay lìa. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý dính mắc hay không dính mắc hợp hay lìa.

Không hành sắc dính mắc hay không dính mắc hợp hay lìa. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp dính mắc hay không dính mắc hợp hay lìa.

Không hành nhãn thức dính mắc hay không dính mắc hợp hay lìa. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức dính mắc hay không dính mắc hợp hay lìa.

Không hành duyên thanh tịnh của sắc là hợp hay lìa. Không hành duyên thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức là hợp hay lìa.

Không hành duyên thanh tịnh của nhãn là hợp hay lìa. Không hành duyên thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là hợp hay lìa.

Không hành duyên thanh tịnh của sắc là hợp hay lìa. Không hành duyên thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp là hợp hay lìa.

Không hành duyên thanh tịnh của nhãn thức là hợp hay lìa. Không hành duyên thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là hợp hay lìa.

Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả đều có di chuyển, nương chấp, dao động, hoặc hành, hoặc quán. Bồ-tát biết rõ tất cả như vậy, ở trong đó không hành, không quán nữa.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc. Không hành thọ, tưởng, hành, thức của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc.

Không hành nhãn của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc.

Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc.

Không hành nhãn thức của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc.

Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành thọ, tưởng, hành, thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành nhãn của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành nhãn thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức của quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc, duyên thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành thọ, tưởng, hành, thức của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc, duyên thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành nhãn của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc, duyên thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc, duyên thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành sắc của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc, duyên thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc, duyên thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành nhãn thức của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc, duyên thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức của quá khứ, vị lai, hiện tại dính mắc hay không dính mắc, duyên thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đều không thấy hành và không thấy pháp để hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ-tát ấy đều không có sự hành nên có thể ngộ nhập biết rõ các hành mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát tu hành như vậy thì mau được viên mãn pháp trí nhất thiết.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không hành sắc hiển bày hay không hiển bày. Không hành thọ, tưởng, hành, thức hiển bày hay không hiển bày.

Không hành nhãn hiển bày hay không hiển bày. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý hiển bày hay không hiển bày.

Không hành sắc hiển bày hay không hiển bày. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp hiển bày hay không hiển bày.

Không hành nhãn thức hiển bày hay không hiển bày. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức hiển bày hay không hiển bày.

Không hành sắc tịch tĩnh hay không tịch tĩnh. Không hành thọ, tưởng, hành, thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.

Không hành nhãn tịch tĩnh hay không tịch tĩnh. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.

Không hành sắc tịch tĩnh hay không tịch tĩnh. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.

Không hành nhãn thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.

Không hành bản tánh của sắc thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành bản tánh của nhãn thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành bản tánh của sắc thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành bản tánh của nhãn thức thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành bản tánh của sắc hiển bày hay không hiển bày. Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức hiển bày hay không hiển bày.

Không hành bản tánh của nhãn hiển bày hay không hiển bày. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý hiển bày hay không hiển bày.

Không hành bản tánh của sắc hiển bày hay không hiển bày. Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp hiển bày hay không hiển bày.

Không hành bản tánh của nhãn thức hiển bày hay không hiển bày. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức hiển bày hay không hiển bày.

Không hành bản tánh của sắc tịch tĩnh hay không tịch tĩnh. Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.

Không hành bản tánh của nhãn tịch tĩnh hay không tịch tĩnh. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.

Không hành bản tánh của sắc tịch tĩnh hay không tịch tĩnh. Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.

Không hành bản tánh của nhãn thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức tịch tĩnh hay không tịch tĩnh.

Không hành bản tánh của sắc viễn ly hay không viễn ly. Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức viễn ly hay không viễn ly.

Không hành bản tánh của nhãn viễn ly hay không viễn ly. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý viễn ly hay không viễn ly.

Không hành bản tánh của sắc viễn ly hay không viễn ly. Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp viễn ly hay không viễn ly.

Không hành bản tánh của nhãn thức viễn ly hay không viễn ly. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức viễn ly hay không viễn ly.

Không hành bản tánh của sắc thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly. Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly.

Không hành bản tánh của nhãn thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly.

Không hành bản tánh của sắc thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly. Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly.

Không hành bản tánh của nhãn thức thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly. Không hành bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì mau viên mãn pháp trí nhất thiết.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không nương tựa vào sắc. Không nương tựa vào thọ, tưởng, hành, thức.

