KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm
Giảo chính: Hòa Thượng Quảng Độ
HỘI THỨ NHẤT
LXXII. PHẨM NGHIÊM TỊNH CÕI PHẬT
(Giữa quyển 393 đến đầu quyển 394)
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện nghĩ thế này: Pháp nào gọi là đạo Đại Bồ-tát mà các Đại Bồ-tát an trụ đạo này, thường mặc các loại áo giáp đại công đức, làm lợi ích an lạc tất cả hữu tình?
Phật biết tâm niệm ấy, bảo với Thiện Hiện:
– Này Thiện Hiện! Nên biết, bố thí Ba-la-mật-đa là đạo Đại Bồ-tát, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đạo Đại Bồ-tát; bốn niệm trụ là đạo Đại Bồ-tát, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là đạo Đại Bồ-tát; pháp không nội là đạo Đại Bồ-tát, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, là đạo Đại Bồ-tát; Thánh đế khổ là đạo Đại Bồ-tát, Thánh đế tập, diệt, đạo là đạo Đại Bồ-tát; bốn tịnh lự là đạo Đại Bồ-tát, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là đạo Đại Bồ-tát; tám giải thoát là đạo Đại Bồ-tát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là đạo Đại Bồ-tát; tất cả pháp môn Đà-la-ni là đạo Đại Bồ-tát, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là đạo Đại Bồ-tát; pháp môn giải thoát không là đạo Đại Bồ-tát, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là đạo Đại Bồ-tát; bậc Cực hỷ là đạo Đại Bồ-tát, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là đạo Đại Bồ-tát; năm loại mắt là đạo Đại Bồ-tát, sáu phép thần thông là đạo Đại Bồ-tát; mười lực Phật là đạo Đại Bồ-tát, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là đạo Đại Bồ-tát; pháp không quên mất là đạo Đại Bồ-tát, tánh luôn luôn xả là đạo Đại Bồ-tát; trí nhất thiết là đạo Đại Bồ-tát, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là đạo Đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nói tóm lại, tất cả pháp đều là đạo Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Có pháp nào là pháp mà các Đại Bồ-tát chẳng nên học, và các Đại Bồ-tát chẳng học pháp này mà có thể đắc quả vị giác ngộ cao tột chăng?
Thiện Hiện đáp:
– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Nhất định không có pháp nào mà các Đại Bồ-tát chẳng nên học. Các Đại Bồ-tát chẳng học pháp này, quyết chẳng có thể đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu Đại Bồ-tát chẳng học tất cả pháp thì chẳng bao giờ có thể đắc trí nhất thiết trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không, thì tại sao Đại Bồ-tát học tất cả pháp? Chẳng lẽ Thế Tôn đối với pháp không hý luận mà tạo ra sự hý luận, rằng có các pháp là pháp này, là pháp kia, do vậy nên là vậy; đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi, đây là pháp phàm phu, đây là pháp Dự lưu, đây là pháp Nhất lai, đây là pháp Bất hoàn, đây là pháp A-la-hán, đây là pháp Độc giác, đây là pháp Bồ-tát, đây là pháp Như Lai.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các pháp sở hữu tự tánh đều không.
