SỐ 1533
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN ƯU BA ĐỀ XÁ
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Tỳ Mục Trí Tiên
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Bà-già-bà trụ tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vươngxá, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo Tăng và chúng Đại Bồ-tát hội đủ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Trí Viên Đại Hải Lạc Thuyết Biện Tài: Này Trí Viên Đại Hải Lạc Thuyết Biện Tài! Có 2 loại trụ trì chuyển pháp luân của Như Lai. Đó là:

  1. Trụ trì chúng sinh.
  2. Trụ trì pháp.

Này Trí Viên Đại Hải Lạc Thuyết Biện Tài! Hai loại trụ trì chuyển pháp luân của Như Lai ấy, cho đến hết kinh này đều nói tới.

Kinh thù thắng chánh pháp luân này do nơi nghĩa gì? Đấng Mâu-ni vương kia là không thể nghĩ bàn, không thể xưng nêu, không thể nói, không thể lường, không thể dụ, như hư không, không đoạn, không thường, thuận nhập nhân duyên tịch tĩnh, tịch tĩnh thù thắng, tịch tĩnh tối thắng, tịch tĩnh bậc nhất, như đế thật, không hư vọng. Đức Như Lai chuyển pháp luân vô thượng giảng nói kinh này. Người Thanh văn, đệ tử của Đức Như Lai, hàng đệ tử Thanh văn ấy được các vị Tiên nhân v.v… tán thán. Vì nhân duyên ấy, nên nay con xin được giải thích. Giải thích như thế nào? Đấng Đại Mâu-vi vương với vô lượng công đức:

1. Vì sao chuyển pháp luân này là không thể nghĩ bàn, không thể xưng lường, toàn thiện không cấu nhiễm, vắng lặng bậc nhất?

2. Do nghĩa gì gọi là Kinh thù thắng?

3. Do nghĩa gì gọi là Thế Tôn?

4. Vì sao Đức Như Lai ở tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương-xá? Hai loại trụ trì chuyển pháp luân ở tại nơi đây, không ở nơi khác.

5. Do nghĩa gì gọi là Như Lai?

6. Do nghĩa gì gọi là Pháp luân?

7. Lại nữa, Đức Thế Tôn có bao nhiêu Chuyển, bao nhiêu Hành để Chuyển pháp luân?

8. Lại nữa, Đức Thế Tôn ở đây nói là chuyển. Vì sao pháp môn không sinh của Đức Như Lai nói tất cả pháp là không chuyển, không xoay? Nên nhận biết như thế là hoàn toàn không phát khởi. Nếu ở đây chuyển làm sao có thể trái với Tu-đa-la kia? Tu-đa-la kia tức không cần chống trái?

6. Lại nữa, nếu ở đây nói về trụ trì chúng sinh, trụ trì pháp, thì trụ trì ấy là thế nào? Trong kinh Bát-nhã Ba-la-mật, Đức Như Lai bảo Tôn giả Tu-bồ-đề: Giả sử Như Lai còn trải qua hàng kiếp để nói về chúng sinh, thì chúng sinh từng có là chúng sinh sinh diệt chăng? Tu-bồ-đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Không. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay đều thanh tịnh. Đức Như Lai lại ở nơi Kinh Vô Cấu Danh Xưng (Kinh Duy Ma) nói: Nếu trụ vào tưởng pháp thì đó là bệnh lớn. Nếu pháp của chúng sinh đều không thể thủ đắc, vậy thì Đức Thế Tôn trụ trì nơi chốn nào để chuyển pháp luân? Ở đây cần được giải thích.

7. Lại nữa, do nghĩa gì Đức Thế Tôn đã từ bỏ trụ xứ rộng lớn, nơi có nhiều người tụ tập, có vô lượng người thù thắng, có các vườn đầy cây hoa thắng diệu, trang nghiêm, đến tại Ba-la-nại, nơi ít người lui tới, dưới bóng mát của cây Ba-trá-ly, trong vườn Lộc, để chuyển pháp luân. Về nhân duyên này cũng cần giải thích.

