TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI
Tác giả: A La Hán Bà Tố Bạt Đà
Hán dịch: Đời Phù Tần, Đại sư Cưu Ma La Phật Đề
Việt dịch: Nguyên Huệ
QUYỂN THƯỢNG
TỰA TỨ A-HÀM-MỘ SAO
A-hàm-mộ, đời Tần gọi là Thú Vô. Kinh này do A-nan rút từ mười hai bộ kinh, thâu tóm các pháp yếu trong kinh, làm thành bốn bộ Ahàm-mộ cùng với A Tỳ đàm và Luật thành ra ba Tạng.
Riêng tôi là thân học sĩ, một lòng vì công đức cao tột, không muốn các pháp ấy rơi rụng, may mắn lại có vị A-la-hán tên là Bà-tố bạt đà, chọn lấy những điều hay làm thành một bộ, gồm chín phẩm bốn sáu trang, bỏ đi những chỗ trùng lặp, văn gọn, nghĩa phong phú, đúng là tràng chuỗi ngọc của kinh, với trăm điều hay đẹp, biện bạch chỗ phải trái, ghi chép đủ cả. Những điều hay, chỗ sâu kín đều khéo nghiên cứu kỹ.
Có vị Sa-môn ngoại quốc, tên Nhân-đề-lệ, là người trước tiên mang bộ kinh này đến, nhưng vì bí mật của nước, nên vị ấy luôn mang theo bên mình, không đem chỉ dạy cho ai. Ông Vương Di Đệ tìm đọc được, nên kinh mới được truyền bá rộng.
Vào tháng tám năm Nhâm Ngọ (382), tôi ở chùa của Tiên sư nơi Đông tỉnh, đến chùa nơi đất Nghiệp, giao bản văn chữ Phạm cho Cưu- ma-la-phật-đề cất giữ, Sa-môn Phật Niệm và Phật Hộ mới dịch ra, Tăng Đạo xét duyệt, Tăng Duệ bút thọ (chép ra văn tự), đến mùa đông, tháng mười một năm ấy thì xong. Cùng năm này, mùa hè thì dịch A tỳ đàm, mùa đông thì dịch xong kinh trên. Như vậy, trong một năm mà đủ hai tạng. Tôi thầm cho là, mình được may mắn, nhưng có điều buồn, là đến bảy hai tuổi, mới được gặp kinh ấy! Chỉ e, sư biên chép chưa xong, sự nghiệp chưa tròn mà thôi! Nếu như có thêm vài năm nữa, thì không mắc lỗi lớn đó.
Điều gần hơn hết, là bảo người dịch, cứ chuyển thẳng từ tiếng Phạm ra Hán văn, mong hiểu được phương ngôn mà thôi, còn nghĩa lý của kinh văn thì không dám thay đổi. Những chỗ chưa thông, việc chưa rõ, thì đều hỏi những người dịch, rồi ghi chú bên dưới. Khi ấy, lại lấy cái hiểu của mình để chú thích từng chương kinh. Người dịch thì dẫn kinh gốc chú giải. Có nghĩa là, những chú giải ở đây được lấy ngay lời của kinh mà chú giải.
********
TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 1
A-hàm mộ, đời Tần dịch là Hướng đến nẻo vô.
Trước, xin đảnh lễ bậc Thiện Thệ, giáo pháp và chúng vô thượng, diệt trừ các hữu. (Đảnh lễ Tam Tôn chúng, có thể trừ các kiết).
Nên nói về điều mong cầu (Pháp Chân đế), tóm lược nghĩa để nêu bày, do đó sẽ nói về ba pháp.
Đệ tử thưa hỏi: Có ba pháp để nói, vậy nghĩa của ba pháp ấy là gì?
Thầy đáp: Pháp dựa nơi ba môn để nối kết, là thứ lớp hành tác, thế nên ba pháp cần suy xét, nhận biết.
Hỏi: Thứ lớp của ba pháp có nghĩa thế nào?
Đáp: Các chương nơi kinh Phật liên hệ với vô số tưởng. Chúng sinh do vị của tham dâm, giận dữ đã hủy hoại nhân duyên tinh tấn, mạng sống do ăn uống mới tồn tại, tức chúng sinh trí tuệ yếu kém muốn cầu Thánh đế là các tưởng được tập hợp, nên biết về nghĩa. Nghĩa nhận thức mau chóng là phương tiện suy xét của ba pháp. Phân biệt là thứ lớp, tất cả là tưởng hiện có của thế gian, theo chỗ mong muốn, các tưởng được nối kết, thế nên suy xét, nhận biết về nghĩa tạo tác của ba pháp.
Hỏi: Là phương tiện nêu bày về tưởng, nên nói về ba Pháp?
Đáp: Công đức, Ác, Nương dựa, nhận biết rõ về giải thoát. (Kinh nói: Một là Công đức. Hai là Ác. Ba là Nương dựa). Công đức, Ác, Nương dựa, nhận biết rõ về giải thoát, có câu nghĩa ấy, ba pháp là câu gốc và mỗi mỗi thứ đều có ba độ, ba phần.
Hỏi: Câu có ba phần, đầu tiên là nói về tư duy giải thoát, vậy giải thoát là nghĩa gì, là công đức của giải thoát kia? Ác, Nương dựa là nhận biết về chỗ tương ưng?
Đáp: Đã hội nhập thì không còn nêu bày. Giải thoát là đối với chúng sinh của thế gian, cho đến loài trùng kiến. Loài trùng kiến cũng mong cầu đời sống an lạc, nghĩa là nhận biết, thọ dụng mà hướng đến giải thoát. Một nghĩa của lạc thọ nơi thế gian ít an lạc tương ưng với với nhân duyên an lạc. Chúng sinh không nhận biết, như vui thích nơi đạo, vui thích nơi Niết-bàn, vui thích không bệnh tật v.v… Do không nhận biết về đạo có an lạc là chỗ mong cầu không thể nêu bày, vì đã hội nhập đạo thì không còn nói năng như trẻ thơ.
Hỏi: Thế nào là mắt tức tự nhận biết về nhãn xứ?
Đáp: Là tự nhận biết nên không nêu bày. Như vậy, vui thích về chỗ mong muốn của thế gian là mong cầu nơi đạo, thế nên nói nghĩa của đạo vốn tạo tác không xấu ác.
Hỏi: Công đức là gì? Nhận biết, vui thích về giải thoát, có như thế là không thể thấy vàng, vì thấy là được giàu có chăng? Bị bệnh nên không thể nói nghe, do đó không nhận biết giải thoát?
Đáp: Ở đây như đèn sáng đi vào phòng xua tan bóng tối. Có chẳng là đèn sáng, có sau là bóng tối. Trí ấy sinh giải thoát, là trí nhận biết rõ về một nghĩa.
Hỏi: Công đức là pháp như thế nào? Gọi là chúng sinh si ám sâu xa, là sắc, vị, hương, là thọ, không thọ, đã thọ?
Đáp: Hoặc theo tưởng bên ngoài, kinh nói là công đức, gốc của phước đức không ác. (Ba câu của kinh là phước, gốc, không ác). Phước đức, Gốc, Không ác, là quả của pháp thanh tịnh thuộc ba công đức. Ta suy xét về công đức, là tất cả ba thứ đều h ội nhập, thế nên lược nói.
Hỏi: Đã nói về phước đức, gốc, không ác. Vậy Phước là pháp gì?
Đáp: Phước là phước đức nơi Thí, Giới, Phân biệt (Tu), luôn luôn là sự thiện, lại ngăn giữ việc ác của con người, vì thế phước là ba hành thí, giới, phân biệt (tu). Như vậy là trước tiên như thầy đã nói.
Thường có thể tạo phước đức là hành thí. Thọ mạng của chúng sinh là vô thường luôn theo đuổi. Nếu ngăn giữ, tiêu trừ các ác là hành tác thường xuyên, thế nên phước đức như đã nêu dụ.
Hỏi: Đã nói về phước đức, thí, giới, phân biệt (tu). Vậy thế nào gọi là Thí?
Đáp: Cho kẻ khác thọ nhận tài sản của chính mình, của thân mình. Thí nhớ nghĩ cùng đạt đến chỗ thí lần nữa. Ba hành thí là pháp, thực (tài) và vô úy. Pháp thí, thực thí (tài thí) và vô úy thí là nói về ba thí. Pháp thí là nói rõ về thế gian, xuất thế gian. Vô úy thí là tám hành, ba quy mạng cho đến năm giới. Đức Thế Tôn nói quy mạng nơi Phật, là vô lượng chúng sinh nên thực hành. Vô úy là không ganh ghét, không giận dữ, không sát hại. Phần khác cũng như thế.
Hỏi: Nếu quy mạng dẫn đến thấy có giết hại loài trùng, pháp nào là giữ gìn vô úy?
Đáp: Ta không nói tất cả chúng sinh, ở đây do tà kiến si mê nên giết hại loài trùng, hoặc trộm lấy của cải nơi kẻ khác, tạo các việc ác. Hành ba quy mạng ấy nên không có các kiến chấp của thế gian. Các kiến chấp của thế gian là do không quy mạng, thế nên có vô lượng thực thí (tài thí) an lành, gọi là của cải đứng đầu. Thí vô số thứ cho kẻ khác, cùng với tháp là đứng đầu, hương là đứng đầu. Tự thân thọ nhận, hoặc cả hai thọ, thế nên hai công đức gồm đủ quả báo lớn, là thí tịnh. Như vậy, thầy Ta trước đã nói, của cải gốc tạo hữu, hoặc nhớ nghĩ, hoặc cả hai tạo hữu, hoặc nghĩa tạo thế gian an lành là phương tiện tịnh. Thí ít, có quả báo lớn, là có nhân duyên tịnh. Thí ít, cùng đạt được công đức.
Hỏi: Giới là pháp gì?
Đáp: Giới là thân, miệng, đối với kẻ khác thọ nhận không hủy hoại, không tăng sự hủy hoại kẻ khác. Giới gọi là ba tương ưng, tu nơi thân miệng cùng khởi.
Hỏi: Là pháp như thế nào?
Đáp: Kẻ khác thọ nhận, kẻ khác không thọ nhận tăng thêm. Kẻ khác thọ nhận ấy gọi là tự mình đói kém, tự nhận biết không nhiễm hại kẻ khác thọ nhận. Như vậy, tài sản, vợ con của kẻ khác, không tham nhiễm để giữ lấy. Như thế, không khiến kẻ khác thọ nhận lời nói dối, lời nói hai lưỡi, lời nói thô ác, lời nói không cần thiết, không chấp nơi sự thọ nhận của kẻ khác. Hoặc bảy chi không nhiễu loạn kẻ khác thọ nhận. Vô số chúng sinh bần cùng được trợ lực khiến kẻ khác thọ nhận, hoặc cả hai cùng suy xét. Phước tăng, nối tiếp như từ nay, như sát sinh không còn dấy khởi nơi tâm ý. Khoảng giữa càng tăng thêm tương ưng, như xuất sinh tài sản được quả báo như ý, khéo sinh hiểu biết, nhận lãnh như gieo trồng lúa thóc. Cành lá tăng trưởng dẫn tới được quả. Như thế liên tục cho đến nghỉ ngơi tăng nhiều, do đó tăng trưởng là giới.
