Vẫn Là Phật Xưa
Hòa Thượng Thích Nhật Quang

 

Lời Đầu Sách

Đức Phật Thích Ca đản sinh dưới cội Vô Ưu, xuất gia bên dòng A-nô-ma, thành đạo dưới cội Tất-bát-la, chuyển pháp luân ở Lộc Uyển, nhập diệt tại Ta La Song Thọ… chỉ là những đoạn nhân duyên thị hiện của Thế Tôn mà thôi. Thật ra Như Lai vẫn nguyên xưa như vậy. Phật bảo vì chúng sanh mà Như Lai ra đời, cũng vì chúng sanh mà Như Lai nhập diệt. Chứ Phật có đến đi bao giờ. Cho nên sứ mệnh của những người con Phật là phải hoàn thành cho được tâm nguyện tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn mà chư Như Lai đã truyền trao. Ở Thế Tôn, không có tháng tư của ngày đản sinh, tháng Chạp của ngày thành đạo, mà tháng tháng đều là tháng Phật, ngày ngày đều là ngày Phật. Đức Phật trong mỗi chúng sanh, trong mỗi phút giây tỉnh giác. Và như thế, Chúng ta mừng ngày Khánh đản bằng chính công phu thiền định của mình. Nguyện sao cho vầng dương trí tuệ tỏa sáng khắp nhân gian, cung kính dâng lên mười phương đấng Điều Ngự, gọi là tấc lòng thành vạn kỷ của chúng con và chúng sanh.

Thiền viện Thường Chiếu, ngày 15-03-2007.

Mùa Phật Đản 2551.

THÍCH NHẬT QUANG

1. Con Đường Của Phật Tử

Hôm nay là ngày kỷ niệm đức Phật đản sinh lần thứ 2536, dương lịch là năm 1992. Vừa rồi Tăng Ni và Phật tử đã hướng về đức Phật Bổn sư Thích-ca-mâu-ni tác lễ kỷ niệm. Sau đây chúng tôi xin nhắc lại vài điểm trong đời sống của đức Phật, để từ đó chúng ta tìm ra một phương thức tu tập như lời dạy của Thế Tôn.

Như tất cả Tăng Ni và Phật tử đều biết, trước khi thành đạo đức Phật là Thái tử Sĩ-đạt-ta (Siddhartha), con vua Tịnh Phạn trị vì nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu), thân mẫu là hoàng hậu Maya. Theo Phật sử, trước khi thị hiện ở Ấn Độ, Ngài là vị Bồ-tát đã trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp, tu hành Bồ-tát hạnh. Đời cuối cùng giáng sanh tại Ấn Độ, tu hành thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu Ni. Như vậy quá trình Ngài đi đến quả Phật không phải ngắn cũng không phải dễ dàng. Bây giờ chúng ta là Thích tử, tức con của Ngài thì tất cả tài sản Như Lai nhất định phải biết. Muốn được như cha mình chắc rằng chúng ta phải thực hiện những gì đức cha lành chỉ dạy, thì mới có kết quả hoàn bị. Trong sử nói Phật trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp tu hành mới thành đạt quả vị Phật. Chúng ta là những người con của Ngài, liệu xem mình có đi qua nổi thời gian dài đó với bao nhiêu khó khăn, chông gai cản trở không? Nếu không vượt qua nổi thì sự tu hành của chúng ta sẽ ra sao? Đó là điều khiến cho giới Tăng Ni chúng tôi suy nghĩ, và có lẽ Phật tử cũng có suy nghĩ.

Trải qua quá trình dài như vậy, đức Phật đã thực hiện bao nhiêu công hạnh, bao nhiêu việc làm khó khăn mới hoàn thành viên mãn Phật quả. Bây giờ chúng ta là Phật tử, nhất định phải dẫm, phải vượt qua, phải chiến thắùng như Ngài. Chư Phật mười phương và tất cả những bậc tiền bối đã có kinh nghiệm, đã sống trải, lúc nào cũng chờ đợi, mong mỏi chúng ta quyết tâm tu hành thật tốt, các Ngài sẵn sàng giúp mình hoàn thành bản nguyện giác ngộ giải thoát. Như vậy trên đường Phật đạo chúng ta không cô đơn. Bởi vì ta luôn được sự hộ niệm của đấng cha lành, của những thiện hữu tri thức. Vì vậy mong chư huynh đệ hãy hướng về pháp môn mình đã chọn, về mười phương thiện hữu tri thức để thực hiện cho được nguyện lành, để mình được an ổn, dứt khổ được vui.