8. Lại nữa, lần đầu tiên Đức Thế Tôn đã an tọa nơi chốn nào để chuyển pháp luân?

9. Lại nữa, khi Đức Thế Tôn chuyển pháp luân, có bao nhiêu chúng sinh bỏ điều ác, hành điều thiện?

Nói tóm lại: Làm sao chỉ rõ về trụ trì chúng sinh và trụ trì pháp?

Đây đều là những vấn nạn.

Từ đây trở xuống là phần giải thích:

– Nay nói pháp kia, do nghĩa gì mà đạt được rộng lớn vào bậc nhất, hơn hết, không cấu uế, không thể xưng lường, không thể nghĩ bàn, không thể hủy hoại, là chánh giác hết sức sâu xa, không lay động? Đức Thế Tôn đã giảng nói kinh này. Nay lại nói về sự rộng lớn, không cấu nhiễm, không thể xưng lường, đã được chúng sinh trong ba cõi đều tán thán.

– Vì sao Đức Thế Tôn lại nói Tu-đa-la thù thắng này không thể xưng lường, lìa tất cả lỗi? Về nghĩa ấy nay sẽ giải thích.

Đức Thế Tôn e ngại trong pháp hội kia có các chúng trời, A-tula, người, rồng, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà v.v… nghe chuyển pháp luân, tâm sinh nghi hoặc, không biết Đức Thế Tôn có bao nhiêu loại trụ trì để chuyển pháp luân? Đức Thế Tôn quan sát tâm ngờ vực của chúng sinh, vì nhằm đoạn dứt mối nghi ấy, nên Ngài nói hai loại trụ trì để chuyển pháp luân. Nghĩa này là thế nào? Kệ nói:

Người thế gian và trời

Pháp chủ quán tâm nghi

Vì đoạn dứt nghĩa nghi

Nói Tu-đa-la này.

Lại nữa, vì Đức Thế Tôn có diệu lực đại bi, nhằm đem lại lợi ích cho chúng sinh, nên giảng nói kinh này.

Thế nào là diệu lực đại bi của Đức Thế Tôn giảng nói về nghĩa này? Nay nêu rõ Đức Thế Tôn đối với các chúng sinh như thế, biết là không có chúng sinh, vì các pháp đều như thành Càn-thát-bà. Trụ trì chúng sinh và trụ trì pháp, nhận biết như vậy rồi mới chuyển pháp luân. Nghĩa này là thế nào? Kệ nói:

Biết thế gian vô ngã

Như Càn-thát-bà huyễn Trụ trì chúng sinh, pháp Như Lai đại bi nói.

Thị hiện tự lực nên có thể nói nghĩa. Thế gian lại không có khả năng trụ trì, chỉ có Phật mới có thể tạo ra hai loại trụ trì. Lại không người nào có thể chuyển pháp luân, như ta chuyển. Lại còn có nghĩa, kệ nói:

Không phải cung điện trời

Không phải nhà Tu-la

Không phải người Long cung

Có chúng sinh như thế.

Thứ nhất không thể nêu

Lìa lỗi, diệt ba khổ

Trời, người cung kính lễ

Khéo chuyển luân thứ nhất.

Lại, vô lượng khổ, đầy đủ vô lượng, sau đó mới đạt được quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Khi mới hành Bồ-tát, nếu nghe nói điều này, tâm sinh khiếp nhược. Đức Như Lai vì nhằm trừ bỏ sự khiếp nhược đó, nên chỉ rõ nghĩa giác ngộ thanh tịnh không cấu nhiễm này. Nếu vô lượng khổ, đầy đủ vô lượng, sẽ đạt được quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng với vô lượng công đức chỉ rõ pháp luân này. Kệ nói:

Vàng, ngọc, các chân châu

Thí thành, nước, vợ con

Mắt, xương, tủy, phần đầu

Tay, chân v.v… thảy đều thí.