Hỏi: Phân biệt (Tu) là pháp gì?
Đáp: Phân biệt là hành thiền, vô lượng, vô sắc. Phân biệt là hành thiện. Thế nên phân biệt như dầu mè, hoa hợp hành phân biệt, như vua cầu, như cùng cầu ngôi vị vua có được là hành cầu. Quả tịnh tương ưng có phân biệt, là nghĩa tư duy của thiền, là bốn hành.
Hỏi: Pháp ấy là thế nào?
Đáp: Thiền hành dứt mọi ái và lạc thọ, khổ thọ, là bốn thiền. Trước tiên là dứt trừ hành bất thiện như tham, dâm, khéo tạo nhân duyên buộc giữ tâm ý khiến an trụ. Hai là tự hành trì, nêu bày, tự hành, tự nhận biết, trừ bỏ các âm thanh tạo ham muốn, thế nên không hành. Là tự hành dứt bỏ tham dâm như trước đã nói. Ái, ba ái đều dứt. Tâm ý hoan hỷ như nước tuôn trào, là không. Hành tham dâm dứt. Tăng trưởng dứt. Khổ thọ, lạc thọ dứt. Lạc thọ nơi thân ý không còn bức bách. Ngoài khổ là hành thọ không còn tham ái. Lạc thọ, khổ thọ dứt, là bốn thiền.
Hỏi: Gọi là vô lượng, là pháp gì?
Đáp: Vô lượng là Từ, Bi, Hỷ, Hộ (Xả), là bốn tưởng vô lượng. Chúng sinh vô lượng, thọ nhận nhân duyên là vô lượng, là không thể lường tính, nên là vô lượng. Từ là yêu thương tất cả chúng sinh, tức là ý hành. Thương xót hết thảy chúng sinh, thân niệm ấy là từ v.v… Bi là thương xót chúng sinh khổ não, tự thân yêu mến, vui thích, nhớ nghĩ đến chúng sinh, cùng liên hệ với Hỷ, Xả, không tạo tác. Luôn nhẫn đối với các chúng sinh hành phi pháp, hoặc tạo sự trái nhau khiến thấy rõ nhân duyên, thế nên phải nhẫn, xả.
Hỏi: Vô sắc là pháp thế nào?
Đáp: Là vô sắc hư không, thức, vô sở hữu, hữu tưởng vô tưởng xứ. Xứ là nghĩa nương dựa. Chúng sinh là bốn phần xứ, không sắc hỗ trợ sắc, hỗ trợ ác kiến, do đó ý không nhiễm. Nhân duyên của hư không theo ý là một định. Hư không cùng hệ thuộc tưởng. Hư không xứ kia như thế nào, nên hư không nương dựa là có thức, thế nên nhân duyên của thức là xứ hành thức, là cũng nương dựa, không nương dựa nơi giải thoát, nghĩa là không có đối tượng tạo tác. Xứ vô sở hữu ấy, kiến tưởng ác diệt, kiến sợ hãi một ý. Xứ hữu tưởng, vô tưởng là cõi Vô sắc. Đã nói về quán không, đã nói về phân biệt vô sắc, là nói về tất cả phước đức.
Hỏi: Căn là pháp thế nào?
Đáp: Căn là không keo kiệt, không giận dữ, không si mê. Không keo kiệt, không giận dữ, không si mê là ba sự tướng của căn.
Hỏi: Đây là căn gì?
Đáp: Không phải như công đức đã nói ở trước, do đó tất cả là pháp nhập của giải thoát, là căn như đã nói về sự tương ưng, nên khiến tương ưng: Một là đại. Hai là hư không. Như thí không keo kiệt, giới không giận dữ, phân biệt (tu) không si mê.
Lại, tài thí không keo kiệt, vô úy thí không giận dữ, pháp thí không si mê. Lại, không keo kiệt, không nhiễu hại kẻ khác. Không giận dữ, không nhiễu hại kẻ khác, không khiến si mê tăng trưởng, ba giới như vậy. Lại, thiền không keo kiệt, căn không giận dữ, vô lượng, vô sắc không si mê, ba phân biệt như thế. Lại, Thánh sự không keo kiệt, nhẫn nhục không giận dữ, đa văn không si mê. Như thế là căn không ác. Như vậy, tất cả là căn của hành thiện. Như thế, không keo kiệt gọi là chỗ tạo tác hành niệm không chấp giữ. Không nơi chốn hành tác, không giận dữ gọi là trợ lực khiến diệt trừ sân hận. Không si mê gọi là trợ lực diệt trừ vô minh, vô trí, do đấy gọi là căn.
Hỏi: Nói Không ác là pháp thế nào?
Đáp: Không ác là Nhẫn nhục, Đa văn, Thánh phần. Nhẫn nhục, Đa văn, Thánh phần là nói về ba thứ không ác. Không ác là nghĩa thuộc thế tục, tùy theo chỗ tạo tác của tâm tưởng, hoặc không sợ hãi đối với ác. Đức Thế Tôn đã nói Hành giả hoàn toàn dứt bỏ ác, là nhẫn khổ tăng lực đối với ác. Tự hạ mình là nhẫn không giận dữ, nhẫn khổ tăng thêm lực. Lực ác thêm số, khổ tăng sức nên không ác. Lực ác tự hạ thấp, chán khổ là nghĩa của nhẫn, lực tăng thêm nên không ác. lực không tăng, nên có thể hoặc không thể nêu bày. Chỉ nên lo sợ các chúng sinh khởi ác. Tức nhẫn là tăng trưởng không ác. Đối với hành lỗi lầm nên nhẫn, là nghĩa cần nói rõ. Khổ là bị các thứ lạnh nóng, đói khát, gió nóng phát khởi, đều nhẫn chịu. Khổ gọi là như sự việc tăng thêm, là hai sự khởi khiến thân khổ não. Chúng sinh vô úy là nhân duyên của chúng sinh ác, nên nói là ác. Do đó, có hai thứ nương dựa là trong, ngoài, nghĩa là bức bách thân là nên nhẫn, là nhẫn.
Hỏi: Đã nói về Nhẫn nhục, thế nào là Đa văn?
Đáp: Đa văn là lắng nghe Kinh, Luật, Luận. Đa văn tức là tham sân si đều dứt hết, cùng có là đa văn, phần khác thì không phải.
Ba tạng Kinh, Luận, Luật ấy, thì Kinh là bậc Nhất thiết trí thuyết giảng, là nơi chốn đạt được của Phật, quyết đoán rõ hiện nơi bốn Thánh đế. Hiện bày ánh sáng giải thoát không trong không ngoài. A-tỳ-đàm (Luận) gọi là hiển thị phần tương ưng hiện có của Kinh. Tỳ-nại-da (Luật) là nói về sự thanh tịnh không hành, không thọ mạng, là ba hành đa văn, là Luật ngăn trừ tham dâm tăng trưởng. Luận ngăn trừ giận dữ, luận nói về hành được tạo tác, nhận biết, thế nên giận dữ mỏng dần. Giận dữ dấy khởi phạm các điều giới. Địa ngục có si ám được dứt bỏ. Nhân duyên nói là tất cả đa văn.
Hỏi: Thế nào là Thánh phần?
Đáp: Thánh phần là bình đẳng, là thiện tri thức, tư duy đạt được. Thiện tri thức bình đẳng, tư duy bình đẳng đạt được là ba Thánh phần. Thánh phần không nói đến nghĩa ác, là thiện tri thức. Chỗ mong muốn, trợ lực thiện, thầy, đệ tử, bạn. Nghĩa là chỗ mong muốn, trợ lực thiện là thiện tri thức kia, là ba loại thầy, đệ tử, bạn.
Hỏi: Thế nào là hỗ trợ thầy? Thế nào là đệ tử thiện? Thế nào là lực nơi bạn? Theo như số nêu bày?
Đáp: Nói như thế rồi, nhận biết chỗ sai biệt. Trợ lực thiện là tướng của thiện tri thức. Thầy, đệ tử, bạn kia, nhận biết nói là trợ lực thiện tăng trưởng, hai thứ cùng có là cành nhánh. Chúng hoặc tương trợ, không trợ lực thiện, nhận biết để nói. Như người cha thiếu thốn, cha con đều tuổi cao. Hoặc có lực nhưng không khéo nhớ nghĩ, muốn hỗ trợ thiện, không hỗ trợ xứ bất thiện, như hai trong Lục sư là Mạt-ca-lan, Phú-lan. Hoặc muốn không trợ lực thiện, như thầy thuốc, tất cả đều nhận biết rõ. Trước có oán, biết bệnh không cứu. Hoặc là ba tướng cùng gồm đủ. Là thiện tri thức, hoặc thầy lỗi lầm, hoặc đệ tử lỗi lầm, hoặc bạn lỗi lầm. Thế nên ba tướng tương ưng là thiện tri thức.
Hỏi: Tư duy là pháp gì?
Đáp: Tư duy là đối tượng hành của tức, giác, tinh tấn, hộ (xả), tưởng. Tức, giác, tinh tấn, hộ, tưởng, dùng làm phần chính là vô tác. Tức ấy là ý loạn được định. Tướng kia giống như giác, tinh tấn đối với ý niệm biếng trễ. Chỉ dạy không loạn, là hộ cùng đắc tương ưng. Như điều khiển xe, ngựa chạy chậm thì thúc giục, bò phóng nhanh thì kìm giữ lại. Cùng hành là hộ (xả). Tâm ý nên quán như thế. Vô lượng nội nhập một, hộ một, đều có duyên nơi chúng sinh tương ưng trước, là tâm ý cùng được hộ (xả).
Hỏi: Điều được nêu bày là gì? Hoặc tâm ý của hộ, tức nếu nhanh thì nên kìm chế. Nếu tâm ý chậm chạp thì nên thúc giục để cùng được hộ.
Đáp: Ta trước không nói là cùng tư duy sao? Như cùng tư duy, như lúc sợ hãi, hình luôn tương ưng. Nếu khác thì không cùng tư duy, thế nên tư duy.
Hỏi: Đắc là thế nào?