Không nương tựa vào nhãn. Không nương tựa vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

Không nương tựa vào sắc. Không nương tựa vào thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Không nương tựa vào nhãn thức. Không nương tựa vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Cũng không nương tựa vào thanh tịnh của sắc. Không nương tựa vào thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức.

Không nương tựa vào thanh tịnh của nhãn. Không nương tựa vào thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

Không nương tựa vào thanh tịnh của sắc. Không nương tựa vào thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Không nương tựa vào thanh tịnh của nhãn thức. Không nương tựa vào thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Không nương tựa vào duyên thanh tịnh của sắc. Không nương tựa vào duyên thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức.

Không nương tựa vào duyên thanh tịnh của nhãn. Không nương tựa vào duyên thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

Không nương tựa vào duyên thanh tịnh của sắc. Không nương tựa vào duyên thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Không nương tựa vào duyên thanh tịnh của nhãn thức. Không nương tựa vào duyên thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không chấp trước sắc. Không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức.

Không chấp trước nhãn. Không chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

Không chấp trước sắc. Không chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Không chấp trước nhãn thức. Không chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Không chấp trước thanh tịnh của sắc. Không chấp trước thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức.

Không chấp trước thanh tịnh của nhãn. Không chấp trước thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

Không chấp trước thanh tịnh của sắc. Không chấp trước thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Không chấp trước duyên thanh tịnh của sắc. Không chấp trước duyên thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức.

Không chấp trước duyên thanh tịnh của nhãn. Không chấp trước duyên thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

Không chấp trước duyên thanh tịnh của sắc. Không chấp trước duyên thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Không chấp trước duyên thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước duyên thanh tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành như vậy thì mau viên mãn pháp trí nhất thiết.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì gần được mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành như vậy thì sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, và tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ, toàn thân màu vàng ròng với vô biên ánh sáng, giống như long tượng nhìn không thể thấy đảnh.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì gần gũi được trí kiến vô trước, vô ngại ở quá khứ, vị lai và hiện tại; cũng gần gũi Như Lai chỉ dạy, truyền trao hướng dẫn; cũng gần gũi được trí kiến vô trước, vô ngại ở quá khứ, vị lai và hiện tại. Các vị ấy chắc chắn sẽ được thọ ký.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành được như vậy thì mau chứng tất cả sự thanh tịnh pháp Phật, mau chứng đắc sự thanh tịnh cõi Phật, mau tiếp nhận sự viên mãn của Thanh văn, mau tiếp nhận sự viên mãn của Bồ-tát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ-tát hành như vậy, thì không trụ vào sắc; không trụ vào thọ, tưởng, hành, thức. Không trụ vào nhãn; không trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Không trụ vào sắc; không trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không trụ vào nhãn thức; không trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. Không trụ vào danh sắc; không trụ vào điên đảo, tà kiến, triền cái, ái hành; không trụ cõi Dục, Sắc và Vô sắc; không trụ vào hữu tình giới, pháp giới; không trụ vào địa, thủy, hỏa, phong, không và thức giới; không trụ vào ngã, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi, trưởng thành, người, ý sanh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và các tưởng kia; không trụ vào đoạn, thường; không trụ vào tạp nhiễm, thanh tịnh; không trụ vào duyên khởi; không trụ vào bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, an nhẫn, sân giận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, diệu tuệ, ác tuệ.

Không trụ vào niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi; không trụ đoạn điên đảo v.v…; không trụ vào tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí.

Không trụ vào minh và giải thoát, giải thoát trí kiến.

Không trụ vào trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác và trí vô trước.

Không trụ vào thiền chỉ, thiền quán.

Không trụ vào vô lượng thần thông.

Không trụ vào khổ, tập, diệt, đạo.

Không trụ vào địa vị của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật.

Không trụ vào pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật.

Không trụ vào sanh tử, Niết-bàn.

Không trụ vào trí lực, vô úy v.v… của Phật.

Không trụ vào trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại.

Không trụ vào sự viên mãn của cõi Phật.

Không trụ vào sự viên mãn của chúng Thanh văn.

Không trụ vào sự viên mãn của chúng Bồ-tát.

Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp không thể trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp chẳng có ý nghĩa để trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không nắm giữ, do không nắm giữ nên không thể trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu tất cả pháp có thể trụ, thì có thể thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp thường trụ. Như Lai cũng có thể an trụ vào các pháp, thị hiện ra các pháp, đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp có thể tích tập.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp không thể an trụ, không thể nắm giữ, cũng không thể tích tập, cho nên không có pháp nào là thường trụ. Do đó mà Như Lai không an trụ vào pháp nào, cũng không thị hiện, đây là pháp có thể nắm giữ, hay đây là pháp có thể tích tập.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không có một chút pháp nào có thể thật sanh cả. Vì không có một chút pháp nào thật sanh, nên hoàn toàn không có chỗ trụ, do đó mà nói các pháp không có ý nghĩa trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Lấy sự không chỗ trụ và có thể trụ làm phương tiện, nên nói tất cả các pháp hoàn toàn không có chỗ trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không có một chút pháp nào có thể nói trụ cả. Cũng như bốn sông lớn đều bắt nguồn từ ao Vô nhiệt chảy ra. Khi chưa vào biển lớn thì nó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa trụ. Các pháp cũng vậy, cho đến không tạo và các hành chưa tận thì hoàn toàn không có ý nghĩa an trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không tạo, không hành nghĩa là trong đây không có chỗ trụ, không trụ và không có sự trở ngại; tất cả đều dựa vào thế tục mà nói, chứ thật ra không có trụ và không có sự trở ngại, không có sự cứu cánh, cũng không phải không trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không tạo, không hành là dựa vào thế tục mà nói, cũng như những gì hữu tình thấy ở thế gian đều chẳng thật có trụ, hoặc có sự trở ngại hay có sự cứu cánh, cũng không phải không trụ, chẳng phải không tạo, không hành, có thật trụ. Cho nên có thể cho rằng, nương thế tục mà nói tất cả pháp đều có nghĩa Vô trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chúng Đại Bồ-tát như vậy chỉ dựa vào tất cả pháp Vô trụ làm phương tiện, để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát hành như vậy thì mau viên mãn pháp trí nhất thiết, gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mau an tọa tòa Bồ-đề vi diệu, mau chứng đắc trí nhất thiết trí, mau viên mãn trí kiến của ba đời, mau viên mãn diệu trí, biết rõ tâm hành sai khác của tất cả hữu tình.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các chúng Đại Bồ-tát muốn làm lợi ích cho các tất cả hữu tình, muốn lấy tài của để bố thí cho tất cả hữu tình được đầy đủ, muốn dùng pháp bố thí cho tất cả hữu tình để họ mãn nguyện, muốn phá vỡ vỏ trứng vô minh cho tất cả hữu tình, muốn trao đại trí, Phật trí cho tất cả hữu tình, muốn thương xót khắp tất cả hữu tình, muốn làm lợi ích an lạc cho khắp tất cả hữu tình, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ tài thí và pháp thí, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ giới thanh tịnh, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ an nhẫn hòa nhã, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ sự tinh tấn dõng mãnh, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ tĩnh lự trong sáng, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ trí tuệ vi diệu, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ giải thoát cứu cánh, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ trí kiến giải thoát, muốn giúp cho tất cả hữu tình đều sanh vào các cõi lành, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ minh và giải thoát, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ Niết-bàn rốt ráo, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ diệu pháp của chư Phật, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ sự viên mãn các công đức, muốn chuyển pháp luân Vô thượng vi diệu mà tất cả thế gian, Sa-môn, Phạm chí, trời, ma, ngoại đạo đều không thể chuyển pháp luân như vậy, muốn giảng nói diệu pháp ở thế gian, muốn như thật thọ ký địa vị chư Phật, muốn như thật thọ ký địa vị Bồ-tát, muốn như thật thọ ký địa vị Độc giác, muốn như thật thọ ký địa vị Thanh văn và muốn biết bản nguyện căn lành của các loài hữu tình, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy; hãy dõng mãnh tinh tấn đừng bao giờ để gián đoạn và hãy nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà tinh tấn siêng năng tu học để không bị tham luyến.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ta hoàn toàn không thấy các pháp khác có thể làm cho Bồ-tát mau viên mãn sự cầu diệu pháp Vô thượng của chư Phật, giống như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói ở đây. Nếu các Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy và tinh tấn siêng năng tu học không bao giờ tạm bỏ, thì sẽ mau viên mãn pháp trí nhất thiết.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đến rốt ráo, thì các Bồ-tát ấy gần đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chắc chắn không nghi ngờ gì nữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu thiện nam, tín nữ v.v… nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà hoan hỉ tín thọ, thật tâm chí thành thì Ta nói những người này có thể đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì thiện căn của họ rất thù thắng, mau đạt đến cứu cánh. Và nhờ giữ gìn căn lành mà các thiện nam, tín nữ v.v… ấy nhất định tích tập được tư lương của đại tuệ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát nắm giữ phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, tương ưng với giáo pháp ấy, thì các Bồ-tát này dù hiện tại không được Phật thọ ký, nhưng phải biết vị này cũng gần được Phật thọ ký, hoặc không bao lâu nữa sẽ được Phật thọ ký trong hiện tại.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người tinh tấn thọ học mười nghiệp đạo thiện đã đạt đến cứu cánh, nên biết căn lành của người đó đã được thành thục, gần được sanh về Bắc Câu-lô châu. Cũng vậy, Bồ-tát nào nắm giữ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, thì nên biết vị ấy đã gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề như sở cầu, chắc chắn không nghi ngờ gì nữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người thích làm việc bố thí, đối với của báu họ không hề tham tiếc; cũng thường lấy bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự để giáo hoá các hữu tình, giúp đỡ hữu tình giữ giới tu hạnh nhẫn nhục và đánh đổ tâm kiêu mạn. Khi tu các hạnh đạt đến cứu cánh như vậy thì họ được nhiều của cải và sanh vào dòng tộc cao quí. Cũng vậy, Bồ-tát nào nắm giữ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, thì nên biết vị ấy đã gần đến địa vị Bất thối chuyển.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người thích tu đầy đủ bố thí, trì giới, an nhẫn, từ bi thương xót hữu tình và khuyên họ trì tịnh giới, để có thể tạo tác chiêu cảm nghiệp tăng thượng, thì nên biết người ấy mau đạt được địa vị Chuyển luân vương. Cũng vậy, Bồ-tát nào nắm giữ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, thì nên biết vị ấy sẽ mau ngồi tòa Bồ-đề vi diệu.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như Chuyển luân vương sắp lên ngôi cao, vào ngày mười lăm nửa tháng có trăng, tắm rửa thọ trai rồi lên đại điện, ngồi tòa sư tử và mặt hướng về phương Đông. Từ trên không có đại luân báu (xe báu) đến thì nên biết vị ấy đã nhận ngôi vị Chuyển luân và không bao lâu vị ấy sẽ được đầy đủ bảy báu. Cũng vậy, Bồ-tát nào nắm giữ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, thì nên biết vị ấy sẽ mau đạt được trí nhất thiết trí.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như loài hữu tình thành tựu căn lành thù thắng, thích tu hành hạnh thanh bạch, tin hiểu sâu sắc, nhàm chán sự tai hoạn về thân người, đầy đủ giới thanh tịnh, thích phục dịch việc của chúng Tăng, tâm vị ấy luôn luôn nghĩ đến sanh thiên và che chở bảo hộ mọi người trong bốn châu, thì nên biết những người đó không bao lâu sẽ làm Tứ đại thiên vương bảo hệ bốn châu. Cũng vậy, Bồ-tát nào đem giáo pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, bố thí cho các loài hữu tình mà tâm không hề tham tiếc, thì nên biết các vị ấy không bao lâu nữa sẽ đắc ngôi vị Pháp vương và được tự tại với tất cả các pháp.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như loài hữu tình thành tựu căn lành thù thắng thanh tịnh, hơn sự thành tựu nói ở trước là: Về tài bảo mà đã đạt được, trước tiên đem bố thí cho người khác, sau đó mình mới sử dụng. Làm việc gì cũng làm cho hữu tình trước, sau đó mới làm cho mình. Thường tự thủ hộ, không bị sự ô nhiễm của tham mà làm phi pháp, bất bình đẳng. Tâm vị ấy luôn luôn nguyện làm Thiên chủ. Đối với sự tu thiện tâm vị ấy rất bền chắc, nên biết những người đó không bao lâu chắc chắn sẽ sanh lên cõi trời thứ Ba mươi ba và làm trời Đế Thích. Cũng vậy, Bồ-tát nào dùng pháp yếu tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, bố thí cho các hữu tình mà tâm không hề tham tiếc, thì nên biết vị ấy không bao lâu nhất định sẽ làm vị Pháp vương và được đại tự tại với tất cả các pháp.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người đắc bốn phạm trụ (từ, bi, hỷ, xả) nên biết vị này không bao lâu nữa sẽ sanh lên Phạm thiên. Cũng vậy, Bồ-tát nào dùng pháp yếu tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, bố thí cho các hữu tình mà tâm không hề tham tiếc, thì nên biết vị ấy không bao lâu sẽ chuyển diệu pháp luân và bố thí cho các hữu tình được lợi ích an lạc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như cơn mưa khi sắp rơi xuống mặt đất, thì ta thấy trên hư không mây kéo dầy đặc, bầu trời tối sầm dần và tuôn xuống cơn mưa lớn, làm cho nước ao hồ, sông đầm lênh láng. Đất cao thấp đều thấm nhuần, mây dầy tuôn mưa ngọt xuống thấm mọi nơi, làm cho dược thảo, thực vật, cỏ cây, cành lá, hoa quả, rừng rậm đều sum suê xanh tốt. Nước trong đất, núi, sông thoảng hương thơm phức. Ở suối, ao nơi nào cũng có hoa quả.