Vô số khổ, giữ giới

Hy hữu được thân Phật

Công đức không thể lường

Vì nghi, sợ, chỉ rõ.

Ý tăng thượng của Phật, quan sát tâm chúng sinh, đủ vô lượng công đức nên chuyển pháp luân.

Lại nữa, người chưa phát tâm Bồ-đề, thừa Thanh văn, Duyên giác, muốn hội nhập cảnh giới Niết-bàn, trụ nơi Đại thừa, do vậy đem nghĩa này để chỉ rõ.

Lại nữa, ý tốt đẹp, nếu có người nơi thừa Thanh văn, Duyên giác v.v… chứng nhập cảnh giới Niết-bàn, tức không còn chuyển pháp luân vô thượng nữa. Kệ nói:

Tâm Tiểu thừa lìa bi

Muốn nhập hai Niết-bàn

Mâu-ni nói kinh này

Khiến trụ thừa bậc nhất.

Lại, người có phước này được lợi ích hoan hỷ. Nghĩa ấy chỉ rõ những sự tốt đẹp nhất nơi thế gian cũng không thể sánh với sự việc chuyển pháp luân. Không thầy nào bằng thầy của ta. Kệ nói:

Nếu đã quy y Phật

Nay quy, sẽ lại quy

Mâu-ni muốn họ vui

Nói Tu-đa-la này.

Nếu người khác nương theo ngoại đạo, cũng dẫn đến lợi ích. Nghĩa này chỉ rõ về thân vi diệu không cấu, các công đức trang nghiêm. Thầy của ông không thể sánh, vì thầy của ông không có khả năng khiến ông đạt được pháp thiện vô lậu. Kệ nói:

Nương dựa tri thức ác

Như Lai thấy thế gian

Để dẫn dắt người kia

Vì họ nói kinh báu.

Người xưng là Nhất thiết trí kiêu mạn, tự cho đạt tịch tĩnh, lợi ích, để chỉ rõ về nghĩa này, bậc Nhất thiết trí của ta hôm nay mới chuyển pháp luân vô thượng. Vì sao ông là người Nhất thiết trí? Kệ nói:

Phật sơ chuyển pháp luân

Trừ đảo, chấp thường, đoạn

Không thể chuyển luân tịnh

Họ không Nhất thiết trí.

Cầu quả tốt đẹp rộng lớn vô thượng, làm phước điền lợi ích, là chỉ rõ quả báo không thể nghĩ bàn, có khả năng ban cho chúng sinh, nếu người có khả năng chuyển pháp luân vô thượng, bố thí cho vị ấy, chắc chắn sẽ được quả báo lớn. Kệ nói:

Nếu có người hay chuyển

Chánh pháp luân vô thượng

Thí ít người như thế

Được quả báo không sánh.

Lại, Bồ-tát hành hóa được quả báo tạo lợi ích. Để chỉ rõ nghĩa này, Đức Thế Tôn nói: Pháp luân của Ta có thể đem lại lợi ích lớn. Ta đã hành trì với trăm ngàn khổ hạnh, trải qua vô lượng ức Na-do-tha kiếp, có khả năng xả thí những thứ khó xả thí, ví như tâm biển luôn tuôn chảy không dứt.

Lại nói về Bản sinh, khi làm thân Ma-na-bà, cả vợ con ta đều xả thí.

Lại nói về Bản sinh, khi làm vua Phạm Đức, ta đã thí cho cả hai người con đáng yêu mến, tâm không sinh hối tiếc.

Lại nói về Bản sinh, lúc làm vua Thiện Nha hết sức đoan nghiêm, ta đã đem đứa con gái tên Tôn-đà-lợi – đẹp nhất trong số các người nữ – để cho Bà-la-môn.

Lại nói về Bản sinh, khi làm vua Đức Tạng chứng đắc Đà-la-ni, trong suốt bảy ngàn năm ta chưa từng nằm một lần nào.

