THÍCH LUẬN PHẬT MẪU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA VIÊN TẬP YẾU NGHĨA
Tác giả: Bồ tát Đại Vực Long tạo bản luận, Bồ tát Tam Bảo Tôn giải thích
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Thi Hộ
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Lại nữa, ở đây là hiển thị Đức Thế Tôn đã thuyết giảng về lý chân chánh. Như Tụng nêu:

Như lý nói tánh tịnh

Cũng vậy, không thể đắc

Tánh, vô tánh cùng trái

Vô số tánh định thấy.

Ở đây nói: Như lý nói tánh tịnh v.v…: Nghĩa là phân biệt theo nhiễm, do trí đối trị các thứ có tán loạn, thế nên nói như lý, tức Đức Thế Tôn ở trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã thuyết giảng đúng đắn.

Tụng nói: Tánh tịnh: Tức là ánh sáng của tự tánh thanh tịnh như lý, có thể đối trị các thứ tán loạn, không thanh tịnh kia.

Tụng nói: Cũng vậy: Là nghĩa tụ tập. Tức lượng tụ tập hiện có của tánh như một tánh v.v…, là không thể đạt được. Nói như lý, tức nghĩa như lượng, thể tức là trí không hai. Trí ấy có thể đối trị, đấy là quyết định.

Hỏi: Đây lại là những thứ lượng gì không thể đạt được?

Đáp: Đây là nói về tỷ lượng không thể đạt được.

Tự thọ hiện có không phải là tướng khác đã tăng trưởng, như lạc v.v… nơi tự thọ nhận. Nếu nói luận an lập, tức tự tánh của trí như thật đã đạt được là mâu thuẫn. Tướng khác có tăng, thì tự thọ không thành lượng đối trị. Ở đây, không phải các tướng như xanh, vàng v.v… của đối tượng được nhận biết, tánh một – nhiều khác với có phân biệt. Do đó, quyết định quán xét. Tự thọ thành tựu về nẻo hành từ bi, tức không phải tánh được chiếu hiện của ngoại môn, không bị tướng khác có tăng trưởng làm động loạn. Vì sao? Vì các tướng như xanh, vàng v.v… hiện có, ở trong thắng nghĩa đế, đều không có thật tánh. Đây chỉ có trí là nhận biết rõ như thật, nên đấy không có lỗi lầm. Nếu đối với sự bên ngoài, như tự thọ, do nghĩa như thế có chỗ an lập, tức nghĩa chẳng như, vì đấy có lỗi lầm, nhưng không phải quyết định thấy biên thành tựu. Vì sao? Vì do các thọ như lạc v.v… đối với các xứ bên ngoài không có tánh. Cũng không phải ở xứ khác có chỗ xét tìm. Trong đây, các thọ như lạc v.v… tức thọ của tự tánh như lạc v.v…, không phải thọ của tướng như lạc v.v… Những điều đã được nêu bày ấy, tức lìa trí của hai tướng chủ thể giữ lấy cùng đối tượng được giữ lấy. Đấy không phải là chỗ hiện có dị biệt.

Hỏi: Nếu nay không có thức của chủ thể giữ lấy, đối tượng được giữ lấy kia, thì vì sao về sau lại có tánh của thức ấy?

