Phật nói Kinh Tam muội Ấn Trí tuệ
(Phật Thuyết Tuệ Ấn Tam muội Kinh)
Hán dịch: Ngô Nguyệt Thị Ưu Bà Tắc Chi Khiêm
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch 3/2015

 

Phật nói Kinh Tam muội Ấn Trí tuệ, một quyển

Nghe như thế. Một thời Phật ở trong núi Kì Xà Quật nơi La Duyệt Kì. Cùng với Tì Kheo Tăng lớn nhất, một nghìn hai trăm năm mươi Tì Kheo đi theo. Bồ Tát có bốn mươi trăm triệu người. Đều bắt được Đà La Ni. Đều được các Tam muội. Đều bắt được Pháp Rỗng. Đều được Pháp không tưởng nhớ Vắng lặng. Đều bắt được nguyện không dao động. Đều được không đâu nương nhờ hạnh Đà La Ni. Được rất nhiều vô số môn Đà La Ni : Môn Pháp nhận ghi nhớ không quên.

Phật khi đó liền vượt qua Bản thệ Tam muội. Bỗng nhiên không có Sắc thân. Không thể thấy, không thể được. Như khoảng Không, không thể biết. Không đâu ở, không thể được. Không có ta, không có làm. Cũng không tới. Cũng không đi. Cũng ở sai. Cũng dừng sai. Cũng chẵn sai. Cũng lẻ sai. Cũng thân sai. Cũng buồn sai. Cũng vui sai. Cũng tâm sai. Cũng không theo tâm sai. Cũng làm lời nói sai. Cũng không có lời Rỗng đó. Cũng nương nhờ sai.

Phật khi đó thực hành vượt qua Bản thệ Tam muội. Liền không thấy thân Phật. Cũng không thể được tưởng nhớ. Thân Phật tâm ý Phật cũng không thể được tưởng nhớ. Cũng không thấy áo ngoài áo trong cùng với ngồi. Thời cũng không thấy đi lại. Cũng tiếng nói sai.

Lúc đó Tam muội gồm cả uy Thần, chiếu sáng mặt Trời mặt Trăng của Ba nghìn Đại thiên. Quang sáng của các mặt Trời, mặt Trăng ở Ba nghìn Đại thiên Nước Phật đó, đều bị che phủ không thấy. Các vật báu Như ý vượt qua che lấp hết các báu vật. Các Trời và nơi ngồi của Trời. Toàn bộ hương nổi tiếng của các Đế Thích, Trời Phạm. Đều bị nó tan hết. Đều bị lực uy Thần của Tam muội đó che phủ. Đất nước Ba nghìn Đại thiên. Chỉ ngửi hương Tam muội đó. Chiếu sáng tới các Nước Phật. Mắt của người dân trong đó không bị che phủ của Già Ca Hòa, Ma Ha Già Ca Hòa, và núi Tu Di, các núi Hắc.

Lúc đó liền có sương bảy báu kết thành giọt. Che lên Đất nước Ba nghìn Đại thiên. Tất cả các Nước Phật và với vườn trúc. Bao nhiêu loài hoa của núi Kì Xà Quật đều tràn khắp trong đó. Đất đó đều bằng phẳng. Đất vì sinh hoa Sen. Hoa đó lớn như bánh xe. Một hoa có mười vạn cánh. Trên hoa đó đều có dù bảy báu che lên. Đất biên giới Nước Ma Kiệt Đề. Đều được mềm mại như tua rua Trời.

Có các Phật như số cát bờ sông Hằng ở phương Đông. Sai rất nhiều vô số Bồ Tát Một lần sinh thành Phật. Giúp tới Đất nước Diêm Phù Đề. Có Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri. Tên hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Nay tất cả các cảnh giới Phật Hiện tại. Vào vượt qua Bản thệ Tam muội ấn Trí tuệ của Phật Như Lai, Ứng Cúng sâu. Nếu có Bồ Tát tích lũy công Đức. Kính thực hành sáu Pháp tới Niết Bàn. Trăm Kiếp bỏ Ẩu hòa Câu xá la. Không bằng một lúc nghe Tam muội đó.

Các Bồ Tát liền nhận dạy bảo của Phật đó. Giữ Thần thông biến hóa bay tới trong vườn trúc. Tiến lên vì Phật làm lễ. Đều lui ngồi trên hoa Sen. Như thế các Phật như số cát bên bờ sông Hằng ở phương Nam. Cũng lại sai rất nhiều vô số Bồ Tát. Phương Tây, phương Bắc, phương Đông Nam, phương Tây Nam, phương Tây Bắc, phương Đông Bắc, phương bên trên, phương bên dưới. Như thế các Phật như số cát bên bờ sông Hằng. Đều lại sai rất nhiều vô số Bồ Tát Một lần sinh thành Phật. Giúp tới Đất nước Diêm Phù Đề. Có Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri. Tên hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Nay tất cả các cảnh giới Phật Hiện tại. Vào vượt qua Bản thệ Tam muội ấn Trí tuệ của Phật Như Lai, Ứng Cúng sâu. Nếu có Bồ Tát tích lũy công Đức. Kính thực hành sáu Pháp tới Niết Bàn. Trăm Kiếp bỏ Ẩu hòa Câu xá la. Không bằng một lúc nghe Tam muội đó. Các Bồ Tát liền nhận dạy bảo của Phật đó. Giữ Thần thông biến hóa bay tới trong vườn trúc. Tiến lên vì Phật làm lễ. Đều lui ngồi trên hoa Sen.

Khi đó ở Đất nước Ba nghìn Đại thiên này. Các Tì Kheo Tăng và các Bồ Tát. Ở nơi phương xa đều tới tập hợp ở trước Phật trong vườn trúc. Lúc đó rất nhiều vô số Bồ Tát và bốn mươi trăm triệu Bồ Tát Tì Kheo. Đều tới hội họp ở vườn trúc. Do dùng uy Thần của Tam muội đó. Ở Đất nước Ba nghìn Đại thiên đó. Các Thích, các Phạm, các Ma, Trời Di Tuyên. Các Trời Biến Tịnh. Tất cả các Vua Rồng. Các Vua Quỷ Thần. Các Vua Càn Thát Bà. Các Vua A Tu La. Các Vua Ca Lâu La. Các Vua Khẩn La Na. Các Vua Ma Hầu La Già. Các Vua đó đều từng người đem theo rất nhiều vô số quan quân quyến thuộc, tới nơi ở của Phật. Tiến lên vì Phật làm lễ, lui ở một bên. Khi đó ở Đất nước của Ba nghìn Đại thiên này. Các Trời và người, người sai, từ dưới lên tới hai mươi tám Trời. Giữa không có Rỗng thiếu, đều cùng đầy khắp.

Đệ Tử tôn quý Xá Lợi Phất. Ma Ha Mục Kiền Liên. Câu Đề Ca Chiên Diên. Bân Nậu Văn Đà Ni Phất La. Liền tới trước Văn Thù Sư Lợi. Hỏi Văn Thù Sư Lợi nói rằng : Phật hướng về vượt qua Bản thệ Tam muội. Nay đều không thấy, không biết được nơi tới. Nguyện vì chúng con nói nó. Văn Thù Sư Lợi trả lời Xá Lợi Phất nói rằng : Trí tuệ của người Hiền mà đầy đủ. Vì sao không từng người từ Tam muội cùng nhau tìm kiếm rất nhiều vô số Nước Phật. Biết như hạnh ra sao của thân Phật.

Tức thời nhóm Xá Lợi Phất. Từng người từ Tam muội cùng nhau tìm kiếm rất nhiều vô số Nước Phật. Xong không thấy thân Phật. Cũng không biết được nơi tới. Nhóm Xá Lợi Phất liền thức dậy từ Tam muội. Lại tiến lên hỏi Văn Thù Sư Lợi nói rằng : Chúng con dùng các loại Tam muội. Tìm kiếm rất nhiều vô số Nước Phật. Cũng không thấy thân Phật. Cũng không biết được tụ họp. Nguyện muốn nghe biết chỉ vì nghe nó.

Văn Thù Sư Lợi nói rằng : Các người Hiền nhóm Xá Lợi Phất. Không biết nơi tới của Phật. Đều tạm thời ngồi yên. Phật trong giây phút tự đang trở về.