Chúng ta ngày nay có sẵn phương pháp, cách thức để tu tập, chớ không khó khổ như đức Phật hồi xưa, chỉ cần hạ quyết tâm thôi. Khi quyết tâm rồi không được dòm ngó hai bên, mà hãy thẳng tiến tới trước để viên thành Phật đạo. Ngày xưa đức Phật phải chịu vô vàn khó khăn, mất nhiều thời gian mới giải quyết xong nỗi trăn trở của Ngài về thân phận con người, đó là sanh già bệnh chết. Đây là vấn đề mà không ai có thể thay thế cho ai được hết. Quí vị thử nghiệm lại xem, khi chúng ta đau, những người chí thân của mình ngồi một bên, nhưng họ giúp gì được cho ta? Nhiều lắm là vài câu an ủi, cho ta thuốc men và xoa dịu phần ngoài thôi. Còn nỗi khổ đau phải chịu đựng thì tự chúng ta chịu lấy, không ai thay thế được.

Chúng ta biết, Bồ-tát Sĩ-đạt-ta trước khi xuất gia là một vị Đông cung Thái tử, đứa con duy nhất trong hoàng triều. Tất cả những tiện nghi cần thiết và đôi khi không cần thiết, đều dồn hết cho ông hoàng này, miễn sao Thái tử sống an vui. Nhưng làm sao Ngài an vui được, khi trong lòng cứ khoắc khoải, trăn trở về kiếp sống ngắn ngủi tạm bợ của con người? Bởi vậy khi ra cửa thành phía Đông, hình ảnh của người lớn tuổi, tóc bạc da nhăn, tướng đi không vững chắc như thời son trẻ, tiếng nói không còn trong trẻo nữa làm cho Thái tử nghĩ về đời mình ở một ngày mai cũng như thế. Ngài biết chắc rằng cái thân đang có đây, sẽ bị giũa mài, không tồn tại được với thời gian. Một trăm điều mình mong muốn, hoạ hoằn được chừng đôi ba chục điều thôi. Khi chứng kiến con người đi đến hiện thực ấy, Thái tử đã đặt câu hỏi với người tuỳ tùng:

– Ngày mai, ta có già nua như thế không?

Người hầu cận đáp hết sức thật thà:

– Thưa Thái tử! Phàm có thân thì có già nua. Thái tử rồi cũng sẽ già nua lụm khụm như người kia.

Chừng ấy thôi, coi như Thái tử nắm được chìa khóa rồi. Bấy giờ mọi thứ tiện nghi chung quanh đời sống không còn đủ lực để ràng buộc Thái tử nữa. Những cuộc vui trong hoàng cung trở thành trơ trẽn với Ngài. Thái tử nhất định không chấp nhận một đời sống dễ duôi qua ngày như thế, không thể chìm mình trong thân phận con người sanh ra rồi già, bệnh và chết. Sử ghi lại khi chứng kiến sự kiện ngoài cửa thành phía Đông rồi, Ngài luôn luôn đặt câu hỏi thế này: Thân ta rồi đây cũng thế ư? Như vậy sang hèn hay là già trẻ, bất luận ai rồi cũng như thế ư? Đó là một đề án lớn mà chưa ai có thể giải quyết được.

Sau đó Ngài dạo cửa thành phía Nam, gặp một người thân thể bệnh tật oằn oại, rên la khổ sở. Ngài hỏi người hầu cận:

–  Có cách gì giúp cho người bệnh này hết đau đớn không?

