Xuân Trong Cửa Thiền
(Trọn bộ 4 tập)
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 

Mùa Xuân Di-Lặc

Xuân Bính Thìn – 1976

Năm nay chúng ta tìm hiểu ý nghĩa mùa Xuân Di-lặc để biết tại sao ngày mồng một Tết là ngày vía đức Di-lặc. Khi lạy Ngài chúng ta đã xướng lên câu: “Nam-mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật”, nghĩa là Bồ-tát Di-lặc sẽ thành Phật trong tương lai làm Giáo chủ hội Long Hoa, chớ không phải thành Phật ngay bây giờ. Đó là ý nghĩa thâm trầm nhất trong nhà đạo. Ai ai cũng xem ngày mồng một Tết là ngày mở màn năm mới. Bao nhiêu chuyện vui buồn của năm tới gần như nảy mầm từ trong ngày này, cho nên mọi người đều rất dè dặt, rất cẩn trọng. Mỗi hành động, mỗi ngôn ngữ, chúng ta đều sợ ảnh hưởng đến sự vui buồn của năm tới. Đó là quan niệm của nhân gian.

Trong nhà đạo ngày mồng một cũng là ngày mở màn cho năm tới. Năm tới đầy hứa hẹn với chúng ta là một năm giác ngộ. Đức Phật Di-lặc là một vị Phật sẽ thành Phật ở mai sau. Hôm nay lễ Ngài để nhớ rằng năm nay là một năm hứa hẹn chúng ta sẽ được giác ngộ. Nếu chưa được thì năm tới sẽ được chớ không thể tu suông. Vì vậy ngày mồng một Tết đối với nhân gian là ngày Tết Nguyên Đán, đối với nhà đạo là ngày vía đức Bồ-tát Di-lặc. Mỗi khi nhớ đến Phật sẽ thành, nhớ ngày mồng một Tết, chúng ta nghĩ mình cũng sẽ giác ngộ, chớ không thể lôi thôi. Nhưng cái giác ngộ tôi nói đây không phải hoàn toàn như bậc Chánh đẳng Chánh giác, mà là giác ngộ từng phút từng giây. Đó là tôi nói sơ thâm ý của ngày vía đức Phật Di-lặc.

Bây giờ đi thẳng vào mùa Xuân Di-lặc. Mùa Xuân là mùa ta hằng mơ ước, mùa Xuân có cái gì hòa ấm tươi vui khiến cho mọi người hăng hái trong cuộc sống, vạn vật đâm chồi nảy lộc xanh tươi. Vì vậy, khi nói tới mùa Xuân là nói cả một cái gì đầm ấm trong con người.

Trên cuộc đời này biết bao người cứ theo cái mê lầm ảo tưởng của mình, chạy theo ngoại cảnh, bám vào ngoại cảnh cho là mình, cho nên phải khổ đau theo dòng sanh diệt. Thấy cái gì cũng nói là của mình, lệ thuộc mình. Từ bản thân cho đến sự vật bên ngoài, không có cái nào mà không bám chặt. Bởi cái chấp ngã nặng nề đó cho nên phải khổ đau, khổ đau dằng dặc từ kiếp này đến kiếp khác. Như tôi thấy cái hoa này là của tôi, nó tươi tôi vui, nó héo tôi buồn. Nếu nó là của thiên nhiên thì tươi héo không dính dáng gì đến tôi. Bởi vì mình chủ quan, bắt sự vật lệ thuộc vào mình, muốn lòng người và sự vật thuộc về mình trường tồn vĩnh cửu. Cho nên khi có trạng thái biến đổi, xê dịch thì cảm thấy bất an, không vui rồi. Do đây mà người ta đau khổ vì bắt sự vật lệ thuộc vào mình. Khi chúng ta biết bản tánh sự vật là như vậy, không lệ thuộc vào ai cả, thì lúc đó chúng ta mới nhìn sự vật với tánh cách khách quan, mới an vui tự tại. Cho nên cùng một cảnh ngộ, cùng một sự việc mà có người thì cả ngày buồn lo rầu rĩ, sợ sệt, còn có người thì an ổn vui tươi. Chẳng qua đó là người biết sống, người không biết sống.