Bấy giờ, mặt đất rất khả ái, loài người chẳng phải người nhìn thấy đều thích thú, hái hoa quả để ngửi hương và nếm mùi vị. Cũng vậy, Bồ-tát nào nắm giữ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tinh tấn siêng năng tu học, thì nên biết vị ấy không bao lâu sẽ được thấm nhuần trí nhất thiết trí, khéo thể nhập trí nhất thiết trí và mở bày được trí nhất thiết trí; do đó, làm thấm nhuần tất cả loài hữu tình, khai thị rõ ràng pháp bảo Vô thượng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như nước trong cung của Long vương Vô Nhiệt chảy ra bốn sông lớn và cùng một hướng chảy về đầy biển cả. Cũng vậy, Bồ-tát nào nắm giữ được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà ở trong đó siêng năng tinh tấn tu học, thì vị ấy có thể phát ra những dòng đại pháp và đem đại pháp ấy bố thí đầy đủ cho các hữu tình.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như bầy chim ở trên núi Diệu Cao, mặc dù hình dạng của mỗi loài khác nhau, nhưng chúng cùng một màu. Cũng vậy, nếu Bồ-tát nắm giữ được Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà tin thọ tu hành thì đồng đến một hướng. Đó là cùng đi về hướng trí nhất thiết của Như Lai .