– Thưa Thái tử, có những loại thuốc trị liệu được thân bệnh, giúp cho người bệnh khoẻ mạnh, nhưng cũng chỉ tạm thời trong một giai đoạn nào thôi, không thể giải quyết hết bệnh vĩnh viễn được. Thái tử suy nghĩ cách giải quyết tạm thời này không đảm bảo, không thể đặt trọn niềm tin để con người sống an ổn trong cuộc đời. Bây giờ Thái tử quyết tâm mạnh hơn nữa, nhất định tìm cho ra phương pháp giải quyết sự khổ đau này.

Tăng Ni Phật tử chúng ta cũng nên tập giống như Phật. Một khi nhìn thấy những gì mình mong cầu không đảm bảo được như ý, không giữ gìn trọn vẹn suốt cả cuộc đời, nhất định ta không thể nào yên tâm mà phải suy nghĩ tìm ra phương pháp giải quyết. Chúng ta là những người học theo sự giác ngộ, sáng suốt của đức Phật thì không thể nào chấp nhận một việc làm không có tương lai, không có kết quả bảo đảm. Nếu chúng ta cứ bình thường dễ duôi để cho ngày qua, không lo lắng chuẩn bị tương lai, thì ta không phải là người có trí tuệ. Phật dạy: Phàm làm việc gì, chúng ta phải thấy hậu quả của nó. Phải biết kết quả của nó như thế nào, chúng ta mới yên lòng làm. Trái lại, việc làm nào dù lớn dù nhỏ, mà không biết kết quả chắc thực, an toàn cho sự tu tập, cho sinh mệnh của mình thì nhất định không làm.

Ngày xưa Thái tử sống trong nhung lụa, trong sự chiều chuộng của phụ hoàng, nhưng Ngài thấy không có gì đảm bảo. Bởi vì khi Ngài đau phụ hoàng không đau thế được, cho nên dù có bao nhiêu tiện nghi, Ngài cũng luôn cảm thấy thiếu thốn. Thái tử thấy cần phải giải quyết việc này của mình. Cứ mỗi lần chứng kiến những hiện thực trong cuộc đời, Ngài càng dứt khoát hơn. Dứt khoát cái gì? Dứt khoát tìm ra một phương pháp để giải quyết việc của mình. Ngài biết rất rõ không thể trông cậy vào những người thương, những tiện nghi chung quanh cuộc sống, mà mình có thể yên ổn được. Ngài thường tìm những nơi thật yên tĩnh để suy nghiệm tại sao cuộc đời như vậy? Tại sao ta có mặt trong cuộc đời? Tại sao con người phải đương đầu với những cảnh duyên như vậy v.v Với bao nhiêu những Tại sao? Tại sao?, không tìm ra lối thoát, không ai có thể giải quyết được, không có câu trả lời nào thoả đáng, vì vậy Ngài phải tìm thêm nữa.

Đến lần thứ ba Ngài sang cửa thành phía Tây thì thấy một thân thể sình thối và sắp hư rã. Ruồi nhặng bu kín, chúng tranh nhau rút tỉa từng thân phần bấy nát. Đó là thân thể của một người đã chết. Thái tử nghĩ rồi đây thân mình cũng như thế, mọi người cũng như thế. Dù có trang sức, thương yêu, sửa soạn bao nhiêu cho nó, cũng đi đến tình trạng hư hoại, thối rữa như thế. Trong lòng Ngài đi đến quyết định mãnh liệt, nhất định không chấp nhận cuộc sống này, phải tìm cho ra con đường thoát ly sanh tử. Nhìn thấy thi thể một người sắp chết, đức Phật đã chấn động như thế, vậy mà chúng ta ngày nay lại thích sửa soạn cho một cái thân không đảm bảo, không an toàn. Thật đáng tiếc!

Khi hiểu Phật rồi, lẽ ra chúng ta phải lợi dụng thân này để làm những việc công đức, lợi dụng thân này để tu thật gấp. Bởi vì nó mong manh lắm, mới thấy mạnh khoẻ đó rồi già bệnh chết. Con đường này tất cả mọi người sẽ phải đương đầu. Bây giờ còn minh mẫn, các giác quan còn sáng, chúng ta phân biệt rõ ràng những hiện tượng, cảnh duyên bên ngoài, thì phải làm sao áp dụng tu hành cho được. Như thế cuộc sống còn được chút ý vị. Ngược lại trong thời gian có thể thực hiện việc tu tập, mà chúng ta bỏ qua thì đến phút chót sẽ hốt hoảng lo sợ, bấy giờ đã muộn, không thể cứu vãn kịp nữa.