Như khi nãy tôi nói, bắt ngoại cảnh lệ thuộc mình thì tự nhiên mình là người đau khổ. Quí vị có bắt ngoại cảnh lệ thuộc mình không? Tỉ dụ bây giờ đứng trước một trăm người, chúng ta có muốn một trăm người đó đừng để ý gì đến mình không? Hay là muốn ai cũng chú tâm, nhìn vào mình để khen, để mến v.v…? Thấy cái hoa đẹp, chúng ta có muốn hái không? Hay là để nó nằm yên trên cành để giữ trọn vẹn hương sắc? Theo Tổ Bồ-đề-đạt-ma, chúng ta cắt hoa trưng cũng có tội, vì đã ăn cắp sanh mạng của nó để làm đẹp cho mình. Đó là lối nhìn độc đáo, biết rõ ràng sự vật một cách khách quan. Ngược lại chúng ta thấy cái gì đẹp là muốn đem về phòng trưng hoặc để đâu đó, bắt nó lệ thuộc về mình. Đó là cái bệnh mà tất cả chúng sanh mắc phải. Thiền sư Bổn Tịnh đã nói lên cho chúng ta thấy bệnh đó qua bốn câu kệ:

Nhất niên Xuân tận nhất niên Xuân
Dã thảo sơn hoa kỷ độ tân
Thiên hiểu bất nhân chung cổ động
Nguyệt minh phi vị dạ hành nhân.

Tạm dịch:

Một năm Xuân trọn một năm Xuân
Cỏ dại non hoa mấy độ tươi
Trời sáng chẳng do chuông trống động
Trăng trong đâu bởi khách đi đêm.