Lúc đó Phật thức dậy từ Tam muội Ấn Trí tuệ. Liền chấn động Nước Phật của Ba nghìn Đại thiên. Nhóm Xá Lợi Phất liền tiến lên báo cáo Phật nói rằng : Phật ở Tam muội nào ? Chúng con dùng mắt Trí tuệ tìm kiếm Phật. Xong không có thể biết nơi ở đó.

Phật bảo Xá Lợi Phất nói rằng : Phật do tới nơi. Nếu các A La Hán, Bích Chi Phật sai có thể biết được. Riêng mình Phật tự biết nơi đó. Sở dĩ thế nào ? Do không có nghĩ nhớ, không động, không lay động.

Xá Lợi Phất ! Thân Phật có một trăm sáu mươi hai việc. Khó có thể được biết. Thế nào là một trăm sáu mươi hai việc ?

Thân sai. Không làm. Không phát ra. Không giảm. Chưa thường có. Không có sánh. Cũng không đâu sánh. Cũng không có làm. Cũng không đâu tới. Không thể biết. Cũng không luyện tập tất cả sạch. Toàn bộ không có. Cũng không có. Cũng không đi. Cũng không ở. Cũng sinh sai. Cũng nhận sai. Cũng nghe sai. Cũng thấy sai. Cũng hương sai. Cũng mùi vị sai. Cũng nhỏ bóng sai. Cũng không thường mở. Cũng không trả lời lại. Cũng mở trả lời sai. Cũng tâm sai. Cũng nghĩ nhớ sai. Tâm nghĩ nhớ rời với từng loại tâm. Tâm không đâu bằng. Không đâu ban cho. Không tới. Không đi. Cũng thấm nhuận sai. Cũng sạch bóng sai. Cũng lại Có. Cũng hoảng sợ sai. Cũng kinh sợ sai. Cũng động sai. Cũng lay động sai. Cũng không tạo ra. Cũng không được. Cũng tràn đầy sai. Cũng không tràn đầy sai. Cũng thấy sai. Cũng sáng tỏ sai. Cũng không sáng tỏ sai. Cũng đen tối sai. Cũng không đen tối sai. Cũng mất sai. Đã rời mất. Sạch ở trong mất. Lại toàn bộ Thanh tịnh. Với Sắc thân toàn bộ không có. Không có tham yêu. Tất cả bản thân sai. Rời với bản thân sai. Ở không đâu ở. Cũng không có nơi. Cũng không theo tới. Cũng không theo tới sai. Cũng Pháp sai. Cũng không Pháp sai. Cũng ruộng Phúc sai. Cũng không ruộng Phúc sai. Cũng hết sai. Cũng không thể hết. Toàn bộ không có. Rời với toàn bộ không có. Rời xa với chữ viết. Rời xa với hướng về. Rời xa với dạy bảo. Rời xa với hạnh. Rời xa với nghĩ nhớ. Cũng tai họa sai. Cũng không tai họa sai. Cũng so lường sai. Cũng không so lường sai. Cũng tới sai. Cũng đi sai. Cũng hai sai. Cũng không hai sai. Cũng dựa vào sai. Cũng không dựa vào sai. Cũng hình tướng sai. Cũng không hình tướng sai. Không có hình tướng hay hiện ra hình tướng. Không có các Vào. Cũng không nương nhờ sai. Rời các nương nhờ. Tất cả người Giúp được tin. Không nhận, vào, ở. Chân lý trở lại Chân lý với Chân lý. Tất cả ta độ thoát sai. Không đâu độ thoát. Sạch không đâu sạch. Độ thoát ách nạn là không đâu độ thoát. Nói được không nói, hai không đâu sánh bằng. Không đâu bằng với Bình đẳng. Vô lượng Bình đẳng. Bình đẳng với Rỗng. Không có các nơi. Không có các sinh. Không thể được Bình đẳng. Được yên không đâu yên. Vắng lặng lại Vắng lặng. Lại sáng giữa sáng vắng lặng. Không chuyển, hay chuyển làm với hạnh. Tất cả đứt các được nương nhờ. Các Chân lý Pháp không có hai. Theo trước nay toàn bộ không có. Người hiểu được, đã hiểu chân lý. Đã độ thoát với tất cả hạnh. Hạnh được độ thoát, không đâu độ thoát. Cũng đúng sai. Cũng không đúng sai. Cũng dài sai. Cũng ngắn sai. Cũng tròn sai. Cũng vuông sai. Cũng thân sai. Cũng thể loại sai. Cũng vào sai. Cũng không đâu vào. Cũng Thế gian sai. Cũng toàn bộ Thế gian sai. Cũng chưa từng có người thấy. Cũng chưa từng có người biết. Cũng đi sai. Cũng không đi sai. Cũng Nhân duyên Thế gian sai. Cũng không Nhân duyên Thế gian sai. Như thế thân không thể được. Cũng có sai. Cũng không có sai. Cũng không có đi. Cũng không có tới. Cũng tâm nghĩ nhớ sai. Cũng lo buồn sai. Cũng làm sai. Cũng không làm sai. Cũng tranh cãi sai. Cũng không tranh cãi sai. Cũng Niết Bàn sai. Cũng không Niết Bàn sai. Cũng thực hành sai. Cũng không thực hành sai. Đó là một trăm sáu mươi hai việc.

Phật bảo Xá Lợi Phất nói rằng : Thân Phật như thế. Người muốn tưởng nhớ thân Phật đó, không có thể thấy. Sở dĩ thế nào ? Thân Phật không thể dùng tưởng nhớ thấy biết.

Phật khi đó muốn sáng rộng Tam muội Ấn Trí tuệ. Liền đọc bài kệ ở mười phương nói rằng :

Thân đó cũng thân sai. Với thân đã độ thoát. Cũng không làm không có. Hỏng cũng không đâu được. Tất cả các Tướng Pháp. Hai cũng không hai sai. Muốn thấy các thân Phật. Nếu ở đều như thế. Không đúng, không đúng sai. Buồn sai không buồn sai. Không giữ cũng không bỏ. Không bằng cũng không dài. Không vui cũng không ở. Tất cả không từ sinh. Thân Phật đã như thế. Liền hay đặt yên ổn. Cũng không thể làm sai. Được Rỗng, không có nghĩ. Cũng không tâm sắc sai. Có ta cũng một sai. Không đâu nhận với nhận. Toàn bộ không với Có. Tất cả các Chính Giác. Thân họ thực như thế. Không cứng cũng không mềm. Không vết cũng không bẩn. Không đứt cũng không liền. Không có cũng không hỏng. Cũng không đâu được nó. Bao nhiêu không đâu chết. Muốn thấy các thân Phật. Tất cả không Phiền não. Không thấy cũng không nghe. Hương sai không nhẵn nhỏ. Không biết cũng không động. Ví như nếu như ảnh. Dừng hình với tất cả. Biết tâm các người nhờ. Phật đã thành thân đó. Tất cả đều như thế. Thân sai cũng thể sai. Bằng sai cũng thực sai. Sạch sai, không sạch sai. Các Căn toàn bộ không. Không chứa, không chứa sai. Ví như Trăng trong nước. Muốn thấy các thân Phật. Tất cả đều như thế. Thân lại cùng theo thân. Nhân duyên vốn Tự nhiên. Không sinh cũng không mất. Không tới cũng không đi. Không thấy ở Ba Cõi. Như hiện hoặc như ảo. Muốn thấy các thân Phật. Không động cũng không lay. Tiếng sai cũng cãi sai. Im sai cũng vắng sai. Được sai chưa thường có. Không có cũng không nó. Ví như gốc khoảng Không. Tự nhiên toàn bộ không. Thấy Phật đã như thế. Ngày đêm đang cúng dưỡng. Tất cả và mười phương. Trăm triệu nghìn Nước Phật. Cao tới Trời hai tám. Trong đầy các châu báu. Đều dùng để cúng dưỡng. Thậm chí vô số Kiếp. Không bằng chép Kinh đó. Phúc họ vượt trên nó. Ví như cát sông Hằng. Lại gấp vô số Kiếp. Chuyển phát ở trong đó. Thường cùng làm tâm Từ. Không bằng biết rõ ơn. Hiểu Tam muội Ấn đó. Vô số chuyển như thế. Đức họ vượt trên nó. Nếu ở trong năm Đạo. Phát chuyển vô số Kiếp. Bao nhiêu Kiếp như thế. Tất cả hay đều Nhịn. Không bằng Tuệ một thời. Hiểu Tam muội Ấn đó. Phúc đó như hạt cải. Ở bên núi Tu Di. Nếu người ở Ba Cõi. Sinh xong liền to lớn. Tất cả đều vận tải. Hay Nhịn vô số Kiếp. Thân họ không bị mệt. Không lấy làm siêng năng. Như thế đều hay Nhịn. Không bằng hiểu Tam muội. Như người sinh biết khắp. Lại nhiều với số Kiếp. Cát trong trăm Kiếp đó. Tất cả dùng làm số. Không bằng lực ngày đêm. Làm Tam muội Ấn đó. Phúc họ muốn ví dụ. Không thể dùng so Tuệ. Trí tuệ họ như thế. Thường cùng làm cùng theo. Ở trong vô số Kiếp. Ví như một bụi trần. Hay thực hiểu rõ nó. Tam muội Ấn Trí tuệ. Phúc họ muốn ví dụ. Nếu giữ một giọt biển. Đừng giữ Sắc Tướng Hảo. Nghĩ xem muốn thấy Phật. Đừng như nương nhờ Có. Muốn thấy Phật Như Lai. Như nơi Tu Bồ Đề. Người thấy là thấy Phật. Đã thấy Phật như thế. Tất cả Ba nghìn không.