Chúng ta có thể làm rất nhiều việc ngoài xã hội, nhưng việc của chính mình lại quên. Vậy nên Phật, Tổ thường nhắc chúng ta phải thương mình. Thương ai thì thương các ngài không cấm, như thương tất cả chúng sinh, nhưng đừng quên mình. Mình không thương mình, không lo cho mình, để rồi đến giờ phút chót, miệng méo, tay chân quờ quạng, các giác quan không còn tự chủ nữa, lúc ấy muộn mất rồi. Đã thương mình thì phải chuẩn bị, chuẩn bị cái gì? Tức là phải tu hành. Đừng bao giờ quên điều đó. Làm gì thì làm, tất cả những việc bên ngoài đều là phương tiện để bổ sung cho sự sống, còn tu hành là việc chính. Dù quý vị đầy đủ mọi mặt về phương tiện vật chất, nhưng không tự lo cho mình về mặt tinh thần thì đến lúc ra đi sẽ cảm thấy thiếu thốn. Nhờ tu hành, chuẩn bị đầy đủ tư lương, quí vị sẽ ra đi trong niềm tin, trong sự sáng suốt, như thế mới là người biết thương mình. Vì thế khi đức Phật đến cửa thành sau cùng ở phía Bắc, thấy hình ảnh một nhà sư bỏ nhà, không nhà học đạo, không danh vị, không tài sản, không tất cả, nhưng gương mặt rất khoan thai, khinh an, tươi tắn. Từ con người ấy lan tỏa ra tất cả những nét an lạc, hạnh phúc. Thái tử Sĩ-đạt-ta mừng quá, liền xuống xe cúi đầu trước vị Sa-môn ấy và hỏi:

– Thưa Ngài, Ngài là người gì?

– Thưa Thái tử, tôi là Sa-môn, tức là người không màng đến mọi thứ ở thế gian, hoàn toàn làm chủ mình, không dính mắc với các cảnh duyên bên ngoài. Do đó tôi tự tại, giải thoát.

Thái tử Sĩ-đạt-ta mừng quá thưa:

– Thưa Ngài, Ngài có thể giúp tôi được như Ngài không?

– Chúng tôi sẵn sàng nếu Thái tử quyết tâm cho hướng đi này.

Hướng đi này là hướng buông bỏ tất cả, là hướng tự mình thương mình. Tất cả những gì xưa nay mình yêu thích nắm giữ, bây giờ loại ra, bỏ hết, dẹp sạch, thì mới thực hiện trọn vẹn hướng đi này.

Thái tử Sĩ-đạt-ta nói:

– Được! Tất cả những gì tôi đã có xin sẵn sàng từ bỏ. Tôi sẽ vâng theo lời của Ngài và dứt khoát thực hiện được điều Ngài vừa nói.

Thế nên hình ảnh của vị Sa-môn, con người tự tại giải thoát đó đập mạnh vào tâm khảm Bồ-tát Sĩ-đạt-ta. Nhờ hình ảnh độc đáo ấy in đậm trong lòng, nên tình thương của phụ hoàng Thái tử cũng để một bên, tất cả những tình cảm trong hoàng cung, những tiện nghi, danh vị đều loại ra hết, chỉ giữ một hình ảnh tự tại giải thoát của Sa-môn thôi. Vì vậy cuối cùng giữa đêm khuya, Bồ-tát Sĩ-đạt-ta đánh thức người hầu, đưa Ngài vượt thành xuất gia. Ngài chuẩn bị cho mình một cuộc sống mới. Trải qua sáu năm khổ hạnh ở Khổ Hạnh lâm, thân thể phương phi tốt đẹp của Ngài chỉ còn lớp da bọc xương. Nhưng với ý chí và nguyện lực, Bồ-tát nhất định không thua cuộc. Bởi ý chí dứt khoát như vậy nên trong cùng lộ phát ra sanh lộ, từ chỗ cùng cực khổ hạnh Ngài tìm ra được lối thoát. Ngang đây có một điều chúng ta cần bàn với nhau. Trong tinh thần của đạo Phật, nhất là Phật giáo Đại thừa, thì đối với sự khổ hạnh và lợi dưỡng là hai thái cực không nên có của một tu sĩ. Nếu mình khổ hạnh quá thân thể sẽ gầy suy ốm yếu, không đủ sức để thiền định, để phát huy trí tuệ. Khổ hạnh thường làm cho tri thức suy giảm, không đủ nhuệ khí để giúp mình đủ lực tu tập. Trải qua kinh nghiệm ấy nên Bồ-tát Sĩ-đạt-ta thấy khổ hạnh làm trở ngại cho việc thành tựu đạo quả.