Này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp tự tánh chẳng không, thì đáng lẽ các Đại Bồ-tát chẳng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp, tự tánh đều không, cho nên các Đại Bồ-tát có thể đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Như lời ông hỏi, nếu tất cả pháp tự tánh đều không, thì tại sao Đại Bồ-tát học tất cả pháp? Chẳng lẽ Thế Tôn đối với pháp không hý luận mà tạo ra sự hý luận có các pháp là pháp này, là pháp kia, do vậy nên là vậy; đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, cho đến đây là pháp Bồ-tát, đây là pháp Như Lại, thì này Thiện Hiện! Nếu các hữu tình biết tất cả pháp đều tự tánh không, thì các Đại Bồ-tát chẳng nên học tất cả pháp, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình an lập tuyên thuyết. Nhưng này Thiện Hiện! Vì các hữu tình chẳng biết các pháp, đều là tự tánh không, nên các Đại Bồ-tát học tất cả pháp, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình an lập tuyên thuyết.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với đạo Bồ-tát, khi mới tu học, nên quán sát kỹ, tự tánh các pháp, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, chỉ có chấp trước do hòa hợp tạo ra. Ta nên quán sát kỹ tự tánh các pháp đều rốt ráo không, chẳng nên đối với chúng, có sự chấp trước, đó là chẳng nên chấp trước sắc, chẳng nên chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên chấp trước nhãn xứ, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng nên chấp trước sắc xứ, chẳng nên chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng nên chấp trước nhãn giới, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng nên chấp trước sắc giới, chẳng nên chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng nên chấp trước nhãn thức giới, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng nên chấp trước nhãn xúc, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng nên chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng nên chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên chấp trước địa giới, chẳng nên chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nên chấp trước nhân duyên, chẳng nên chấp trước đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng nên chấp trước các pháp từ duyên sanh ra; chẳng nên chấp trước vô minh, chẳng nên chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng nên chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên chấp trước pháp không nội, chẳng nên chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng nên chấp trước bốn niệm trụ, chẳng nên chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng nên chấp trước Thánh đế khổ, chẳng nên chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên chấp trước bốn tịnh lự, chẳng nên chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng nên chấp trước tám giải thoát, chẳng nên chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng nên chấp trước pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên chấp trước pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên chấp trước pháp môn giải thoát không, chẳng nên chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng nên chấp trước bậc Cực hỷ, chẳng nên chấp trước bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng nên chấp trước năm loại mắt, chẳng nên chấp trước sáu phép thần thông; chẳng nên chấp trước mười lực Phật, chẳng nên chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nên chấp trước pháp không quên mất, chẳng nên chấp trước tánh luôn luôn xả; chẳng nên chấp trước trí nhất thiết, chẳng nên chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng nên chấp trước quả Dự lưu, chẳng nên chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; chẳng nên chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng nên chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều không, tánh không chẳng nên chấp trước tánh không; trong cái không, tánh không còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có tánh không có thể chấp trước không.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi quán sát tất cả pháp như thế, đối với các pháp tánh, tuy không chấp trước, nhưng đối với các pháp, thường học không mệt mỏi.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, an trụ trong sự học này, quán các hữu tình, tâm hành sai biệt, đó là quán sát kỹ các hữu tình ấy, tâm hành chỗ nào; đã quán kỹ rồi, như thật rõ biết, tâm của họ chỉ hành sở chấp hư vọng. Bấy giờ, Bồ-tát nghĩ thế này: Tâm họ đã hành sở chấp hư vọng, thì ta khiến họ giải thoát, chắc chắn phải là khó.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, nghĩ như vậy rồi an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, dạy bảo trao truyền cho các hữu tình: Nay đây, các ngươi đều nên xa lìa sở chấp hư vọng, hướng vào Chánh pháp tu các hạnh lành. Lại nói thế này: nay đây, các ngươi nên hành bố thí Ba-la-mật-đa, sẽ được vật dụng, không thiếu thốn gì, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong ấy hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong ấy hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp không nội, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong ấy hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bốn niệm trụ, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành Thánh đế khổ, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành Thánh đế tập, diệt, đạo, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bốn tịnh lự, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành tám giải thoát, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp môn Đà-la-ni, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp môn Tam-ma-địa, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp môn giải thoát không, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bậc Cực hỷ, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành năm loại mắt, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành sáu phép thần thông, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành mười lực Phật, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp không quên mất, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành tánh luôn luôn xả, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành trí nhất thiết, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành quả Dự lưu nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành quả vị giác ngộ cao tột, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, khi dạy bảo trao truyền cho các hữu tình, hành đạo Bồ-đề không có chấp trước. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp chẳng nên chấp trước, hoặc năng chấp, hoặc sở chấp, hoặc sự chấp đều không có tự tánh, vì tự tánh của tất cả pháp là không.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu hành đạo Bồ-đề như thế, đối với tất cả pháp hoàn toàn không sở trụ. Vì lấy không có sở trụ làm phương tiện, nên tuy hành bố thí Ba-la-mật-đa nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành tịnh giới, anh nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành pháp không nội nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành bốn niệm trụ nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ; tuy hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành Thánh đế khổ nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành Thánh đế tập, diệt, đạo nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành bốn tịnh lự nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành tám giải thoát nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành pháp môn Đà-la-ni nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành pháp môn Tam-ma-địa nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành pháp môn giải thoát không nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành bậc Cực hỷ nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành năm loại mắt nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành sáu phép thần thông nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành mười lực Phật nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành pháp không quên mất nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành tánh luôn luôn xả, nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành trí nhất thiết nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành quả Dự lưu nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không; tuy hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, tuy có thể đắc quả Dự lưu nhưng chẳng trụ trong quả ấy; tuy có thể đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác nhưng chẳng trụ trong những quả ấy.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát ấy tuy có thể đắc quả Dự lưu nhưng chẳng trụ trong đó, tuy có thể đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác nhưng chẳng trụ trong đó?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, có hai nhân duyên, tuy có thể đắc quả Dự lưu nhưng chẳng trụ trong đó; tuy có thể đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác nhưng chẳng trụ trong đó. Hai nhân duyên ấy là gì? Một là quả ấy hoàn toàn không có tự tánh, năng trụ, sở trụ đều chẳng thể nắm bắt được. Hai là đối với quả ấy chẳng vừa ý, vì vậy chẳng trụ. Nghĩa là Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ thế này: Ta nhất định xứng đáng đắc quả Dự lưu, chẳng nên chẳng đắc, nhưng chẳng nên trụ trong đó; ta nhất định xứng đáng đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác chẳng nên chẳng đắc, nhưng chẳng nên trụ trong đó. Vì sao? Vì từ khi ta mới phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột đến nay, ở trong bất cứ lúc nào, chẳng nghĩ tưởng gì khác, chỉ cầu quả vị giác ngộ cao tột, ta nhất định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì ở khoảng nửa đường ta đâu có nên trụ một quả nào khác.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, từ khi mới phát tâm cho đến khi nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát không hề có tư tưởng nào khác, chỉ cầu quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, từ khi đắc sơ địa cho đến khi đắc địa thứ mười không hề có tư tưởng nào khác, chỉ cầu quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, chuyên cầu quả vị giác ngộ cao tột, ở bất cứ lúc nào tâm không tán loạn, có phát khởi nghiệp thân, ngữ, ý nào đều tương ưng với tâm Bồ-đề
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, an trụ tâm Bồ-đề khởi đạo Bồ-đề, chẳng bị cảnh khác làm nhiễu loạn tâm.
Lúc bấy gờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều chẳng sanh, thì tại sao Đại Bồ-tát khởi đạo Bồ-đề?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả pháp đều chẳng sanh. Ở đây, những người không làm gì, không hướng đến đâu thì làm sao lại biết tất cả pháp đều chẳng sanh?
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Như Lai xuất thế hoặc chẳng xuất thế, thì các pháp, pháp giới, pháp nhĩ đâu chẳng thường trú.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như Lai xuất thế hoặc chẳng xuất thế, các pháp, pháp giới, pháp nhĩ vẫn thường trú. Nhưng các hữu tình chẳng thể hiểu rõ các pháp, pháp giới, pháp nhĩ thường trú. Các Đại Bồ-tát vì làm lợi ích nên khởi đạo Bồ-đề, do đạo Bồ-đề cứu vớt hữu tình, khiến vĩnh viễn giải thoát các khổ sanh tử.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có phải dùng sanh đạo mà đắc Bồ-đề chăng?
Phật dạy:
– Không!
– Bạch Thế Tôn! Có phải dùng bất sanh đạo mà đắc Bồ-đề chăng?
Phật dạy:
– Không!
– Bạch Thế Tôn! Có phải dùng đạo sanh bất sanh mà đắc Bồ-đề chăng?
Phật dạy:
– Không!
– Bạch Thế Tôn! Có phải dùng đạo chẳng phải sanh, chẳng phải chẳng sanh mà đắc Bồ-đề chăng?
Phật dạy:
– Không!
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát làm thế nào để đắc Bồ-đề?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Chẳng dùng đạo đắc Bồ-đề, cũng chẳng dùng phi đạo đắc Bồ-đề. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bồ-đề tức là đạo, đạo tức là Bồ-đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-đề tức là đạo, đạo tức là Bồ-đề, thì các Đại Bồ-tát đâu chẳng đã đắc đạo Bồ-đề, đáng lẽ đã đắc đạo Bồ-đề, nếu vậy thì tại sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác lại vì họ nói ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, và mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng v.v… vô lượng Phật pháp, khiến họ tu chứng?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Ông có gọi Phật đắc Bồ-đề chăng?
