Phật nói Kinh Mười Pháp Bậc Phật
(Phật thuyết Đại Thừa Thập Pháp Kinh)
Hán dịch: Lương Phù Nam Tam Tạng Tăng Già Bà La
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2010-2013
Phật nói Kinh Mười Pháp Bậc Phật
Tôi nghe như thế. Một thời Phật ở núi Kì Xà Quật thành Vương Xá. Cùng với các Tì Kheo lớn năm nghìn người đi theo, vô lượng chúng Bồ Tát. Khi đó trong các Bồ Tát lớn kia có Bồ Tát Bồ Tát lớn tên là : Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang tập hợp ở trong Đại chúng Bồ Tát đó. Lúc đó Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát Bồ Tát lớn, tức thời từ chỗ ngồi đứng dậy. Bỏ đài hoa Sen đi tới nơi ở của Phật. Vai phải áo lệch tất phải trùm đất chắp tay báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Thế Tôn ! Người Đại Thừa Tì Kheo dừng ở Tì Kheo Pháp Bậc Phật. Vì sao có tên Dừng ở Tì Kheo Pháp Bậc Phật ? Do lại dùng nghĩa thế nào ? Đại Thừa này tên là Pháp Bậc Phật.
Khi đó Phật bảo Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát Bồ Tát lớn nói rằng : Thiện thay, thiện thay ! Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang ! Ngài hay hỏi Như Lai nghĩa rất sâu vi diệu này. Người nam thiện ! Tư duy Tuệ tu Tuệ. Ta đang vì Ngài phân biệt giảng giải. Lúc đó Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Như Thế Tôn dạy.
Khi đó Thế Tôn bảo Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát nói rằng : Người nam thiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn thành công mười Pháp. Tên là Dừng ở Pháp Bậc Phật. Thế nào là Mười ? Gọi là : Thành công Tin đúng, thành công Đức hạnh, thành công Tính, ham thích tâm Bồ Đề, ham thích Pháp,
ham thích xem Pháp đúng, thực hành với Pháp đúng và thuận theo Pháp, rời xa kiêu mạn, kiêu mạn của bản thân cũng như việc. Hay ham thông suốt các lời bí mật vi diệu, không ham thích bậc Thanh Văn và Duyên Giác. Người nam thiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn thành công mười Pháp. Tên là Dừng ở Pháp Bậc Phật.
Người nam thiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn thành công không siểm nịnh quanh co, hạnh mềm hòa, thực hành mềm hòa. Họ hay tin Chính Chân Chính Giác Bình Đẳng Bồ Đề của các Phật Như Lai. Dễ hay tin Trí tuệ các Phật Ba đời trong một nghĩ nhớ. Tin bình thường không đứt đoạn, không già chết, không thể tận cùng của Tạng Như Lai. Cũng tin Cõi Pháp thực tế, Tất cả loại Trí tuệ, tướng của Tất cả loại Trí tuệ, các Lực, không sợ hãi, không cùng Pháp Phật. Lại tin không thể tưới đỉnh của các Phật Như Lai. Cũng tin ba mươi hai hình tướng của người vĩ đại, tám mươi diện mạo đẹp, Quang sáng sau gáy cũng như Pháp. Lại tin được Thanh Văn nói, hay được Duyên Giác nói, được Bồ Tát và người khác nói, cũng tin Pháp Thế gian và Pháp ra ngoài Thế gian. Lại tin người thực hành Hạnh đúng. Thực hành thuận theo Sa Môn bình đẳng và Bà La Môn. Cũng tin Nghiệp báo của các Căn thiện. Quả báo của yêu thích tốt cao nhất. Là Trời hay Vua Trời. Là Người hay Vua của nhân gian. Lại tin ác cao thấp, quả báo Nghiệp không thiện, không thể vui thích nghe, không yêu thích quá sâu nặng thô thiển. Hoặc Địa ngục Quỷ đói Súc sinh cũng như nơi ở. Họ đã tin như thế. Rời xa ba Pháp. Thế nào là Ba ? Gọi là : Nghi sợ, mê hoặc, việc bình đẳng không quyết đoán. Người nam thiện ! Bồ Tát thành công các Pháp như thế, tên là Tin đúng. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :
Tin là Bậc cao nhất. Do đó thành Chính Giác. Vì thế tin cùng việc. Người Trí kính thân thiết. Tin cao nhất Thế gian. Người tin tốt vô cùng. Vì thế tin cùng Pháp. Thân thiết người Trí thực. Không tin Người nam thiện. Không sinh các Pháp sạch. Giống như quả chuối tiêu. Không sinh được gốc mầm.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát Bồ Tát lớn thành công các Hạnh ? Người nam thiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn cắt bỏ râu tóc. Do mặc áo đúng, tâm tin lớn tôn trọng. Bỏ gia đình đi Xuất gia. Đã Xuất gia học tập uy nghi Giới hạnh cùng các hạnh của Bậc Bồ Tát. Hoặc lại là uy nghi Giới hạnh cùng các hạnh của Thanh Văn. Cũng học Uy nghi Giới cùng với hạnh của Duyên Giác. Họ như thế hoặc dùng toàn bộ các Thân miệng ý, cùng tập khí Phiền não. Tất cả đó cùng diệt mất. Trong đó ra sao, toàn bộ cùng tập khí Phiền não của thân ? Gọi là Sát sinh, trộm cướp, tham muốn ác, dâm tà. Cầm lấy đao gậy ngạch đá, tham tiếc với các tay chân động tác khác. Qua lại bỏ chạy đi cùng với việc. Tên đó là Có cùng tập khí Phiền não của thân. Trong đó ra sao, miệng cùng với tập khí Phiền não ? Gọi là : Nói dối, nói hai lời, nói ác, nói thêu dệt. Thường nói lời ác, hủy báng rất sâu các Kinh điển. Với các Tôn Trưởng trong tu hạnh Phạm rộng nói tên ác. Tên đó là Miệng cùng với tập khí Phiền não. Trong đó thế nào, ở nhà cùng tập khí Phiền não của ý ? Gọi là : Tham tiếc, thấy sai trái, ghen ghét đố kỵ, thích nương nhờ. Tên là nghe lợi dưỡng. Kiêu mạn họ tộc thân thích, kiêu mạn Sắc thân, kiêu mạn già trẻ, kiêu mạn không có tai họa, kiêu mạn nghe nhiều trường thọ, kiêu mạn suy nghĩ. Cảm giác mong muốn, cảm giác ảo tưởng, cảm giác ác, cảm giác thân thiết, cảm giác đất. Ăn uống, quần áo, đồ ngủ, thuốc chữa bệnh, tư trang vật dụng cùng với hiểu biết. Nương nhờ nơi ở, nương nhờ đi lại, nương nhờ giường ngủ. Nương nhờ các đồ ăn uống, vợ con trai gái. Kinh doanh làm các việc cày cấy nô bộc. Tiền tài, lúa gạo, kho tàng, tích trữ cùng với việc. Thậm chí nương nhờ đủ loại tư trang vật dụng công cụ. Họ đã tham tiếc nương nhờ như thế. Được nói trong việc. Nếu mất một việc, liền sinh ảo tưởng lo âu khổ não đó cùng với việc. Họ đã xa rời tâm yêu thích thấm đẫm như thế, sinh ra suy nghĩ. Người nam thiện ! Nói sơ qua Nghiệp ý. Giống như luân chuyển Thế gian. Cho nên nói Nghiệp ý cùng tập khí Phiền não. Họ đã rời xa Nghiệp thân miệng ý cùng tập khí Phiền não như thế. Ở nơi ở của Hòa Thượng phát ra tưởng nhớ tôn kính họ. Nơi ở của A Xà Lê đó phát ra tưởng nhớ Hòa Thượng. Với cùng hạnh Phạm hoặc già hay trẻ. Phát ra cung kính tôn trọng lớn. Họ một mình ở nơi vắng lặng. Làm suy nghĩ như thế. Ta không cần làm như thế. Ta vì độ thoát tất cả chúng sinh, vì