Như thế Xá Lợi Phất. Tam muội Ấn Trí tuệ của Phật Như Lai. Các Bồ Tát Bồ Tát lớn không đâu trở ngại ở mười phương. Đều làm nguyện muốn thấy các Phật. Đang bên trong ý chí ngày đêm thực hành Tam muội đó. Liền thấy tất cả rất nhiều vô số các Bồ Tát mười phương, thực hành môn Tam muội. Ở Pháp không đâu trở ngại. Đó là môn dựa vào nơi Đà La Ni. Từ trong đó thành Hình tướng của họ. Từ trong đó thành Diện mạo đẹp của họ. Người thực hành như thế, các vòng tội đều được bỏ. Các việc Ma đều đã qua. Được Phật nói đều chân thực rõ. Nơi ở và lời nói của Phật. Không có Rỗng thiếu, đều đầy đủ. Hạnh của thân không có vết bẩn. Hạnh của ý sạch không bẩn. Nếu muốn hiểu hạnh Phật. Muốn hiểu biết rõ tất cả ý người. Giúp đều được nơi của họ. Người muốn phát nguyện thành Nước Phật. Đang thực hành Tam muội đó. Người muốn được Quang sáng trên đỉnh đầu Phật. Người muốn phát ra Tì Kheo Tăng. Người muốn trang nghiêm Đất nước của họ. Tự do muốn làm, muốn thực hành. Đang kính thực hành Tam muội đó. Sở dĩ thế nào ? Ví như tất cả cây thuốc ở khắp nơi. Tìm kiếm đều đầy đủ. Tam muội đó cũng như thế. Bồ Tát ở trong Tam muội đó. Nếu tìm kiếm cũng đều đầy đủ.

Phật khi đó liền đọc bài kệ nói rằng:

Tuệ Bình Đẳng là Tuệ lớn.
Tuệ hay tan các tham nhờ.
Tuệ quý đó vào môn Tuệ.
Kinh Ấn đó vô lượng Tuệ.
Biết hạnh Căn ở bậc Trí.
Trí không ngại, Trí bỏ tối.
Trí hết nhờ, Trí nói Pháp.
Kinh như ngày sáng Ba Cõi.
Thường cùng làm với Tam muội.
Được đứt tất cả lý nhờ.
Tướng Ấn Tuệ các Tam muội.
Các Phật giả cùng loại đó.
Muốn được Pháp Niết Bàn báu.
Nguyện Thần túc, Phúc, tướng Phúc.
Theo ý chí nguyện làm được.
Các Phật thích Tam muội đó.
Vua thích Nước và hạ thần.
Bình Đẳng báu, Như Lai báu.
Dâm hận bẩn đều bỏ hết.
Tam muội báu nói Kinh đó.
Ý cung kính học từ Ta.
Giữ trong sạch bỏ tôi ta.
Người dũng mãnh hỏng sinh chết.
Giữ Pháp đúng được Tam muội.
Tuệ hay nói, được đang nói.
Giữ Tuệ đó, Trí hay nhiều.
Tuệ hay phóng khắp Quang sáng.
Kinh đó như môn Trí tuệ.
Cùng hay hàng hết tôi ta.
Sáu mươi hai các nghi hoặc.
Tới cửa Phật không hoảng sợ.
Liền đủ từ Tướng Hảo đó.
Trong ba Quý, Phật quý nhất.
Riêng hay nói bảy Ý hiểu.
Vì lười nhác hiện ra Pháp.
Tam muội đó không thể hết.
Đang rộng nói tất cả Pháp.
Vào Đà La Ni không đáy.
Giữ Pháp đó vào mười phương.
Đà La Ni ví như biển.
Ở trong đó được ban cho.
Giới Nhẫn nhịn và Tinh tiến.
Trí tuệ, Thiền không thể hết.
Ở Kinh đó thành lớn nhất.
Chớ hoảng sợ làm nơi tội.
Với các Ma và Đạo ác.
Làm Tam muội không thể hại.
Như mong nguyện được làm Phật.
Bồ Tát ở với Pháp đó.
Dùng mười phương làm chứng minh.
Người tới đó làm khí Pháp.
Giữ Kinh đó được ở Pháp.
Kinh Phật Quá khứ là mẹ.
Người Tương lai cũng từ đó.
Phật Hiện tại sinh từ đó.
Làm như thế là Con Phật.
Bỏ tội bẩn làm không chuyển.
Vượt qua Pháp dừng thứ bảy.
Nếu có người ở Kinh đó.
Liền đầy đủ các Phật báu.

Khi nói Pháp đó các Bồ Tát bằng số cát bên bờ ba mươi sông Hằng. Đều được Tam muội đó. Sáu mươi tám Na do tha Bồ Tát khác. Các vòng tội đều bỏ, đều ở bậc Không chuyển lui. Đều được Đà La Ni vào âm thanh không thể hết. Sáu mươi trăm triệu Trời và người. Từ trước tới nay chưa từng phát ra ý Bồ Tát. Nay đều phát tâm Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Nghe Tam muội đó, đều cùng vui thích nguyện. Vui thích nguyện xong, liền ở bậc Không chuyển lui. Đang được Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Phật khi đó liền truyền cho họ quyết định. Lui lại về sau ba mươi trăm triệu trăm nghìn Kiếp. Đều đang làm Phật. Tên hiệu là Ly Ư Khủng Bố. Các Bồ Tát đều tự phát nguyện. Liền được Pháp Nhẫn không đâu theo sinh. Sau đó ở Đất nước của họ. Đều được làm Phật. Đều cùng một tên chữ.

Phật khi đó thấy Tam muội tràn khắp hội chúng. Bảo Văn Thù Sư Lợi nói rằng : Vì thế cho nên Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, muốn giúp Pháp của Ta. Đang làm ở không đâu nương nhờ. Đang biết lỗi, đang giữ, đang nói nó. Thường đang Thanh tịnh ở một mình. Không cần có nơi dựa vào.

Văn Thù Sư Lợi liền từ ngồi đứng lên chỉnh sửa quần áo. Dùng đầu mặt chạm đất. Vì Phật làm lễ. Báo cáo Phật nói rằng : Con có thể Nhẫn chịu giúp Pháp không đâu nương nhờ. Với Đạo Bồ Tát không có ta, không có bản thân. Không có cũng chưa từng có. Không thấy cũng không nghe. Không được cũng không mất.

Khi đó ba mươi trăm triệu Bồ Tát trong hội chúng. Đều bắt chéo mười ngón hai bàn tay. Báo cáo Phật nói rằng : Chúng con có thể Nhẫn chịu vô số A tăng kì Kiếp đó. Ủng hộ hạnh Bồ Tát. Các Bồ Tát đều lấy áo trên thân cúng dưỡng Phật. Liền tức thời phát nguyện.