Xưa nay ở chùa đến bốn năm giờ thức dậy công phu, đánh chuông đánh trống. Những nhà hàng xóm kêu con dậy: Ở chùa công phu đánh chuông trống, trời sáng rồi a! Dậy thả bò đi ăn. Họ quen có quan niệm chùa đánh chuông trống là trời sáng. Nhưng chùa đánh chuông trống là đánh chuông trống, còn trời sáng là trời sáng, không phải vì chùa đánh chuông trống mà trời sáng. Rồi trăng sáng có những người khách đi ban đêm. Như vậy trăng sáng cho họ đi đêm hay là khách đi đêm vì trăng sáng? Đó là chỗ mà chúng ta phải thấy rõ. Trăng sáng là trăng tự sáng, không phải vì khách đi đêm mà trăng sáng, nhưng nhờ trăng sáng người khách mới lợi dụng mà đi đêm. Như vậy rõ ràng là chúng ta nhìn sự vật bằng con mắt chủ quan, cho tất cả đều vì mình. Thí dụ khi con cái hỏi: vì sao có cá có tôm, thì cha mẹ cắt nghĩa: trời sanh ra để mình ăn đó. Rồi thấy ngoài đồng có lúa có đậu có bắp, cũng bảo trời sanh để mình ăn. Tất cả cái gì cũng để cho mình hết. Tại sao có mưa? Để mình làm ruộng. Tại sao có nắng? Để mình phơi lúa. Tất cả cái gì cũng để cho mình, mình là trung tâm vũ trụ cho nên ai không làm theo ý mình thì nổi tức lên. Như mình phơi lúa mà mưa xuống thì nổi giận, tại sao người ta đang phơi lúa mà trời lại mưa. Nuôi chó thì nghĩ để giữ nhà cho mình, khi nào có ăn trộm nó ngủ quên không sủa thì đánh đập nó. Nuôi gà, thì nghĩ để nó gáy cho mình thức đúng giờ, hoặc để mình ăn thịt. Bữa nào nó quên gáy thì mình bực bội. Như vậy là bắt mọi vật lệ thuộc về mình, mà bắt lệ thuộc một cách vô lý, nên mới khổ đau vì không được như ý. Nếu mình có cái nhìn khách quan, thì sẽ thấy ngoại cảnh là ngoại cảnh, không cái gì thuộc về mình hết, không cái gì vì mình hết. Qua bốn câu thơ đó, Thiền sư Bổn Tịnh chỉ cho chúng ta thấy phải dứt hết bệnh chủ quan là bệnh chấp ngã sở, tức bắt ngoại cảnh lệ thuộc vào mình. Trong nhà Phật dùng danh từ chuyên môn “pháp nhĩ như thị” tức là các pháp như vậy. Các pháp không thuộc vào ai hết, không bị cái gì chi phối, nó là nó, nếu bắt nó lệ thuộc là ngu si. Chúng ta biết một năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Bốn mùa có là do sự xoay vần của trái đất chớ không phải vì chúng ta mà có. Chúng ta lợi dụng thời tiết, mùa mưa thì ven bờ làm ruộng, mùa nắng hạn thì phơi lúa, mùa lạnh thì sắm mền, sắm áo. Mùa nào làm hợp theo mùa nấy. Nói tóm lại, bốn mùa là thiên nhiên sẵn như vậy chớ không phải vì chúng ta. Chúng ta biết làm việc sao cho phù hợp với bốn mùa, đó là chúng ta khôn ngoan biết sống. Mọi việc khác cũng thế, nếu ta nhìn nó với tánh cách khách quan thì có lúc nào buồn đâu. Thấy người có cái nhà tốt thì vui được thấy cái nhà tốt, thấy người có cái áo đẹp thì mừng được thấy cái áo đẹp. Được vậy cả ngày mình vui hoài. Người có cái này đẹp, người có cái kia tốt, rồi ngoài vũ trụ có bao nhiêu thứ tốt đẹp, mình đều vui hết, chớ không bắt nó thuộc về mình. Nếu muốn cái gì tốt đẹp cũng thuộc về mình thì cả ngày cứ buồn hoài. Đi ra thấy người có chiếc xe hơi đẹp, mình không có cũng buồn; thấy người có cái nhà đẹp, mình không có cũng buồn. Như vậy càng muốn càng khổ.

Nếu biết tất cả cái đẹp không lệ thuộc về mình thì chúng ta hết khổ, một cách an nhàn tự tại. Ai có gì đẹp thì mình tán thán tùy hỉ liền, không đố kỵ, không ganh ghét không khó khăn với ai hết. Ở thế gian, ngay cả anh em ruột mà người giàu, người nghèo cũng đố kỵ nhau rồi. Lúc nào cũng thấy mình là trung tâm vũ trụ, bắt buộc tất cả phải gồm về mình, muốn mọi người phải chú ý đến mình. Đó là chủ quan quá đáng, là chấp ngã, ngã sở nặng. Giờ đây chúng ta khách quan nhìn tất cả sự vật, thì thấy pháp nào ở bản vị pháp đó. Các pháp sanh diệt theo thời tiết nhân duyên không phải vì có ta mà nó thuộc về ta. Nhưng chúng ta có bằng lòng như thế hay không? Không ai bằng lòng hết. Chính đó là cái đau khổ muôn ngàn đời. Cho nên nói hoa nở khắp mọi vườn mà chỉ có vườn của ta thì hoa không nở, vì là của ta nên nó héo hoài. Nếu không thấy là của ta thì nó nở đầy vườn. Hiểu được như vậy, thấy được như vậy là tự chúng ta hết khổ rồi. Chúng ta sẽ cười hoài như ngài Di-lặc, sống an lành hạnh phúc như ngài Di-lặc. Kinh Pháp Hoa có câu:

Thị pháp trụ pháp vị
Thế gian tướng thường trụ.

Các pháp ở bản vị của nó, tướng thế gian thường còn mãi mãi.