Đáp: Ở đây chỉ lìa tướng của chủ thể giữ lấy và đối tượng được giữ lấy. Tướng của thức sau đó tuy có, nhưng không phải là ngôn ngữ biểu thị. Tánh của pháp có kia đã biểu thị chân thật, hòa hợp như lý, do đấy, ở đây nói tất cả thức đó. Như trí của tỷ lượng không phải do ở đây hòa hợp tạo thành. Vì sao? Vì do tướng của trí không hai không phải có hai tướng lãnh nhận đã hành tác. Nếu có hai tướng mà lượng kia không thành, thì chính là do hai tướng đã bị đối ngại. Như chấp nơi “sừng thỏ” há không phải là lỗi lầm? Vì sao, không phải trong chủ thể giữ lấy âm thanh nói có tướng trí? Do pháp đó quyết định không có tánh. Nhưng do thức ấy, đối với các tướng bên ngoài như xanh, vàng v.v… đều có đối ngại, nên sự xét tìm một, khác kia có tánh gắng sức nhận giữ, không phải là ý chân thật, cũng chẳng phải là thức lìa thắng nghĩa đế mà có đối tượng được giữ lấy. Các thứ lạc như vô tánh v.v… ấy đã giữ lấy để quyết định về thể tánh của tướng trí hiện có, đấy là chủ thể giữ lấy, đấy là đối tượng được giữ lấy. Nhưng ở đây là nói không có tướng của chủ thể giữ lấy kia. Do thể cùng nghiệp hỗ tương vui thích giữ lấy tánh quyết định, nên không phải là tướng của trí. Trong tự thọ nói về chủ thể giữ lấy âm thanh, cũng không có tướng của trí, hỗ tương vui thích giữ lấy quyết định về tự lý, theo như tánh đã được sinh như thế. Như vậy là ở trong tự thọ của tướng trí đã an lập đúng đắn. Những thứ đã nêu bày ấy là nhằm lìa tánh của chủ thể giữ lấy, cùng đối tượng được giữ lấy. Ở đây nói về không hai tức tướng của trí. Tự thọ hiện lượng thành tựu, không phải là tất cả chân thật được hiển thị, hòa hợp. Nếu lại chấp nơi chỗ quyết định kia tánh không phần vị, tức trong tướng của trí không hai có chỗ động loạn, chủng tử tùy sinh không theo tướng của trí, không có hai đối hiện được sinh. Nếu chấp nơi chỗ quyết định về tướng không hai, thì ở đây trở lại thành chấp trước phân biệt, không phải tướng của trí ấy, ở trong pháp đồng mà được thành tựu. Do đó, nơi tất cả nghĩa hiện có mà thành hủy báng. Nên biết, tánh thế tục cùng thắng nghĩa đã quyết định về nghĩa không có thật như vậy.

Trong đây, nghĩa được hiển minh, như Đức Phật đã nói trí tức là minh, thế tục tức vô minh. Trí hoặc minh hoặc vô minh đều nhận biết như thật về chủng loại dị biệt, cũng không có sinh. Thế nên pháp kia, cùng tướng như thật không điên đảo, tức tướng của trí minh thực hiện đối trị, nên biết là quyết định. Nếu trong thắng nghĩa đế nầy, quyết định không có tự tánh, thì như mây nơi hư không, chúng không phải là đối trị. Do đối trị như lý hiện có ấy đã hành tác chân thật, đạt được tương ưng, như tự tánh nóng đối trị vật lạnh. Nghĩa không thật nầy biểu thị cho vô minh cũng thế. Do nói về nghĩa như thật, nên trong nhân nơi tự tánh của trí không hai đó, có nhiều chủng loại. Hoặc trong ấy quyết định về tướng của thế tục chấp là có tánh, thì điều đó không thể nêu bày. Ở trong đối tượng hành tác có hai tướng, còn trong trí thật thì không hai.

Hỏi: Nếu như trước nói trí tức là minh, thế tục tức vô minh, thì nói như vậy há chẳng phải là trong ấy tự nêu bày có mâu thuẫn, do tự tánh của mình khác với hữu tánh của thế tục?

Đáp: Tướng không hai của mình tức là tánh của thắng nghĩa đế. Đây nói như thế là lý chánh thành tựu. Nếu thế tục mong muốn lãnh nhận, các bậc Sư xưa, Tiên nhân, đối với lời ấy cũng có nghĩa dị biệt, như nơi xứ khác đã nói, ở đây không nêu dẫn lại. Như phần chánh lý ở sau, trong đó tụng nêu: Tánh, vô tánh cùng trái.

Nói cùng: Là nghĩa gồm tập, không phải chỉ như trước đã nói. Chánh lý nơi trí lìa phân biệt, hành đối trị tán loạn. Ở đây, hữu tánh, vô tánh trái nhau. Nên biết pháp đó cũng quyết định đối trị. Nghĩa là như vô số tánh hiện có, tự tánh của vô tánh nơi trí lìa phân biệt, tức là đối trị. Nên biết ở đây, hoặc tánh hoặc tướng, do lực của trí nên có thể hiển bày nghĩa đúng đắn. Điều ấy lại là thế nào? Tức trong thắng nghĩa đế không có các sắc, một tánh cùng sinh. Nếu lại không có thật tức vô số tánh định thấy. Nói định là nghĩa quyết định. Tức một tánh quyết định, do lực của minh nên nêu bày như thế. Vì sao ở đây đã nói như vậy? Tụng nêu:

Nói sắc ấy chỉ danh

Chân thật không tự tánh

Phân biệt tự tánh ấy

Nạp nhận tức nên biết.