Giải thoát tất cả chúng sinh. Vì giúp cho chúng sinh yên ổn điều phục Tĩnh lặng cho nên phát ra các hạnh. Đương nhiên Ta tự không điều phục, không ẩn dấu các Căn, chưa được Rỗng lặng. Ta nhất định tu hạnh đúng, giúp cho có thấy Ta. Nhất định được nhận điều phục. Cũng thuận theo giáo Pháp bình đẳng vi diệu của các Phật. Lại làm cho các Trời, Thần, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà vui mừng. Người nam thiện ! Tên này là Hổ thẹn của Bồ Tát. Họ làm suy nghĩ như thế. Đừng có giúp cho Ta. Hoặc Đạo hay Thế tục, ở trong các hạnh uy nghi cầm lấy các sai lầm. Gọi là : Thực hành Giới hạnh, thực hành trong không đúng. Hoặc thấy hình, hay hạnh uy nghi. Hoặc làm tư trang vật dụng, các việc thọ mệnh. Họ đã hổ thẹn như thế, trong cả ngày đêm sáu thời khắc quan sát với giữ Giới cùng với Pháp. Họ đã giữ Giới thiện, không trở lại nghi hoặc hối hận. Giúp cho nhập vào ở trong Pháp của Phật Như Lai, không có ngừng nghỉ. Người nam thiện ! Tên này là Xấu hổ của Bồ Tát. Người nam thiện ! Tên đó là Bồ Tát thành công các hạnh như thế. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :
Hạnh các Phật là gốc. Cùng Đệ tử Thanh Văn. Vì thế người Trí tu. Làm hạnh thường kiên cố. Trí lớn các Bồ Tát. Làm hạnh không sợ hãi. Giúp chứng Đạo rời bẩn. Được các Phật khen ngợi.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát thành công Tính ? Phật Tử thành công Tính Bồ Tát. Ít tham muốn, thù giận ngu si. Không đố kỵ, không tham tiếc, không não loạn, không nói lời thô lỗ. Không tham muốn, thù hận nói sai, không động nhẹ, điều hòa mềm mại, đã có thể thân thiết. Tính có thể thành công, đồ cúng vi diệu nhất, cúng dưỡng các Phật. Gọi là : Tư trang vật dụng cùng với tài vật. Ân huệ Bố thí cho người khác, thành công đầy đủ các chân tay đầu mắt. Nếu thấy Như Lai hoặc là Đệ tử của Như Lai. Đã thấy tức thời sinh tâm cung kính vui mừng. Người nam thiện ! Bồ Tát như thế tên là thành công Tính. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :
Cùng khói liền biết lửa. Uyên ương do nước hiện. Lại cùng biết các Tính. Đọc tên lớn Bồ Tát. Mềm hòa không uốn nịnh. Rời bỏ keo ghen ghét. Thương nhớ tất cả Chúng. Tên hiệu là Bồ Tát.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát Bồ Tát lớn vui thích tâm Bồ Đề ? Nếu có Bồ Tát Bồ Tát lớn, Tính hình thể vi diệu, lúc phát tâm Bồ Đề. Trực tiếp gặp Phật Bồ Tát hoặc các Thanh Văn Duyên Giác. Giáo hóa khuyên phát mà sinh tâm Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tên đó là vui thích ban đầu phát tướng Bồ Đề. Họ nghe Bồ Đề và công Đức của Bồ Đề xong. Tức thời phát tâm Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tên đó là lần thứ hai vui ham thích tướng Bồ Đề. Bồ Tát đó thấy các chúng sinh không thể cứu giúp. Không nơi trở về nương theo, cô đơn không thể cứu giúp thoát ra. Không có giúp che chở, không có nơi ở, đã không có nơi đỗ lại. Tức thời phát ra tâm thương xót. Đã phát tâm đó làm nghĩ nhớ như thế. Ta nay vì các chúng sinh. Làm việc cứu giúp, trở về nương theo, cứu giúp thoát ra, giúp che chở, nhà ở nơi đỗ lại. Vì Nhân duyên đó cho nên phát tâm Bình Đẳng Bồ Đề. Tên đó là lần thứ ba vui thích phát tâm Bồ Đề. Họ nếu thấy đầy đủ các Hạnh của các Như Lai hoặc Bồ Tát, Thanh Văn Duyên Giác. Tâm đã thấy, sinh tâm sinh vui mừng yêu kính yên ổn. Do Nhân duyên đó phát tâm Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tên đó là lần thứ tư phát tâm Bồ Đề. Do Bồ Tát đó, vì yên vui lợi ích các Chúng sinh. Làm Bố thí, giữ Giới, tu Nhẫn nhịn, phát ra Tinh tiến, làm nhớ Thiền Định, tu Trí tuệ đúng.
Thế nào là Bồ Tát làm Bố thí ? Gọi là : Cần uống cho uống, cần ăn cho ăn, cần xe cấp xe. Cần giường chõng đồ dùng bày biện, cấp cho giường chõng đồ dùng bày biện. Cần quần áo cho quần áo, cần vàng bạc mũ báu. Xuyến vàng và các đồ dùng trang nghiêm. Thậm chí thịt da của bản thân, thấm lợi ích chúng sinh. Họ đã làm được Bố thí như thế. Đương nhiên Bố thí của họ hồi hướng phát nguyện Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tuy Bố thí mà không sinh kiêu mạn của bản thân, cùng với tâm.
Thế nào là giữ Giới ? Thành công Nghiệp Thân miệng ý. Họ đã rời bỏ các Nghiệp Thân miệng ý. Dễ rời hay phòng bị, không trở ngại, không thấm lậu. Thuần nhất không hỗn tạp, cung kính giữ Giới cấm. Đương nhiên họ giữ Giới hồi hướng về Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tuy thực hành giữ Giới không phát ra kiêu mạn của bản thân, tâm bình đẳng.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát tu Nhẫn nhịn ? Nói mắng nhiếc thù hận, gông cùm nhốt buộc bức chế, cắt thái đánh đập họ. Hoặc Đạo hay Phàm tục. Có thể Nhẫn nhịn, có thể bao dung. Không phát ra các tập khí cùng với Phiền não. Đã tu Nhẫn nhịn như thế. Đương nhiên họ hồi hướng về Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tuy tu Nhẫn nhịn đương nhiên không phát ra kiêu mạn của bản thân, cùng với tâm.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát phát tâm Tinh tiến ? Họ làm nghĩ nhớ như thế. Giống như Thế giới khoảng không vô lượng vô biên. Thế giới chúng sinh cũng vô lượng vô biên. Đương nhiên Thế giới chúng sinh này, Ta đơn độc không có hai. Giúp cho yên ổn trong cõi Niết Bàn Không dư thừa. Do vì Nhân duyên đó cho nên phát ra thực hành Tinh tiến. Thân không rời nhận quan sát nhớ thân, đã nhận quan sát đó. Tâm quan sát hành động của tâm, quan sát từng tâm đó xong. Thuận theo quan sát các Pháp. Họ đã hay quan sát ghi nhớ như thế. Do vì chưa sinh các Pháp không thiện ác, cho nên giúp cho không sinh. Muốn phát ra siêng tu Tinh tiến giữ tâm cùng với Hạnh đúng. Do chưa sinh các Pháp thiện, cho nên giúp cho sinh. Muốn phát ra siêng tu Tinh tiến, tâm ngay thẳng cùng với Hạnh đúng. Đã sinh các Pháp không thiện, cho nên làm cho diệt mất. Muốn phát ra siêng tu Tinh tiến, giữ tâm cùng với Hạnh đúng. Đã sinh các Pháp thiện, cho nên làm cho dừng ở lâu dài. Do lại giúp cho nhớ tăng thêm. Muốn phát ra siêng tu Tinh tiến, giữ tâm cùng với Hạnh đúng. Họ đã phát ra Tinh tiến, giúp cho được đầy đủ phần như ý ban đầu. Như thế lần thứ hai, lần thứ ba, thậm chí được đầy đủ phần như ý thứ tư. Họ thành công phần như ý.