Đáp: Đắc là cùng gồm đủ phương tiện, quả. Phương tiện định nhập, không ngoài cúng dường, là nhập tương ưng, cùng gồm đủ phương tiện, quả.
Hỏi: Cái gì là cùng gồm đủ?
Đáp: Như nói về giải thoát.
Hỏi: Pháp gì gọi là cùng gồm đủ?
Đáp: Cùng gồm đủ là các thứ sách vở ghi chép. Căn đoạn, tiếp cận thiền, cùng tích tụ là hành thiện. Thế nên cùng gồm đủ, như gieo trồng cùng gồm đủ. Gieo trồng cùng gồm đủ là nghĩa về cành, nhánh, là cùng gồm đủ ba hành: Các thứ sách vở ghi chép, căn đoạn, tiếp cận thiền.
Hỏi: Các thứ sách vở ghi chép kia gọi là pháp gì?
Đáp: Các thứ sách vở ghi chép là Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã (A-lan-nhã) hành mặc y Ngũ nạp. Các thứ sách vở ghi chép luôn đầy đủ là nghĩa tăng trưởng. Những người thợ chuyên tạo hai hình tượng, khéo léo đục, khắc đá, gỗ, chuốt sửa để thành tượng. Tạo sách vở ghi chép, tạo kinh, tạo hình vẽ, họ tạo hai hành của hình tượng, người thợ khéo léo tạo tác có thể chịu đựng mưa gió, còn hình tượng tuy đẹp đẽ nhưng không thể chịu đựng được. Hai người như thế là Đạo nhân và bạch y. Đạo nhân luôn nhớ nghĩ việc từ bỏ thân thuộc, chỗ từ bỏ cũng như người thợ thiện xảo. Người bạch y có thê thiếp, nô tỳ, không như người thợ vẽ giỏi hành tác. Người bạch y lần lượt vui thích, yêu mến. Nếu yêu mến phải biệt ly thì sầu muộn, lo sợ, tranh chấp đứng đầu, dùng phi pháp hủy hoại. Có kẻ không phải Đạo nhân tạo kinh tượng không bền chắc. Đức Thế Tôn nói như loài khổng tước ưa thích chim cổ xanh, bay đi không như chim nhạn đồng cất bước. Người bạch y như thế không giống với Tỳ-kheo Mâu-ni, thường ngồi thiền nơi đồng vắng, là sách vở ghi chép. Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã hành mặc y Ngũ nạp, là ba công đức Đầu-đà, có mười hai căn, chín thứ còn lại là quyến thuộc, đều nên nói riêng.
Đức Thế Tôn đến chỗ Toan-đà-lê, dẫn Nan-đà theo để nói về ba công đức:
Lúc nào chàng Nan-đà được thấy ngươi
Vô sự mà mặc y thô Ngũ nạp
Nơi tin thí kia nhưng không hề nhiễm
Xa hành dâm dục, hay lìa mọi hiểu.
Do đó, biết gốc có ba công đức ấy.
Lại nữa, bốn tham ái khác sinh khởi là y phục, thức ăn uống, giường nằm, nơi chốn đều có tham. Ở đây, tham ái về y phục, nên dùng y Ngũ nạp để nêu bày. Tham ái về thức ăn uống, tham ái về vật dụng nằm ngồi, thì nói về hành nơi A-luyện-nhã, là công đức đủ để trừ bỏ các thứ tham ái ấy. Hoặc nhập nơi hai hành, nhập nơi kiêu mạn, nhập nơi chỗ tự tán dương, là tham ái về y phục, thức ăn uống, vật dụng nằm ngồi, nên dùng ba công đức (y Ngũ nạp, khất thực, ở A-luyện-nhã) để dứt trừ, hoàn toàn hỗ trợ để trừ bỏ kiêu mạn. Là đạt được an lạc nên nói đấy là công đức Đầu-đà.
Hỏi: Thế nào là y Ngũ nạp (y Phấn tảo)?
Đáp: Y Ngũ nạp là ba y của người hành đạo có được (không lựa chọn tốt xấu). Y Ngũ nạp nầy là một trong ba thứ kia, như y dệt bằng lông v.v… tùy theo chỗ ngồi. Nếu ba y chỉ là y Ngũ nạp, tức nên có chín công đức Đầu-đà, như thế thì cùng trái với kinh đã nêu chăng? Y Ngũ nạp là từ nơi vùng gò mả, nơi đường đi, nhặt nhạnh các tấm vải cũ xấu bẩn, hoại màu, giặt sạch để may thành. Ba y là Tăng-già-lê, Uất-đát-la-tăng, An-đà-la-bà-đồ (An-đà-hội). Hoặc có trường hợp nhận giữ ba y, nhân đấy, dốc sức tìm cầu, do tham ái ấy nên hết sức cực nhọc. Nếu không được nhiều thì ba y nên biết là đủ, tốt. Ái có hai thứ: Ái tốt đẹp và ái nhiều. Ví như cầu tìm một người nữ đẹp đẽ hơn hết, hoặc cầu tìm hàng ngàn người nữ không xinh đẹp. Như thế là tham ái nhiều, nên dùng ba y chế ngự, sinh ái tốt đẹp. Đức Thế Tôn đã vì hạng người ấy, nói thọ dụng ba y có sáu loại: kiếp bối, tất cánh, tơ lụa, vải vỏ gai, vải dệt bằng vỏ cây, sợi gai, trong ấy nên dùng một loại. Người kia thấy rồi thì ưa thích, việc đó gây nhiều cực nhọc, nên vì họ nói về y dệt bằng lông, kẻ ấy như thế là dùng ba y dệt bằng lông. Hoặc ở trong chúng, hoặc tại giường tòa nơi nhà bạch y, nếu thấy tòa ngồi tốt đẹp khác liền dời đến để ngồi, thì vì những người đó nói, cứ theo tòa đã ngồi, không nên vì tốt đẹp mà dời đổi. Như Thượng tọa sai bảo là tùy theo chỗ thích hợp. Như vậy, đầy đủ ba thứ là y Ngũ nạp.
Hỏi: Thế nào là pháp ở A-luyện-nhã?
Đáp: Pháp ở A-luyện-nhã là ngồi nơi gốc cây, ngồi dưới bóng cây, ngồi hiện rõ. Người hành đạo thực hiện ngồi ngay ngắn nơi gốc cây, ngồi dưới bóng cây, ngồi hiện rõ, hành đủ ba thứ ấy là pháp ở A-luyện-nhã. Bốn thứ nầy là để diệt trừ tham ái về nơi chốn. Ở đây, người tinh tấn thì hàng tín thí tạo nhà, các thứ giường tòa lớn, vật trải mềm mại, khiến người hành đạo tham chấp. Đức Thế Tôn nhận biết nên vì họ giảng nói sự việc ấy. Không nên xả bỏ nhà cửa của mình để tham vướng nhà cửa khác, nên xả bỏ tham vướng để vui nơi A-luyện-nhã. Kẻ kia đã ở nơi A-luyện-nhã, lại tạo phòng ốc, lầu gác cao lớn, đây cũng là điều không nên làm. Ở trong chốn A-luyện-nhã lại ưa thích phòng gác cao rộng, như dùng xe ngựa mà gồm cả lừa. Do đó, nên thực hành việc ngồi nơi gốc cây, ngồi dưới bóng cây. Người kia đã thọ trì rồi, nhưng không thích cây nhỏ, xấu xí, lại cầu cây to lớn, tươi tốt, có nhiều hoa quả. Đức Thế Tôn chỉ dạy những người ấy nên thọ trì việc ngồi nơi khoảng đất trống. Do là chỗ mong muốn của nam, nữ, chỗ ưa thích của các Bà-la-môn, không bị tham ái bức bách. Người kia đã ở nơi khoảng đất trống, liền khởi suy nghĩ: Ta đã làm được việc khó làm. Do xả bỏ ấy nên tư duy đúng đắn, liền nằm nghiêng ngủ cho tới mặt trời mọc.
Đức Thế Tôn đã chỉ dạy kẻ kia sự việc như thế, không thể như người cắt tai để trang sức nơi đầu. Do đấy, nên thọ trì việc ngồi ngay ngắn nơi thảm cỏ, ngồi theo tư thế kiết già, quán xét khắp thế gian đúng như sự thật mà tự tạo nghiệp. Hành như vậy là hành A-luyện-nhã đầy đủ.
Hỏi: Pháp khất thực là thế nào?
Đáp: Khất thực là ăn ngày một bữa, quá giờ thì không ăn, không được uống các thứ nước khác ở nơi nghĩa địa. Người xuất gia có hai thứ thọ thực: Thọ thực với chúng Tăng và khất thực. Thọ thực với chúng Tăng là ở nơi trụ xứ, ngày ngày được thí chủ đem đầy đủ các thức ăn để dâng thí. Hoặc sợ có những khó nhọc trở ngại, nên lập tăng đường, tạo rồi thì bày biện đủ các vật dụng dành cho việc thọ thực. Khất thực là lần lượt đi đến từng nhà để xin nhận thức ăn nhiều, ít. Đó gọi là khất thực, những cách sống khác là hành không đúng pháp. Kẻ kia nơi một xứ thọ thực, khởi suy nghĩ: Ta có thể đi đến nhà thí chủ nọ để thọ thực. Liền dấy tham chấp. Đức Thế Tôn vì những người như thế nên khuyên dạy: Phải nên khất thực. Người ấy khất thực rồi thì thường xuyên ăn uống trong nhiều thời gian, bỏ phế việc tu học. Đức Thế Tôn chỉ dạy kẻ kia nên thọ thực ngày một lần, như kệ nói:
Như người khởi tâm niệm
Mỗi lần ăn, biết ít
Tức là thọ dụng giảm
Hạn chế, giữ mạng sống.
Người ấy thọ thực ngày một lần rồi, lại tìm cầu thức ăn ngon, dấy khởi suy nghĩ: Đức Phật chỉ cho phép uống nước. Vậy nên tìm đủ các thứ nước uống, tức bỏ phế việc tu học. Đức Thế Tôn khuyên dạy: Nên bỏ việc uống nhiều thứ nước. Lúc khát, nước thường cũng có thể dứt trừ. Nên thọ trì pháp quá giờ thì không uống các thứ nước khác. Người kia như thế là thọ thực ngày một lần, không uống các thứ nước khác khi quá giờ, nhưng lại ưa thích tắm gội, xoa chà nơi thân, trang sức nơi thân. Đức Thế Tôn dạy kẻ ấy: Đó cũng là kiêu mạn của tưởng thọ thực. Vì sao? Vì thân thể là do ăn uống nên được trường tồn, dù có béo mập, cũng sẽ đem bỏ nơi vùng gò mả. Vì thế nên vui thích ở nơi ấy, quán xét về nơi ấy, từ chỗ ăn uống dẫn tới thân thể sình trướng, rữa nát, tan hoại, giòi bọ nhung nhúc, mỡ máu chảy đầy khắp. Thấy rồi thì tưởng kiêu mạn kia được dứt bỏ. Tỳ-kheo như thế là hành khất thực đầy đủ.