Trái lại với khổ hạnh là lợi dưỡng, những tiện nghi vật chất, nó cũng làm trở ngại cho việc tu hành. Ví dụ như thời văn minh bây giờ, chúng ta ngồi đây mà có thể biết được việc bên Tây bên Tàu. Chỉ bấm nút một cái là nghe được tiếng nói của người cách xa mình vài ba nghìn cây số. Đó là những tiện nghi trong cuộc sống theo đà văn minh. Nhưng trên phương diện tu hành của người Phật tử thì những thứ tiện nghi này làm mất thì giờ lắm. Như tám giờ là giờ quí vị ngồi thiền hoặc tụng kinh, nhưng tới lúc đó lại có chương trình đặc sắc đã được giới thiệu trước cả tuần, mình không thể bỏ được nên tạm gác giờ tu qua một bên. Ít có ai gan dạ dám bỏ chương trình ấy để lo tu tập. Nên biết tiện nghi lợi dưỡng càng nhiều thì việc tu càng kém.

Phật nói giọt nước dù nhỏ mà tích lũy lâu ngày cũng đầy cả chung lớn. Một giờ ngồi thiền, một ngày tu tập không thể thành Phật, song nhiều giờ ngồi thiền, nhiều ngày tu tập sẽ gom góp đạo hạnh, dẫn tới viên thành Phật đạo. Vì vậy chúng ta không nên làm cho việc tu tập của mình bị đứt quãng, bị cắt xén vì bất cứ lý do gì. Người biết thương mình mạnh dạn loại bỏ những ngoại duyên, chỉ tập trung vào một việc tu mà thôi. Đó mới thực sự là người thương mình, thực sự muốn hoàn thành tâm nguyện của mình. Đức Phật đã dám làm như vậy nên sau khi gặp gỡ vị Sa-môn, trong lòng Ngài dứt khoát chọn cuộc sống tu sĩ bỏ nhà, không nhà học đạo. Chỉ một hướng ấy thôi, không để một cái gì xen vô hết. Vậy nên Ngài ngồi dưới cội bồ-đề bốn mươi chín ngày đêm, tinh chuyên thiền định, cuối cùng thành đạt trí tuệ viên mãn thành Phật.

Trở lại chúng ta, có lẽ mình cũng phát nguyện tu lâu rồi, khổ hạnh thì chưa có bao nhiêu, nhưng chắc chắùn mỗi vị đều hướng tâm về con đường tu hành. Quí vị, ai nấy đều ý thức và chuẩân bị gạt bỏ bớt những tiện nghi trong cuộc sống. Tuy không khổ hạnh nhưng biết vừa đủ, biết áp dụng cách thức tu hành hằng ngày vào sinh họat của mình, với mục đích thành tựu giác ngộ giải thoát như đức Phật. Là Phật tử, chúng ta tự hứa là sẽ được như đấng cha lành, nếu không như thế thì ta đi theo con đường này để làm gì. Trên trước có đức giáo chủ chứng minh, vô lượng chư Phật, chư Bồ-tát trong mười phương hộ niệm, thiện hữu tri thức sẵn sàng giúp đỡ để chúng ta đạt được tâm nguyện đó.