Lại nói về Bản sinh, khi làm Thái tử của vua Bất Tư Nghị Công Đức Bảo Đức, thân là đồng tử, nhưng tất cả nghĩa luận ta đều đạt được, đã vì chúng sinh giảng nói.

Lại nói về Bản sinh, lúc làm tiên Thân Trấp, bị cắt chặt tay chân nơi thân, ta đều không sinh oán hận, lại còn vì họ giảng nói pháp nhẫn.

Lại nói về Bản sinh, khi làm vua Nguyệt Quang, ta đã tự dùng đầu để bố thí, không hề khởi sân hận.

Lại nói về Bản sinh, lúc làm thân đồng tử của vua, tất cả mọi người đều ưa thích gặp, lúc ta lên mười hai tuổi, đã ăn hương, đốt mình để cúng dường pháp Phật, tâm không sinh hối tiếc.

Lại nói về Bản sinh, khi ta làm y sư trị thân bệnh cho vua, cũng đã chữa khỏi hết thảy bệnh khổ cho tất cả người trong cõi Diêm-phù-đề.

Vô lượng vô số điều khổ não như thế, ta đều đã làm để đem lại cho chúng sinh rất nhiều lợi ích. Ta đã chứng đắc đủ các thứ hạnh khổ của Bồ-tát như vậy, chỉ rõ việc đắc quả, chỉ rõ việc tạo lợi ích. Đức Thế Tôn đã giảng nói kinh này. Kệ nêu:

Nếu nhân đầu như thế

Khổ hạnh, rộng xả thân

Kẻ bần cùng ăn xin Tùy họ đều thí cho.

Lìa tất cả các lỗi

Luân tịch tĩnh đệ nhất

Nói không hủy thứ nhất

Thế nên, nay ta chuyển.

– Do nghĩa gì gọi là Thế Tôn? Là do có thể nhận lãnh tất cả sự cúng dường, nên gọi là Thế Tôn.

Lại có nghĩa khác: Như phần giải thích về tâm Bồ-đề, ở đó đã chỉ rõ.

– Vì sao Đức Như Lai ở tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vươngxá? Hai loại trụ trì chuyển pháp luân ở tại nơi đây, không ở nơi khác, rất khó vì không tương ưng. Tùy thuộc nơi xứ nào, sự khó khăn sẽ không cùng. Đức Thế Tôn, nếu ở tại nơi chốn khác để du hành, cũng có khó khăn ấy, tức là vô cùng.

Lại có nghĩa khác: Như phần giải thích về tâm Bồ-đề, ở đó đã chỉ rõ.

– Do nghĩa gì gọi là Như Lai? Nghĩa ấy nay sẽ giải thích. Như thật mà đến, nên gọi là Như Lai. Pháp nào gọi là Như? Niết-bàn gọi là Như. Chúng sinh và pháp, hai thứ đó không như. Như Đức Thế Tôn nói: Các Tỳ-kheo! Thánh đế thứ nhất là pháp không hư vọng, gọi là Niết-bàn. Nhận biết nên gọi là Lai.

Giới Dị thanh luận, giới Tri tự luận, như người đời nói: Người này sinh đến đây. Đó là biện minh về nghĩa gì? Là làm rõ về trí tuệ đầy đủ. Nghĩa của Lai như thế này: Niết-bàn gọi là Như. Hiểu biết gọi là Lai. Vì chánh giác về Niết-bàn, nên gọi là Như Lai.

Lại, không, vô tướng, vô nguyện, gọi là Như. Vì Như tất cả hành kia nên gọi là Như Lai.

Lại, bốn Thánh đế ấy gọi là Như. Không phải là người khác thấy rõ tất cả hành đó, nên gọi là Như Lai.

Lại, hết thảy pháp Phật như thế, đó gọi là Như. Từ pháp đó đi đến trong cõi người này, nên gọi là Như Lai.

Lại nữa, Như là sáu Ba-la-mật như Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát-nhã. Chánh giác về các pháp ấy đã đến, nên gọi là Như Lai.