Có thể giúp cho dừng ở một Kiếp, hoặc giảm một Kiếp. Hoặc đầy đủ hạnh, giúp cho đầy đủ Tinh tiến tới Niết Bàn. Đã phát ra Tinh tiến như thế. Đương nhiên Tinh tiến đó hồi hướng về Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tuy phát ra Tinh tiến như thế, đương nhiên tâm không sinh kiêu mạn.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát nhớ thực hành Thiền Định ? Rời ý tham muốn, rời ý mất, rời tham muốn tĩnh lặng. Không dựa vào bên trong, không dựa vào bên ngoài, không dựa vào Sắc thân, không dựa vào Thụ Tưởng, không dựa vào nhận Thức. Không dựa vào cõi Dục, cõi Sắc, cõi không có Sắc. Không dựa vào Rỗng, không có hình Tướng, không có Nguyện. Không dựa vào Thế gian, ra ngoài Thế gian. Không dựa vào Bố thí, giữ Giới, Nhẫn nhịn, Tinh tiến. Người nam thiện ! Thậm chí nói sơ qua tất cả tưởng nhớ có, các ràng buộc, tên là Thiền. Tu các Thiền như thế, đương nhiên Thiền đó hồi hướng về Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tuy nhớ tu Thiền này, đương nhiên không phát ra kiêu mạn của bản thân cùng với tâm.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát tu Trí tuệ ? Họ làm nghĩ nhớ như thế. Thế giới chúng sinh vô lượng vô biên, giúp cho nhập vào Niết Bàn. Đương nhiên không có một chúng sinh có thể nhập vào Niết Bàn.
Cớ là sao ? Như tất cả Pháp được Phật nói. Không có bản thân, không có chúng sinh, không có mệnh, không thọ, không có chúng sinh lớn. Tu quan sát Trí tuệ như thế. Đương nhiên Trí tuệ đó hồi hướng về Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tuy quan sát tu Trí tuệ, đương nhiên không phát ra kiêu mạn của bản thân cùng với tâm. Người nam thiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn ham thích tâm Bồ Đề như thế. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này đọc bài kệ nói rằng :
Giống như châu Như ý. Hiện rõ trong tạng báu. Thầy làm tăng công dụng. Sáng gấp bội Sắc cũ. Thành công Tính như thế. Cầu đúng tâm Bồ Đề. Hai bên đã Vắng lặng. Làm Ma không được yên.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát ham thích thành công Pháp. Người nam thiện ! Nếu Tính của Bồ Tát ham thích Pháp, vui theo Pháp, yêu quý Pháp. Họ nếu thấy Sa Môn Bà La Môn. Nếu có tư trang vật dụng, đầy đủ mệnh, ăn uống cùng với việc. Họ hay kính dâng lên. Toàn bộ Thế gian đó nhận lấy các vật dụng. Các gốc thân cành lá hoa quả. Họ thu nhặt xong Bố thí cho các chúng sinh. Người giữ các Pháp. Giúp cho đi tới lễ bái, cung kính chắp tay, đón tiếp xong. Trân trọng kính thu nhận, tâm có chỗ hoài nghi, hỏi về nghĩa chính. Vì thế người giữ Pháp, thuận theo nghe được nghĩa, dễ hay giải thích. Người đó tới nghe Pháp phát ra tưởng nhớ Thế Tôn, tưởng nhớ Tri thức thiện. Phát ra cùng các tưởng nhớ các biển của Thế gian. Phát ra tưởng nhớ Hòa thượng, tưởng nhớ A Xà Lê. Khi mất đường hướng lâu, trong Thế gian hoang vắng sinh hoạn nạn, có thể tìm kiếm, phát ra tưởng nhớ tìm kiếm. Người lâu đời ngu si, cho nên mắt tối che phủ mở ra, giúp cho phát ra tưởng nhớ giác ngộ. Chìm đắm trong bùn Phiền não của Thế gian mà phát ra tưởng nhớ cứu giúp. Do lâu đời mất hướng đúng, vì làm Thầy dẫn, mà phát ra tưởng nhớ Thầy dẫn. Do ẩn náu lâu ở Thế gian, có thể Giải thoát khỏi lao ngục, mà phát ra tưởng nhớ người Giải thoát. Do lâu đời nương nhờ chữa trị tai họa mà phát ra tưởng nhớ Thầy thuốc. Do dùng lửa Phiền não tiêu diệt Thân, giúp cho ở trong diệt mất mà phát ra tưởng nhớ mây mưa lớn. Do họ vì Pháp vì Nhân duyên Pháp. Hay Nhẫn nhịn nóng lạnh, mưa gió, các muỗi dán, cũng Nhẫn nhịn đói khát.
Hoặc thấy người khác nhận quả báo sung sướng. Không phát ra tâm hi vọng cầu sung sướng. Đương nhiên làm nghĩ nhớ như thế. Chỉ có Ta sung sướng duy nhất ở Thế gian mà Ta có thể nghe Pháp đúng. Họ vì việc đó, cho nên được Nhân đó Duyên đó, cho nên không sinh các lo âu bi thương khổ não thù hận. Họ đã rời các lo âu bi thương khổ não như thế. Phát tâm như thế. Do Ta có thể kham chịu gánh vác một câu Pháp được Như Lai nói. Dừng ở tại Địa ngục A Tì một Kiếp, hoặc giảm một Kiếp. Họ như thế tâm đã không mệt mỏi. Tự nhiên không làm các hạnh mà được Tất cả loại Trí tuệ. Chưa được các Pháp Phật mà giúp cho nhanh được. Người nam thiện ! Do dùng nghĩa đó tên của Bồ Tát là thích nương nhờ các Pháp.
Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :
Trí lớn thích các Pháp. Mà thành các Phật Tử. Thân thiết Pháp hay đúng. Mà không sinh mệt mỏi. Tâm kính cầu Pháp đúng. Các Phật Tử tâm sâu. Cùng dùng tâm giữ nhớ. Cũng hiện hạnh hay đúng.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát Bồ Tát lớn quan sát đúng các Pháp ? Người nam thiện ! Nếu Bồ Tát làm quan sát như thế. Tất cả các Pháp giống như ảo hóa, cho nên mê hoặc người Phàm. Tất cả các Pháp như giấc mộng, cho nên không thực. Tất cả các Pháp như Trăng trong nước, cho nên việc sai. Tất cả các Pháp như tiếng vang, cho nên chúng sinh sai. Tất cả các Pháp như hình ảnh, cho nên tính toán tưởng nhớ hão huyền. Tất cả các Pháp như tiếng vang, cho nên sinh mất phá hỏng. Tất cả các Pháp sinh mất phá hỏng, cho nên được Duyên giả. Tất cả các Pháp vốn dĩ không sinh không di dời, do cùng thể loại Chân Như. Tất cả các Pháp không mất, do vốn dĩ không sinh. Tất cả các Pháp không làm, cho nên không có người làm. Tất cả các Pháp như khoảng không, cho nên không thể lây nhiễm. Tất cả các Pháp yên định Rỗng lặng, cho nên Tính không lây nhiễm. Tất cả các Pháp không bẩn, cho nên rời tất cả các bẩn. Tính của tất cả các Pháp mất, do rời bỏ Phiền não. Tất cả các Pháp không có Sắc thân, cho nên không thể thấy. Tất cả các Pháp rời cảnh giới tâm, cho nên Tính hình Thể không có. Tất cả các Pháp không dừng ở, cho nên diệt mất các độc ác. Tất cả các Pháp không thể cầu, cho nên diệt mất yêu ghét cùng với tâm. Tất cả các Pháp không nương nhờ, cho nên rời cảnh giới Phiền não. Tất cả các Pháp như rắn độc, cho nên rời Phương tiện hay khéo. Tất cả các Pháp như chuối tiêu, cho nên không có vững chắc thực. Tất cả các Pháp như bọt nước, cho nên Tính hình Thể yếu đuối. Người nam thiện ! Bồ Tát quan sát như thế, tên là Quan sát đúng các Pháp. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :
Tất cả Pháp như ảo. Mê hoặc người ngu mê. Dối trá giống như mộng. Các Ngài giữ như thế. Pháp như Trăng trong nước. Như tiếng vang cùng việc. Lại như các ảnh tượng. Người Trí không biết nó.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát Bồ Tát lớn thực hành Pháp, thuận theo các Pháp ? Người nam thiện ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn quan sát Biến đổi của Sắc thân, mà không chán rời bỏ Sắc thân. Đã muốn chứng nghiệm với Pháp. Trí tuệ đúng trợ giúp Cõi Pháp. Cùng sử dụng cùng với Pháp, dễ tự quan sát nhập vào.