Khi nỗ lực tu quí Phật tử nên nhớ tránh hai thái cực như đã nói ở trên. Một là quá khắc khổ, thái cực này sẽ làm cho chúng ta không chịu nổi rồi bỏ cuộc, hoặc những bạn đồng tu theo chân ta không được. Vậy nên người Phật tử sáng suốt không chọn con đường khổ hạnh. Hai là quá chiều chuộng mình. Đây là thái độ mà đại đa số Phật tử đang vướng phải. Tuy ham tu nhưng vẫn lệ thuộc, vẫn chạy theo những nhu cầu của thân này. Phật nói thân này không thật, tứ đại giả hợp, không bảo đảm chút nào hết, cho nên lo cho nó bao nhiêu rồi cũng trở về không. Dù mình có cưng chiều, sửa soạn, trang bị cho bao nhiêu rồi nó cũng bỏ mình thôi. Còn sống thì tạm mượn nó để tu, chớ đừng quá lệ thuộc mà tạo nghiệp, chuốt quả khổ phải trầm luân trong sanh tử mãi. Đó là một thái cực mà người Phật tử sáng suốt đừng bao giờ rơi vào. Trong lúc nó còn ta vui vẻ, hoà hợp, thích ứng với mọi hoàn cảnh để tu tập.

Đa số Phật tử luôn cả Tăng Ni thường bị thân quấy rầy, bị thân làm khổ. Những yêu cầu của nó, ta không bao giờ có thể thoả đáng một cách hoàn bị được. Khi biết tu rồi, ta từ bỏ cả hai thái cực khổ hạnh và chiều chuộng thân. Có thế mới tiến tu dễ dàng. Nói tóm lại người Phật tử sáng suốt là biết sử dụng thân này đúng với hoàn cảnh để tu hành. Không để nó quá khổ, cũng không cho quá sướng. Một ngày ăn ba lần, sáng trưa và chiều là rất tốt rồi. Những buổi ăn tối phụ thêm, có thể nên bớt, những yêu cầu nào thấy không cần thiết thì bớt đi. Chúng ta làm thế nào để còn thì giờ niệm Phật tụng kinh, nghiên cứu kinh điển, hoặc tọa thiền. Một ngày phải có những phút giây yên tĩnh nhất định, mới có thể tiến tới đời sống thanh tịnh giải thoát được.

Người không để mất thì giờ trong cuộc sống là người biết tu. Nếu ai bị mất mình hay mất thì giờ với những tiện nghi trong cuộc sống là người chưa biết tu, chưa biết thương mình. Nếu ta không biết thương mình thì ai thương mình đây? Không ai thương hết. Cha mẹ, anh em, những người thân trong gia đình có thương mình cũng không sống hay chết thế cho mình được. Dù tiền của chất đống, dù địa vị tột đỉnh, đến lúc hơi thở ra không còn lấy vào được thì tất cả đều bỏ hết. Cho nên cần phải tu tỉnh để đừng bị thân này kéo lôi, theo yêu cầu của nó để gây tạo nghiệp nhân bất hảo. Từ đó phải trôi giạt trong luân hồi sinh tử vô lượng kiếp.

Hôm nay trong ngày lễ Phật đản sanh, chúng ta lấy pháp chân chánh dâng lên cúng dường Thế Tôn. Pháp chân chính tức là công đức tu hành. Trong các thứ cúng dường thì pháp cúng dường là cao quý nhất. Là con Phật, hơn ai hết chúng ta phải biết đến công ơn vô lượng vô biên của Ngài. Đức Phật chịu vô vàn khó khổ mới tìm ra con đường chân lý để chỉ dạy lại cho chúng ta tu tập. Với Phật tử hôm nay, chỉ có yêu cầu duy nhất là hạ quyết tâm thực hiện đúng như lời Phật dạy thì nhất định sẽ đạt được kết quả như Ngài. Bằng ngược lại chúng ta làm sai, thì tu trải qua ba vô số kiếp cũng không đạt được gì hết.