Ở trên là nói về sự vật bên ngoài, đến đây nói thẳng thân tứ đại của chúng ta. Thân tứ đại này do đất nước gió lửa hòa hợp mà thành, hơi thở là không khí, chất lỏng là nước, chất cứng là đất, hơi ấm là lửa. Tại sao chúng ta chấp tứ đại là nhà của mình? Nếu tứ đại ở ngoài không phải là của mình, thì tứ đại ở trong là của mình được sao? Như không khí khi hít vô thành hơi thở của mình, khi thở ra là nó đi đâu, của ai? Như ly nước khi uống vào thành nước của mình, hai, ba tiếng đồng hồ sau, trả ra rồi là nước của ai? Đất và lửa cũng thế. Vậy cái “của” này chỉ là cái tạm. Như cái nhà, người này vô người kia ra, khi bước vô nhà người đó có thuộc về cái nhà này không? Tứ đại không phải của mình, nếu thật sự của mình thì mình hoàn toàn làm chủ. Mình muốn còn thì nó còn, muốn bỏ thì nó mất, nhưng mình muốn giữ mà giữ không được. Như vậy chứng tỏ nó không thuộc của mình, đủ duyên thì còn, thiếu duyên thì rã. Khi rã nó có thật mất hay không?

Chúng ta mượn không khí làm hơi thở, khi hết duyên, thì trở lại bản vị của nó. Nước đến khi hết dùng trả ra lại trở thành nước. Cái thân đất này tới chừng trả ra trở lại thành đất. Đâu trả về bản vị nấy không mất tí nào, nhưng duyên hợp thì đổi hình đổi tướng vậy thôi. Cho nên nói “tướng thế gian thường trụ”. Trong khi duyên hợp chúng ta lầm mê bám vào tứ đại này cho là mình nên cả cuộc đời chúng ta đau khổ. Nhớ tới thân này, ai mà không bệnh, không tê thấp thì đau gan, không đau gan thì đau bao tử, hoặc phổi tim v.v… có đủ thứ đau nên sợ thân hoại. Vì nghĩ nó là mình, nên lo sợ nó rã nó mất. Đối với thân thì lo sợ, đối với ngoại cảnh thì bắt nó thuộc về mình, cho nên không được như ý.

Chúng ta mượn thân tứ đại giả hợp làm bè qua sông. Nó còn ngày nào thì chúng ta sử dụng, nó tan rã thì thôi. Do đó đối với thân không sợ còn mất, đối với cảnh không còn tham đắm. Người sống như vậy có an vui không, không cười còn đợi cái gì. Được như thế là ta hưởng mùa Xuân Di-lặc sơ sơ rồi. Năm nào, ngày nào, tháng nào, chúng ta cũng thấy là ngày Xuân an lành đẹp đẽ hết.

Một Thiền sư Tịnh Thử am có làm bốn câu kệ nói lên mùa Xuân:

Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Phiên vân qui động bản vô tâm
Nhân sanh nhược đắc như vân thủy
Thiết thọ khai hoa biến giới xuân.

Tạm dịch:

Nước tuôn xuống núi nào có ý
Mây bay về động vốn không tâm
Người đời nếu được như mây nước
Cây sắt trổ hoa khắp chốn xuân.

Sở dĩ chúng ta không được mùa Xuân vĩnh cửu là vì chúng ta chỉ thấy Xuân qua tâm niệm sanh diệt. Thấy cây cỏ tươi tốt trổ hoa đâm chồi, chúng ta vui mừng cho đó là Xuân. Như vậy chúng ta vui mừng theo cảnh, theo thời gian là cái vui mừng của tâm sanh diệt. Khi cảnh tàn, thời gian qua thì cái vui cũng hết. Xuân như thế là mùa Xuân hữu hạn. Cái Xuân của thời gian thì biến đổi, cái Xuân của ngoại cảnh thì suy vi. Nếu chúng ta hoạt động như bao nhiêu người, nhưng vô tâm như mây bay nước chảy, trong khi hoạt động ta không bị vọng tưởng làm chủ là hằng sống với tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đó nó lặng lẽ trong trẻo chẳng khác nào như cây sắt. Nhưng trong cái lặng lẽ trong trẻo đó không phải nó không có gì. Chính trong cái lặng lẽ, trong trẻo đó nó phát ra trí tuệ sáng suốt. Đây dụ như cây sắt trổ bông. Trong cái thanh tịnh lặng lẽ đó tưởng chừng như không có gì hết, nhưng không ngờ lại có trí tuệ diệu dụng bất tư nghì. Cho nên đây ví dụ như cây sắt trổ bông là việc tưởng như không bao giờ có, cây sắt trổ bông rồi sẽ thấy khắp bầu trời đều là Xuân không cùng tận.