Thật sự thí xả, tuệ tịch tĩnh an trụ là Như. Như các pháp vô thượng đều đạt đến Chánh biến tri, nên gọi là Như Lai.

Tất cả Bồ-tát như thế nơi các Địa: Hoan hỷ, Ly cấu, Minh, Diệm, Nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân là mười, đó gọi là Như. Như các pháp vô thượng đều đạt đến Chánh biến tri, nên gọi là Như Lai.

Như tám đạo đạt đến nên gọi là Như Lai. Do có Bát-nhã Ba-lamật, do đủ phương tiện đạt đến đầy đủ, nên gọi là Như Lai.

Hoặc gọi là Như khứ. Nói Như khứ, là hoặc do như mà nói, nên gọi là Như khứ. Lại, Như khứ là không đi, lại đến, nên gọi là Như khứ.

* Do nghĩa gì gọi là Pháp luân? Nghĩa ấy nay sẽ giải thích. Do thể của pháp là luân, nên gọi là Pháp luân. Ví như ở thế gian, thể của chất đồng là bình, nên gọi là chiếc bình đồng. Vì thể của gỗ là bánh xe, nên gọi là bánh xe gỗ. Đây cũng như thế. Thể của pháp là luân (bánh xe), nên gọi là pháp luân (bánh xe pháp). Chỉ rõ như vậy.

Sao gọi là pháp? Nghĩa là ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề. Pháp này là luân (bánh xe), nên gọi là pháp luân (bánh xe pháp).

Lại, tự thể của tất cả pháp là nghĩa giác ngộ, là nghĩa của pháp luân. Lại, nghĩa của tất cả pháp là trang nghiêm thù thắng.

Lại, là nghĩa lấy, bỏ. Những nghĩa như thế, đều gọi là pháp luân. Bỏ đi những vật gì? Là bỏ hữu vi. Nhận lấy những vật gì? Là nhận lấy Niết-bàn.

Lại, có khả năng phá trừ tất cả phiền não, thế nên gọi là luân (bánh xe). Pháp vương vận chuyển bánh xe đúng thời, bánh xe trị vì thiên hạ như bánh xe của Luân vương. Vầng (luân) ánh sáng tỏa chiếu trong tất cả thế gian, như vầng tinh tú.

Lại, nói pháp luân là luân không có hai biên đoạn, thường, bất định. Lại, luân (bánh xe) không sinh, như nhân duyên sinh. Lại, luân không hai, như mắt và sắc, cho đến ý, pháp đều không hai, nên biết. Luân không thủ đắc, do pháp ba đời không thể thủ đắc. Lại, luân không, vì lìa các thứ kiến chấp. Lại, luân vô tướng, vì quán tất cả tướng, lìa các tướng. Lại, luân vô nguyện, vì lìa ba cõi, tất cả phân biệt, không phân biệt về luân khác, do tất cả pháp đều không phân biệt.

Lại, trong Kinh A Na Bà Đạt Đa Long Vương, Đức Thế Tôn bảo Long vương: Hiền Thủ Long vương! Lại pháp luân thật sự không hủy hoại hành, như thế gọi là luân, vì ba đời v.v… không có luân tự thể, do lìa hai thứ kiến chấp có, không.

Lại, luân lìa, vì thân không nhiễm. Lại, luân không vướng mắc, vì lìa tâm, ý, ý thức v.v… Luân không có xứ sở, vì xả bỏ tất cả hành hữu sinh. Lại, luân thật, vì tri kiến thật, lớn. Lại, luân đế, vì tu tập chân chánh, không hoại. Lại, luân không cùng tận, vì chỉ bày về vô tận. Lại, luân pháp giới, vì tất cả pháp thảy đều hành hóa.