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như biển lớn là nơi dung chứa nhiều dòng nước và thường làm chỗ quay về cho các nhánh sông. Cũng vậy, nếu Bồ-tát nắm giữ được Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà tinh tấn siêng năng tu học thì vô cùng thông đạt và lợi ích. Phải biết không bao lâu vị này sẽ làm biển lớn chứa tất cả pháp, mau thành tựu tất cả pháp khí, thường làm chỗ quay về cho các pháp, nên các pháp thế gian không thể nào bị quấy nhiễu được.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như mặt trời mọc lên thì làm tiêu tan các ánh sáng khác. Cũng vậy, Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà xuất hiện ở thế gian thì tất cả ngoại đạo đều ẩn mất.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu sở học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Bồ-tát mà xuất hiện ở thế gian, thì sẽ làm pháp chiếu sáng cho các loài hữu tình.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát xuất hiện ở thế gian, làm cho căn lành của các hữu tình được chiếu sáng, làm ruộng phước chơn tịnh cho các loài hữu tình, thì tất cả hữu tình đều nên cúng dường, tất cả hữu tình đều phải quay về và tất cả hữu tình đều phải khen ngợi vị ấy.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa là sự học tối thắng trong các việc học. Cũng vậy, người học Bát-nhã ba-la-mật-đa là làm con đường Niết-bàn thanh tịnh cho khắp các hữu tình. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì trong các việc học, học Bát-nhã ba-la-mật-đa là tối thắng đệ nhất, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, là đẳng, là vô đẳng đẳng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì làm cho tất cả sự học đều đạt đến cứu cánh, có thể thọ trì tất cả những gì đã học, và đối với tất cả sự học đều có thể khai thị, cũng có thể bẻ gãy được tất cả sự học của các tà luận khác.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, thì có thể tu hành các hạnh Bồ-tát của chư Phật trong ba đời.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đối với sở học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, chư Phật Thế Tôn đã, đang, sẽ an trụ rất hoàn hảo và vì các hữu tình cũng đã, đang và sẽ thuyết pháp học Vô thượng thanh tịnh như vậy.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì sở học của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy sẽ vượt qua sở học tối thắng, tối tôn của thế gian.