Thiện Hiện đáp:
– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Phật tức là Bồ-đề, Bồ-đề tức là Phật, cho nên chẳng nên gọi là Phật đắc Bồ-đề.
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng điều ông hỏi là các Đại Bồ-tát đâu chẳng đã đắc đạo Bồ-đề, đáng lẽ đã đắc Bồ-đề, thì này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu đạo Bồ-đề chưa được viên mãn, tại sao có thể nói đã đắc Bồ-đề?
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nếu đã viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nếu đã viên mãn pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; nếu đã viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; nếu đã viên mãn Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; nếu đã viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nếu đã viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nếu đã viên mãn pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; nếu đã viên mãn pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nếu đã viên mãn bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; nếu đã viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; nếu đã viên mãn mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nếu đã viên mãn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; nếu đã viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; nếu đã viên mãn trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; nếu đã viên mãn tất cả hạnh Đại Bồ-tát; nếu đã viên mãn sự quán sát mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch; nếu đã viên mãn tất cả thần thông tự tại của Bồ-tát; nếu đã viên mãn Sa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na thù thắng; nếu đã viên mãn tất cả tư lương phước đức trí tuệ; nếu đã viên mãn thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật; nếu đã viên mãn vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn diệu pháp của chư Phật, thì từ đây liên tục dùng một sát na định Kim cương dụ tương ưng diệu tuệ, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não, hai chướng sở tri, tập khí thô trọng tương tục, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, mới gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với tất cả pháp được đại tự tại, lợi ích an lạc tất cả hữu tình, tận đời vị lai.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nghiêm tịnh cõi Phật như thế nào?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến cứu cánh, thường tự thanh tịnh thân thô trọng, ngữ thô trọng, ý thô trọng, cũng thanh tịnh thân thô trọng, ngữ thô trọng, ý thô trọng của người. Đại Bồ-tát ấy vì thanh tịnh ba thô trọng của mình và người, nên có thể nghiêm tịnh sở cầu là cõi Phật.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Cái gì là thân, ngữ, ý thô trọng của Đại Bồ-tát?
Phật dạy:
– Này Thiện Hiện! Hoặc sát hại sanh mạng, hoặc chẳng cho mà lấy, hoặc dâm dục tà hành, các hạnh ác bất thiện của thân như thế gọi là thân thô trọng của Đại Bồ-tát; hoặc nói hư dối, hoặc nói ly gián, hoặc nói thô ác, hoặc nói hỗn tạp, các hạnh ác bất thiện như thế của lời nói gọi là ngữ thô trọng của Đại Bồ-tát; hoặc tham dục, hoặc sân giận, hoặc tà kiến, các hạnh ác bất thiện của ý như thế gọi là ý thô trọng của Đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Đại Bồ-tát đều chẳng thanh tịnh thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có tâm xan tham, tâm phạm giới, tâm sân giận, tâm giải đãi, tâm tán loạn, tâm ác tuệ, thì cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa các địa của Đại Bồ-tát cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa hạnh Đại Bồ-tát, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tham quả chứng Dự lưu, hoặc quả chứng Nhất lai, hoặc quả chứng Bất hoàn, hoặc quả chứng A-la-hán, hoặc quả chứng Độc giác cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khởi tưởng sắc, khởi tưởng thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng nhãn xứ, khởi tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng sắc xứ, khởi tưởng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng nhãn giới, khởi tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng sắc giới, khởi tưởng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng nhãn thức giới, khởi tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng nhãn xúc, khởi tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, khởi tưởng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng địa giới, khởi tưởng thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng nhân duyên, khởi tưởng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng các pháp từ duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng vô minh, khởi tưởng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ,ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng bố thí Ba-la-mật-đa, khởi tưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng pháp không nội, khởi tưởng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng Thánh đế khổ, khởi tưởng Thánh đế tập, diệt, đạo cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng bốn tịnh lự, khởi tưởng bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng tám giải thoát, khởi tưởng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng pháp môn Đà-la-ni, khởi tưởng pháp môn Tam-ma-địa cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng pháp môn giải thoát không, khởi tưởng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng bậc Cực hỷ, khởi tưởng bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng năm loại mắt, khởi tưởng sáu phép thần thông cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng mười lực Phật, khởi tưởng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng ba mươi hai tướng Đại sĩ, khởi tưởng tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng pháp không quên mất, khởi tưởng tánh luôn luôn xả cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng trí nhất thiết, khởi tưởng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng quả Dự lưu, khởi tưởng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng tất cả hạnh Đại Bồ-tát, khởi tưởng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng phàm phu, khởi tưởng Thanh văn, tưởng Độc giác, tưởng Bồ-tát, tưởng Như Lai cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng địa ngục, khởi tưởng bàng sanh, tưởng quỷ giới, tưởng thiên, tưởng nhơn, tưởng nam, tưởng nữ cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng Dục giới, tưởng Sắc giới, tưởng Vô sắc giới; khởi tưởng thiện, tưởng bất thiện, tưởng vô ký; khởi tưởng thế gian, tưởng xuất thế gian, khởi tưởng hữu lậu, tưởng vô lậu, khởi tưởng hữu vi, tưởng vô vi cũng gọi là thô trọng.