Hỏi: Pháp chế phục căn là thế nào?
Đáp: Chế ngự căn là không hại, giữ gìn, hàng phục. Là tự có thể chế ngự các căn, hàng phục các căn. Ba thứ ấy là không hại, giữ gìn, hàng phục.
Hỏi: Những gì là không hại?
Đáp: Hại căn là căn dấy khởi không thể điều khiển. Căn không được điều phục như loài ngựa tuy đoạn dứt nước, lúa thóc, nhưng không đường nào là không chạy được. Ăn no do lúa thóc, cỏ, nước, thì ngựa theo đúng đường đi, tức điều hòa, chạy tốt. Như vậy hại căn thì không điều khiển được. Thâu giữ các căn tức điều khiển được. Nếu hại căn, cho đó là điều khiển được, thì như người mù mà có thể lìa dục. Do vậy không nên hại căn, chỉ nên chế ngự đúng đắn đối với cảnh giới. Tư duy đúng đắn để thâu tóm, tức có thể giữ gìn. Hoặc như trước thầy đã nói về cảnh giới của căn, lìa bỏ tưởng, không thể hại cảnh giới, chỉ trừ bỏ nhiễm vướng.
Hàng phục căn là nếu thấy người nữ nhan sắc đẹp đẽ, liền dấy tưởng như thấy mẹ. Đó gọi là ba thứ chế phục căn.
Hỏi: Pháp tiếp cận hành thiền là thế nào?
Đáp: Tiếp cận thiền là tiếp nhận, không dấy tưởng, cùng gần nơi tư duy, thế nên gần hành thiền, như trước đã nói về giải thoát.
Hỏi: Như trước đã nói về bốn thiền, vì sao lại nói nữa?
Đáp: Trước nói về thiền là nhằm giải thoát khỏi sinh tử nơi thế gian. Ở đây là hướng tới nẻo xuất thế gian, hơn hẳn điều ấy, thứ lớp quán Thánh đế. Như người đi qua vùng đồng rộng, thấy có nhà cửa, vườn tược gồm nhiều thứ cây đầy hoa trái. Ý người nầy tất cho đây không phải là vùng đất vắng vẻ, khô cằn, đói kém, mà là gần với đô thị. Như vậy, Hành giả ở nơi quãng đồng rộng sinh tử, có đủ phiền não tham sân si, đạt được nhận biết chân thật, nên tư duy đúng đắn, lúc quán xét ấm, giới, xứ, là vô thường, khổ, vô ngã, nếu mong muốn là nên có nhẫn. Tư duy tăng thêm, tâm ý không động. Đó gọi là như trong mộng thấy điều vui mừng, như trong gương thấy hình bóng. Như vậy, tưởng quán khổ, là pháp tốt đẹp nhất của thế gian. Tưởng về Đức Thế Tôn cũng như thế, đó gọi là hành thiền. Hành giả theo thứ lớp như từ trong mộng tỉnh giấc, thấy vui vẻ, sau đạt được quán về Thánh đế cũng như thế.
Phần thứ nhất của phẩm Công Đức nơi ba Pháp độ đã nói xong.
TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 2
Hỏi: Pháp gì gọi là Phương tiện?
Đáp: Phương tiện là Giới, Ưu-bá-si (Dứt trừ), Trí. Phương tiện là nghĩa đường đi, lấy giải thoát làm đầu (hướng tới trước) gồm ba nhóm giới, dứt trừ, trí.
Hỏi: Do đâu nói lần nữa về Giới?
Đáp: Trước không nói giới có hai: thế gian và xuất thế gian. Trước là nói giới thế gian. Đây là nói giới xuất thế gian, giới là nghĩa hành tập.
Hỏi: Điều ấy là thế nào?
Đáp: Giới là đẳng khẩu, đẳng hành, đẳng mạng (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng) là ba nhóm của giới.
Đẳng khẩu (chánh ngữ) là lìa bỏ nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời không chính yếu (nói thêu dệt). Đẳng hành (chánh nghiệp) là lìa bỏ các thứ sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Đẳng mạng (chánh mạng) là Tỳ-kheo khất thực, trụ thực (thọ thực cùng chúng Tăng) có đủ y phục, giường nằm, thuốc men trị bệnh được thọ nhận, đó là đẳng mạng, các lối sống khác là tà mạng. Hàng Ưu-bà-tắc lìa năm nghiệp, đao gậy, rượu độc, thịt chúng sinh. Đó gọi là đẳng mạng (chánh mạng).
Hỏi: Thế nào là pháp Dứt trừ?
Đáp: Dứt trừ là tinh tấn, niệm, định. Dứt trừ là diệt bỏ hết thảy, như diệt trừ tham sân si, hướng đến nẻo kia để an trụ nên gọi là dứt trừ, là ba thứ tinh tấn, niệm, định.
Tinh tấn gọi là cần lực, nên nói sức mạnh của siêng năng, nên biết là đã nói tinh tấn. Nếu có thể hành đạt đến giải thoát, đó là tinh tấn.
Hỏi: Pháp ấy là thế nào?
Đáp: Tinh tấn là tín, hành (cần), không xả. Tín, hành, không xả là ba pháp của tinh tấn. Tín làm tăng trưởng tất cả hành thiện, luôn ở trước hết thảy pháp thiện, đối với tất cả các pháp là bậc nhất, là hơn hết. Như kệ nói:
Sĩ có hành tín
Được bậc Thánh khen
Vui thích giải thoát
Mọi trói buộc mở.
Là ba thứ tín.
Hỏi: Thế nào là ba thứ?
Đáp: Tín là kính, hỷ hành, đắc giải.
Kính gọi là trừ bỏ ô trược. Ô trược là chỗ tạo ác của con người, như sân hận, ganh ghét, không hổ không thẹn. Ví như bò heo làm đục loạn nước suối, là nói về ô trược. Khiến dừng lại, nên nước sẽ lặng trong. Như thế, người tạo ác, sân hận, ganh ghét, không hổ không thẹn, so sánh với tâm ý loạn động, đó là ô trược. Dứt bỏ ô trược gọi là kính (tịnh).
Hỷ hành là vui thích giải thoát. Như người bị bệnh, khổ sở, nên không muốn ăn ngon. Bệnh khỏi rồi, tất mong muốn có được các thức ăn ngon. Người ấy bị các pháp ác bức bách, nên không vui thích nghe pháp. Có được thiện tri thức thì liền vui thích. Sau đấy khởi suy nghĩ: Pháp nầy là tối thượng. Đó gọi là hỷ hành (dục).
Đắc giải là có thể nắm giữ. Ví như người bị rắn cắn, lúc thầy chú nguyện đối với độc, người kia tâm ý chí thành, từ đấy bớt dần, được hiểu rõ nên tìm thuốc. Như vậy, con người bị rắn tham sân si cắn mổ, Đức Phật thương xót chúng sinh không biết đường đi, hoặc các vị đệ tử thương xót, vì họ thuyết giảng chánh pháp. Người kia nếu tâm ý hiểu rõ thì không khác với dụ trên, tức dứt trừ được tham sân si. Đó gọi là đắc giải (giải).
Hỏi: Những gì gọi là hành (cần)?
Đáp: Hành là siêng năng, phát khởi và thường niệm. Siêng năng, phát khởi, thường niệm là ba pháp của hành. Phát khởi là bắt đầu tạo thiện, như lúc dùi lửa thì phải tạo các vật của lửa như gỗ vụn, phân bò. Siêng năng là thường xuyên cầu tìm. Thường niệm là niệm không loạn, tu một nhân duyên, như cứu lửa cháy tóc nơi đầu, phải dùng tay dập tắt. Ba thứ ấy gọi là hành.
Hỏi: Không xả là thế nào?
Đáp: Không xả là không lìa, không chán, không dừng. Đó là ba thứ của không xả. Không dừng là trong hết thảy thời gian không dừng nghỉ. Ta hết sức tinh tấn không bỏ phế, là không chán, ta hoàn toàn siêng năng, dù trong thời gian lâu dài có nhiều phiền não, là không lìa. Hoặc có quả, hoặc không có quả, nếu xả thì không có được công dụng gì cả. Hoặc do đấy nên không bỏ tinh tấn, đó gọi là không xả. Ba pháp nầy tất đạt được quả. Như người đi đường, vui thích nơi chốn đi tới.
Hỏi: Đã nói về tinh tấn, hành. Còn niệm là thế nào?
Đáp: Niệm là thân, thống (thọ), ý (tâm) pháp, trong ngoài đều không quên. Trong ngoài cùng không quên là ba thứ niệm. Vì tự mình là trong, phần còn lại là ngoài, cả hai là cùng. Hoặc trong là thọ nhận ấm, giới, xứ (nhập). Ngoài là kẻ khác thọ nhận. Không thọ nhận là cùng. Hoặc ba thứ kiết (phiền não) ở bên trong, ở bên ngoài, cùng. Ở bên trong là dâm dục. Ở bên ngoài là giận dữ. Giận dữ là vì kẻ khác, không phải tự giận dữ. Hoặc khởi niệm: Dâm dục cũng là vì kẻ khác. Điều nầy không đúng. Vì bên trong là nhiễm, bên ngoài từ kẻ khác sinh dâm dục, do bên trong chấp trước, như Đức Thế Tôn đã nói. Người thấy người nữ, như nội căn si ám cùng hành. Nếu dứt trừ ba thứ kiết ấy là ba thứ niệm. Ba thứ thọ, tâm, pháp, cũng như đã nói về thân, mỗi thứ đều có ba, như vậy là mười hai hành niệm.
Hỏi: Tam-muội (Định) là pháp như thế nào?
Đáp: Định là không, vô tưởng, vô nguyện. Đó là ba thứ Tam-muội. Không là mọi sở hữu đều không.
Hỏi: Có nhiều thứ không, như thôn ấp không, nhà cửa không. Như thế, ở đây là nói về không gì?
Đáp: Không là ngã hành, ngã tạo tác, đều không thể thấy. Ngã hành, ngã tạo tác đều không thấy, đó là không.
Hỏi: Vì sao ngã hành, ngã tạo tác là không thể thấy? Như Đức Thế Tôn nói: Ta thời ấy gọi là Bà-la-môn Để-la-mạt (Là ngã hành). Hoặc có chỗ nói: Nầy Tỳ-kheo! Tay Ta giơ lên nơi hư không (ngã tạo tác). Như vậy là pháp gì?