Đây nói chỉ danh v.v…: Tức trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa nầy, Đức Thế Tôn đã nói sắc ấy chỉ là danh. Chỉ là danh: Đây tức chỉ là tưởng. Do đó, trong thắng nghĩa đế chân thật có chỗ an lập. Nhưng tướng của sắc uẩn, là vô tự tánh không. Nghĩa là do nhân như thế, tức có phân biệt về tự tánh đối với chỗ nạp nhận ấy. Phân biệt, nghĩa là tự tánh của cảnh giới, như tánh kiên cường, vậy nên có tướng phân biệt đó tăng trưởng, mới dấy khởi phân biệt về tự tánh như thế. Như vậy, phân biệt về tự tánh hiện có đã nạp nhận nhiều loại. Đấy đều là dứt dừng, tức là dứt trừ hẳn. Những nêu bày như vậy đều là để dứt trừ phân biệt tán loạn về tự tánh. Trong Bản mẫu của Bát-nhã Ba-lamật-đa nầy, lại vì nghĩa trước nên trừ bỏ lỗi lầm.

Tụng nêu:

Sắc cùng tự tánh sắc

Không như trước đã nêu

Tự tánh kia cùng tướng

Phân biệt, đây dứt trừ.

Đây nói: Như trước nói v.v…: Nói nghĩa là ngôn thuyết. Tức các thứ hiện có như ở trước đã nêu bày. Vì vậy câu tụng thứ nhất nói: Sắc cùng tự tánh sắc.

Ở đây là không, nên nói như thế là để trừ bỏ sự phân biệt về cùng tướng của tự tánh kia.

Trên nói sắc: Tức là hai tướng tự, cộng của sắc. Tự tướng, cộng tướng cùng tự tánh của sắc ấy đều là không. Ở trong cùng tướng như đại chủng v.v… khởi tướng phân biệt tăng trưởng, thì cùng tướng của tự tánh kia sẽ đối trị sự phân biệt.

Hỏi: Ở đây, so với lần dứt trừ thứ ba ở trước về phân biệt cùng tướng, hành tướng như thế nào?

Đáp: Như trước đã nói phân biệt tán loạn về cùng tướng: Trong đó, sắc cùng tự tánh của sắc, cả hai là cùng có.

Còn ở đây là dứt trừ cùng tướng: Tức chỉ là dứt trừ tự tướng, cộng tướng ấy. Hành tướng như thế nào? Đó là ở đây, các tướng như tánh kiên cường v.v…, do sai biệt mà có. Đấy tức là ở đây, cùng tướng nên được dứt trừ. Cũng không phải chỉ dứt trừ phân biệt như vậy, mà các phân biệt tán loạn khác cũng lại dứt trừ.

Lại nữa, Tụng nêu:

Chẳng sinh cùng chẳng diệt

Quán các pháp hiện có

Phật nói hoặc tan, biến

Phân biệt sai biệt kia.

Nói chẳng sinh: Tức Đức Thế Tôn, ở trong Bát-nhã Ba-la-mậtđa như thế, đã nói: Quán nơi các pháp không sinh, không diệt. Do đấy nên nêu bày như vậy. Nếu có xứ an tan biến, thì đấy tức phân biệt sai biệt. Hoặc thấy tướng sinh diệt sai biệt của sắc v.v…, tức đấy là phân biệt về tự tánh sai biệt của sắc như thế, trong đó nên lìa, nghĩa là dứt trừ phân biệt tán loạn về sai biệt. Ở đây, nói như vậy cũng lại là để dứt trừ các tán loạn sau. Thế nên, Tụng nêu:

Danh ngôn đều hư giả

Pháp kia nếu phân biệt

Tiếng, nghĩa, hai không hợp

Không tự tánh ý kia.