Hay giữ các tướng đó. Hay nghĩ hay ghi nhớ. Họ ghi nhớ tướng này. Hay giữ, hay tu, đã hay ghi nhớ. Tự nhiên thực hành Cõi Pháp giới cùng với hạnh. Thụ Tưởng Hành Thức cũng quan sát Biến đổi. Đương nhiên không chán rời các Thức đó. Đã nhập vào Cõi Pháp, Trí tuệ đúng cùng trợ giúp. Cõi Pháp cùng với Pháp hay tự quan sát thông tỏ. Cũng ghi nhớ tướng đó. Hay giữ, hay tu, đã hay ghi nhớ. Tự nhiên nhập vào Cõi Pháp cùng với hạnh. Như Biến đổi, Khổ, Rỗng, không có bản thân cũng như thế. Họ đã quan sát Biến đổi của Sắc thân, ở trong Sắc thân không sinh các hoảng sợ. Cớ là sao ? Sắc thân là ảo tưởng đảo lộn được phát ra. Đương nhiên biết nó như thực. Quan sát Biến đổi của Thụ Tưởng Hành Thức. Thậm chí ở trong Thức không hoảng không sợ không kinh hoàng. Cớ là sao ? Do ảo tưởng của Thức đảo lộn được phát ra. Đương nhiên biết nó như thực.
Người nam thiện ! Ví như nhà ảo thuật thiện khéo hoặc Đệ tử của nhà ảo thuật. Biến hóa làm ra đủ loại việc ảo tưởng. Đội quân Voi, đội quân Ngựa, đội quân xe, đội quân Bộ binh. Người Trí tuệ đó đã thấy không sinh các hoảng sợ. Cớ là sao ? Họ biết như thực, làm được của nhà ảo thuật đó không thực. Làm dối trá chưa từng có. Bồ Tát cũng như thế. Đã quan sát Biến đổi của Sắc thân, ở trong Sắc thân không sinh các hoảng sợ. Cớ là sao ? Sắc thân là ảo tưởng đảo lộn được phát ra. Đương nhiên biết nó như thực.
Đã quan sát Biến đổi của Thụ Tưởng Hành Thức. Thậm chí ở trong Thức không sinh các hoảng sợ kinh hoàng. Cớ là sao ? Thức là ảo tưởng đảo lộn được phát ra. Đương nhiên biết nó như thực.
Khi đó Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn !
Thế nào là Bồ Tát quan sát Biến đổi của các Sắc thân, đương nhiên không chán rời Sắc thân ? Mà đã chứng nghiệm Cõi Pháp. Trí tuệ đúng quan sát nhập vào trợ giúp Cõi Pháp cùng với Pháp.
Lúc đó Thế Tôn bảo Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát nói rằng : Người nam thiện ! Ta đang vì Ngài phân biệt nói thí dụ. Người nam thiện ! Ví như người con trai có Trí tuệ thường làm các độc ác. Hay cầm giữ, hay che dấu, hay tham tiếc. Đã phát ra hình tướng của bản thân. Trao đổi đủ loại công cụ trang nghiêm. Đương nhiên là không ăn độc ác đó. Chớ giúp cho việc này bởi vì bản thân, cắt đứt mệnh đúng của họ. Bồ Tát cũng như thế. Tâm hướng tới Niết Bàn, thấm nhuận hướng về Niết Bàn, thuận theo hướng về Niết Bàn, gần cầm lấy Niết Bàn. Đương nhiên không chứng nghiệm Niết Bàn đó. Cớ là sao ? Chớ giúp cho được việc này bởi vì bản thân, thoái lui hạnh Bồ Đề. Người nam thiện ! Ví như có người làm Thần lửa đó. Đương nhiên người đó ngày đêm hương hoa, cùng với cúng dưỡng cung kính tôn trọng, ca ngợi thân thiết trợ giúp. Tuy nhiên người đó không làm nghĩ nhớ như thế. Ta vì việc cúng dưỡng lửa, cung kính tôn trọng ca ngợi, thân thiết xong. Ta dùng hai tay đón cầm lấy. Cớ là sao ? Chớ giúp cho việc này bởi vì bản thân, có khổ với bản thân, có Phiền não với tâm. Bồ Tát tâm hướng về Niết Bàn như thế. Thấm nhuận hướng về Niết Bàn, thuận hướng về Niết Bàn và cầm lấy Niết Bàn. Đương nhiên họ không chứng nghiệm Niết Bàn. Cớ là sao ? Chớ làm cho việc này bởi vì bản thân, thoái lui hạnh Bồ Đề.
Khi đó Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Như Con biết ý hướng tới được Thế Tôn nói. Bồ Tát cần dừng ở Thế gian. Phật nói rằng : Như thế, đúng như thế ! Người nam thiện ! Bồ Tát cần dừng ở Thế gian. Hỏi nói rằng : Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát dừng ở Thế gian mà không bị tai họa của Thế gian lây nhiễm ? Phật nói rằng : Người nam thiện ! Do vì việc này nói sơ qua một ví dụ. Người nam thiện ! Ví như người làm Chú thuật. Cố dùng lực của Chú thuật lớn. Các loại rắn hổ mang độc ác nô đùa. Đương nhiên người đó không lấy việc này, cắt đứt căn mệnh của họ.
Cớ là sao ? Do vì người đó hay thông suốt lực của Chú thuật. Bồ Tát cũng lại như thế. Đi lại Thế gian dừng ở Thế gian, đã dừng ở Thế gian. Do lực Thần chú Phương tiện Trí tuệ lớn. Cùng với các Phiền não rắn hổ mang độc ác mà mạnh bạo ở lại vui đùa. Cũng vui đùa đi ở nằm ngồi. Do Bồ Tát không bởi việc này. Với Bồ Đề mà có lui về. Cớ là sao ? Do họ thành công lực Thần chú Phương tiện Trí lớn.
Khi đó Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát nói rằng : Thế Tôn ! Hiếm có, hiếm có ! Các Bồ Tát đó mà có thể không chứng nghiệm Niết Bàn. Lại không bị độc ác Phiền não của Thế gian lây nhiễm. Thế Tôn ! Con nay trở về nương theo các Bồ Tát lớn nhất. Thế Tôn ! Các chúng sinh đó thành công các Căn thiện. Đã nghe Pháp này mà sinh nhất tâm vui mừng. Thế Tôn ! Người nam thiện người nữ thiện đó. Các Phật đã ghi nhớ truyền bậc thành Phật, nếu hay nghe môn Pháp này. Phật nói rằng : Người nam thiện ! Khi nói Pháp này năm trăm Tì Kheo chưa chứng La Hán mà được Giải thoát. Họ đã được Giải thoát. Tức thời từ chỗ ngồi đứng lên, vai phải áo lệch, đầu gối phải chạm đất. Chắp tay hướng về Phật báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Các Bồ Tát đó thực đáng kính, thực đáng lễ bái. Phật bảo các Tì Kheo. Như thế, đúng như thế ! Như được Ngài nói. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :
Kính lễ các Trí lớn. Kính lễ được không sợ. Kính lễ các mắt sạch. Kính lễ gần Phật Tử. Do Phương tiện hay khéo. Và do được Trí hay. Đọc tên lớn Bồ Tát. Hay vượt Bậc Duyên Giác. Như thực biết các Uẩn. Là các Thức sinh mất. Khát ngưỡng thấy Thế gian. Cố không chứng Niết Bàn.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát Bồ Tát lớn rời kiêu mạn cùng với các kiêu mạn tăng cao ? Người nam thiện ! Người kiêu mạn, tự bản thân cũng có thể. Hoặc gia đình hoặc họ tộc hay Sắc thân. Hoặc lại việc khác. Vàng bạc cùng với tư trang vật dụng. Đội quân Voi, đội quân Ngựa, đội quân xe, đội quân Bộ binh. Toàn bộ cao thấp của tâm như thế, tên là kiêu mạn. Kiêu mạn của bản thân sinh tưởng nhớ bản thân Ta cao. Hoặc gia đình hoặc họ tộc hay các Sắc thân. Hoặc vàng bạc tài vật kho tàng. Đội quân Voi, đội quân Ngựa, đội quân xe, đội quân Bộ binh. Tâm vui mừng như thế, ý cao không thấp hơn mọi người khác. Tên là kiêu mạn tăng cao. Bồ Tát vứt bỏ như thế cùng với Pháp. Tên là rời kiêu mạn và kiêu mạn tăng cao. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :
Rời mạn, mạn tăng cao. Thường do nhớ tâm Từ. Cùng tâm thường nhớ Bi. Thường sợ trong Thế gian. Thường do làm xin cơm. Hay nói lợi Trời Người. Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát Bồ Tát lớn nói lời bí mật thiện khéo ? Người nam thiện ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn. Giáo lý bí mật trong các Kinh rất sâu được Như Lai nói. Họ không thuận theo nói cầm lấy giáo lý bí mật đó ra sao. Như Lai ghi nhớ truyền Bậc cho các Thanh Văn. Với Bình Đẳng Chính Đẳng Giác không phải như được nói.