Lại, luân thật tế, vì biên vực trước, sau không phải là luân biên vực. Lại, luân như như, vì tự thể của các pháp là không có tự thể. Lại, luân đã vô vi, vì tất cả pháp nghi, lo đều quan sát định rõ. Lại, luân thường còn, vì tánh Thánh được tích tập. Lại, luân không, vì không thấy tất cả vật trong ngoài. Lại, luân vô tướng, vì tất cả tướng đều không phân biệt. Lại, luân vô nguyện, vì tất cả pháp không duyên dựa. Lại, luân vô vi, vì tất cả ngôn ngữ giảng nói đều không, không thể nêu bày.

Như vậy, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng pháp luân. Những điều nêu trên đây đều là nghĩa của pháp luân.

* Lại nữa, Đức Thế Tôn có bao nhiêu Chuyển, bao nhiêu Hành để Chuyển pháp luân? Nghĩa ấy nay sẽ giải thích. Pháp luân ba lần chuyển có mười hai hành.

Chuyển lần thứ nhất: Đây là Thánh đế khổ. Đây là Thánh đế tập. Đây là Thánh đế diệt. Đây là Thánh đế khổ diệt đạo. Chuyển lần thứ hai: Đây là Thánh đế khổ, nên nhận biết. Đây là khổ tập, nên đoạn trừ. Đây là khổ diệt, nên chứng đắc. Đây là khổ diệt đạo, nên tu tập. Chuyển lần thứ ba: Đây là Thánh đế khổ, đã nhận biết. Đây là khổ tập, đã đoạn trừ. Đây là khổ diệt, đã chứng đắc. Đây là khổ diệt đạo, đã tu tập. Đây nói như thế là có ba lần chuyển.

Trí khổ, trí tập, trí diệt, trí đạo như thế. Khổ đế có ba lần trí chuyển như thế. Tập đế như thế, Diệt đế như thế. Đạo đế có ba lần trí chuyển. Đức Phật giảng nói như thế, có mười hai hành. Vì sao? Vì hành khác như thế ở trong Khổ đế có ba lần trí chuyển, hành khác nơi Tập đế, hành khác nơi Diệt đế, hành khác nơi Đạo đế, đều có ba lần trí chuyển. Đây nói như vậy là có mười hai hành.

Nói Khổ nghĩa là năm ấm. Tướng Khổ của năm ấm, đó gọi là Khổ. Tướng khổ kia là không, thông đạt về không ấy, đó gọi là Trí khổ Thánh đế.

Sử ái là nhân của năm ấm kia, thấy nhân, đó gọi là Tập. Nếu không phân biệt, không nhận lấy, không tiếp xúc nhân của ái, thấy rõ nhân, đó gọi là Trí tập Thánh đế.

Nếu năm ấm kia hoàn toàn diệt hết, biên vực trước không đến, biên vực sau không đi, biên vực giữa không thủ đắc, đây gọi là Diệt. Nhận biết như thế, đó gọi là Trí diệt Thánh đế.

Nếu Đạo đã được rồi, duyên lấy trí khổ, trí tập, trí diệt, thì tướng bình đẳng kia là trí không hai, đó gọi là Trí khổ diệt đạo Thánh đế.

Lại nữa, do đâu không phải ít, không phải nhiều, khi nói Thánh đế như thế? Vì nếu phân biệt thì đế này là không cùng.

Lại nữa, nhận biết bốn Thánh đế như vậy tức được giải thoát. Đó là nhận biết khổ, nhân của khổ, diệt khổ, sau mới được phương tiện. Bốn Thánh đế như thế, nghĩa như vậy, ở đây nói theo thứ lớp.

Lại nữa, thế nào là tướng bình đẳng? Gọi Thánh đế là pháp không hư vọng. Do không hư vọng nên gọi là đế. Mỗi mỗi tự tướng đều không hư vọng. Pháp không hư vọng như thế là tướng bình đẳng.

Lại nữa, thế nào là tướng thù thắng? Tướng thù thắng nơi khổ là tướng bức bách. Tướng của tập là có khả năng sinh khởi. Tướng của diệt là tịch tĩnh. Tướng của đạo là xuất ly.