Này Thiện Dũng Mãnh! Học Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy là học tự nhiên, tất cả thế gian không ai sánh kịp.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì trong các pháp hoàn toàn không có sở học. Nghĩa là dù thế gian, hay xuất thế gian, hữu vi hay vô vi, hữu lậu hay vô lậu, có tội hay không tội đều không sanh sự chấp trước với tất cả pháp môn như vậy; cũng không chấp trước và trụ vào tất cả pháp; cũng muốn các hữu tình không điên đảo nên khai mở chỉ bày pháp Vô thượng thanh tịnh mà mình đã học. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả các pháp không có chấp trước, không có trói buộc nên không có một chút pháp nào là chấp trước, là trói buộc mà hiện tiền. Do đây mà không có ý nghĩa được giải thoát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát; thọ, tưởng, hành, thức, không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Nhãn không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Sắc không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát; thanh, hương, vị, xúc, pháp không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Nhãn thức không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, thức không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Danh sắc không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát; điên đảo, tà kiến, triền cái, ái hành không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Tham, sân, si không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Dục giới, sắc giới và Vô sắc giới không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Hữu tình giới, pháp giới không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Ngã, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi, trưởng thành, người, ý sanh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và các tưởng kia không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Địa, thủy, hỏa, phong, không và thức giới không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Duyên khởi, nhiễm tịnh không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, an nhẫn, sân giận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Khổ, tập, diệt, đạo không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Niêm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Đoạn điên đảo… không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Vô lượng thần thông không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác và trí vô trước không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Minh và giải thoát, giải thoát trí kiến không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Địa vị phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Sanh tử và Niết-bàn không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Trí lực, vô sở úy… của Phật không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát.

Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả các pháp mà có chấp trước thì không thể đắc, trói buộc cũng không thể đắc. Nếu chấp trước và trói buộc đã không thì từ sự giải thoát kia cũng không thể đắc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói chấp trước và trói buộc nghĩa là chấp trước và trói buộc vào pháp tánh. Nhưng pháp tánh đã không có nên không thể nói có chấp trước, có trói buộc. Nói giải thoát nghĩa là giải thoát khỏi sự chấp trước và trói buộc; chấp trước và trói buộc đã không nên giải thoát cũng không có.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không giải thoát nghĩa là đối với các pháp hoàn toàn không thể đắc tánh giải thoát. Nếu có thể thấy các pháp như vậy thì gọi là vô trước trí kiến.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói không chấp trước nghĩa là ở trong đây chấp trước không thể đắc, vì chấp trước tánh không trước, chấp trước tánh không thực nên gọi là không chấp trước. Vì trong đây người chấp trước, pháp bị chấp trước do cái này, vì cái này, nhân cái này, thuộc cái này đều không thể đắc, nên gọi là không chấp trước.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói không trói buộc nghĩa là trong đây trói buộc không thể đắc, trói buộc tánh không trói buộc, trói buộc tánh không thật, nên gọi là không trói buộc. Vì trong đây người trói buộc, pháp bị trói buộc do cái này, vì cái này, nhân cái này, thuộc cái này đều không thể đắc, nên gọi là không trói buộc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu không chấp trước, không trói buộc vào các pháp, vậy tại sao nói rằng đối với pháp có giải thoát?

Này Thiện Dũng Mãnh! Không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát, lìa trói buộc được mát mẻ gọi là chơn giải thoát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu không chấp trước các pháp thì không bị trói buộc. Nhưng không trói buộc các pháp mà chấp trước thì không giải thoát. Xa lìa ba việc (không chấp trước, không trói buộc, không giải thoát), và lìa trói buộc được mát mẻ mới gọi là chơn giải thoát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy Bồ-tát nào ngộ nhập được các pháp mà không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát, thì vị ấy sẽ đắc chơn trí kiến mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu Bồ-tát hành được như vậy là gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ta lấy pháp ấn vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, ấn chứng cho các chúng Đại Bồ-tát, giúp họ đoạn trừ lưới nghi rồi tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mà mau đến cứu cánh.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nay Ta sẽ giữ pháp ấn này tồn tại lâu dài ở thế gian, để đem lợi ích an lạc cho các hữu tình. Vì sao? Vì chúng Thanh văn của Ta không có sức thần thông thù thắng để giữ gìn pháp ấn vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, cho đến thời gian khi Ta diệt độ khoảng sau năm trăm năm, để làm lợi ích cho các hữu tình.

Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy năm trăm Bồ-tát đứng đầu như, Bồ-tát Hiền Thủ, Bồ-tát Đạo Sư v.v… và Đại Bồ-tát Thiện Dũng Mãnh:

– Này thiện nam tử! Các ông nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mà từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp chính Như Lai đã từng tu tập như vậy để làm đầu. Vì Pháp tạng vô thượng của chư Như Lai lưu xuất từ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, kiến lập cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Cho nên các ông nên giữ gìn Pháp tạng ấy. Vậy khi Ta nhập Niết-bàn khoảng sau năm trăm năm, Chánh pháp vô thượng ấy khi sắp hoại diệt thì vào thời gian chuyển tiếp, các ông hãy vì các hữu tình mà giảng nói, khai thị rộng rãi để họ nghe đạt lợi ích lớn.