Phật bảo A Nan ! Ta bị tai họa đau lưng, không thuận theo nói cầm lấy. Già thoái hóa tai họa hư hỏng vì tìm kiếm Ta. Người trợ giúp không thuận theo nói mà cầm lấy. Ngài Mục Liên đi tới nơi ở của Thầy thuốc lớn Kì Bà. Cầm lấy các thuốc vi diệu, không phải như nói cầm lấy. Như Lai cùng các ngoài Đạo Ni Kiền Tử. Tranh luận các khéo léo của họ, không phải như nói cầm lấy. Như Lai bỏ tấm lụa thô luôn châm vào chân. Việc đó không phải như nói mà cầm lấy. Đề Bà Đạt Đa là các oán gia làm hại lâu đời của Như Lai. Không phải theo nói mà cầm lấy. Như Lai vào thôn của Xá Lê Da Bà La Môn. Bát rỗng không mà ra ngoài, không phải như nói mà cầm lấy. Chiên Già và Tôn Đà Lợi phỉ báng Phật. Không phải theo nói mà cầm lấy. Tì La Nhã Bà La Môn của Nước Tu Na mời Phật, tới rồi ăn lúa mạch. Cũng không phải như nói mà cầm lấy.
Khi đó Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Thế Tôn vì sao ghi nhớ truyền Bậc các Thanh Văn, đang được Bình Đẳng Chính Đẳng Giác ? Phật nói rằng : Người nam thiện ! Ta ghi nhớ truyền bậc các Thanh Văn được Đạo đúng chân chính Bình Đẳng. Do vì có Tính. Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Thế nào là các Thanh Văn La Hán, cắt đứt các tập khí Phiền não có ? Nếu Tính có mà thành Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Phật nói rằng : Người nam thiện ! Ta nay nói ví dụ. Ví như có con trai của Vua Thánh Chuyển Luân tưới đỉnh đầu. Nó muốn học tất cả kĩ nghệ cùng với việc. Đương nhiên trong đó, Căn lại không phải là Căn thông lợi. Nó học sau quên trước, học trước quên sau. Người nam thiện ! Ý Ngài là sao ? Họ vì việc này, cho nên có thể nói không phải là Vương Tử chăng. Trả lời nói rằng : Không được ! Thế Tôn ! Con Vua thiện đó. Người nam thiện ! Bồ Tát cũng như thế. Đã thành công Tính Căn ngay thẳng cho nên tu môn Đạo. Trước tiên trừ bỏ các chướng ngại Phiền não. Sau đó thành Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Người nam thiện ! Ý Ngài thế nào ? Họ vì việc này, cho nên có thể nói, không thành Chính Giác. Trả lời nói rằng : Thế Tôn ! Con không thấy có chúng sinh, hoặc Trời hay Ma hoặc Phạm, hoặc Sa Môn hay Bà La Môn, Người Trời, trong chúng A Tu La nói rằng : Không thành Chính Giác, ngoại trừ người không có Tính Phật. Phật nói rằng : Người nam thiện ! Lại nghe một ví dụ. Người nam thiện ! Mười Bậc Bồ Tát vì cắt đứt các Phiền não ngồi ở Đạo tràng, hay là không cắt đứt. Trả lời nói rằng : Thế Tôn ! Do vì cắt đứt. Người nam thiện ! Ý Ngài thế nào ? Họ vì điều này không thành Chính Giác chăng ? Trả lời nói rằng : Thế Tôn ! Tên này là thành công. Phật nói rằng : Người nam thiện ! Điều này cũng như thế.
Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Vì sao bảo A Nan Tì Kheo ? Ta bị tai họa đau lưng. Phật nói rằng : Người nam thiện ! Ta thương nhớ chúng sinh đời sau, cho nên nói lời này. Các Phật thân Kim cương còn có tai họa đau lưng. Huống chi người khác. Đương nhiên chúng sinh ngu si đó theo lời dạy mà cầm lấy. Họ đã tự phá hỏng cũng phá hỏng người khác. Ta bị già hư hỏng tai họa thoái lui. Vì Ta tìm kiếm người trợ giúp. Người nam thiện ! Lời nói này của Ta cũng được nói vì đời sau. Sau khi Ta tạ thế, đời sau không có Đệ tử. Cho nên nói già hư hỏng tai họa thoái lui của Sa Môn Bà La Môn. Như thế dùng người trợ giúp, cho nên được tăng thêm bản thân. Họ vì nghe Phật, cho nên ý không sinh. Vì điều này cho nên nói, hư hỏng già tai họa thoái lui của Như Lai như thế. Thế Tôn ! Có thể cầm lấy cái gì ? Như Mục Liên đi tới nơi ở của Thầy thuốc lớn nhất Kì Bà, được cầm lấy thuốc. Người nam thiện ! Lời nói này của Ta, cũng vì đời sau cho nên nói. Các Thanh Văn của Ta, nhất định cần các thuốc. Do biết nghe Phật mà không có xao nhãng. Do vì việc này, được Như Lai nói. Các chúng sinh ngu si đó, như được nói cầm lấy. Như Lai là thân tai họa. Mục Liên Tì Kheo đi tới nơi ở của Kì Bà. Mà không lễ bái cùng với không sinh cung kính. Nhanh nghe ý bệnh xong, vội vàng nói thuốc đó. Người nam thiện ! Đây cũng nói các tham muốn cùng với tai họa. Người chứng kiến Pháp còn quên mất. Huống chi người Phàm trần. Thế Tôn ! Cầm lấy được cái gì ? Như Lai cùng các ngoài Đạo Ni Kiền Tử. Tranh luận kĩ xảo đó. Ta vì các Chúng sinh đời sau, cho nên nói lời này. Như Lai còn có oán gia. Huống chi với chúng Ta. Đương nhiên các chúng sinh ngu si đó, như thực nói cầm lấy. Như Lai còn có các oán gia. Vua Thánh Chuyển Luân do Căn thiện nhỏ. Còn không có các tai họa. Huống chi lại là Như Lai. Thành công các tạng Công Đức. Cầm lấy được cái gì ? Bỏ tấm lụa thô luôn châm vào chân của Như Lai. Như Lai cũng nói Nghiệp báo thời Quá khứ. Như Lai còn nhận lấy Nghiệp báo thời Quá khứ. Huống chi người Phàm trần khác. Chúng sinh do vì việc đó. Do vì Nhân đó Duyên đó. Tỏ ra Nghiệp ác, do vì nghĩa này. Mà tỏ ra việc quả báo Nghiệp đó. Đương nhiên chúng sinh ngu si đó như thực cầm lấy. Bỏ tấm lụa thô luôn châm vào chân của Như Lai.
Thế Tôn ! Có thể cầm lấy cái gì ? Đề Bà Đạt Đa là Tri thức thiện. Lại là oán gia thân thiết lâu đời của Như Lai. Người nam thiện ! Nếu không có Đề Bà Đạt Đa Tri thức thiện. Không hiện ra công Đức của các Phật Như Lai. Người nam thiện ! Như thế Đề Bà Đạt Đa Tri thức thiện. Cùng Như Lai tranh luận Đạo Đức các kĩ xảo. Tỏ ra việc các oán gia. Đương nhiên tỏ ra rõ công Đức, các Trí lớn của Như Lai. Người nam thiện ! Nếu Đề Bà Đạt Đa đã nhận giáo lý của Vua. Ở trong Đại chúng thả voi lớn bảo vệ tài sản. Voi này nếu tới chịu làm hại Như Lai. Mà lực của Như Lai giúp cho hàng phục dễ điều khiển. Khi đó rất nhiều người thấy voi đó đã thuần phục. Sinh tâm rất hiếm có. Tức thời trở về nương theo Ba ngôi báu, gọi là Phật Báu, Pháp Báu và Tăng Báu. Tên đó là hình tướng của Đề Bà Đạt Đa Tri thức thiện. Đương nhiên có người ngu si, như nói mà cầm lấy. Đề Bà Đạt Đa là oán gia của Như Lai. Như thế trong năm trăm đời hiện ra hạnh Bồ Tát. Nơi ở của Đề Bà Đạt Đa đó tỏ ra, hiện ra Đạo Đức của Như Lai. Đương nhiên chúng sinh ngu si, theo dạy bảo mà cầm lấy. Đề Bà Đạt Đa là oán gia tai hại của Như Lai. Vì Nhân duyên đó. Bỏ thân đọa xuống nơi Địa ngục A Tì, Quỷ đói, Súc sinh. Cớ là sao ? Người nam thiện ! Đề Bà Đạt Đa hay tập hợp các hạnh. Hay tập hợp các Căn thiện. Đã từng cúng dưỡng vô lượng các Phật. Ở nơi ở của các Phật trồng các Căn thiện, cùng với hạnh Pháp Bậc Phật. Ngay thẳng học Bồ Đề, thuận hướng về Bồ Đề, Không thoái lui với Đại Bồ Đề. Gần Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Các chúng sinh đó, do phát ra lệch theo ác. Sau khi chết đọa xuống ở trong Địa ngục A Tì, Quỷ đói, Súc sinh, trải qua nhận lấy các Khổ.