Đáp: Không phải thế. Ngã hành, ngã tạo tác là tục số, chỉ ở trong ấm chấp ngã là ngã hành. Đức Thế Tôn không hành điều ấy. Nếu đối với cảnh giới tham chấp, ngã thuận theo, đó gọi là ngã tạo tác. Điều nầy Đức Thế Tôn cũng không hành. Như Kinh Thánh Pháp Ấn nói, không là quán thế gian không. Như vậy, so với chỗ đã giải thích cũng là ngã, ngã sở cùng được thành. Thế nên không thể thấy là không.
Hỏi: Thế nào là vô nguyện?
Đáp: Vô nguyện là quá khứ, hiện tại, vị lai không tạo tác tương ưng. Vô nguyện là nghĩa không an lập. Là xứ trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, tương ưng không trụ, là tất cả hữu vi. Như nơi Kinh Thuyết Xứ đã nói, pháp kia nếu tạo ý ấy, ngã cùng Niết-bàn, thì pháp kia không gồm thâu ba thời. Ở đây thì không như thế. Vì một là không, hai là nghĩa, Niết-bàn là lìa thế gian, không có nhân duyên. Trong pháp kia không có ý về ngã, lìa ba đời lại không có pháp ấy nên không thể nói, là do trong ba thời không vui thích an lập. Đó gọi là vô nguyện.
Hỏi: Thế nào là vô tưởng?
Đáp: Vô tưởng là sự hành tác cùng tưởng, lìa sự hành tác cùng tưởng, lìa các thứ ấy là vô tưởng. Như có chỗ nói: Lìa tất cả hữu vi. Tất cả là sự cùng hành tác. Có thể tạo tác là sự. Chủ thể tạo tác là hành tác. Như do vô minh, nên phước, vô phước, bất động tạo tác hành. Duyên kia nối tiếp, có sinh thức là sự. Vô minh và hành là tạo tác. Như vậy, nếu lìa tất cả các thứ hữu vi kia, gọi là vô tưởng, như nơi Kinh Thánh Pháp Ấn đã nói, vô tưởng là không thấy sắc tướng kia. Lìa nói hết thảy hành tác kia cùng lìa bỏ tưởng. Tất cả là ba nghĩa cũng nói. Không, vô nguyện, vô tưởng cũng như vậy. Đó gọi là định.
Hỏi: Trí là pháp thế nào?
Đáp: Trí là sự tương ưng của ba địa: Địa kiến, địa phân biệt (tu) và địa vô học. Trí là nhận biết, là nghĩa trụ của ba địa kia. Ở đây, thấy biết nên gọi là kiến.
Hỏi: Những gì gọi là kiến?
Đáp: Thấy biết những gì trước chưa từng thấy biết, như căn, lực, giác đạo. Phân biệt (tu) là hành tập, như dùng tro sạch để giặt áo, tuy đã trừ bỏ phần cáu bẩn, áo được trắng sạch nhưng vẫn còn có mùi tro. Sau đấy dùng các thứ hương hoa để xông ướp. Như vậy nơi địa kiến, ý thiền thanh tịnh, vô lượng chánh thọ dứt trừ các kiết với rất nhiều công sức, đó gọi là tu.
Địa vô học là tham sân si đã dứt hết, không còn nhân duyên. Đó là địa vô học.
Hỏi: Những gì là trí nơi địa kiến?
Đáp: Trí nơi địa kiến là pháp, quán, vị tri, tức là pháp trí, quán trí, vị tri trí, đấy là ba trí của địa kiến.
Pháp trí, quán trí, là nghĩa của hiện trí. Ví như lương y nhận biết về mụt nhọt đã muồi, nên dùng dao bén mổ xẻ, cắt bỏ, sau đấy, dùng tay khâu lại, không làm thương tổn đến các mạch khác, mà mụt nhọt đã được cắt bỏ. Hành giả tu tập cũng như thế. Chánh tư duy lúc quán khổ nơi cõi Dục, đoạn trừ các phiền não do kiến khổ đoạn, sau đấy sinh khởi trí thứ hai. Như nơi cõi Dục là khổ, vô thường, thì nơi cõi Sắc, Vô sắc cũng thế. Từ đấy, tỷ trí đoạn trừ phiền não của cõi Sắc, cõi Vô sắc. Đó gọi là ba trí của kiến khổ. Ái của cõi Dục là nhân của khổ. Pháp trí ở đây là quán trí. Như thế, trí vị tri của cõi Sắc, cõi Vô sắc là ba trí của kiến tập. Khổ của cõi Dục diệt, dứt, pháp trí ấy cũng là quán trí. Như vậy, trí vị tri của cõi Sắc, cõi Vô sắc, đó gọi là ba trí của kiến diệt. Đạo ấy diệt khổ của cõi Dục, pháp trí nầy cũng tức là quán trí. Như thế, trí vị tri của cõi Sắc, Vô sắc, đó gọi là ba trí của kiến đạo. Mười hai trí nầy đã nói rộng về địa kiến.
Hỏi: Địa phân biệt (địa tu) gồm có bao nhiêu trí?
Đáp: Địa phân biệt là tướng, hành, chủng tri, tức là tướng trí, hành trí, chủng trí, là ba trí nơi địa phân biệt, như trên đã nói.
Hỏi: Thế nào là tướng?
Đáp: Tướng là sinh, trụ, hoại. Sinh nghĩa là tương ưng. Trụ là thứ lớp ứng hợp. Hoại là tan hoại.
Hỏi: Nói rộng về chúng sinh, Niết-bàn là có nghi: Chúng sinh cùng Niết-bàn cũng có tướng ấy? Nếu có là lỗi lầm lớn, tức có vô thường. Nếu không thì kinh nầy có lỗi, nên phải nói sinh trụ hoại là tướng hữu vi?
Đáp: Chúng sinh là đối với tướng, là phần khác, không thể nói. Nếu khác tức có thường. Nếu không khác tức vô thường. Hai lỗi ấy là không thể nói. Niết-bàn cũng như vậy. Do đó cần phân biệt. Nên biết tướng là hoàn toàn hữu vi.
Hỏi: Nay nói về công đức. Vì sao tướng ấy là công đức?
Đáp: Nay nói về trí. Trí trong ba thứ ấy là công đức, không phải tướng.
Hỏi: Thế nào là hành?
Đáp: Hành là vô thường, khổ, vô ngã. Hành là nhận biết khắp, đó là nghĩa của hành. Tướng ấy do hành nầy nhận biết, là nghĩa của hành. Ấm là vô thường, nếu vô thường là khổ, nếu khổ là không tự tại, nên vô ngã. Vô thường là không trụ lâu, nên như bọt nước. Khổ là bị bức bách, như mũi tên đâm vào thân thể. Vô ngã là không tự tại, nên như mượn nhờ vật dụng để trang sức nơi thân. Đó gọi là hành.
Hỏi: Thế nào là chủng?
Đáp: Chủng là khí vị, tai họa, được lìa.
Hỏi: Điều ấy nghĩa là gì?
Đáp: Là hữu vi. Ở đây, khí vị gọi là nhiễm chấp, tai họa là ác, được lìa là cùng dứt. Hoặc trời, người vui thích là khí vị. Khổ nơi ba đường ác là tai họa. Lìa cả tội phước là được lìa. Nếu quán như thế là công đức của chánh kiến, nên đạt được giải thoát, đó là chủng. Đây là trí của địa phân biệt (địa tu).
Hỏi: Thế nào là trí của địa vô học?
Đáp: Địa vô học là minh đạt, thần thông, biện, đó là ba trí của địa vô học.
Hỏi: Minh đạt là pháp thế nào?
Đáp: Minh đạt là trí tiền thế niệm (Trí túc mạng), trí sinh xứ (Trí sinh tử) và trí lậu tận. Minh đạt là nghĩa nhận biết rõ. Ở đây, trí tiền thế niệm là nhớ nghĩ, biết các hành đã tạo tác từ quá khứ. Trí sinh xứ là nhận biết về quả của hành nghiệp. Trí lậu tận sau sẽ nói.
Hoặc phiền não (kiết) có ba loại ở nơi đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Đời quá khứ là mười tám kiến. Đời vị lai là bốn mươi bốn kiến. Đời hiện tại là ở nơi thân kiến, do đấy nên sinh hiện tại, phân biệt với quá khứ, vị lai.
Hỏi: Thế nào là trí lậu tận?
Đáp: Trí lậu tận là tận trí, vô sinh trí và nguyện trí. Các thứ kiết (phiền não) của ta đã dứt hết, quán như thế là tận trí. Không còn sinh lại nữa là vô sinh trí. Như vị lương y đối trị rắn độc cắn, nhận biết rõ rồi trừ độc, là trí thứ nhất. Không bị hơi độc có trước ấy nhiễm vào người, là trí thứ hai. Tận trí, vô sinh trí cũng như thế. Nguyện trí là nếu hàng Thanh-văn dùng trí tiền thế niệm, tự nhớ nghĩ nhận biết về các đời nối tiếp nhau một cách đầy đủ. Do nguyện nên cũng nhận biết kẻ khác. Đó là nguyện trí.
Hỏi: Thế nào là thần thông?
Đáp: Thần thông là bay đi (Như ý túc), nghe thấu triệt (Thiên nhĩ) và tri tha ý (Tha tâm trí), ba thứ ấy là thần thông. Như ý túc sẽ nói sau. Nghe thấu triệt (thiên nhĩ) là do định lực, nên ở trong một duyên, bốn đại tăng trưởng thanh tịnh. Ở đây, từ cõi người, trời, cho đến nẻo ác, nghe âm thanh tùy theo lực dụng, như mắt hoặc thấy gần hoặc thấy xa tùy nơi nhãn lực. Như vậy là tùy theo định mà được thiên nhĩ. Tri tha ý (tha tâm trí) là như thấy các chúng sinh hoặc nghe âm thanh, nhận biết tâm ý của họ.
Hỏi: Bay đi (Như ý túc) là thế nào?
Đáp: Như ý túc là du hành nơi hư không, biến hóa và Thánh tự tại. Du hành nơi hư không tự tại, biến hóa tự tại, Thánh tự tại là ba thứ của như ý túc. Như ý là nghĩa tự tại.
Du hành nơi hư không tự tại là có thể vào trong nước, chui vào trong đất, đạp nơi hư không, vách đá, tường nhà đều vượt qua không bị trở ngại, tuy có thể sờ nắm mặt trời, mặt trăng, đó gọi là du hành nơi hư không tự tại.
Biến hóa tự tại là hiện ra các hình tướng người, chim, ngựa xe, cây cối, núi rừng, thành quách, sông, hồ v.v… đều có thể hóa hiện.