Khi nghe Phật dạy như vậy thì các Bồ-tát đều đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật và chắp tay cung kính thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mà Như Lai đã từng tu học từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp như vậy để làm đầu. Vì Pháp tạng vô thượng lưu xuất từ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, và được kiến lập cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Vậy chúng con sẽ giữ gìn Pháp tạng này cho đến thời gian khi Thế Tôn nhập Niết-bàn khoảng sau năm trăm năm, lúc Chánh pháp vô thượng sắp hoại diệt, cho đến thời gian chuyển tiếp thì chúng con sẽ giảng nói và khai thị rộng rãi cho các loài hữu tình, để họ nghe rồi sẽ đạt được lợi ích lớn.

Bạch Thế Tôn! Vào thời gian đó, có rất nhiều sự sợ hãi, rất nhiều hiểm nạn, rất nhiều sự bạo ác và thời gian ấy các hữu tình phần nhiều tạo nghiệp đưa đến quả báo thiếu pháp, lòng họ tham dục, bị tham bất bình đẳng và bị tham phi pháp làm nhiễm ô, bỏn sẻn, ganh ghét, trói buộc tâm của họ. Họ nhiều sân hận, thích nói lời hung ác, dua nịnh dối trá, thích làm phi pháp, nhiều khinh khi, đấu tranh kiện tụng, chống đối nhau. Sống không có oai nghi giới luật, bị tham đắm che mờ, giải đãi càng tăng thượng, tinh tấn thì yếu kém. Họ quên mất chánh niệm, thường không biết đúng. Miệng mồm khoác lác, cống cao ngã mạn, thích làm nghiệp ác che giấu trong lòng. Tham, sân, si càng ngày càng tăng, còn căn lành thì mỏng ít, bị màng vô minh che lấp nên những việc của họ làm ra đều thuận với bè đảng của ma. Thường làm oán tặc hại đến pháp luật thâm sâu, là giặc lớn của kho pháp báu. Vì bẩm tánh xấu ác của họ nên khó có ai gần gũi được.

Bạch Thế Tôn! Từ nay chúng con quyết định giữ gìn Pháp tạng vô thượng mà đức Như Lai đã tu tập như vậy từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp, để làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thời gian đó sẽ có rất ít hữu tình siêng năng thích tìm đọc Pháp tạng này. Nhưng bản tánh của các hữu tình ấy thì chân thật không dua nịnh, dối trá, họ thà bỏ thân mạng chứ không phá pháp, cũng không phỉ báng và nhàm chán chống đối pháp. Chúng con sẽ làm lợi ích cho họ, bằng cách siêng năng chỉ dạy pháp thâm sâu ấy và khen ngợi, khuyến khích, vui mừng giúp họ siêng năng tu học.

Bấy giờ, Thế Tôn dùng thần lực hộ trì Pháp tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu vô thượng vi diệu, khiến cho bọn ác ma không thể nào làm hoại diệt được. Lại dùng oai lực hộ trì người có thể giữ gìn và tinh tấn tu hành Pháp tạng này, giúp họ cắt đứt lưới ma, được giải thoát, để sự tu hành của họ mau đạt đến cứu cánh.

Khi ấy, đức Phật Thế Tôn mỉm cười phóng ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, các hữu tình ở cõi người, trên trời, nhờ ánh sáng của Phật đều thấy mặt nhau.

Trong hội này có trời, rồng, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già và chúng thần khác đều đem những loại hương hoa đẹp trên trời, dâng rải lên cúng dường Thế Tôn, rồi lớn tiếng ca ngâm:

– Sức oai thần lớn của Như Lai thật hy hữu, đã hộ trì Pháp tạng và người tu hành, khiến cho quân ác ma không thể phá hoại được, cắt lưới các ác ma, được đại tự tại, việc tu hành mau đạt đến cứu cánh. Nếu có thiện nam, tín nữ v.v… nào thọ trì, đọc tụng pháp môn này, giảng thuyết quảng bá cho người khác thì không sợ các quân ác ma. Hoặc Bồ-tát nào thọ trì, đọc tụng pháp môn này và rộng nói cho người khác, thì vị ấy có thể chiến thắng các quân ác ma và tất cả ác ma không thể nào làm trở ngại được.