Phật bảo Di Lặc Bồ Tát nói rằng : Nghĩ nhớ thuận theo hạnh nguyện trước kia. Về sau đang giữ Pháp đó. Ở trong ba mươi trăm triệu Bồ Tát. Tám nghìn Bồ Tát có thể giữ Pháp đó vậy. Bồ Tát khác đó. Đều cương cường không thể giữ Pháp. Về sau đều đang nhiễu loạn Pháp của Ta. Cũng không biết lỗi, cũng không giữ.

Di Lặc ! Có bảy việc phát ý Bồ Tát. Thế nào là bảy việc ?

Một là phát ý Bồ Tát. Hai là khi Pháp muốn hết, giúp Pháp khiến cho không hết, phát ý Bồ Tát. Ba là vì thương xót người, người sai mười phương, phát ý Bồ Tát. Bốn là thấy Bồ Tát, liền phát ý Bồ Tát. Năm là làm Bố thí, phát ý Bồ Tát. Sáu là thấy người khác phát ý Bồ Tát. Liền bắt chước phát ý Bồ Tát. Bảy là nghe thân Phật có ba mươi hai Tướng đoan chính, được người hướng về ca ngợi. Liền phát ý Bồ Tát.

Di Lặc ! Đó là bảy việc. Họ có thể phát ý Bồ Tát Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Họ giúp giữ Pháp làm cho không hết. Người, người sai mười phương thương xót đó phát ý Bồ Tát. Các bậc Tam muội đó có thể giúp giữ phát ý Bồ Tát. Nhanh được Không chuyển lui. Người bậc thứ tư đó phát ý Bồ Tát, đều là Bồ Tát cương cường.

Phật bảo Di Lặc Bồ Tát nói rằng : Có ở năm Pháp. Nhanh được Không chuyển lui. Thế nào là năm Pháp ?

Một là tâm Bình đẳng với người, người sai mười phương. Hai là tuyệt nhiên không đâu ưa thích với tiền vật báu của người khác. Ba là nếu có người nói Kinh Pháp. Về sau tới hết mệnh, cuối cùng không nói xấu của họ. Bốn là nếu có cúng dưỡng khăn áo. Hoặc là đồ ngủ giường nằm, thuốc uống bệnh gầy yếu. Người đang được, tuyệt nhiên không đâu quyến luyến. Năm là vào trong Pháp vi diệu sâu. Đó là năm Pháp. Bồ Tát ở biết hình tướng của Bồ Tát Không chuyển lui đó.

Lại có năm Pháp. Bồ Tát ở là cương cường. Thế nào là năm Pháp ?

Một là mặt mũi không có sắc thái tốt đẹp. Hai là làm được đều hoảng sợ. Ba là tham keo. Bốn là nói siểm nịnh. Năm là chỉ là Đạo Rỗng của miệng. Đó là hình tướng cương cường của Bồ Tát ở năm Pháp.

Lại có năm Pháp. Bồ Tát ở biết Pháp Không chuyển lui đó. Thế nào là năm Pháp ?

Một là không có bản thân. Hai là không có người. Ba là không ở có hai Pháp. Bốn là không nương nhờ với Bồ Tát. Năm là không giữ tưởng nhớ thấy Phật. Đó là ở năm Pháp của Bồ Tát. Nhanh được Không chuyển lui.

Phật lúc đó liền đọc bài kệ nói rằng:

Không cần công cao.
Và với ghen ghét.
Ảo tạo nói sai.
Tìm lỗi của người.
Và miệng nói sai.
Cùng với hoảng sợ.
Gặp người như thế.
Không thể giúp Pháp.
Nếu có người làm.
Ở nơi trống vắng.
Hay Nhịn vi diệu.
Không chỉ miệng nói.
Ví như Tê giác.
Thường thích ở riêng.
Gặp bậc như thế.
Hay giúp Pháp sau.
Thường vui ở riêng.
Thích với Thanh tịnh.
Ví như chim sợ.
Thích ở núi sâu.
Không thích cúng dưỡng.
Ví như khoảng Không.
Người giả như thế.
Hay giúp Pháp báu.
Bỏ thân thể mục.
Cùng với thọ mệnh.
Huống chi Thế gian.
Toàn bộ châu báu.
Lực làm Tinh tiến.
Với không đâu nhờ.
Đồ Pháp như thế.
Hay giúp Pháp sau.
Ở đời Tương lai.
Đang có người đó.
Đang tự nói rằng.
Tôi làm Bồ Tát.
Ý chí mê loạn.
Nhờ ở Thế gian.
Không thể kính làm.
Giúp giữ Pháp sáng.
Ta nhớ đời trước.
Đề Hòa Kiệt Phật.
Trải qua thời đó.
Tám mươi triệu Kiếp.
Thời đó có Phật.
Tên là Quang Minh.
Vì tất cả người.
Nói Tam muội đó.
Hội lớn thứ nhất.
Tám mươi Do tha.
Hội thứ hai sáu.
Mươi bảy Do tha.
Hội thứ ba bảy.
Mươi ba Do tha.
Đều cùng bắt được.
Bậc Không chuyển lui.
Phật đó thọ mệnh.
Ở đời trăm triệu.
Quang sáng sau gáy.
Bảy mươi Do tuần.
Số Tì Kheo Tăng.
Chín chín trăm triệu.
Nhanh được Tự do.
Đều A La Hán.
Khi đó có Vua.
Chủ giữ nhân dân.
Tên là Tuệ Thượng.
Là Già Ca Việt.
Đất Diêm Phù Đề.
Thời đó dài rộng.
Tính số làng đó.
Hai vạn Do tuần.
Số đó bốn nghìn.
Đều cùng như thế.
Vua có cung nữ.
Sáu mươi triệu người.
Nghìn người con đó.
Đều cùng đầy đủ.
Tên Đất nước đó.
Cực Lạc Vô Yếm.
Vua quản các Nước.
Hai vạn quận huyện.
Nhân dân trong Nước.
Đều có vườn chơi.
Thường thích yên ổn.
Năm gạo Tự nhiên.
Ví như trên Trời.
Không đâu không có.
Khi đó Vua quý.
Nghe ở trong mộng.
Có Phật ở đời.
Tên là Quang Minh.
Dậy biết từ mộng.
Liền tới nơi Phật.
Từ các hạ thần.
Sáu mươi triệu xe.
Lúc đó từ Phật.
Nghe Kinh báu đó.
Tam muội vi diệu.
Tạng sâu các Phật.
Liền đem các Nước.
Dâng lên với Phật.
Do đang cúng dưỡng.
Không đâu ít thiếu.
Tất cả các Nước.
Vì Phật cúng dưỡng.
Thiết lập giảng đường.
Dùng hương Chiên đàn.
Tất cả giảng đường.
Đủ người cúng dưỡng.
Có thể đi lại.
Vàng mỏng rải đất.
Đầy đủ với tám.
Vạn bốn nghìn năm.
Không sinh việc Vua.
Chỉ vâng theo Phật.
Không thích nằm ngủ.
Lực siêng kính việc.
Cũng không sinh tục.
Không yêu Đất nước.
Nếu như có người.
Nói công Đức Vua.
Hàng ngày nói nó.
Không thể tận cùng.
Có thể cúng Phật.
Không thể nói đếm.
Sở dĩ thế nào.
Hi vọng Tam muội.
Liền thời ở riêng.
Trong tự suy nghĩ.
Nay Tam muội đó.
Rất sâu vi diệu.
Nay ta không thể.
Ở trong ăn uống.
Muốn được hi vọng.
Được Tam muội đó.
Thời liền bỏ Nước.
Cắt bỏ râu tóc.
Do vào núi sâu.
Nhận làm Giới đúng.
Với ba nghìn năm.
Không có ngưng nghỉ.
Làm Tam muội đó.
Chưa muốn nằm ngủ.
Phật Thiên Trung Thiên.
Đạo nơi trung gian.
Có thể nói Pháp.
Đều cùng mở nhận.
Quang Minh Phật đó.
Sau vào Niết Bàn.
Nước huyện dựng Tháp.
Sáu tư trăm triệu.
Cúng dưỡng các Tháp.
Đều năm trăm lọng.
Bảy báu che lên.
Cùng với hương hoa.
Tăng lụa các Trời.
Cùng với màn trướng.
Lửa đèn treo cây.
Đều có tám nghìn.
Giảm bớt ăn uống.
Dùng làm hạn chế.
Tích lũy số đó.
Tám mươi vạn năm.
Vì tất cả người.
Nói Tam muội Ấn.
Chưa thường từ người.
Có được hi vọng.
Nếu người ca ngợi.
Không lấy làm vui.
Huống chi ở đời.
Đang có tham yêu.
Nếu có người cầu.
Ý thường rời xa.
Trong chí tâm làm.
Thường giúp Pháp sau.
Bảy mươi Do tha.
Với tám mươi triệu.
Ở trong số đó.
Đời đời gặp Phật.
Tính toán như thế.
Cúng dưỡng tốt nhất.
Thường gặp Pháp sáng.
Được Tam muội đó.
Nếu có phát ý.
Giúp hạnh Bồ Tát.
Người muốn học đó.
Cần như Ta học.
Không chứa tiền vật.
Muốn hiểu vi diệu.
Ý chí trong làm.
Không có che giả.
Người đời thời sau.
Đang tự nói rằng.
Nghiệp được tôi làm.
Là Hạnh Bồ Tát.
Muốn được cúng dưỡng.
Người cầu Pháp sai.
Ở nơi trong Có.
Nói tất cả Rỗng.
Cũng không hiểu Rỗng.
Thế nào là Rỗng.
Trong ý không bỏ.
Do làm Pháp sai.
Miệng chỉ nói Rỗng.
Ở nơi trong Có.
Nói hạnh Bồ Tát.
Ta không đâu nghi.
Thời Vua Tuệ Thượng.
Là A Di Đà.
Nghìn con khi đó.
Kiếp đó được Phật.
Nay hội chúng lớn.
Người ở trước Ta.
Thời đều bỏ nhà.
Đều là Tì Kheo.
Ta nhớ đời trước.
Thời vô số Phật.
Ở với tên chữ.
Thường làm Sa Môn.
Kinh được Phật nói.
Đều cùng đọc khen.
Kính làm việc Rỗng.
Dựa ở trong Có.
Làm hạnh như thế.
Không thể đọc đếm.
Giữ nhớ dừng dựa.
Cúng dưỡng các Phật.
Cúng dưỡng như thế.
Không được Hạnh Tuệ.
Làm hạnh chuyển ý.
Liền về môn Tuệ.
Về sau với hội.
Đề Hòa Kiệt Phật.
Bỏ nghi của tôi.
Liền thấy Bình Đẳng.
Khi đó trao cho.
Được quyết chính yếu.
Đang ở đời sau.
Làm Phật giữa người.