Thánh tự tại là có thể hóa sự sống lâu, hóa nước thành tô, từ nơi giữa chặng mày phóng ra hào quang v.v… Đối chiếu như thế gọi là như ý túc, là chỗ tăng trưởng, nuôi lớn của bậc Thánh. Như ý túc, thiên nhĩ, tha tâm trí gọi là thần thông. Trí túc mạng, trí sinh tử là năm thần thông của hàng phàm phu.
Hỏi: Thế nào là biện?
Đáp: Biện là pháp, nghĩa, ứng, phân biệt (từ). Khéo nhận biết về pháp. Khéo nhận biết về nghĩa. Khéo nhận biết về ứng. Khéo nhận biết về phân biệt (từ). Đó là bốn thứ của biện.
Nhận biết pháp là nhận biết về danh cú hợp. Nhận biết nghĩa là nhận biết về tánh thật hiện có kia, như lửa gọi là tướng nóng. Nhận biết về phân biệt (từ) là như văn ấy, có thứ lớp như thế. Nhận biết về ứng, là nêu bày câu văn không điên đảo, cũng không sai lạc. Đó gọi là biện. Đây cũng đã nói rộng nơi phần trí của địa học, vô học.
Hỏi: Như giới cùng có định, trong địa học, vô học, cũng có thể đạt được giới, định. Vì sao không nói ba thứ?
Đáp: Không giới, giới tăng thêm, không phải là học, như lìa sát sinh. Chúng sinh hết sức hộ trì vô học. Không như thế, nếu học không sát sinh tức là vô học. Do đấy không sai lạc, nên không nói ba thứ.
Phần thứ hai của phẩm Công Đức nơi ba Pháp độ đã nói xong.
TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 3
Hỏi: Trước đã nói về nguyên do là Gồm đủ, Phương tiện, Quaû. Trong đó đã nói về hai thứ đầu. Vậy Quả là gì?
Đáp: Quả là Thanh-văn, Phật Bích-chi, Phật. Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn, ba bậc ấy là quả.
Hỏi: Là quả của những gì?
Đáp: Là của giới, dứt trừ, trí.
Hỏi: Nay nói về nguyên do. Nguyên do là đạo, vì sao quả cũng là đạo?
Đáp: Quả nầy nói là hữu dư. Trước nói là vô dư. Đức Thế Tôn đã nói vô dư là Bát-Niết-bàn, thế nên không lỗi.
Phật là bậc đã giải thoát tất cả kiết (phiền não) chứng đắc mười lực, đạt bốn vô sở úy, thâu đạt tất cả pháp Phật. Giới, định, tuệ của chư Phật là không sai lạc.
Phật Bích-chi là tự giác, không vì kẻ khác mà tự giác ngộ, nên gọi là Phật Bích-chi.
Thanh-văn là từ nơi người khác thuyết giảng mà giác ngộ.
Lại nữa, giải thoát đầy đủ có hai thứ: Một là bi. Hai là chán. Nếu từ bi, đắc đạo đầy đủ, là Phật. Chán gồm đủ có hai loại: Một là do tự đạt được. Hai là do kẻ khác nên đạt được. Nếu tự đạt được là Phật Bích-chi. Nếu do người khác nên đạt được là Thanh-văn.
Lại nữa, nếu nhận biết khắp, tất cả công đức đầy đủ, lìa hết thảy các thứ ác, là Phật. Phật Bích-chi tuy lìa các thứ ác, nhưng công đức còn ít. Thanh-văn phải nhân nơi kẻ khác để lìa ác.
Hỏi: Vì sao nhận biết chư Phật là không sai lầm? Thanh-văn cũng lại như thế chăng?
Đáp: Thanh-văn là đoạn trừ kiết, chưa đoạn trừ kiết. Thanh-văn A-la-hán có sai lầm, có phân biệt về tướng. Tín đứng đầu nơi năm căn có chỗ dựa hạ, trung, thượng. Thế nên Thanh-văn có sai biệt nơi tất cả địa.
Hỏi: Thế nào là pháp đoạn trừ kiết (lìa dục)?
Đáp: Đoạn trừ kiết là tín giải thoát, kiến đắc (kiến đáo) và thân chứng. Do tín đứng đầu nơi Độ (Ba-la-mật) nên gọi là tín giải thoát. Do tư duy (tuệ) đứng đầu nơi Độ, nên gọi là kiến đắc (kiến đáo). Cả hai cùng đạt là thân chứng, là vô lượng hành nên nêu rõ. Tín giải thoát là thượng đạo (thượng lưu) hành, vô hành Bát-Niết-bàn, tức thượng đạo Bát-Niết-bàn, hành Bát-Niết-bàn và vô hành Bát-Niết-bàn. Ba loại ấy là tín giải thoát.
Thượng đạo: Là yêu thích pháp kia, dẫn tới bậc thượng.
Lại nữa, đạo ấy gọi là lợi, nhằm đạt đến đạo tối thượng, nên gọi là thượng đạo.
Hành Bát-Niết-bàn: Hành nghĩa là hữu vi. Có nhiều phương tiện cùng đạo duyên nơi hành đến vô vi, nên gọi là hành Bát-Niết-bàn.
Vô hành Bát-Niết-bàn: Vô hành là vô vi. Ít phương tiện cùng với đạo duyên nơi vô vi đạt đến vô vi, nên gọi là vô hành Bát-Niết-bàn. Đó gọi là ba thứ tín giải thoát.
Hỏi: Pháp kiến đắc (kiến đáo) là thế nào?
Đáp: Kiến đắc là trung gian, sinh, cũng là thượng đạo. Tức trung gian Bát-Niết-bàn, sinh Bát-Niết-bàn, thượng đạo Bát-Niết-bàn.
Trung gian Bát-Niết-bàn: Là ở đây mạng chung, chưa sinh nơi khác mà đắc đạo. Trung gian Bát-Niết-bàn như ngọn lửa nhỏ, cháy sáng lên, chưa rơi xuống đất đã tắt.
Sinh Bát-Niết-bàn: Như ngọn lửa cháy sáng khắp, rơi xuống đất liền tắt. Như thế là mới sinh, thứ lớp đắc đạo, Bát-Niết-bàn.
Thượng đạo Bát-Niết-bàn, như trên đã nói. Cõi Vô sắc ấy cũng như thế. Ba thứ đó là kiến đắc (kiến đáo).
Hỏi: Thân chứng là thế nào?
Đáp: Thân chứng là hành, vô hành, sinh Bát-Niết-bàn, như đã nói.
Hỏi: Vì sao lại nói nữa?
Đáp: Không phải. Do cõi khác nên lìa cõi Dục, cùng lìa cõi Sắc là hai thứ trừ hết trung ấm, không phải có trung ấm của cõi Vô sắc. Lại nữa, trước nói không có giải thoát. Thân chứng là có giải thoát. Giải thoát phần sau sẽ nói.
Hỏi: Không đoạn trừ kiết (chưa lìa dục) là pháp thế nào?
Đáp: Không đoạn trừ kiết là thứ tám, Tu-đà-hoàn, Bạc địa. Thứ tám, Tu-đà-hoàn, Bạc địa, ba thứ ấy là chưa lìa dục.
Hỏi: Thứ tám là pháp gì? Nếu theo số thì phải là thứ nhất, không phải thứ tám. Đầu tiên là hướng, sau đến A-la-hán. Vì sao ở đây là A-la-hán?
Đáp: Không nên quán như người có tám. Trẻ con kia không phải do lớn là thứ tám, mà do ấu thơ là thứ tám. Như thế, con công đức của Đức Thế Tôn có tám, bậc A-la-hán kia là lớn, các lậu đã dứt hết. Tức đầu tiên là hướng, là ấu thơ, do đấy nói là thứ tám.
Hỏi: Điều ấy là thế nào?
Đáp: Thứ tám là tín, tư duy (tuệ), cùng có. Tộc tánh nầy, lúc là người phàm có đủ tín và tư duy (tuệ) như thế. Kẻ ấy, hoặc tín thắng, tuệ tùy theo, hoặc tuệ thắng, tín tùy theo, hoặc cùng có là sinh pháp trí. Đã từ tín hành là độn căn, từ pháp hành là trung căn, cùng hành cả hai là lợi căn. Ba thứ nầy là thứ tám. Đã kiến đế, nếu tín thắng là tột bậc bảy. Tuệ thắng là trung. Cùng thắng là Gia gia. Đây là địa kiến. Nếu lên địa phân biệt (địa tu) là tại Bạc địa. Tín thắng là nhất vãng lai (Tư-đà-hàm). Tuệ thắng là trung. Cùng thắng là nhất chủng. Nếu lìa dục của cõi Dục, tín thắng là tín giải thoát. Tuệ thắng là kiến đắc (kiến đáo). Cùng thắng là lìa sắc, đạt thân chứng. Nếu tất cả lậu dứt hết, tín thắng là tuệ giải thoát. Tuệ thắng là câu giải thoát, cùng được giải thoát. Cùng thắng là cũng cùng giải thoát.
Lại nữa, tín thắng là độn căn. Tuệ thắng là trung căn. Cùng thắng là lợi căn. Như thế lần lượt đến bậc thượng.
Hỏi: Đã nói rộng về thứ tám, dần dần sinh khởi lưới công đức, nhưng không rõ điều ấy là thế nào? Xin được nêu bày.
Đáp: Tu-đà-hoàn là tối đa bảy lần sinh tử trong Gia gia. Tu-đà-hoàn là ba thứ, trụ nơi quả thứ nhất, cầu đạt quả thứ hai. Tu-đà-hoàn là đạo, đi lên là đạo, nên gọi là hoàn. Là thân kiến, giới cấm thủ, nghi đã đoạn, nẻo ác dứt hẳn. Hàng độn căn tối đa bảy lần vui thích thọ sinh nơi cõi trời, người, mong được Bát-Niết-bàn. Gia gia trụ nơi lợi căn, cũng trụ nơi quả thứ nhất, ba kiết đã dứt hẳn. Do tư duy đoạn đã dứt hết một ít, là ở trong ấy sinh, từ nhà đến nhà mà Bát-Niết-bàn. Trung là ở giữa hai thứ ấy, không phải hoàn toàn từ nhà đến nhà Bát-Niết-bàn. Cũng không hoàn toàn tối đa bảy lần thọ sinh nơi cõi trời, người mà Bát-Niết-bàn, nhưng ở nơi trung gian mà Bát-Niết-bàn.
Hỏi: Đã nói về Tu-đà-hoàn, còn Bạc địa là thế nào?