Thông thường khi chúng ta có dấy niệm thì nói tôi nghĩ thế này tôi nghĩ thế kia, khi không dấy niệm thì tưởng chừng như không có mình. Nhưng không ngờ sau khi dừng hết những ý niệm, chừng đó mới phát trí tuệ sáng suốt; trong kinh Bát-nhã gọi là “Thanh tịnh trí”. Nhìn sự vật, nhìn vũ trụ bằng tâm thanh tịnh, không còn tâm sanh diệt nữa, nên vũ trụ theo đó mà thanh tịnh. Tất cả đều là an lành đều là vĩnh cửu, lúc đó mới gọi là “biến giới Xuân”, Xuân khắp bầu trời. Như vậy muôn người muôn cảnh, đều là Xuân, thời gian nào cũng đều là Xuân. Được mùa Xuân như thế là sau khi tâm chúng ta giống như mây bay nước chảy. Lúc đó chúng ta hoạt động tất cả mà không có vọng tưởng, nếu còn vọng tưởng là mùa Xuân có hạn có chừng. Ai muốn hưởng mùa Xuân Di-lặc, thì đừng lệ thuộc vọng tưởng sanh diệt, đó mới là mùa Xuân chân thật.

Tôi đã đứng trên hai mặt để diễn đạt mùa Xuân Di-lặc:

1- Dứt mê lầm chấp ngã bắt ngoại cảnh và tứ đại lệ thuộc vào mình, lúc đó chúng ta hưởng được mùa Xuân an lành tự tại.

2- Bặt hết vọng tưởng điên cuồng, dùng tâm thanh tịnh sáng suốt nhìn vạn vật, chúng ta sẽ hưởng mùa Xuân vĩnh cửu bất sanh bất diệt.

Thiền sư Thiền Lão đã nói đến mùa Xuân đó dù không đề cập đến chữ Xuân. Khi vua Lý Nhân Tông hỏi Ngài ở núi được bao lâu, Ngài trả lời:

Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu.

Tạm dịch:

Chỉ biết ngày tháng này
Ai rành xuân thu trước.

Hỏi hằng ngày Hòa thượng làm gì, Ngài nói:

Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.

Tạm dịch:

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.

Như vậy ngày nào chỗ nào chẳng phải là Xuân? Nếu tâm chúng ta không còn lệ thuộc vào thời gian quá khứ hiện tại vị lai, lúc đó chúng ta an nhiên tự tại thanh tịnh. Đó là cái tâm bất sanh bất diệt của chúng ta. Sống với cái tâm bất sanh bất diệt đó để nhìn sự vật thì cái nào chẳng đẹp, cái nào chẳng thanh tịnh, vì đâu cũng là Chân tâm biến hiện, đâu đâu cũng là cảnh đẹp của mùa Xuân. Tóm lại muốn hưởng một mùa Xuân Di-lặc thì không gì hơn: trước hết chúng ta phá cái chấp u mê bản ngã, bắt ngoại cảnh phải lệ thuộc về mình; kế đó chúng ta phải lặng hết vọng tưởng, sống với tâm thanh tịnh. Như vậy chúng ta thấy cõi đời này đều an lành tự tại, thế gian này là thế giới của chư Phật chớ không phải của phàm phu nữa. Đó là MÙA XUÂN DI-LẶC vĩnh cửu trường tồn nơi chúng ta.