Lúc đó Phu nhân bậc nhất của Vua Bình Sa. Tên là Bạt Đà Tư Lợi. Mẹ của A Xà Thế vậy. Cô gái Tuyên Na Lạp Giả Câu Lân vậy. Bạt Đà Tư Lợi Phu nhân bậc nhất của Vua Bình Sa liền từ ngồi đứng lên. Tiến tới nơi ở của Phật, vì Phật làm lễ. Dùng châu lụa hỗn tạp và năm trăm vành hoa bảy báu cúng dưỡng với Phật. Liền tự nói rằng : Con ở đời sau thời Tương lai, đang hiểu Tam muội đó. Đang giữ Tam muội đó. Nếu có người giữ Pháp đó. Tì Kheo, nữ Tì Kheo, nam Phật Tử, nữ Phật Tử. Con đang ủng hộ họ. Khăn áo thức ăn uống, đồ ngủ thuốc uống bệnh gầy yếu. Dạy tất cả người phát ý Bồ Tát. Không chê với Pháp Rỗng. Không chỉ miệng nói Rỗng. Thân mục không tiếc thọ mệnh. Huống chi toàn bộ Thế gian.

Khi đó tám nghìn cung nữ trong cung Vua Bình Sa. Và sáu vạn nữ Tì Kheo trong cung Nước Ma Kiệt Đề. Nghe Tam muội đó. Đều phát ý Bồ Tát. Đều cùng nguyện vui thích Tam muội đó. Đương nhiên đời sau đó, đều đang giữ Pháp đó.

Phật khi đó liền mỉm cười. Bao nhiêu loại quang sắc. Từng sắc đều khác nhau, từ trong miệng bay ra. Xanh vàng đỏ trắng, chiếu sáng khắp rất nhiều vô số Nước Phật. Đều che phủ ánh sáng mặt Trăng mặt Trời. Trở lại vòng quanh thân ba lượt. Liền theo trên đỉnh đầu bỗng nhiên không hiện.

Lúc đó Bạt Đà Tư Lợi liền ở trước Phật, ca ngợi Phật. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Không có cao ở trong người. Không đâu bằng ở trong hạnh. Nay Ba Cõi không có sánh. Uy Thần Phật như hoa thịnh. Như chim bay ở khoảng Không. Nếu muốn cười tất cả được. Có thể nói đều mềm mại. Đều no đủ ở mười phương. Được miệng nói như hoa Sen. Người cao giữa đều cho mắt. Được nay nói đều có thể. Tiếng hay mềm như Trời Phạm. Nay Phật cười đang cảm gì.

Phật lúc đó vì Bạt Đà Tư Lợi Tuyên Na Lạp Phu nhân của Vua Bình Sa, đọc bài kệ nói rằng :

Ta tự nhớ rất nhiều. Kiếp như cát sông Hằng. Thời đó ở đời có. Phật tên là Phúc Minh. Dạy truyền ở Thế gian. Thọ sáu mươi bảy Kiếp. Khi đó chúng Vua Pháp. Tăng lại nhiều vô số. Thời có Già Ca Việt. Vua tên là Tuệ Cương. Vua có hai Phu nhân. Một tên là Minh Nguyệt. Không đâu tìm với tham. Không nương nhờ các Pháp. Bỏ nhà đi học Đạo. Trăm triệu năm giúp Pháp. Không thể tính như thế. Với vô số các Phật. Khi sinh Pháp muốn hết. Họ giúp giữ Pháp sau. Sau đó tới nhiều đời. Phật như cát sông Hằng. Đang lại ở nơi đó. Sinh giúp giữ Pháp sau. Già Ca Việt Tuệ Cương. Vua với A Súc Phật. Với số các Phu nhân. Đều sinh ở Nước đó. Đều đã giúp Pháp thọ. Sau cùng là người nam. Sinh Tu Ma Ha Đề. Thấy A Di Đà Phật. Tám nghìn cung nữ và. Nữ Tì Kheo Ma Kiệt. Khi nếu Pháp muốn hết. Thường đang giúp Pháp Phật. Hết thọ sau đều được. Ba hai Tướng như Phật. Ngồi ở hoa Sen tới. Trước Phật A Di Đà. Các cung nữ đó cúng. Đang nuôi như Tuệ Vương. Sau đó ở Kiếp sau. Tất cả không tham yêu. Liền với Kiếp về sau. Tất cả đang làm Phật. Dạy truyền các người Trời. Vì họ nói Pháp đúng. Thời đó trong Nước Phật. Cũng không có việc Ma. Không tham yêu Nước đó. Cũng không ba Đạo ác. Thường dùng nhiều vô số. Các Bồ Tát làm Tăng. Cũng không nghe có Đạo. Tên của A La Hán. Nếu có người muốn giúp. Người với các Pháp Phật. Không cầu muốn được danh. Nghe và cho thọ mệnh. Người đi dừng như thế. Nhanh gần làm Bồ Tát. Ý nguyện họ Tự do. Muốn sinh Đất nước nào. Nếu cùng các Bồ Tát. Đang phát ý cung kính. Ta phát ý cung kính. Không đâu dựa giúp Pháp. Làm người làm đó liền. Được rời bỏ sinh chết. Đừng làm ở Thế gian. Luyện tham nhờ tham muốn. Ta sở dĩ với không. Số Kiếp dùng vợ con. Bỏ Nước và đầu mắt. Do dùng làm Pháp Phật. Người không làm dùng cúng. Nuôi nên hỏng Pháp Phật. Liền phát chuyển tranh cãi. Do muốn được cúng dưỡng. Thời ngồi tám mươi triệu. Người rơi lệ mà nói. Tôi khi nếu Pháp hết. Cùng đang giúp Pháp sau. Nói động Ba nghìn Nước. Các Trời rải rắc hoa. Thích vui thiện Thế gian. Người lại nghe Kinh đó. Tất cả cát sông Hằng. Vô số các Nước Phật. Các châu báu đầy trong. Đều dùng cúng dưỡng Phật. Không bằng một thời tin. Hiểu Tam muội Ấn đó. Phúc đó muốn ví dụ. Không thể dùng so Tuệ. Không dùng lực và mạnh. Đang được hạnh Bồ Tát. Nghe Phật, kính Pháp đúng. Liền phát ý Bồ Tát. Nếu có sinh cung kính. Người với Kinh quý đó. Người làm hạnh như thế. Liền nhanh được làm Phật.