Đáp: Bạc địa là Tư-đà-hàm (Nhất lai), nhất chủng, trung. Do kiết của cõi Dục mỏng dần (bạc), an trụ, nên gọi là Bạc địa. Ba thứ ấy là nhất lai, nhất chủng, trung gian. Nhất lai là trọn sinh nơi cõi trời, một lần sinh mà Bát-Niết-bàn. Nhất chủng là thọ sinh nơi một hữu mà Bát-Niết-bàn, nên công đức tăng trưởng. Trung gian là cùng có hai thứ ấy. Ba thứ ấy là không đoạn trừ kiết (chưa lìa dục).
Hỏi: Thế nào là A-la-hán?
Đáp: A-la-hán là lợi, độn, trung căn. A-la-hán nghĩa là nên cúng dường, có thể thọ nhận sự cúng dường, nên gọi là A-la-hán.
Hỏi: Nơi chốn nào cúng dường?
Đáp: Là tất cả chúng sinh, nên nói là A-la-hán. A-la-hán có ba loại là lợi căn, độn căn, trung căn.
Hỏi: Thế nào là lợi căn?
Đáp: Lợi căn là pháp trụ kiếp (pháp trụ), pháp có thể hoại hữu (pháp thăng tiến) và pháp không nghi (pháp bất động).
Pháp trụ: Là lìa phương tiện, diệt trừ phiền não, nên gọi là pháp trụ.
Pháp thăng tiến: Là trừ bỏ các phiền não, cầu thượng thắng có thể đạt được, nên gọi là thăng tiến. Thắng là đạt, thông, biện.
Pháp bất động: Là đã được quả vượt hơn, tất cả sự đàm luận không loạn động được biện tài. Đó gọi là lợi căn.
Hỏi: Thế nào là độn căn?
Đáp: Độn căn là pháp giảm (pháp thối), pháp niệm, pháp hộ. Ba thứ ấy là độn căn.
Pháp giảm (pháp thối): Là hoặc sai lạc nên thối chuyển, không phải Thánh đế, nên gọi là pháp thối. Hoặc là ở nơi địa phân biệt (địa tu) thối chuyển. Tu là tu tập. Nói do không tu tập, đó gọi là thối chuyển. Như học kinh rồi, không luôn hành tập nên quên. Như vậy, do không tu tập, nên nơi địa tu thối chuyển.
Pháp niệm: Là đã đắc A-la-hán, hành kém nên cùng với thân kém, liền khởi niệm: Chỗ Ta tạo tác, đã làm rồi, làm sao để trụ? Như thế là suy niệm. Niệm có nhiều phẩm loại. Cũng suy niệm về người, thế gian, về các thứ tài sản, vật dụng. Song ở đây là suy niệm về xả bỏ thân mạng.
Pháp hộ (xả): Là không thối chuyển, cũng không tư niệm, chỉ xả phương tiện cực lớn. Như người nghèo có nhiều phương tiện, được của cải thì giữ lấy. Đó là độn căn.
Hỏi: Thế nào là trung căn?
Đáp: Trung căn là tuệ giải thoát, tận bất tận giải thoát. Được tuệ giải thoát là thấp. Câu giải thoát có hai: Một là đắc tận giải thoát. Hai là bất tận giải thoát. Câu giải thoát là tín và tuệ. Đã được hai thứ ấy nên là thắng.
Hỏi: Thế nào là giải thoát?
Đáp: Giải thoát là giải thoát cõi Dục, cõi Sắc, diệt tâm thượng trụ, cùng ba cõi tận. Đó là ba Hành giải thoát. giải thoát các kiết (phiền não) nên gọi là giải thoát.
Hỏi: Thế nào là giải thoát dục?
Đáp: Giải thoát dục là nội sắc tưởng vô sắc, bất tịnh cũng tịnh. Nội là bên trong của mình, là hai thứ tưởng có sắc và tưởng hoại sắc, ở đây là nội hoại sắc. Nghĩa là ở nơi nghĩa địa quán bất tịnh về thi thể thối rữa tan hoại. Quán như vậy rồi, giải thoát, ác dứt, tâm ý định. Đó gọi là tưởng nội sắc, bất tịnh, giải thoát, là tưởng nội hoại sắc thứ hai. Do định nên như trụ nơi không sắc, như thế quán được lập, thân kẻ khác cũng lại như trên. Đó gọi là tưởng nội không sắc, là bất tịnh giải thoát.
Tịnh giải thoát là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, duyên nơi hoa, y phục v.v… Do phát khởi ý tư duy, tâm trụ bất động, là tịnh giải thoát. Ba thứ ấy là giải thoát dục.
Hỏi: Thế nào là giải thoát sắc?
Đáp: Giải thoát sắc là không sắc, lìa sắc, dục rồi, bốn thứ tâm trụ, cũng lại là hữu lậu. Đó gọi là giải thoát sắc. Điều nầy trước đã nói.
Hỏi: Thế nào là giải thoát diệt tận?
Đáp: Tâm cùng tưởng của các tâm hợp diệt, là chánh thọ vô lậu của A-la-hán. Đó gọi là giải thoát diệt tận.
Phần thứ ba của phẩm Công Đức nơi ba Pháp độ đã nói xong.
TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI, phần 4
Hỏi: Đã nói rộng về phẩm Công Đức nơi ba Pháp độ. Vậy thế nào là Ác?
Đáp: Ác là Hành, Ái, Vô minh ác. Hành, ái, vô minh ác, là lược nói về ác, nên biết. Ác ấy đã làm nhiễm ô hành thiện, nên gọi là ác. Đây cũng làm nhiễm ô con người, tức là người cấu nhiễm. Ý vui thích nơi ác, như loài heo vui thích nơi bất tịnh. Ở đây, trước tiên là Hành ác của thân miệng ý. Các ác nầy là đầu tiên, là ba thứ hành ác của thân miệng ý.
Hỏi: Thế nào là Hành ác của thân?
Đáp: Hành ác của thân là sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Đó là ba thứ hành ác của thân, nên biết.
Hỏi: Đã biết ba thứ hành ác của thân. Vậy thế nào là sát sinh?
Đáp: Sát sinh là niệm, giáo, hành (tác). Niệm, giáo, hành là nói về ba thứ sát sinh. Phần còn lại cũng như thế. Như hành ác của thân, với ba thứ niệm, giáo, hành của sát sinh, thì trộm cắp, dâm dục cũng như vậy. Khẩu nghiệp cũng thế.
Hỏi: Biết phần còn lại cũng như thế, nhưng chưa biết niệm. Vậy niệm là gì?
Đáp: Niệm là dục, tạo tác, kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ. Niệm gọi là tư duy, là ba thứ tâm muốn tạo tác, muốn khiến tạo tác, kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ. Như ý muốn sát hại chúng sinh là tâm muốn tạo tác. Ý khiến sát hại là muốn khiến tạo tác. Kẻ khác sát hại rồi, ý vui thích, là kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ. Đó gọi là ba thứ niệm.
Hỏi: Thế nào là giáo?
Đáp: Giáo là dạy bảo, sai khiến, có thể, đó là ba thứ giáo.
Dạy bảo: Là như ngoại đạo nói: Giết heo dê để cúng tế trời, là dạy bảo.
Sai khiến: Là như vua sai khiến quan: Ta có kẻ oán địch, khanh phải đi đến sát hại hắn. Đó là sai khiến.
Có thể: Là như có người bảo: Gã kia là oán thù của ta, ông có thể giết hắn chăng? Người nầy tức nhiên nhận lời. Đó là có thể.
Đó là ba thứ giáo.
Hỏi: Thế nào là hành (tác)?
Đáp: Hành tác là tưởng chúng sinh, xả bỏ, đoạn mạng. Hành gọi là thi hành sự. Như nói sát sinh, nên biết là dạy bảo, sai khiến, có thể. Hành ác của ý cũng như thế. Ở đây có tưởng chúng sinh khác, xả bỏ chúng sinh, đoạn mạng chúng sinh, là ba hành tác đầy đủ. Thầy thuốc trong lúc cắt mổ ung nhọt, bệnh nhân bị chết, không phải là thầy thuốc sát sinh, vì ông ấy không có ý sát hại. Ba sự việc như thế, nếu không đủ thì không phải sát sinh. Đó gọi là ba thứ hành tác.
Hỏi: Thế nào là trộm cắp?
Đáp: Trộm cắp là vật của kẻ khác, nghĩ tưởng, khởi ý trộm lấy. Vật của kẻ khác, nghĩ tưởng, khởi ý trộm lấy, là ba thứ trộm cắp gồm đủ. Vì sao? Vì giả như có vật của kẻ khác, không có ý trộm cắp mà lấy vật ấy, là vì mình cho phép, do giống nhau nên không phải là trộm. Nếu vật của kẻ khác, không có ý trộm lấy, là không trộm cắp, như lấy vật tri thức. Ba sự như thế, phải gồm đủ mới là trộm cắp.
Hỏi: Thế nào là tà dâm?
Đáp: Tà dâm là kẻ khác, pháp thọ, phi đạo. Ba thứ phạm là kẻ khác thọ nhận, pháp thọ nhận và không phải đạo.
Hỏi: Dâm như kinh nói là gốc, do những gì nên nói là tà dâm?
Đáp: Người có hai loại: Đạo nhân (xuất gia) và bạch y (tại gia). Ở đây, xuất gia hành dâm là nói về hành ác. Tại gia hành dâm thì không phải là hành ác, nhưng tà vạy là hành ác. Nếu tại gia hành dâm là hành ác, là Tu-đà-hoàn hành dâm nên bị đọa địa ngục. Nếu không như thế, thì tà dâm hành ác, nên kinh nói hai thứ không lỗi.
Hỏi: Thế nào là kẻ khác thọ nhận?
Đáp: Kẻ khác thọ nhận là chủ, thân, vua. Chủ đã thọ nhận, thân đã thọ nhận, vua đã thọ nhận, là tất cả kẻ khác thọ nhận.
Chủ có hai: Chí cánh và thời trung gian (thiếu thời). Chí cánh là như nơi chốn, gia pháp. Người nữ thuộc về chủ, nếu dâm với người nữ ấy, thì theo các thứ kia là tà dâm. Chủ thiếu thời: Nếu người nữ theo kẻ kia lấy vật, hạn mức có thời, nếu dâm với người nữ nầy, theo các thứ kia là tà dâm.
Thân là cha mẹ, anh em, cô cậu cùng nuôi dưỡng người nữ. Hoặc nhận lấy việc nuôi dưỡng người nữ mà bỏ người nữ ấy.
Vua thọ nhận: Là nếu không có người thân, không có chủ, mà thọ nhận theo lệnh vua. Đó là ba thứ kẻ khác thọ nhận.
Hỏi: Thế nào là pháp thọ nhận?