Phật bảo Thiện Dũng Mãnh:

– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như chư Thiên nói. Này Thiện Dũng Mãnh! Như Lai đối với pháp môn Vô thượng này đã kết cương giới các ác ma, khiến tất cả võng lưới của chúng không gây chướng ngại pháp môn này.

Này Thiện Dũng Mãnh! Hôm nay Như Lai nương vào pháp môn này mà đánh bại tất cả thế lực của các ác ma.

Này Thiện Dũng Mãnh! Hôm nay Như Lai sẽ bảo hộ pháp môn này, ngăn chặn các ác ma không cho xâm tổn nữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các thiện nam, tín nữ v.v… tịnh tín thọ trì, đọc tụng pháp môn này và giảng nói rộng rãi cho người khác, thì tất cả ác ma không thể quấy nhiễu họ được, ngược lại họ có thể chiến thắng các ma oán. Hoặc các Bồ-tát nào thọ trì, đọc tụng pháp môn này và giảng nói rộng rãi cho người khác, thì vị ấy có thể chinh phục tất cả quân ma và bố thí cho các hữu tình được lợi ích an lạc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Pháp môn như vậy các loài hữu tình tạp nhiễm không thể đắc được.

Này Thiện Dũng Mãnh! Pháp môn như vậy chẳng phải cảnh giới tu hành của những người bị lưới ma trói bắt.

Này Thiện Dũng Mãnh! Pháp môn như vậy là cảnh giới tu hành của những người có trí tuệ, tánh hoàn toàn thiện.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như con ngựa rất khôn ngoan, hiền từ, chẳng phải dành cho những vua nhỏ cỡi, cũng không xuất hiện vào thời tệ ác mà chỉ được Luân vương nuôi dùng. Do đó mà nó chỉ xuất hiện vào thời có Luân vương. Cũng vậy, chỉ có người hiền hoà, trí tuệ thông minh mới có thể thọ dụng pháp môn thâm sâu này và pháp này chỉ đến tay của người đó.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như Long vương Trai Giới, Long vương Thiện Trụ, Long vương Ai-la-phiệt-noa, chúng không vì người ta sử dụng, hay muốn thấy mà xuất hiện; cũng không vì chúng trời khác sử dụng mà xuất hiện. Chỉ có chúng trời thông minh trí tuệ tài giỏi sử dụng mới xuất hiện. Như trời Đế Thích nghĩ, muốn chỗ chúng trời dạo chơi thêm phần đẹp đẽ, thì con rồng ấy hiện rõ tướng trạng trước mặt Đế Thích, cho trời Đế Thích v.v… sử dụng.

Cũng vậy, chỉ có Thiện sĩ nhơn đế mới có thể sử dụng pháp môn thâm sâu này, nghĩa là vị ấy lắng nghe, thọ trì, đọc tụng và giảng nói, phân biệt cho hữu tình; đối với pháp này, vị ấy là đại Trang nghiêm, rất lưu thông, làm đại pháp chiếu sáng, thành tựu đại pháp hỷ và thọ nhận đại pháp lạc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu ai đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà thọ trì, dù chỉ một câu cũng đạt được vô lượng, vô biên công đức; huống gì họ được kinh Đại Bát-nhã này mà thọ trì, chuyển đọc, ghi chép đầy đủ và cúng dường lưu truyền rộng rãi khắp cho người khác, thì phước đức của người này đạt được không thể nghĩ bàn.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chỉ có người trí tuệ thông minh và hòa nhã mới có thể hộ trì pháp môn này. Còn người không có trí tuệ thông minh và hòa nhã thì pháp môn này chẳng phải là cảnh giới của họ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì muốn đoạn mọi nghi ngờ cho các hữu tình mà Ta nói kinh Đại Bát-nhã như vậy.

Khi Phật nói pháp này thì có vô lượng, vô số Đại Bồ-tát đắc được Vô sanh pháp nhẫn và có vô biên các loài hữu tình đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu ngay lúc ấy, Như Lai thọ ký cho họ thì nhất định họ sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi Bạt-già-phạm nói kinh này xong, thì các Đại Bồ-tát, Thiện Dũng Mãnh v.v… và bốn chúng như Trời, rồng, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, người chẳng phải người nghe Phật nói đều rất hoan hỷ, tín thọ và phụng hành.

HẾT

(Trọn Bộ 600 Quyển)

Trang: 1 2 3 4