Người nam thiện ! Cầm lấy được cái gì ? Như Lai nhập vào thôn của Xá Lê Da Bà La Môn. Người nam thiện ! Do Ta vì thương xót đời sau. Làm tỏ ra dạy bảo này. Cớ là sao ? Không có Nghiệp báo mà đáp trả Như Lai. Đương nhiên do Ta giúp đời sau. Toàn bộ Tì Kheo xin cơm, nhập vào các thôn xóm thành ấp Kinh đô. Vì lực Phúc mỏng, cho nên không được cơm đó. Họ khi đó nhớ lại ngay tới Ta. Thời đó Phật Thế Tôn đầy đủ tất cả công Đức. Bát rỗng không mà ra ngoài. Huống chi chúng Ta Căn thiện nhỏ mỏng. Chúng ta do vì như thế. Tâm không nên sinh thoái lui. Do vì việc này, Như Lai nhập vào trong thôn, bát rỗng không mà ra ngoài. Đương nhiên lại nói rằng : Ma Ba Tuần khống chế các Bà La Môn, làm cho không cung cấp cơm cho Như Lai. Không nên theo nói mà cầm lấy. Cớ là sao ? Ma không có Thần lực chịu gây chướng ngại Bố thí cơm cho Như Lai. Khi đó do Thần lực của các Phật. Giúp cho Ma khắp nơi, khống chế các Bà La Môn và các Cư Sĩ. Mà Như Lai không có tội cũ. Do vì hiện ra cho chúng sinh đó. Như Lai tỏ ra Phương tiện hay khéo này cùng với việc. Lúc đó Như Lai và các Thanh Văn, sau đó cắt đứt bữa ăn. Ma và dân Ma tất cả các Trời khác, quan sát tâm Như Lai. Sa Môn Cồ Đàm đó và Thanh Văn Đệ tử bị lo buồn không ? Họ ngày quan sát Như Lai và các Đệ tử. Đã không có ý thù hận lo buồn, cũng không cao không thấp. Như trước sau cũng như thế. Khi đó trong Chúng kia, bảy nghìn các Con Trời. Dùng tâm vui mừng trở về nương theo Phật. Như Lai vì họ hay cảm hóa nói Pháp vi diệu. Họ nghe Pháp xong. Ở trong Pháp của Như Lai, được mắt Pháp Thanh tịnh. Như thế Như Lai quan sát việc đời sau. Phật không có Nghiệp báo.
Thế Tôn ! Có thể cầm lấy cái gì ? Các Chiên Già Tôn Đà Lợi, lấy đồ dùng bằng gỗ, che lên bụng mà phỉ báng Như Lai. Trả lời nói rằng : Người nam thiện ! Như Lai không có quả báo tai họa Nghiệp. Như Lai thành công các lực Thần thông. Giúp cho Chiên Già Tôn Đà Lợi, vượt qua vô lượng các Hằng hà sa Thế giới. Giúp cho người đó yên ổn. Đương nhiên do lực Phương tiện của Như Lai đó. Tỏ ra Nghiệp báo phỉ báng cùng với việc. Xuất gia ở trong Pháp của Ta. Họ bị phỉ báng sai. Đã nghe phỉ báng xong mà sinh lo buồn, nghi hoặc hối hận. Họ làm lời nói như thế. Như Lai thành công tất cả các Pháp sáng. Trước mặt bị phỉ báng. Huống chi chúng ta mà không bị phỉ báng. Họ khi đó Nhẫn chịu các phỉ báng đó. Thực hành Phạm hạnh Thanh tịnh mà không được thoái lui. Chiên Già Tôn Đà Lợi do Nghiệp ác bị oan khiên. Thậm chí trong mộng phỉ báng Như Lai đó. Phỉ báng xong bỏ thân đọa xuống hướng tới ác. Nếu Như Lai biết có thể cứu họ liền làm cứu giúp. Cớ là sao ? Như Lai không có chúng sinh mà có thể bỏ họ.
Thế Tôn ! Có thể cầm lấy cái gì ? Như Lai ở Nước Tu La Bà, nơi ở của Tì Lan Nhã Bà La Môn. Mời ba tháng an cư đã chỉ ăn lúa mạch của họ. Trả lời nói rằng : Như Lai biết các Bà La Môn các Cư Sĩ đã mời mà không cúng dưỡng. Như Lai đã biết, cho nên đi tới nơi đó. Cớ là sao ? Toàn bộ năm trăm con ngựa đó. Như Lai gồm các chúng Tì Kheo ăn lúa mạch. Toàn bộ tất cả họ tu hạnh Bồ Tát. Thân thiết các Phật thời Quá khứ. Do vì gặp ngay Tri thức ác đó, tạo ra các Nghiệp ác. Do việc này sinh trong Súc sinh. Năm trăm con ngựa đó, có thể dạy bảo thuần phục. Tên là Kim Cương Tạng Bồ Tát. Do vì lực nguyện sinh ở nơi đó. Là các con ngựa. Do được Nhật Tạng Bồ Tát, cảm hóa phát tâm Bồ Đề. Do vì cảm hóa họ, cho nên sinh ở nơi đó. Do dùng lực của Thầy thuần phục ngựa đó. Tất cả các con ngựa đó, nhớ lại mệnh Kiếp trước kia. Mà họ hiện ra tâm Bồ Đề này. Người nam thiện ! Do Như Lai thương xót năm trăm con ngựa đó. Đi tới ở nơi Thầy thuần phục ngựa đó. Nửa phần lúa mạch ban cho Phật. Toàn bộ lúa mạch của năm trăm con ngựa, cũng chia đôi ban cho các Tì Kheo. Thầy dạy ngựa đó, dùng tiếng của ngựa, giúp cho năm trăm con ngựa đó. Giúp cho có thể sám hối tội cũ và lễ bái các Phật Tăng. Khi đó sau ba lần nói của họ. Các con ngựa đó bỏ thân xong, sinh trong Trời Đâu Suất Đà. Họ lại sinh trong Trời mà cúng dưỡng Như Lai. Như Lai vì họ, hay giáo hóa nói Pháp. Nghe Pháp xong, tức thời không thoái lui Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Giúp thuần phục được năm trăm con ngựa đó. Như Lai cũng ghi nhớ truyền bậc họ, đang thành Bích Chi Phật. Tên là hay thuần phục tâm. Lại như thế người nam thiện ! Như Lai không có tâm Từ, không có đầy đủ, không bình thường. Người nam thiện ! Giả sử Như Lai ăn các loại đất gỗ gạch đá. Trong không có Ba nghìn Đại thiên Thế giới, có mùi vị như thế cùng với mùi vị tốt như thế. Các loại đất gỗ gạch đá đó. Cớ là sao ? Như Lai được mùi vị trong mùi vị tốt nhất. Do hình tướng của người vĩ đại. Người nam thiện ! Do vì nghĩa này nên hiểu như thế. Tất cả các thực phẩm của Như Lai, đều là vị tốt nhất. Người nam thiện ! A Nan Tì Kheo sinh tâm thương xót. Như Lai vứt bỏ chức vị Vua Chuyển Luân. Nay đã ăn lúa mạch. Như Lai đã biết tâm của A Nan, ban cho một ít lúa mạch đó. Cho nên bảo A Nan nói rằng : Ngài biết mùi vị đó ra sao ? Họ ăn xong sinh ra hình tướng đặc biệt kì lạ. Nói với Ta nói rằng : Thế Tôn ! Con sinh ra nuôi lớn trong gia đình Vua, chưa từng thưởng thức mùi vị tốt như thế. Do vì lực mùi vị tốt này. A Nan Tì Kheo sung sướng vi diệu qua bảy ngày, mà không trở lại ăn. Người nam thiện ! Do vì nghĩa này, cần hiểu như thế. Như Lai không có các quả báo Nghiệp. Nếu có chúng sinh giữ các Giới Thanh tịnh. Là Sa Môn cùng Bà La Môn. Cung kính thi hành không thuận theo thỉnh cầu trước kia. Do vì chúng sinh đó nói không sai. Như Lai tỏ ra việc quả báo Nghiệp này. Người nam thiện ! Ngài quan sát các thân Như Lai cùng với Pháp. Bà La Môn đó thỉnh cầu Như Lai mà không làm Bố thí. Như Lai cũng nói, giúp cho họ Không chuyển lui. Đương nhiên người nam thiện ! Do nói năm trăm Tì Kheo đó. Như Lai ghi nhớ truyền bậc, giúp cho Không lui. Lại nữa người nam thiện ! Toàn bộ năm trăm Tì Kheo đó. Cùng Như Lai trong mùa hè yên ở, có bốn mươi Tì Kheo. Nhớ nhiều được kết thành tham muốn. Tĩnh lặng nghĩ nhớ, họ nếu được thức ăn ngon. Nhớ tham muốn, cảm giác tham muốn, liền làm cho cháy mạnh. Họ do vì Nhân duyên ăn ác. Nhớ tham muốn, cảm giác tham muốn cũng nhỏ, đã nhỏ xong. Họ bảy ngày bảy đêm, được quả A La Hán. Người nam thiện ! Nếu có thể hiểu lời được Như Lai nói như thế. Tên họ là hiểu đúng. Người nam thiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn thành công như thế. Tên là thiện khéo hiểu giảng dạy bí mật của Như Lai. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :
Nói được sát nghĩa dạy. Cùng nói do chỉnh đốn. Các Bồ Tát Trí lớn. Do hiểu đúng bí mật. Lời bí mật thiện khéo. Nói dạy bảo Xá Lợi. Thông suốt nói Pháp đúng. Được các Phật nói giảng.