Khi đó Di Lặc Bồ Tát báo cáo Phật nói rằng : Sau này đang có bao nhiêu người, hay nhận giữ Tam muội đó.

Phật bảo Di Lặc Bồ Tát nói rằng : Di Lặc ! Nếu có người đời sắp tới. Giữ tưởng nhớ phát ra công Đức. Giả sử Ta nói, hay liền không vui thích.

Di Lặc Bồ Tát báo cáo Phật nói rằng: Nguyện Phật vì thương xót tất cả người. Chỉ vì nói nó. Nếu có các Bồ Tát, người thực muốn học. Bồ Tát đang giúp hạnh của họ, Giúp không giảm bớt. Với tâm Bình Đẳng Chính Đẳng Giác.

Phật bảo Di Lặc Bồ Tát nói rằng: Nếu có Bồ Tát với một trăm Phật đã phát ý Bồ Tát. Sau đó hỏng bại hạnh Bồ Tát. Nếu có Bồ Tát với một nghìn Phật đã phát ý Bồ Tát. Sau đó lại phát ý Bồ Tát. Chê Kinh điển bình Đẳng, cũng không hiểu. Nếu với mười vạn Phật đã phát ý Bồ Tát. Sau đó cũng lại phát ý Bồ Tát. Không chê Kinh điển Bình đẳng. Cũng không nói đọc khen. Nếu với trăm vạn Phật đã phát ý Bồ Tát. Sau đó cũng lại phát ý Bồ Tát. Không chê Kinh điển Bình đẳng. Cũng không nói đọc khen. Nếu với một trăm triệu Phật đã phát ý Bồ Tát. Sau đó cũng lại phát ý Bồ Tát. Nghe Kinh sách Bình đẳng đó. Ở trong đó không hiểu biết rõ. Nếu với mười trăm triệu Phật đã phát ý Bồ Tát. Sau đó cũng lại phát ý Bồ Tát. Được Kinh điển Bình đẳng. Viết nói đọc khen, cũng không thể được Pháp Nhẫn. Cũng không thể được Tam muội đó. Cũng không vui thích Tam muội đó. Nếu với tám mươi trăm triệu Phật nghe Tam muội đó. Viết nói đọc khen nó. Đã ở trước tám mươi trăm triệu Phật. Đều phát tâm Bồ Tát. Được Kinh điển Bình đẳng. Giữ viết nói đọc khen nó. Được Tam muội đó. Kiên trì không dấu vết, kính thực hành. Cuối cùng không bị Ma có được. Không bị tội che phủ. Nếu ở trong A tăng kì Kiếp làm được các tội. Nếu đau đầu liền bỏ tội của họ. Nếu ý loạn. Nếu thấy chê. Nếu thấy khinh thường. Nếu ít được cúng dưỡng. Với một đời đều hết tội đời trước của họ. Nếu cúng dưỡng A tăng kì Phật. Sau đó cuối cùng không hoảng sợ, tâm yên ở bên trong hiểu biết rõ. Nếu Bồ Tát có tội Đạo ác. Sau đó được sinh không đoan chính. Liền bỏ tội của họ. Nếu nhiều bệnh gầy yếu. Nếu không được người cung kính. Sinh ở gia đình hèn kém. Sinh ở gia đình thấy coi thường. Sinh ở gia đình bần cùng. Sinh ở gia đình biên giới xa. Sinh ở gia đình tham keo. Sinh ở gia đình ngoài Đạo. Sinh với oán ghét, không thể cùng hội họp. Với không hiểu ý, cùng hội họp. Tâm nhiều lo nghĩ. Ở bậc tướng Quốc của Nước thường sinh công phạt. Ở bậc tướng Quận của Quận thường sinh công phạt. Ở bậc tướng Huyện của Huyện thường sinh công phạt. Ở bậc tướng làng của làng thường sinh công phạt. Ở bậc tướng các nhà của họ tộc thường sinh công phạt. Nếu có tướng của nơi nào đó thường sinh công phạt. Không thấy Tri thức thiện. Không cân nhắc nghe Pháp. Không thể được khăn áo thức ăn, giường nằm thuốc uống, bệnh gầy xấu. Đã được chút ít như thế. Có thể nói với người Phàm, không được Trưởng Giả. Cũng không thể hiểu biết rõ ý họ. Với công Đức không thể đem tới được tăng ích. Thường luôn ở trong trách phạt tội. Luôn bị người khác nhiễu loạn. Không thể được Phương tiện cúng dưỡng. Nếu được nghe Pháp, không hiểu. Nếu thấy mộng ác, ở trong mộng bỏ tội Kiếp trước của họ. Do có thể mất hết được tội bẩn. Ma có thể làm, không hiểu việc Ma. Thường với không thể cùng hội họp. Nếu có ăn uống, khăn áo đẹp. Tất cả có thể giữ cấp cho người khác. Nếu với trăm tay Phật. Tự làm công Đức, tâm không dấu vết. Khi đó đều hỏng bại. Vì thế cho nên chân thực, lại bên trong chân thực phát ra tâm tốt. Người đang có thể Nhịn tất cả bốn thệ nguyện lớn. Với Pháp sâu vi diệu vững ở với thực hành hạnh. Với người đời sắp tới đang giữ Pháp đó.

Lúc đó Khả Ý Vương Bồ Tát cùng với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và sáu mươi người Hiền. Giữ lại ở đời sau, giúp giữ Pháp ở đời sau.

Phật khi đó liền đọc bài kệ nói rằng:

Đừng làm siểm nịnh.
Dựa nương nhờ Có.
Ý họ đang đúng.
Dừng giữ hạnh Tuệ.
Hạnh sâu vi diệu.
Ở Nhịn không động.
Đang làm hạnh đó.
Nhanh cầu Tam muội.
Chớ làm dựa nịnh.
Rời xa nhờ bẩn.
Đừng tham các Có.
Thích với tranh cãi.
Cần làm Bình đẳng.
Ví như khoảng Không.
Người làm như thế.
Mười loại lực báu.
Thường đang vững ý.
Ở với Bồ Tát.
Đang học vi diệu.
Tạng sâu của Phật.
Tất cả các nhận.
Ý Tuệ không tham.
Đã có hạnh đó.
Được Tam muội báu.
Thường đang tâm bình.
Với các yêu ghét.
Xem Tri thức thiện.
Như thấy các Phật.
Thích với ban cho.
Trong làm Bình đẳng.
Người có hạnh đó.
Nhanh hiểu Tam muội.
Quang sáng Kinh Tuệ.
Báu không thể hết.
Ở Tam muội đó.
Tính không thể hơn.
Sáng của Kinh đó.
Hơn ánh mặt Trời.
Nên nói Kinh đó.
Đang vào Tuệ báu.
Ví như Nhật Nguyệt.
Các đèn sáng báu.
Nếu như tháng Đông.
Tuyết trên núi cao.
Ví như Thích Phạm.
Và bốn Vua Trời.
Quang sáng Kinh đó.
Sinh ở trên đó.
Kinh đó bỏ buộc.
Cùng với tội Ý.
Hàng phục các Ma.
Liền được yên ổn.
Xem thấu Thần túc.
Được biết đời trước.
Hiểu biết tất cả.
Ý người tham muốn.
Ta nhớ đời trước.
Thời vô số Kiếp.
Tham yêu đều hết.
Tất cả không thừa.
Khi Phật ca ngợi.
Nói Kinh Ấn đó.
Đang như Ta học.
Nhanh được không lâu.
Nếu có người làm.
Thực biết trống rỗng.
Trong Ý hiểu Rỗng.
Nó vốn Tự nhiên.
Người làm hạnh đó.
Vì nương nhờ Rỗng.
Người giữ hạnh Pháp.
Rời xa với Rỗng.
Sau Ta Tạ thế.
Người đang nói giảng.
Tất cả các Pháp.
Trông thấy như mộng.
Nếu giữ các Pháp.
Muốn có thí dụ.
Phát ra ý đó.
Do vì nhờ nó.
Không có sinh Rỗng.
Cũng không người làm.
Cũng không người tới.
Không thấy có dừng.
Không làm Pháp đó.
Nương nhờ trong Có.
Liền tự nói giảng.
Tôi đã biết Rỗng.
Được Tri thức thiện.
Từ họ nghe Pháp.
Lông áo dựng đứng.
Lệ rơi như nói.
Nay Thầy thực quý.
Người Hiền như thế.
Sau chuyển liền nói.
Trăm lời nói ác.
Nhiều có hèn kém.
Người nghèo bần cùng.
Vì mong cúng dưỡng.
Liền tự nói khen.
Cầu yên danh tiếng.
Bởi làm Sa Môn.
Dạy ngay bẩn loạn.
Đệ Tử giữ Pháp.
Dựa vào Đạo Phật.
Liền làm Sa Môn.
Làm hạnh Bồ Tát.
Bồ Tát không ở.
Ví như bờ biển.
Xa thấy bờ đó.
Người đi không đủ.
Bồ Tát đó sai.
Nếu ở Trống vắng.
Nói tôi làm sạch.
Bên trong đó làm.
Không ở Thanh tịnh.
Thường mong cúng dưỡng.
Thân thiết hậu đãi.
Liền tự nói rằng.
Tôi là Sa Môn.
Nếu với Đạo Ta.
Người làm Sa Môn.
Ở với Pháp Phật.
Như Sen trong nước.
Ở trong Kinh đó.
Thực hành như Pháp.
Người có hạnh đó.
Hay giúp Pháp Phật.
Nay Khả Ý Vương.
Đang nhận Ta dạy.
Chớ làm nhờ hạnh.
Như người Thế gian.
Rời xa đời tục.
Hay được Hảo Phật.
Vì thế truyền dạy.
Hay giúp Pháp sau.
Ví như Do tha.
Người trong Đất nước.
Lấy cát sông Hằng.
Đều cùng chủng loại.
Mỗi các hạt cát.
Đều nghi là thực.
Một thực như thế.
Thành một Hằng sa.
Tính toán như thế.
Nghìn loại trở lại.
Chuyển tính như thế.
Cát các sông Hằng.
Tính toán như thế.
Qua bao nhiêu Nước.
Nâng một hạt cát.
Do vì tính toán.
Vì thế tính toán.
Như thế phương Đông.
Tính toán cát đó.
Đều khiến làm hết.
Tất cả mười phương.
Đều cùng như thế.
Số Nước như thế.
Trong đầy các Phật.
Mỗi một các Phật.
Đều luôn như thế.
Tất cả các Phật.
Có vạn loại tiếng.
Với nhiều vô số.
Kiếp cát sông Hằng.
Nói công Đức Kinh.
Thời không có hết.
Nếu người có làm.
Với nghĩa Kinh đó.
Thường đang trong ý.
Ở Kinh Pháp đó.
Đang thực kính làm.
Như nói ở trên.
Tuệ Kinh Đạo đó.
Rộng không có hạn.
Ví như hạt cải.
Ở bên Tu Di.
Nếu người từ biển.
Giữ một giọt nước.
Nói công Đức Kinh.
Ví dụ như thế.
Do thấy Kinh báu.
Làm hạnh không nhờ.

Khi đó Khả Ý Vương Bồ Tát, cùng với Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và sáu mươi người Hiền. Báo cáo Phật nói rằng : Tên Pháp là Pháp. Thế nào là Pháp ? Liền có thể được biết hình dáng Pháp phải không ? Phật bảo Khả Ý Vương Bồ Tát, cùng với Văn Thù Sư Lợi và sáu mươi người Hiền. Tên Pháp của Pháp là người nam thiện, không làm hình dáng vậy. Không làm đó được hình dáng ra sao ? Không thể được hình dáng vậy. Không thể được đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng không thể hết vậy. Không thể hết đó, là hình dáng ra sao ? Không đâu phát ra hình dáng vậy. Không đâu phát ra đó, là hình dáng ra sao ? Không đâu mất hình dáng vậy. Không đâu mất đó, là hình dáng ra sao ? Không đâu được hình dáng vậy. Không đâu được đó, là hình dáng ra sao ? Không đâu dựa vào hình dáng vậy. Không đâu dựa vào đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng không đâu ở vậy. Không đâu ở đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng không đâu sinh vậy. Không đâu sinh đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng không dao động vậy. Không dao động đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng rời dao động như thế. Rời dao động đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng không có tâm vậy. Không có tâm đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng không nhớ vậy. Không nhớ đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng không có hai vậy. Không hai đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng Bình đẳng vậy. Bình đẳng đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng Có sai vậy. Có sai đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng không đâu ở vậy. Không đâu ở đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng không đâu làm vậy. Không đâu làm đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng không lười nhác vậy. Không lười nhác đó là hình dáng ra sao ? Hình dáng không nơi ở của Pháp vậy. Không nơi ở của Pháp đó, là hình dáng ra sao ? Hình dáng của Niết Bàn vậy.

Văn Thù Sư Lợi báo cáo Phật nói rằng: Nếu như Pháp đó phát chuyển không cùng biết. Pháp thế nào đang hết. Giúp chúng con giúp giữ Pháp ở đời sau.

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói rằng: Người phát ra phương pháp tưởng nhớ Pháp, muốn được độ thoát. Người muốn được độ thoát, ở Pháp. Người ở Pháp, liền ở hai Pháp. Người ở hai Pháp, là mất hạnh Pháp vậy. Pháp cũng không mất, cũng không mất sai. Ta nay hay cùng giúp giữ Pháp ở đời sau. Phật khi đó liền đọc bài kệ nói rằng:

Đã ở tôi ta.
Liền nói có thời.
Giữ nhớ làm hạnh.
Muốn thoát khỏi đời.
Phát ra nhớ đó.
Vì ở hai Pháp.
Làm việc nghi hoặc.
Hạnh Pháp đúng sai.
Pháp không có làm.
Cũng không có hỏng.
Không thể thấy biết.
Cũng không người nào.
Nương nhờ với Có.
Do sinh nhớ làm.
Liền tự nói giảng.
Ta đã Nhịn Rỗng.
Phát tưởng nhớ Rỗng.
Đó là Pháp sai.
Pháp toàn bộ không.
Liền làm có Pháp.
Tất cả phát ra.
Làm toàn bộ không.
Với hạnh Vắng lặng.
Đó là Ấn Pháp.
Với nhớ có động.
Tức liền tự buộc.
Pháp vốn Thanh tịnh.
Liền sinh có Pháp.
Tất cả các Pháp.
Ví như tiếng vang.
Nương nhờ với Có.
Liền ở hai Pháp.
Pháp Tuệ Thanh tịnh.
Tuệ không được Tuệ.
Ở trong Tuệ Tuệ.
Không có bắt được.
Tất cả không thấy.
Sao sinh luyện tập.
Tuệ, ngu đều Rỗng.
Đều toàn bộ không.
Nếu khiến Tự nhiên.
Toàn bộ đang có.
Liền hay mất hỏng.
Tới với Niết Bàn.
Nếu như các Pháp.
Có được nơi ở.
Người và người sai.
Đều là Niết Bàn.
Nếu người ở đời.
Tự giữ tự bỏ.
Nghĩ đó nghĩ sai.
Mà cầu Niết Bàn.
Tự sinh tôi ta.
Tất cả đều thế.
Phát ra các Pháp.
Cũng không nhớ biết.
Ngu si và Trí.
Với hai việc đó.
Từ miệng nói ra.
Là toàn bộ không.
Phát ra nghĩ làm.
Liền mê trong nó.
Hỏng mất sinh chết.
Muốn cầu Niết Bàn.
Tâm không biết tâm.
Nó vốn Tự nhiên.
Với vốn Tự nhiên.
Cũng không biết tâm.
Tất cả các Pháp.
Tự nhiên như mộng.
Hay muốn khởi hành.
Giữ Có, làm thực.
Người sinh có Pháp.
Hạnh thực đó sai.
Người mất làm Pháp.
Pháp thực đó sai.
Nếu giúp mất làm.
Làm thực như thế.
Các sinh có Pháp.
Đều đang làm Phật.
Hiểu biết của Phật.
Là không đâu hiểu.
Pháp có thể nói.
Là không đâu nói.
Người có thể độ.
Là không đâu độ.
Phật là thấy thực.
Không đâu sinh Pháp.
Nếu như Niết Bàn.
Đang là Sắc đó.
Các Đệ Tử Phật.
Đều đang ở trong.
Giả làm Niết Bàn.
Là thường ở Pháp.
Bốn Bằng thương lớn.
Đều thành mềm động.
Tất cả nhân dân.
Không hay cùng thấy.
Tự kêu với đời.
Giữ tôi làm người.
Thực xem Thế gian.
Không ta, không người.
Rỗng không đâu nhờ.
Đó là Niết Bàn.
Hai đều nói rằng.
Tự kêu là thực.
Hỏng bại mất nhận.
Muốn được là Đạo.
Đã không sinh Pháp.
Liền là một Pháp.
Giữ có làm Pháp.
Ở bốn thực đó.
Nơi ở các Phật.
Đều ở một Pháp.
Ngồi ở cây Phật.
Có bốn thực gì.
Người làm như thế.
Không biết Bồ Tát.
Làm hạnh như thế.
Hỏng bại Pháp Phật.
Làm người Sa Môn.
Đang như Pháp đó.
Nếu được tham yêu.
Không cần nuôi chứa.
Muốn thành Tam muội.
Người làm thực đó.
Ví như Tê giác.
Thường thích ở riêng.
Tám nghìn triệu Phật.
Nhất trong loài người.
Làm Tam muội đó.
Các Phật đều biết.
Nếu có Trời quý.
Đã thấy chân thực.
Ngày đêm ủng hộ.
Giữ Pháp và người.
Thường không thể hết.
Chiếu sáng tất cả.
Vào tạng Pháp đó.
Môn không cuối cùng.
Nếu có tin làm.
Tam muội như thế.
Thường ở trong mộng.
Với các hội Phật.

Phật lúc đó bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói rằng: Nếu có người muốn được Đạo Bồ Tát. Bồ Tát đang kính thực hành Tam muội đó. Nếu muốn thành Tướng, nếu muốn thành Hảo. Mười loại lực, bốn Không đâu sợ, mười tám không cùng Pháp. Nếu thương xót lớn, không đâu nương nhờ. Muốn được mắt Trí tuệ Tự nhiên. Nếu muốn thành Tì Kheo Tăng. Nếu muốn thành Bồ Tát. Nếu muốn thành Nước Phật. Nếu muốn được Đà La Ni Trí tuệ, được tiếng có thể nói của tất cả người. Muốn rời ở Thế gian. Muốn biết được Đạo của tất cả người. Muốn được sức lực. Muốn được hiểu biết rõ Tam muội. Đang kính thực hành, như được dạy ở bên trên. Liền là như Phật. Như tướng như tướng lớn. Như tướng như tướng vừa. Là tất cả cao nhất. Là tất cả thương xót lớn. Là Đát tát A kiệt. Nếu được nói. Đều Bình đẳng. Vô lượng Bình đẳng. Và Bình đẳng Rỗng. Không nơi Bình đẳng. Nói được Bình đẳng. Nhất trong loài người. Sở dĩ thế nào ? Ta ở Tam muội đó. Thời Đề Hòa Kiệt Phật. Ta đã được Đạo Phật.

Văn Thù Sư Lợi báo cáo Phật nói rằng: Nếu như thời Đề Hòa Kiệt Phật được Đạo Phật. Sao lại ở Thế gian ?

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói rằng: Do dùng ba việc còn ở Thế gian. Thế nào là ba ? Một là làm việc Phật. Hai là độ thoát người, người sai ở mười phương. Ba là không trái lại nguyện của mình. Ta thời đó đã được Đạo Phật, đã được Niết Bàn. Phật khi đó liền đọc bài kệ nói rằng:

Làm Tam muội đó.
Với nhớ không đáy.
Nhanh được làm Phật.
Tất cả mười phương.
Nhiều vô số Phật.
Người giúp giữ Pháp.
Liền cùng được nghe.
Vô lượng không đáy.
Dạy đúng các Kinh.
Người giữ Kinh đó.
Liền được cao nhất.
Môn Đà La Ni.
Muốn biết tiếng người.
Các Tam muội Tuệ.
Đang với Kinh đó.
Độ thoát bốn thực.
Không đâu nhờ Tuệ.
Hay giấu các Có.
Không sinh không mất.
Không có nơi ở.
Hay tới Thanh tịnh.
Liền lấy Tướng Hảo.
Tất cả công Đức.
Và mười loại lực.
Muốn hiểu vi diệu.
Các Pháp Tuệ sâu.
Đang làm Kinh đó.
Muốn được hiểu rõ.
Tất cả người đời.
Rơi xuống đen tối.
Muốn thực dạy người.
Bỏ dâm hận đó.
Người làm Thanh tịnh.
Đang với Kinh đó.
Ngày đêm lực siêng.
Làm hạnh Bình Đẳng.
Đang thích Tinh tiến.
Với hai mốt ngày.
Kính làm Kinh Ấn.
Đừng giữ lười nhác.
Cùng với yên ổn.
Muốn cầu Pháp đó.
Thường giữ mềm mại.
Ý không ghen ghét.
Ở nơi Trống vắng.
Dùng Pháp ban cho.
Giữ Giới cúng dưỡng.
Liền được nguyện đó.
Ý bình tự giữ.
Bảo tất cả người.
Dùng Kinh Tam muội.
Chớ thích tham yêu.
Ví như hoa Sen.
Không nương nhờ nước.
Vững giữ Tinh tiến.
Ví như chim bay.
Ở trong khoảng Không.
Sau đó làm nó.
Liền được cao nhất.
Môn Đà La Ni.

Khi nói Kinh đó ba nghìn Đất nước, sáu loại chấn động trở lại. Trăm triệu trăm hoa hương kĩ nhạc các Trời. Cùng với cờ phướn tăng lọng, sương kết thành giọt. Chuỗi ngọc bảy báu, hoa khoe sắc vàng. Và ngọc Như ý báu, thủy tinh lưu ly. Dùng cúng dưỡng Phật. Tất cả Trời tôn kính, các ngọc nữ Trời. Và Rồng Quỷ Thần, A Tu La, Ca Lưu La, Tì Kheo Tăng, nam Phật Tử, nữ Phật Tử. Đều rất vui mừng. Đều bỏ gia đình. Bỏ toàn bộ vợ con, các báu vật, phát ý Bồ Tát. Với một Na do tha nói thực hành Bồ Tát, không thể thành quả. Nếu người phát ý Bồ Tát. Đều được Không chuyển lui. Người như số cát của nhiều vô số sông Hằng, đều được A La Hán. Các Bồ Tát bay tới của mười phương. Đều được vui mừng ra đi.

Khi Phật nói Kinh Pháp đó. A tăng kì người phát ý Bồ Tát. Tám mươi Na do tha người, đều được Không chuyển lui. Ba trăm triệu sáu vạn Bồ Tát được Tam muội đó. Nhiều vô số người đều được Đạo A La Hán. Các Bồ Tát tới từ mười phương. Đều được Tam muội đó.

Phật lúc đó đã nói Kinh xong. Khả Ý Vương Bồ Tát. Văn Thù Sư Lợi. Và sáu mươi người Hiền. Phu nhân Bạt Đà Tư Lợi Tuyên Na Lạp của Vua Bình Sa. Nhân dân các Trời, Rồng Quỷ Thần, A Tu La. Nghe Kinh, đều rất vui mừng. Tiến lên vì Phật làm lễ mà đi.

Phật nói Kinh Tam muội Ấn Trí tuệ.