Này Thiện Hiện! Vô lượng, vô biên các thứ chấp trước các pháp như thế, sự phân biệt hư vọng và nghiệp thân, ngữ, ý đã khởi của chúng sanh và tánh vô kham nhậm của các loài ấy đều gọi là thô trọng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, xa lìa các thô trọng đã nói như thế, tự hành bố thí Ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành bố thí Ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần y phục cho y phục, cần xe cộ cho xe cộ, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần nô bộc cho nô bộc, cần thị vệ cho thị vệ, cần hoa hương cho hoa hương, cần đồ trang sức cho đồ trang sức, cần phan lọng cho phan lọng, cần kỹ nhạc cho kỹ nhạc, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần đèn đuốc cho đèn đuốc, cần giường tòa cho giường tòa, tùy theo các thứ nhu cầu vật dụng, tùy thời tùy xứ đều cho hết, như điều mình tự làm, dạy cho người cũng vậy. Bố thí như thế rồi, đem thiện căn này cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, lợi lạc hữu tình.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, tự hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành tịnh giới Ba-la-mật-đa; tự hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành an nhẫn Ba-la-mật-đa; tự hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành tinh tấn Ba-la-mật-đa; tự hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành tịnh lự Ba-la-mật-đa; tự hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy, làm các việc này rồi, đem thiện căn ấy cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, lợi lạc hữu tình.
– Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát dùng nguyện lực thần thông làm cho bảy báu thượng diệu đầy ắp cả thế giới Tam thiên đại thiên, cúng Phật Pháp Tăng. Cúng xong hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem thiện căn đã gieo trồng như thế cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, sẽ khiến cho cõi Phật của tôi trang nghiêm bằng bảy báu, tất cả hữu tình tùy ý thọ dụng các thứ trân bảo nhưng không nhiễm trước.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát dùng sức thần thông đánh tấu vô lượng các âm mhạc vi diệu trên cõi trời, trong cõi người, cúng dường Tam Bảo và tháp Phật; cúng xong hoan hỷ, phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem các thiện căn đã gieo trồng như thế cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, sẽ làm cho quốc độ của tôi thường tấu âm nhạc thượng diệu như thế, hữu tình nghe rồi thân tâm sảng khoái, nhưng không nhiễm trước.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát dùng nguyện lực thần thông đầy ắp cả Tam thiên đại thiên thế giới người và trời, đem các thứ diệu hương hoa cúng dường Tam Bảo và tháp Phật; cúng dường xong hoan hỷ, phát nguyện rộng lớn: Tôi nay đem thiện căn đã gieo trồng như thế cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, sẽ làm cho quốc độ của tôi thường có các loại diệu hương hoa như thế, hữu tình thọ dụng thân tâm thanh thoát, không bị nhiễm trước.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát dùng nguyện lực thần thông, sẽ bày ra thức ăn uống trăm vị thượng diệu, cúng dường chư Phật, Độc giác, Thanh văn và các chúng Đại Bồ-tát; cúng dường xong hoan hỷ, phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem thiện căn đã gieo trồng như thế, cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều được ăn uống trăm vị như thế, giúp thân tâm sảng khoái mà không chấp trước.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát dùng sức thần thông bày biện các loại hương xoa thượng diệu cõi trời cõi người, y phục mềm mại phụng cúng chư Phật, Độc giác, Thanh văn và các chúng Đại Bồ-tát, hoặc lại cúng dường Pháp và tháp Phật; cúng xong hoan hỷ, phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem thiện căn đã gieo trồng như thế cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các hữu tình trong quốc độ của tôi thường được y phục, hương xoa như thế, tùy ý thọ dụng mà không nhiễm trước.