Người nam thiện ! Thế nào là Bồ Tát Bồ Tát không vui thích Bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật ? Người nam thiện ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn, hoặc do các khổ Địa ngục, Quỷ đói, Súc sinh, nhận lấy các ác nặng.
Mà không vui thích cầu Niết Bàn Thanh Văn. Lại không nghĩ làm thế nào được tâm chán rời Thế gian ?
Giúp cho nhanh được Tự do. Cũng không cầu ít tham muốn, ít làm. Lại không cầu ít tham muốn, ít làm cùng với nguyên nhân của làm. Họ được thấy các chúng sinh, tu các Nghiệp thiện. Bồ Tát trợ giúp, làm cho thành công. Và khuyên các chúng sinh ca ngợi nói đúng, tỏ ra đúng. Hướng về Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Người nam thiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn thành công các công Đức như thế. Không vui thích Bậc Thanh Văn Bậc Bích Chi Phật. Khi đó Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này mà đọc bài kệ nói rằng :
Dạy chúng không mệt mỏi. Không thoái lui Bồ Đề. Giữ tâm như núi lớn. Làm tâm Từ cùng Pháp.
Khi đó Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Như Lai đã nói các Pháp. Bồ Tát đã thành công các Pháp, tên là dừng ở Bậc Phật. Đương nhiên do Như Lai không nói tới ý nghĩa ra sao ? Tên là Bậc Phật. Lúc đó Thế Tôn bảo Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát nói rằng : Người nam thiện ! Ta nay hỏi Ngài, tùy Ngài nói ý. Người nam thiện ! Ý Ngài thế nào ? Tất cả bốn loại binh của Vua Thánh Chuyển Luân, được thuận theo làm. Đạo của họ dùng cái gì để nói ? Trả lời nói rằng : Thế Tôn ! Tên là Đạo Vua, cũng tên là Đạo lớn. Tên là Đạo không sợ, tên là Đạo không có chướng ngại, tên là Đạo Tĩnh lặng. Phật nói rằng : Người nam thiện ! Như Lai cũng như thế. Ngồi thuận theo Bậc tới Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Bậc đó tên là Bậc Phật, tên là Bậc cao nhất, tên là Bậc hay, tên là Bậc vi diệu, tên là Bậc tốt hơn. Tên là Bậc Bình Đẳng, tên là Bậc không ác, tên là Bậc không sánh, tên là Bậc không bằng, tên là Bậc không sánh bằng. Người nam thiện ! Do vì nghĩa này tên là Bậc Phật. Trả lời nói rằng : Thiện thay ! Bậc Phật. Thế Tôn ! Thiện thay ! Bậc Phật.
Khi đó Vua Ma Ba Tuần làm nghĩ nhớ như thế. Sa Môn Cồ Đàm này vượt qua cảnh giới của Ta. Cũng giúp cho người khác, có thể vượt qua cảnh giới. Nếu Ta tập hợp bốn loại binh, cùng đi tới não loạn. Và không nói Pháp này, cho nên tới nơi ở của Sa Môn Cồ Đàm. Lúc đó Ma Vương Ba Tuần, tướng lĩnh bốn loại bộ binh. Tới thành lớn Vương Xá núi Kì Xà Quật.
Khi đó Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát, từ xa thấy Vua Ma Ba Tuần, tướng lĩnh bốn loại bộ binh đi tới. Cố muốn vì Pháp này làm cho phương hại. Đã thấy làm Thần lực như thế, hiện ra Thần lực xong. Vua Ma Ba Tuần tới nơi ngã tư đường lớn, ngõ ngách của thành lớn Vương Xá. Làm âm thanh như thế. Các ngươi đi tới thành lớn Vương Xá. Các người nhân từ ! Nếu biết Như Lai đó ở trong núi Kì Xà Quật. Vì bốn Bộ chúng nói Pháp Bậc nhất, Bậc hai, Bậc ba. Nghĩa của nó hay khéo, đầy đủ sáng sạch, nói thực hành hạnh Phạm. Vì thế các Ngươi nên đi tới nơi ở của Như Lai. Vì thế các Người ở trong đêm tối lâu dài, mà thành công nhiều lợi ích vui sướng.
Lúc đó trong thành Vương Xá, các Bà La Môn, các Sát Lợi, Cư Sĩ, Trưởng Giả, đã bị Ma khuyên dụ. Cầm giữ các hoa hương, hương bôi, hương bột, hương đốt, cờ lụa lọng báu, quần áo. Đã từ thành lớn Vương Xá ra ngoài, tới núi Kì Xà Quật. Ở nơi ở của Như Lai phục đất đỉnh lễ Phật. Tôn trọng ca ngợi cúng dưỡng cung kính xong, lùi ra dừng ở một bên. Vua Ma Ba Tuần cùng với bốn loại đội binh, ra ngoài thành lớn Vương Xá ở trong núi Kì Xà Quật. Đã tới nơi ở của Như Lai. Biến hóa ra hoa Sen trắng nhỏ trên Trời, mà tung lên trên Phật. Tung lên xong cùng với bốn loại đội binh, lùi ra ngồi ở một bên.
Khi đó Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát thấy Ma Ba Tuần lùi ra ngồi ở một bên mà thông báo nói rằng : Ba Tuần ! Ngài cố vì cái gì cùng bốn loại đội binh tới nơi ở của Như Lai ? Ma nói rằng : Tôi tới đây cố vì làm cho mất Pháp này. Và vì não loạn Như Lai. Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát bảo Ma Ba Tuần nói rằng : Ba Tuần ! Điều gì cho phép phiền loạn Như Lai, cùng với lấy Pháp này ? Ngài Ba Tuần ! Ở trước Như Lai nay cần sám hối tội cũ. Đừng ở trong đêm dài thành không có lợi ích, quả báo khổ.
Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát, đã nói thuận theo Pháp. Ma tức thời từ chỗ ngồi đứng dậy vai phải áo lệch, xoa tay chắp tay lễ chân Phật xong. Ở trước Như Lai mà phát ra sám hối tội cũ. Nguyện Thế Tôn nhận sám hối tội cũ của Con. Con do ngu si, không có Trí tuệ, không thiện khéo. Không thể tự biết mà ở trước Như Lai phát ra tâm ác. Và muốn diệt mất như thế cùng với Kinh. Thiện thay ! Thế Tôn ! Vì Con nhận ngay sám hối tội cũ cùng với Pháp. Phật bảo Vua Ma Ba Tuần nói rằng : Ở trong Pháp của Ta tăng lớn Căn thiện. Gọi là : Nếu người nam thiện người nữ thiện. Vì muốn Pháp Thanh tịnh, cho nên nay hay sám hối tội cũ.
Khi đó Vua Ma Ba Tuần từ chỗ ngồi đã đứng lên. Đứng ở trước Phật mà báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Trước tiên chế ngự tất cả các lời nói ác não loạn, cùng với Đạo Nghiệp không thiện. Phật bảo Ba Tuần : Như thế, đúng như thế ! Ba Tuần hỏi nói rằng : Như Lai là Chủ của Pháp. Cớ gì lấy tên Ba Tuần, mà kêu gọi Con ? Phật nói rằng : Ba Tuần ! Ta nay nói ví dụ. Ví như Trưởng Giả và Cư Sĩ rất giàu có, tiền tài vô cùng. Đương nhiên người đó chỉ có một con, yêu quý thương nhớ sâu nặng. Lấy nó làm mệnh sống kế tiếp. Tuy nhiên đứa con một đó, siểm nịnh không dễ thuần phục tâm. Trưởng Giả và Cư Sĩ đó. Chữa trị hoặc tay hay gậy hoặc các quả đấm. Chữa trị hoặc lời nói ác và lời nói khổ ác. Do vì làm cho ác đó ngưng nghỉ. Ba Tuần ! Ý Ngài thế nào ? Tình thù giận của Trưởng Giả, Cư Sĩ đó trừng trị đứa con một đó không ? Trả lời nói rằng : Thế Tôn ! Do chỉ vì được đứa con một đó. Phật nói rằng : Như thế ! Ba Tuần ! Như Lai cũng như thế. Hay biết Pháp số tâm của tâm chúng sinh. Dùng lời khổ não thuần phục, vì nói lời khổ não. Muốn dùng văn chương chữa trị, tức thời dùng văn chương chữa trị. Muốn dùng hút lấy tức thời nói lời hút lấy. Muốn dùng Sắc thân độ thoát tức thời dùng Sắc thân độ thoát. Muốn dùng các Thanh Hương Vị Xúc Pháp độ thoát. Tức thời thậm chí các Pháp độ thoát.
Khi đó Vua Ma Ba Tuần, nghe Pháp đó từ Phật vui mừng dũng mãnh. Lại liền lễ chân Phật, lễ xong. Báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Nếu có người nói Pháp đó, trong làng xóm thôn ấp. Con do vì nghe Pháp này, đi tới nơi đó mà bảo vệ Kinh này. Cũng do nghĩ nhớ ích lợi thầy Pháp, trong đó có nhiều cảnh báo như thế. Chúng chắc là yên vắng. Rời bỏ các đùa cợt lười nhác, được nghe Pháp tốt cao nhất. Nếu đọc hay tụng, hoặc nhận giữ, hay là nói giảng. Thân không sinh mệt mỏi, tâm không phát ra nhàm chán. Thuận theo nói được Pháp này. Nếu nghe hoặc vì người khác rộng nói. Như thế họ chuyển sang sinh tâm vui mừng dũng mãnh. Khi đó ở trong chúng kia, có các ngoài Đạo Ni Kiền Tử. Họ đã nghe được Vua Ma nói lời này. Ở trước Như Lai tức thời sinh tâm vui mừng dũng mãnh.
Lúc đó Tôn Giả A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Do Nhân gì duyên gì ? Các ngoài Đạo ở đây nghe giảng Pháp này, mà được chứng nghiệm Nhẫn nhịn. Phật bảo A Nan : Thời Quá khứ ở trong núi Kì Xà Quật thành Vương Xá này có Phật tên hiệu là : Thiện Thắng Điều Phục, Đa đà, A già độ, A la ha, Tam miểu Tam Phật Đà nói Pháp. Phật đó nói Pháp xong, có các ngoài Đạo, vì não loạn cho nên đi tới. Họ tới nghe Pháp này xong. Tức thời ca lên nói rằng : Thiện thay ! Mà ở nơi ở của Phật, không sinh tâm kính trọng. Các ngoài Đạo đó, do vì lực Nhân duyên này. Sáu vạn Kiếp không sinh ở trong Địa ngục, Quỷ đói, Súc sinh. Chỉ có sinh nơi Trời Người. Các ngoài Đạo đó, do không cung kính Như Lai. Ở nơi được sinh, không trực tiếp gặp Tri thức thiện. A Nan ! Ý Ngài là sao ? Thời đó các loại ngoài Đạo kia, họ là ai vậy ? A Nan ! Ngài không nên cầm lấy ý khác. Cớ là sao ? Người nam thiện ! Các loại ngoài Đạo Ni Kiền Tử này. A Nan ! Nay các ngoài Đạo này ở nơi ở của Như Lai. Sinh tâm vui mừng cung kính dũng mãnh. Do vì nguyên nhân này. Như Lai nay ghi nhớ truyền bậc, được Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Khi đó các ngoài Đạo Ni Kiền Tử kia. Nghe ghi nhớ truyền bậc xong, tâm rất dũng mãnh. Tức thời được Pháp Nhẫn Không sinh. Lúc nói Pháp này một vạn hai nghìn người rời xa Phiền não, được Pháp Bồ Tát. Hai vạn chúng sinh, chưa từng phát tâm Bình Đẳng Chính Đẳng Giác, mà phát ý Đạo.
Khi đó Tôn Giả A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Nếu có người nam thiện, người nữ thiện. Nghe Pháp này đọc tụng nhận giữ, rộng vì người nói, được bao nhiêu Phúc Đức ? Phật nói rằng : Nếu người nam thiện, người nữ thiện. Tất cả Thế giới chúng sinh không thừa một ai. Giúp cho yên ổn Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Nếu lại có người nam thiện, người nữ thiện. Đọc tụng nhận giữ cùng với rộng vì người nói Kinh này. Người đó được Phúc Đức gấp bội. Cớ là sao ? A Nan ! Pháp này hay giúp cho được Bình Đẳng Chính Đẳng Giác, Tất cả loại Trí tuệ. Thế Tôn ! Nếu người nam thiện, người nữ thiện, với Pháp này cùng với Thầy Pháp phát ra tâm ác. Thế Tôn ! Người nam thiện, người nữ thiện đó được bao nhiêu không ích lợi ? Phật nói rằng : Người nam thiện ! Nếu người nam thiện, người nữ thiện. Lựa móc mắt của tất cả chúng sinh. Nếu lại có người với Pháp này, cùng với Thầy Pháp phát ra tâm ác. Người đó nhân do việc này được ác, lại gấp bội so với trước. Cớ là sao ? A Nan ! Pháp này với tất cả chúng sinh, có thể làm Quang sáng.
A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Nói Pháp này ở trước người nam thiện, người nữ thiện, tâm không tin không ưng thuận. Cớ là sao ? Thế Tôn ! Do cần bảo vệ các chúng sinh đời sau. Đừng nói Pháp này. Do Nghiệp báo phỉ báng Pháp đọa xuống trong Địa ngục.
Phật bảo A Nan ! Nên nói Pháp này. Cớ là sao ? Các chúng sinh đó với Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tức thời lấy nó làm nguyên nhân. A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Kinh này lấy tên là gì ? Nhận giữ như thế nào ? Phật bảo A Nan : Tên của Kinh này là mười Pháp, nhận giữ như thế. Được Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát hỏi, nhận giữ như thế.
Khi Như Lai nói Pháp này. Tôn Giả A Nan và Tịnh Vô Cấu Diệu Tịnh Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ Tát. Tất cả các chúng Bồ Tát chúng Tì Kheo. Cùng với các người Trời, Vua Rồng, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già. Được nghe Phật nói vui mừng cung kính thi hành.
Phật nói Kinh mười Pháp Bậc Phật