Lại nữa, mười hai hành hoặc nghịch, hoặc thuận, có mười hai phần chuyển theo nhân duyên sinh.

Lại nữa, rộng khắp các kinh đều nói: Phân biệt đúng đắn là có thể phân biệt. Quan sát bất thiện nên xuất sinh vô minh, không phải là pháp hữu sinh, như thế cho đến khi khối khổ lớn tích tụ, dấy khởi. Khổ kia có và diệt như thế.

Chuyển pháp luân có mười hai hành là ở gần, nếu nhận biết đầy đủ về Tam bảo.

– Lại nữa, Đức Thế Tôn ở đây nói là chuyển. Vì sao pháp môn không sinh của Đức Như Lai nói tất cả pháp là không chuyển, không xoay? Nên nhận biết như thế là hoàn toàn không phát khởi. Nếu ở đây chuyển làm sao có thể trái với Tu-đa-la kia? Tu-đa-la kia tức không cần chống trái? Nghĩa ấy nay sẽ giải thích. Kia là nói về Chân đế, đây là nói về Thế đế. Lại, đây là nói về thời. Lại, đây là đối trị sự tin nhận, nên nói nghĩa này. Đã nói, thế nên nay nói.

Lại nữa, đây là hành nghiệp ban đầu nơi Bồ-tát, nên nói như thế. Người đạt được Địa lớn nên không tranh tụng như thế.

– Nếu pháp của chúng sinh đều không thể thủ đắc, vậy thì Đức Thế Tôn trụ trì nơi chốn nào để chuyển pháp luân? Nghĩa ấy nay sẽ giải thích. Đức Phật do tâm đại bi, không chấp giữ chúng sinh, cũng không chấp giữ pháp, nhưng thường trụ trì nơi chúng sinh và pháp, nên đã chuyển pháp luân.

Lại nữa, trong Kinh Long Vương Vấn, Đức Thế Tôn nói: “Như hư không chuyển gọi là chuyển pháp luân”.

Lại nữa, đây là Đức Thế Tôn dùng phương tiện, vì các pháp không có tên, chỉ tạm dùng tên và chữ để giảng nói. Thế nên có kệ:

Tất cả pháp không tên Nhờ tên để gọi pháp.

Đức Thế Tôn theo pháp như thế không chấp giữ chúng sinh, nhưng vì nhằm đối trị để giáo hóa chúng sinh nên nói pháp. Tuy không chấp giữ pháp, nhưng thường xuyên giảng nói rộng tất cả pháp.

Lại nữa, trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật và Kinh Vô Cấu Danh Xưng nói: “Vì nhận biết chân đế, nên nói Thế đế. Như vậy là không lỗi”.

* Lại nữa, do nghĩa gì Đức Thế Tôn đã từ bỏ trụ xứ rộng lớn, nơi có nhiều người tụ tập, có vô lượng người thù thắng, có các vườn đầy cây hoa thắng diệu, trang nghiêm, để đến thành Ba-la-nại, nơi ít người lui tới, dưới bóng mát của cây Ba-trá-ly, trong vườn Lộc, để chuyển pháp luân? Nghĩa ấy nay sẽ giải thích.Về thời xa xưa, Đức Thế Tôn đã từng ở nơi đó (Ba-la-nại), trong sáu mươi ngàn ức na-do-tha hội, Đức Thế Tôn đã từng hành tác bố thí rộng khắp, đã từng cúng dường sáu mươi ngàn ức na-do-tha Phật. Lại ở xứ ấy, đã từng có đến chín mươi mốt ức ngàn Phật chuyển pháp luân. Chốn đó thường có nhiều Tiên nhân tu hạnh tịch tĩnh. Do có các công đức lớn như thế, nên Đức Thế Tôn đã đến nơi chốn ấy để chuyển pháp luân.

Nghĩa này đã giải thích, nay lại nói thêm.

Lại nơi Kinh Quảng Phổ có kệ nói:

Ta, sáu mươi ngàn ức

Na-do-tha hội thí

Cúng sáu mươi ngàn ức

Na-do-tha chư Phật.