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát dùng nguyện lực thần thông, bày biện các thứ cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc thượng diệu, pháp sanh theo ý muốn của cõi trời, cõi người, cúng dường chư Phật và tháp Phật, Độc giác, Thanh văn và các Bồ-tát, cho các loài chúng sanh khác, rồi nhảy nhót vui mừng phát thệ nguyện rộng lớn: Tôi đem thiện căn đã gieo trồng như thế, cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến trong quốc độ của tôi, các loại hữu tình tùy tâm ưa thích cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc thượng diệu, ứng theo niệm mà đến, hoan hỷ thọ dụng mà không nhiễm trước.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự an trụ pháp không nội, cũng khuyên người an trụ pháp không nội; tự an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng khuyên người an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của ta đều chẳng xa lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu bốn niệm trụ, cũng khuyên người tu bốn niệm trụ; tự tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng khuyên người tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự an trụ Thánh đế khổ, cũng khuyên người an trụ Thánh đế khổ; tự an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng khuyên người an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu bốn tịnh lự, cũng khuyên người tu bốn tịnh lự; tự tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng khuyên người tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu tám giải thoát, cũng khuyên người tu tám giải thoát; tự tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng khuyên người tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa tám giải thoát cho đến mười biến xứ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu pháp môn Đà-la-ni, cũng khuyên người tu pháp môn Đà-la-ni; tự tu pháp môn Tam-ma-địa; cũng khuyên người tu pháp môn Tam-ma-địa, làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu pháp môn giải thoát không, cũng khuyên người tu pháp môn giải thoát không; tự tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng khuyên người tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu bậc Cực hỷ, cũng khuyên người tu bậc Cực hỷ; tự tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng khuyên người tu bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu năm loại mắt, cũng khuyên người tu năm loại mắt; tự tu sáu phép thần thông, cũng khuyên người tu sáu phép thần thông; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu mười lực Phật, cũng khuyên người tu mười lực Phật; tự tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu ba mươi hai tướng Đại sĩ, cũng khuyên người tu ba mươi hai tướng Đại sĩ; tự tu tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, cũng khuyên người tu tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu pháp không quên mất, cũng khuyên người tu pháp không quên mất; tự tu tánh luôn luôn xả, cũng khuyên người tu tánh luôn luôn xả; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu trí nhất thiết, cũng khuyên người tu trí nhất thiết; tự tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng khuyên người tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát thệ nguyện rộng lớn, tinh cần dõng mãnh, tự tu tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng khuyên người tu tất cả hạnh Đại Bồ-tát; tự tu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng khuyên người tu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; làm việc này rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của tôi đều chẳng xa lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, do hạnh nguyện này nên có thể nghiêm tịnh sở cầu là cõi Phật.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát ấy tùy theo hạnh nguyện đã phát khởi hành đạo Bồ-đề trong thời gian bao lâu sẽ được viên mãn, thì ngay trong chừng ấy thời gian tinh cần tu học. Do nhân duyên này tự mình có thể thành tựu tất cả thiện pháp, cũng có thể khiến người dần dần thành tựu tất cả thiện pháp; tự mình có thể tu đắc thân trang nghiêm tướng hảo thù thắng, cũng có thể khiến người dần dần tu đắc thân trang nghiêm tướng hảo thù thắng. Do phước đức to lớn đã nhiếp thọ nên, này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát ấy đối với mỗi sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, hữu tình đã giáo hóa, cũng sanh vào cõi ấy cùng hưởng pháp lạc Đại thừa tịnh độ.