Đây nói hư giả v.v…: Tức trong giáo pháp nơi Bản mẫu của Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã biểu thị sự hòa hợp. Nghĩa là danh hư giả, tức nói về tưởng phân biệt. Như trong giáo pháp nơi Bản mẫu của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sau, đã hòa hợp riêng biệt. Như vậy, âm thanh của pháp phân biệt ấy, là câu nghĩa của pháp ngôn ngữ hiện có, và phân biệt về cùng tướng, do đó hai thứ tiếng, nghĩa không phải là tự tánh hòa hợp. Không phải là ý lạc tối thượng của Đức Thế Tôn, cũng không phải là ý lạc của kẻ khác. Nếu ở nơi phân biệt về tạo tác công xảo, lại chấp giữ nghĩa bên ngoài, tức các kẻ ngu tối đã an lập động loạn. Đối tượng hành như vậy, nhưng không phải ở đây có một ít nghĩa có thể đạt được, do nghĩa bên ngoài bị chấp trước, không phải là ngôn ngữ an lập, để mở bày môn động loạn của các kẻ ngu tối. Trong đấy, dứt trừ là tướng tùy chuyển của đối tượng hành tác, tức ở nơi tiếng, nghĩa, không có chút gì để có thể thủ đắc, do phân biệt về như danh, như thế là không thật có. Hoặc ở nơi sự tướng đã nêu bày, phân biệt như danh, tức chẳng phải là ý lạc. Do nhân ấy, nên ở đây, tất cả phân biệt về như danh, như tưởng đều hòa hợp không thật. Có sự tướng đã nói đó, không phải là ý lạc tối thắng của Đức Thế Tôn. Vì sao? Vì nếu phân biệt như danh nơi nghĩa, tức ở nơi danh, nghĩa, có chỗ tăng rộng, ở trong sự bên ngoài, tánh của chủ thể nêu giảng, đối tượng được nêu giảng đều không thật, như thế là dứt trừ phân biệt tán loạn về như Danh nơi nghĩa.

Hỏi: Phân biệt về những gì?

Đáp: Là phân biệt về danh. Danh ấy lại cũng không có nêu bày. Thế nên, Tụng nêu:

Bát-nhã Ba-la-mật

Phật, Bồ-tát cũng vậy

Đây, đã nói chỉ danh

Lìa phân biệt nghĩa thật.

Nói: Bát-nhã Ba-la-mật-đa: Tức danh lìa nơi nghĩa, như thế nghĩa thật của danh, là tự tánh phân biệt. Đức Thế Tôn đã nói nên ở đây dứt trừ, là nói về điều gì? Tụng nêu: Bát-nhã Ba-la-mật, Phật, Bồ-tát cũng vậy.

Ở đây, đã chỉ gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, trong ấy, nơi nào thừa nhận nói tự tánh có thật? Nghĩa là do Đức Như Lai đã nói như thế, nên nói âm thanh của danh cũng không tự tánh. Trong ấy, các thứ hiện có đều biểu thị riêng cho danh hiệu của Phật, Bồ-tát. Nên biết, ở trong trí không hai, không phải là dứt trừ điều ấy. Đây lại từ nơi nhân nào? Tụng nêu:

Tiếng, nghĩa hiện có, dứt

Dứt trừ không sự ấy

Như vậy, khác cũng biết

Trong lời, nghĩa quyết định.

Nói: Tiếng nghĩa hiện có v.v…: Tức là hai thứ tiếng, nghĩa hiện có, đây nói là dứt trừ.

Tụng nêu: Dứt trừ không sự ấy: Tức là trí không hai không dứt trừ tác dụng của sự tướng ở đấy, nhưng tánh vô ngôn đó là không thể nêu bày.

Hỏi: Nay nói về nghĩa, đó là lý đúng, nhưng nơi xứ khác thì thế nào?

Tụng tự đáp, nói: Như vậy, khác cũng biết.

Như vậy: Tức ngay từ đầu đã nói là nghĩa quyết định như vậy.

Khác: Là các chủng loại còn lại, đã nêu bày thích hợp cũng thế. Nhận biết rõ tức là nhận biết rõ nghĩa quyết định ấy. Ý ở đây, nghĩa là ở trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã tuyên thuyết đúng như thật về nghĩa không điên đảo được thành tựu. Nhận biết rõ chân thật về tất cả danh, tánh, chính là không thể thủ đắc, do lời, nghĩa đó đã thiết lập, biểu thị.

Lại nữa, Tụng nêu:

Không sở đắc ấy, đúng

Hết thảy danh, thật biết

Như nghĩa, tánh như thế

Không dứt trừ tiếng kia.

Nói: Không sở đắc ấy v.v…: Tức là như tánh của nghĩa, pháp không thật có kia là không thể thủ đắc. Ở đây nói là đúng. Là đã nói về những gì? Tụng tự chỉ rõ, nói: Hết thảy danh.