Đáp: Pháp thọ nhận là học, trai, gia pháp (tộc pháp). Nếu thọ học pháp là học pháp thọ nhận. Nếu thọ trai pháp là trai pháp thọ nhận. Nếu thọ tộc pháp là tộc pháp thọ nhận.
Học pháp thọ nhận: Là nếu chủ trước thuận theo học, sau phạm là tà. Đó gọi là học pháp thọ nhận.
Trai pháp thọ nhận: Là nếu chủ trước thuận theo việc thọ trai, sau phạm là tà. Đó gọi là trai pháp thọ nhận.
Gia pháp thọ nhận: Là như trước đã nói về thân thọ nhận, song người biên chép kinh muốn khiến cho đủ ba pháp, nên lại nói gia pháp thọ nhận. Mẹ, chị em người nữ, vợ và cùng họ, là tất cả không thể phạm, phạm tức là tà.
Hỏi: Thế nào là hành không phải đạo (phi đạo)?
Đáp: Hành không phải đạo là đối với người nữ sinh đẻ, người nam không thành nam, gọi là hành phi đạo. Nếu người nữ mới sinh đẻ, sau phạm, là hành phi đạo. Nếu dùng thế lực, phạm người nữ chưa kết hôn là hành phi đạo, cùng dâm với người nam không thành nam, đó là ba hành phi đạo.
Hỏi: Đây nói không đủ. Vì sao? Vì trong đó còn có các thứ tà dâm khác, như ở đây đã nói làm sao gồm thâu chúng? Nếu không gồm thâu, thế nên ở đây nói không đủ.
Đáp: Đây nói đã đủ. Vì sao? Vì trước đã nói lìa người nữ lúc sinh đẻ. Nếu nói người nữ, nên biết là đã nói về súc sinh. Nếu nói lìa lúc sinh nở, nên biết là đã nói về các hành khác. Do đấy là đã nói đầy đủ.
Hỏi: Các thứ hành ác, phi nghĩa nầy từ đâu sinh?
Đáp: Đều từ tham sân si sinh. Hết thảy các thứ kia nên biết đều từ tham sân si sinh.
Hỏi: Vì sao nói tất cả là sát sinh, trộm cắp, dâm dục?
Đáp: Không chỉ như thế. Nếu chỉ nói như thế là do người biên chép kinh. Phải nên nói tức là chỉ gồm thâu tất cả, vậy nên tìm bản kinh. hết thảy hành ác của thân miệng ý nên nói riêng.
Hỏi: Vì sao ở đây nói từ trong ba ác sinh? ở đây có lỗi. Vì không phải do lạc thống (lạc thọ), khổ thống (khổ thọ) cùng một lúc sinh. Cũng không phải do lạc thọ đã khiến giận dữ. Dâm là nói vui thích hành tập dục là dâm, ở đây vì sao nói là giận dữ?
Đáp: Không phải là nói từ dâm sinh ra giận dữ, ở đây nói là nguyện từ trước. Vì yêu mến đến cả răng lông, nên khởi giận dữ, sát hại. Như thế, trước phát khởi giận dữ: Kẻ kia phạm vợ ta, ta cũng đáp trả lại, nhưng sau hành dâm khởi ái, song nguyện từ trước ở nơi giận dữ sinh. Dục từ các thứ kia sinh, do đó không lỗi. Các thứ khác cũng như vậy.
Hỏi: Đã nói về Hành ác của thân. Vậy Hành ác của miệng là những gì?
Đáp: Hành ác của miệng là bất như (chẳng thật) vô như (chẳng hư) và nói lời không chính yếu (ỷ ngữ). Hành ác của miệng có bốn thứ, ở đây chỉ nêu ba pháp, ba pháp nầy cũng hiển thị bốn thứ.
Hỏi: Thế nào là bất như (không thật)?
Đáp: Không thật là vì mình, vì kẻ khác, vì có lợi, nên tránh sự thật. Nếu không thật là hành ác của miệng, tức là vì mình, vì kẻ khác, vì có lợi, nên ý kiêng tránh sự thật. Kiêng tránh sự thật là ý che giấu. Như ý nhận biết rồi, miệng lại nói khác. Nói ba thứ là vì mình, vì kẻ khác, vì có lợi.
Vì mình: Là mạng sống của mình.
Vì kẻ khác: Là người thân.
Vì có lợi: Là các thứ vật dụng, của cải.
Đó gọi là ba thứ. Như Đức Thế Tôn nói: Ở nơi quyến thuộc, nhân nơi mình, nhân nơi kẻ khác, nhân nơi có lợi, nên biết rồi lại nói dối.
Hỏi: Đã nói hành ác của miệng là bất như (không thật). Còn thế nào hành ác của miệng là vô như (chẳng hư)?
Đáp: Chẳng hư là: Hành vô ái niệm (chẳng ái) hành biệt ly và cùng hành. Hành là tạo tác chẳng ái. Hành gọi là nói lời thô ác. Ái nên nói lời giận dữ là không ác khẩu. Ác khẩu là vì mình sinh. Nếu khác, thì Đức Thế Tôn cũng ác khẩu, Đức Thế Tôn vì từ bi, nên nghe Điều-đạt nói mà giận. Do đấy, tạo hành không ái là ác khẩu. Như kẻ mù lòa, gọi kẻ mù lòa giận dữ, tuy có lời nói thật, song do ý ác, thế nên chẳng tạo ái gọi là hành ác.
Hành biệt ly: Tuy có lời nói thật, song vì hành biệt ly nên là nói hai lưỡi. Nếu không tạo hành biệt ly, mà có thể biệt ly, thì không phải là nói hai lưỡi. Nếu không như thế, thì Đức Thế Tôn cũng chính là nói hai lưỡi. Đức Thế Tôn vì từ bi đối với đám dị học, nên đã độ họ làm đệ tử. Do đấy, tạo hành biệt ly nên là ác.
Cùng hành: Tức là nơi hai việc ấy, tạo chẳng thật cùng chẳng hư. Như thế, ác khẩu là do ác khẩu, cũng gọi là nói hai lưỡi.
Hỏi: Thế nào là nói lời thêu dệt (ỷ ngữ)?
Đáp: Nói lời thêu dệt là nói không đúng lúc, không thành thật, không có nghĩa. Không đúng lúc mà nói, không thành thật mà nói, không có ý nghĩa mà nói, là ba thứ nói lời thêu dệt, nếu phân biệt là vô lượng.
Không đúng lúc mà nói: Là lúc nên nói thì không nói. Lúc không nên nói, lại nói. Như vào lúc hôn nhân hội hợp, vui vẻ, hoặc có người nói: Nầy anh bạn kia! Hết thảy mọi sự hội hợp đều quy về hoại diệt, muôn vật là vô thường, thịnh rồi tất suy. Kẻ kia nói lời ấy được Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn khen ngợi, song do nói không đúng lúc, nên là ỷ ngữ.
Không thành thật mà nói: Là hoặc tưởng thật nên nói tà vạy. Như các dị học nói: Ngã là Nhất thiết trí. Họ tuy có tưởng thật song chỉ là ỷ ngữ. Vì sao? Vì đấy không phải là Nhất thiết trí, chỉ là tưởng như thế mà thôi.
Không có ý nghĩa mà nói: Là nói về cười đùa, ca múa, sầu lo.
Đó gọi là hành ác của miệng.
Hỏi: Hành ác của ý là thế nào?
Đáp: Hành ác của ý là tham, sân, tà kiến, là chỗ hành ác của ý, nên gọi là hành ác của ý.
Tham là mong có được các thứ tài sản vật dụng hiện có của kẻ khác.
Hỏi: Nếu đối với các thứ hiện có của kẻ khác mong có được là tham, tức là nói lặp lại, có lỗi. Nơi phần Niệm đã nói: Niệm là tâm mong muốn, mong muốn khiến hành tác, kẻ khác tạo tác thì hoan hỷ.
Đáp: Đây nói không có lỗi trùng lặp. Niệm là ý mong muốn như thế, muốn hành tác. Ở đây không muốn hành tác mà muốn đoạt lấy các thứ vật dụng của kẻ khác. Tham nên khiến các vật dụng tài sản ấy có nơi mình. Như thế là ý nhiễm ô, vướng mắc trong tài sản, vật dụng của kẻ khác. Tham là hướng tới vật dụng của kẻ khác, sân là bức bách kẻ khác với ý ác.
Hỏi: Thế nào là tà kiến?
Đáp: Tà kiến là hành (nghiệp) trái nhau, quả trái nhau và không thấy biết, đó là tóm lược về ba thứ tà kiến. Nếu phân biệt là vô lượng. Như ở đây, dị kiến là tà kiến.
Hỏi: Thế nào là hành (nghiệp) trái nhau?
Đáp: Nghiệp trái nhau là:
- Ý tịnh – bất tịnh.
- Ý bất tịnh – tịnh.
- Cùng một ý.
Đó là ba thứ nghiệp trái nhau.
+ Ý tịnh – bất tịnh: Là nghiệp thân miệng ý thiện, quả bất thiện.
+ Ý bất tịnh – tịnh: Là nghiệp thân miệng ý bất thiện, quả thiện.
+ Cùng một ý: Là nghiệp thân miệng ý thiện, bất thiện, quả thiện, bất thiện. Như phân biệt về nghiệp, phân biệt về quả cũng như thế. Trên cõi trời khổ, Niết-bàn khổ, so sánh như thế là quả tịnh, ý bất tịnh. Đường ác vui, sinh tử vui, so sánh như thế là quả bất tịnh, ý tịnh. Đường ác khổ, phi khổ, so sánh như thế là cùng một ý.
Hỏi: Thế nào là không thấy biết?
Đáp: Không thấy biết là:
- Không thấy biết hành (nghiệp).
- Không thấy biết quả.
- Không thấy biết chúng sinh.
Đó là ba thứ không thấy biết.
+ Không thấy biết nghiệp: Là không bố thí, không có trai giới, không thuyết giảng, không phương tiện, không tạo nghiệp thiện, bất thiện.
+ Không thấy biết quả: Là tạo thiện, bất thiện không có quả báo, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, không có cõi trời.
+ Không thấy biết chúng sinh: Là không có cha mẹ, không có chúng sinh hóa sinh, nơi thế gian không có Sa-môn, Phạm-chí thật. Đó gọi là vô lượng thứ của tà kiến.
Đây là ba thứ hành ác của ý nơi vô lượng thứ. Tất cả nhân ác được tạo cùng trái với hết thảy nhân thiện được tạo, như nơi phần Giới ở trước đã nói.
Phần thứ nhất của phẩm Ác nơi ba Pháp độ đã nói xong.
HẾT – QUYỂN THƯỢNG