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nên tu nghiêm tịnh cõi Phật như thế này, đó là trong cõi ấy thường chẳng nghe có ba loại đường ác, cũng chẳng nghe có các loại ác kiến, cũng chẳng nghe có độc tham, sân, si, cũng chẳng nghe có hình tướng nam, nữ, cũng chẳng nghe có Thanh văn, Độc giác, cũng chẳng nghe có khổ, vô thường v.v… cũng chẳng nghe có nhiếp thọ vật dụng, cũng chẳng nghe có chấp ngã, ngã sở, cũng chẳng nghe có tùy miên triền kết, cũng chẳng nghe có điên đảo chấp trước, cũng chẳng nghe có an lập phần vị sai biệt của các quả; chỉ nghe nói không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tánh v.v… nghĩa là tùy theo sự ưa thích sai biệt của hữu tình, trong các vật bên trong, ngoài các rừng cây, thường có gió nhẹ va chạm vào nhau, phát ra các loại âm thanh vi diệu; trong các âm thanh ấy nói tất cả pháp đều không có tự tánh; vì không có tự tánh nên không; vì không nên vô tướng; vì vô tướng nên vô nguyện; vì vô nguyện nên vô sanh; vì vô sanh nên vô diệt. Vì vậy các pháp bản lai tịch tịnh, tự tánh Niết-bàn. Phật xuất thế hoặc chẳng xuất thế, pháp tướng thường như thế. Trong cõi Phật kia, các loài hữu tình, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, thường nghe âm thanh nói pháp như thế.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát ấy, ngay tại chỗ ở của mình, nghiêm tịnh cõi Phật, khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, mười phương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều cùng xưng tán danh hiệu của các Phật kia. Nếu các hữu tình được nghe danh hiệu Phật, được xưng tán như thế, đối với quả vị giác ngộ cao tột, nhất định đắc Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát ấy ngay tại chỗ ở của mình, nghiêm tịnh cõi Phật, khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình, tuyên thuyết Chánh pháp. Hữu tình nghe rồi, nhất định chẳng sanh nghi đó là pháp, hay là phi pháp. Vì sao? Vì các loài hữu tình ấy liễu đạt các pháp đều là chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh bất hư vọng, tánh chẳng đổi khác; tất cả là pháp, không phải phi pháp.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát ấy đều có thể nghiêm tịnh cõi Phật như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát ấy có sự giáo hóa chúng sanh không đủ thiện căn, chưa ở chỗ chư Phật, Bồ-tát, Độc giác và Thanh văn, trồng các thiện căn, bị các ác hữu nhiếp thọ, nên xa lìa thiện hữu, chẳng nghe Chánh pháp, thường bị các thứ kiến chấp về ngã, hữu tình và các kiến chấp khác chấp tàng, rơi vào thiên chấp nhị biên thường, đoạn. Các hữu tình ấy tự khởi tà chấp, cũng thường dạy người khiến khởi tà chấp, đối với Phật khởi tưởng chẳng phải Phật, chẳng phải Phật khởi tưởng là Phật; đối với Pháp khởi tưởng chẳng phải Pháp, chẳng phải Pháp khởi tưởng là Pháp; đối với Tăng khởi tưởng chẳng phải Tăng, chẳng phải Tăng khởi tưởng là Tăng. Do nhân duyên ấy, phỉ báng Chánh pháp, vì phỉ báng chánh pháp nên khi thân hoại mạng chung, đọa vào các đường ác, sanh trong địa ngục, thọ khổ kịch liệt. Các Đại Bồ-tát ấy đều ở quốc độ của mình, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột rồi, thấy hữu tình kia trầm luân sanh tử thọ vô lượng khổ, dùng sức thần thông phương tiện giáo hóa khiến bỏ ác kiến, trụ trong chánh kiến; từ địa ngục ra sanh vào cõi người; sanh cõi người rồi, lại dùng các loại thần thông phương tiện giáo hóa khiến an trụ trong nhóm chánh định. Do đó rốt ráo chẳng rơi vào đường ác; lại khiến tu tập hạnh nguyện thù thắng, khi mạng chung được sanh cõi Phật nghiêm tịnh, thọ dụng pháp lạc Đại thừa tịnh độ.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát ấy đều có thể nghiêm tịnh cõi Phật như thế. Do vì cõi sở cư rất thanh tịnh, nên sanh hữu tình kia đối với tất cả pháp chẳng khởi hư vọng do dự phân biệt đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian; đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi; các thứ do dự phân biệt như vậy, rốt ráo chẳng khởi. Do nhân duyên này, loài hữu tình kia nhất định đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Như vậy là Đại Bồ-tát nghiêm tịnh cõi Phật.