Hỏi: Người nào có thể nhận biết đúng thật?

Đáp: Tức Nhất thiết trí. Thật là nghĩa không điên đảo. Biết là nhận biết rõ, tức nhận biết chân thật.

Tụng nói: Không dứt trừ tiếng kia. Nghĩa là nếu hai thứ tiếng, nghĩa, nơi tánh của nghĩa thật ấy nói không thể thủ đắc. Do nhân đó nên không dứt trừ âm thanh kia. Nghĩa là do âm thanh của đối tượng được giữ lấy thuộc văn trí đó là không thể dứt trừ. Như vậy, nên biết, ý lạc tối thắng quyết định là từ bi, nên đối tượng hành đều không chướng ngại. Như thế là dứt trừ phân biệt tán loạn về như nghĩa nơi danh. Các nghĩa như vậy là ý lạc chân thật đã được nêu bày thuận hợp. Có Luận Tụng nói:

Hiện có tất cả danh hiện có

Các thứ pháp kia có chỗ nói

Nhưng chỗ nói ấy không thật có

Tức tất cả pháp đồng pháp tánh.

Danh kia hiện có, gọi tánh không

Danh của năng danh, không chỗ có

Mà tất cả pháp vốn không danh

Lập, do danh mạnh mà biểu thị.

Tất cả chỉ danh, đây nên biết

Trong hết thảy tưởng, giả an lập

Danh kia được tụ, tánh sai biệt

Nên biết danh ấy không thật có.

Như Tôn giả Tu-bồ-đề đã hỏi về Bát-nhã Ba-la-mật-đa, trong đó đã quyết định dứt trừ hai thứ tiếng, nghĩa. Nên Tụng giải thích, nói:

Tu-bồ-đề, hai lìa

Nghĩa Thanh văn như vậy

Bồ-tát không có danh

Ngã kiến, đây có nói.

Nói: Tu-bồ-đề v.v…: Nghĩa là Tôn giả Tu-bồ-đề đã nhận biết rõ về hai thứ tiếng, nghĩa, lìa để an lập. Ý ở đây là, tiếng tức là tiếng của người thuyết giảng. Nghĩa của tiếng là nghĩa đã được thuyết giảng. Thế nào là Bồ-tát không có danh? Là do danh của Bồ-tát không thật có, không thể thấy. Tôn giả Tu-bồ-đề, ở trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã có nêu giảng. Ý ở đây là quyết định hai thứ tánh phân biệt trong ý lạc tối thắng, xa lìa tánh dị biệt của âm thanh hư giả. Ngôn ngữ quyết định ở đây là nghĩa đã có được biểu thị. Thế nên, Tụng nêu:

Bát-nhã Ba-la-mật

Nói không quyết định sinh

Tìm xét chỉ bậc trí

Nghĩa nầy, tuệ vi diệu.

Đây nói: Bát-nhã Ba-la-mật: Không nghĩa là không thật có. Tức trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lời nói hòa hợp kia quyết định là không thật có, không có chỗ nêu bày, không có hý luận, nên biết như thế. Trong tất cả ngôn ngữ được nói quyết định là nghĩa đã có. Thế nào là nghĩa đã có? Tức như nghĩa đã nói ở trước. Giải thích môn kia, tụng nói:

Tìm xét chỉ bậc trí

Nghĩa nầy là tuệ vi diệu.

Tìm xét: Là xem xét kỹ lưỡng.

Nghĩa nầy: Tức các thanh có trong ba mươi hai phẩm, nói chung về quyết định.

Bậc trí: Tức là bậc có trí tuệ, có thể nhận biết về lời, nghĩa.

Tuệ vi diệu: Là trí thanh tịnh vi diệu, rốt ráo.

Hành tướng như thế nào? Tức trí ấy, ở trong tất cả cảnh giới, không vướng mắc, không hủy hoại. Nhưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa ở trong âm vang có chỗ nghe được, là biểu thị về nghĩa đó. Vì vậy, Tụng nêu:

Nếu phân biệt nghĩa riêng

Nghĩa tương tục trừ bỏ

Bát-nhã Ba-la-mật

Ngôn thuyết như tiếng vang.