Như vậy kể từ bây giờ quan điểm học Phật, tu Phật như thế nào chúng ta phải chỉnh lại, đừng bao giờ để thời gian qua suông. Quí Phật tử cũng nên sám hối vì bệnh dễ duôi, tự chôn vùi mình nhiều đời nên vẫn còn phiêu trầm mãi tới trong ba cõi. Tuổi thọ của chúng ta bằng tuổi thọ của Phật, Ngài trải qua ba vô số kiếp tu tập thành đạo, nhập Niết-bàn cho tới bây giờ 2536 năm, còn chúng ta vẫn là một chúng sanh đau khổ, lặn hụp trong bùn lầy của cuộc đời này. Như vậy đủ biết nghiệp tập của mình bao nhiêu rồi. Tuy nhiên bây giờ mình đã nhận ra, đã biết được nguyên nhân nào đẩy ta vào những con đường ấy ấy, thì nguyện không lầm lạc nữa. Hôm nay từng phút giây chúng ta trèo lên, vượt qua để thực hiện đúng như điều Phật dạy chúng sanh là Phật sẽ thành.

Chúng ta có sẵn Phật nhân, chỉ có điều là hạ quyết tâm chưa hay như những đứa bé ham vui đuổi bướm bắt hoa, chưa chịu quay về lo việc của mình. Bây giờ trong phút giây này, tất cả huynh đệ Tăng Ni Phật tử tự hứa với vị giáo chủ của mình, chúng ta là những đứa con trung thành, là đích tử của Ngài, không bao giờ làm trái lại những gì Ngài dạy. Nhất định Ngài đạt được điều gì, chúng ta cũng sẽ đạt được đúng như thế. Bởi vì như trong một gia đình, tài sản của ông cha, mình là đích tử thì phải chánh thức kế thừa tài sản ấy, chứ không ai khác.

Chúng ta muốn gặp Phật, muốn đời đời đi chung một hướng với Thầy, với thiện hữu tri thức thì ngoài việc tu ra không có cách nào khác. Chỉ có đi trên con đường tu hành, con đường Phật đạo ta mới gặp nhau, đời đời cùng nhắc nhở, đùm bọc nhau đi cho trọn vẹn lộ trình ấy. Tất cả chúng ta là Phật sẽ thành, nhất định như vậy, không thành cái gì khác. Chủng nhân Phật chúng ta có sẵn, khả năng thành Phật cũng có sẵn, bây giờ chỉ phát huy, loại bỏ những tơ tưởng, dây mơ rễ má của phiền não vọng tưởng, tạo những điều kiện thuận lợi để chúng ta thực hiện trọn vẹn Phật nhân của mình. Từ đó chúng ta tùy duyên tùy nguyện, đem từ bi trí tuệ ban rải khắp nơi, giúp cho tất cả chúng sanh đều tu tập và đạt được kết quả cứu cánh như đức Thế Tôn không khác.

2. Phật Là Tánh Giác

Hôm nay là ngày kỷ niệm Phật đản sinh lần thứ 2544, nhằm năm Canh Thìn, dương lịch là 2000. Như vậy đức Phật ra đời đến nay cách chúng ta 2544 năm, tại thành Ca-tỳ-la-vệ.

Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị. Ngài là một con người lịch sử, có cha có mẹ như chúng ta. Lớn lên ngài cũng lập gia đình, nhưng do túc duyên đặc biệt ngài tìm đường giải thoát, cởi bỏ những ràng buộc của thế gian. Từ chí nguyện đó ngài đi vào cuộc đời cứu khổ chúng sanh. Là Thái tử dĩ nhiên ngài có một đời sống vật chất cao tột, với những cung điện mùa xuân, mùa hè, mùa đông. Tuy sống trong nhung lụa, nhưng ngài không hài lòng với những tiện nghi ấy. Ngài luôn luôn ưu tư, những cái ưu tư lớn của cuộc đời, của con người, không ai giải quyết được. Đó là tại sao con người có già, có bệnh, có chết? Thế gian không ai muốn già, không ai muốn bệnh và ai cũng rất sợ cái chết. Theo quan niệm thông thường chết là sự mất mát, là không còn nữa, là trở về cát bụi, vì thế người ta sợ chết.