Xứ Ba-la-nại thắng

Có Tiên nhân xưa hơn

Trời, rồng đều bậc nhất

Thường khen xứ nói pháp.

Chín mươi mốt ức trước

Ta nhớ vô thượng thắng

Ở trong rừng diệu này

Chuyển pháp luân vô thượng.

Đây có na-do-tha

Tịch tĩnh, thắng Tiên nhân

Thường ngụ trong vườn Lộc

Nên gọi chốn Tiên nhân

Như thế trong rừng đẹp

Chuyển pháp luân vô thượng.

Đã chuyển như thế, lại vì pháp, người nên đã chuyển như vậy.

– Lại nữa, lần đầu tiên Đức Thế Tôn đã an tọa nơi chốn nào để chuyển pháp luân? Nghĩa ấy nay sẽ giải thích. Đức Thế Tôn đã an tọa nơi điện Đại viên có vô lượng màu sắc vi diệu, thanh tịnh với nhiều châu báu trang nghiêm, trên tòa Sư tử để chuyển pháp luân. Đây là nói ở xứ nào? Trong Kinh Quảng Phổ nói như thế này: Các Tỳ-kheo! Có chư Thiên ở các cõi, biết nơi thành Ba-la-nại sắp chuyển pháp luân, để có lợi ích lớn, nên tạo điện Đại viên rất rộng lớn, trang nghiêm và tráng lệ. Cung điện đó dài rộng bảy trăm do-tuần. Trên hư không, chư Thiên dùng lọng báu, cờ phướn để trang nghiêm. Các Thiên tử ở cõi Dục trong hư không nơi tầng trên, đem tám mươi bốn ngàn tòa Sư tử phụng thí Như Lai. Cúng dường xong, mỗi mỗi Thiên tử đều thưa thỉnh: Kính mong Đức Như Lai an tọa nơi tòa Sư tử của con để chuyển pháp luân. Mỗi mỗi vị Thiên tử đều trông thấy Đức Thế Tôn an tọa trên tòa Sư tử do họ phụng thí để chuyển pháp luân. Đức Thế Tôn đã làm thỏa mãn ý nguyện của tất cả các Thiên tử.

– Lại nữa, khi Đức Thế Tôn chuyển pháp luân, có bao nhiêu chúng sinh bỏ điều ác, hành điều thiện? Nghĩa ấy nay sẽ giải thích. Có năm Tỳ-kheo như Kiều-trần-như v.v… Lại có chư Thiên số lượng là sáu mươi ức vị. Lại có tám mươi ức chư Thiên ở cõi Sắc. Lại còn có tám mươi bốn ngàn ức loài người.

Đây là nơi nào nói? Kinh Quảng Phổ kia đã có kệ nêu:

Nhóm A-nhã-cư-lân

Năm Tỳ-kheo như vậy

Sáu mươi ức chư Thiên

Đều được pháp nhãn tịnh.

Tám mươi ức trời sắc

Pháp nhãn tịnh, vô thượng

Người pháp nhãn tịnh thắng

Tám vạn bốn ngàn ức.

Nói tóm lại: Trụ trì chúng sinh: Là chỉ rõ nói pháp cho chúng sinh. Trụ trì pháp: Là chỉ rõ việc nói pháp.

Lại còn có nghĩa: Trụ trì chúng sinh: Là chỉ rõ khiến nhận biết tám vạn bốn ngàn pháp tâm hành của chúng sinh. Trụ trì pháp: Là chỉ rõ khiến nhận biết tám vạn bốn ngàn nhóm pháp với hào quang tỏa sáng đem lại nhiều lợi ích.

Lại còn có nghĩa: Trụ trì chúng sinh: Là chỉ rõ chúng sinh bình đẳng. Trụ trì pháp: Là chỉ rõ pháp bình đẳng. Lại nữa, hai Thế đế này đã chỉ rõ.

HẾT