Đây nói nghĩa tương tục: Là nghĩa hoặc đi đến, hoặc hiện bày, tạo tác tương tục. Dứt trừ: Là nghĩa trừ bỏ. Tức là nơi nghĩa như thế đã trừ bỏ chấp trước. Vì sao? Vì do Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc thấy hoặc nghe, có chỗ nêu bày đều như tiếng vang, lại như ánh sáng của vàng ròng đối hiện sắc tướng. Do nghĩa ấy, nên hoặc đi đến, hoặc hiện bày đều tạo tác nối tiếp, có chỗ phân biệt, có chỗ chấp trước, đều nên trừ bỏ. Do trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy, hết thảy mọi giảng nói đều như tiếng vang là nghĩa chung, lược.

Lại nữa, vì muốn hiển bày rõ về nghĩa ấy, như có tụng nói:

Các giáo hiện có, chớ chán bỏ

Cũng lại không nên sinh hủy báng

Thấy như thật rồi, trụ chân thật

Do chân thật ấy mà biểu hiện.

Nay, trong nghĩa nầy, chung lược tạo thành biểu thị. Tụng nêu:

Chung, lược nghĩa như thế

Bát-nhã cùng nương dựa

Như vậy, nghĩa tuần hoàn

Lại nghĩa riêng nương dựa.

Nói: Chung, lược nghĩa như thế v.v…: Tức Thập Vạn Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa hiện có, đã gồm, lược tất cả nghĩa như thế, đều nương dựa nơi Bát-nhã Ba-la-mật-đa nầy, nối tiếp nơi ba mươi hai phẩm, chung, lược gồm thâu, nên biết như thế, sau không có tăng rộng. Tụng nói: Như vậy, nghĩa tuần hoàn: Tức đối với nghĩa như vậy, hoàn toàn lặp lại, thứ lớp, xét kỹ.

Hỏi: Xét kỹ về những nghĩa gì?

Tụng tự đáp, nói: Lại nghĩa riêng nương dựa.

Ở đây, đã nói về câu “nghĩa riêng”, tức vấn nạn về nghĩa riêng. Hỏi là phân biệt về chỗ sai biệt, còn vấn nạn là có chỗ y cứ. Nghĩa là các pháp phần Bồ-đề, uẩn công đức của Phật, ở trong pháp ấy, lần lượt nhắc lại, xét kỹ, như thế. Hoặc gồm chung, tóm lược về nghĩa riêng được tạo thành đã nêu bày như vậy, đều có chỗ dựa. Tức ba mươi hai phẩm đều có tự tánh riêng, lần lượt gồm thâu. Nay, ở đây, Bát Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa, tất cả văn nghĩa đã được giải thích khắp hết, nhóm phước đã sinh là rộng lớn, rốt ráo, đều dùng để hồi hướng.

Tụng nêu:

Bát-nhã Ba-la-mật

Chánh gồm tám ngàn tụng

Nhóm phước đã đạt được

Đều từ Bát-nhã sinh.

Bát-nhã Ba-la-mật, Chánh gồm tám ngàn tụng: Nghĩa là trong Bát Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa nầy, đã nói về tự tánh. Bát Thiên (tám ngàn): Là số lượng ấy gồm thâu khắp. Trong số lượng như thế, nghĩa tích tụ chung đã được giải thích. Tụng nói Chánh: Là nghĩa không điên đảo. Tức trong chánh giáo ấy đã sinh khởi những gì? Tụng tự đáp, nói: Nhóm phước đã đạt được.

Được: Là nghĩa thu đạt được. Nhóm phước thanh tịnh được tạo thành như vậy, đều từ Bát-nhã Ba-la-mật-đa xuất sinh. Do xuất sinh từ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên số lượng phước có được là rộng lớn sâu xa. Đem số lượng phước sâu rộng đã có được ấy, dùng hồi hướng về khắp hết thảy thế gian, đều khiến đạt được trí thanh tịnh thắng diệu rốt ráo của Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Ở trong các câu đúng đắn của đệ nhất nghĩa thù thắng, không hư vọng ấy, xét tìm đúng như lý, tôi ở đây đã tạo văn giải thích, nhóm phước đã sinh, nay ý nói, khiến khắp tất cả thế gian đều được thanh tịnh. Tụng viết:

Các Bí-sô Thích-ca Sư Tử

Hiện có phước cao, hơn như thế

Đây đã nói, ý lợi thế gian

Do phước thắng nên trụ chân thật.

HẾT – QUYỂN 4

Trang: 1 2 3 4