Nhờ có đức Phật xuất hiện với nền giáo lý uyên thâm của ngài, người con Phật hiểu đạo lý rồi không quan niệm như vậy. Chúng ta được biết chết là một sự thay đổi, giống như chuyện thay áo vậy. Chiếc áo này đã quá cũ rách thì chúng ta thay áo mới. Trên học trình hiểu biết thì như vậy, nhưng thực tế lại khác. Chết là khóc lóc, khổ đau, mất mát, là đáp án sau cùng đối với thân này. Con người phải đối diện với vấn đề ấy, không có lối thoát. Bởi không có lối thoát nên trong cuộc sống chúng ta luôn có sự dằn co, kéo lôi, từ đó hình thành bất an phiền não. Thật ra trong cuộc sống cũng có những niềm vui nhưng chỉ mang tính khuây khỏa đôi chút, còn lại là con người đối diện với phiền não, những lo sợ lớn lao của già bệnh chết, không giải quyết được. Chẳng những mình không giải quyết được mà những người chung quanh cũng không ai có phương thức để giải quyết.

Thái tử Tất-đạt-đa đã luôn ưu tư như vậy, dứt khoát phải tìm một lối thoát cho chính mình, đồng thời hướng dẫn cho tất cả mọi người cùng giải thoát. Do vậy bao nhiêu sự thương yêu, đùm bộc lo lắng của hoàng gia, ngài sẵn sàng đánh đổi. Thái tử tuyên bố với vua cha, nếu như chí nguyện của con không giải quyết được, con không thể nào sống trong hoàng thành. Những ràng buộc gia đình, tình cảm luyến ái, lầu vàng điện ngọc không thể cầm chân ngài. Bởi dứt khoát như vậy nên cuối cùng hoàng gia không giữ được con người có ý chí xuất trần. Đêm mồng 8 tháng 2 năm 19 tuổi, ngài vượt thành xuất gia, tìm lối thoát cho chính mình và nhân loại.

Đức Phật do nỗ lực tu tập mà được giác ngộ viên mãn, chúng ta tu học theo ngài, như vậy có được giác ngộ không? Đây là vấn đề chúng ta phải nêu lên, để tương lai sự tu hành của mình không bị mù mờ, có một hướng dứt khoát trong việc tu tập nhằm đi đến giác ngộ giải thoát. Với người tu thiền, tiêu chí là phải nhận và sống được với tánh giác của mình. Có một số huynh đệ nghe nói tánh giác thì mường tượng về tánh giác, nghe nói giác ngộ cũng mường tượng như mình có giác ngộ, nhưng thực chất đi sâu trong công phu hành trì thì chưa được, cho nên chỗ này nên chính chắn khảo sát lại.

Vậy tánh giác là gì, giải thoát là gì, chúng ta có thể thực hiện ngay trong đời này hay không? Tánh giác là tâm Phật, tâm chân thật có sẵn nơi mỗi chúng ta, muốn nhận ra được tánh giác phải lặng hết tất cả vọng tưởng đảo điên. Lặng hết vọng tưởng rồi là hết niệm. Hết niệm là dừng nghiệp. Dừng nghiệp là giải thoát khỏi mọi trói buộc phiền não. Như vậy chúng ta có thể thực hiện được sự giác ngộ giải thoát ngay trong đời này, nếu cố gắng công phu thật chuyên nhất. Đệ tử bậc giác ngộ thì không nên để cho cuộc đời mình trôi vào thế lơ đễnh, mù mờ, như thế thì quả thật đáng tiếc và cũng đáng trách. Do đó chúng ta phải khẳng định công phu tu hành hằng ngày, từng bước dẫm lên đất chân thật, nhất định sẽ đạt được giác ngộ giải thoát. Trong từng phút giây ta sống trong cái chân thật thì tâm an lạc giải thoát, đảm bảo làm chủ được vấn đề sinh tử.

Tu thì dĩ nhiên Phật tử muốn tu rồi, nhưng kiên trì quyết liệt chưa lại là một việc khác. Chúng ta cũng vẫn còn liếc ngó hai bên, vẫn còn sóng gió, vẫn còn lang thang xuôi ngược, nghĩa là ta chưa quyết liệt, mà chưa quyết liệt thì không đến nơi. Bởi vì giải quyết vấn đề sanh tử là một việc làm chí mạng, đòi hỏi chúng ta phải dứt khoát. Giải thoát là gì? Giải là mở ra, thoát là không còn dính mắc. Giải thoát là ra khỏi sanh tử, không còn kẹt vướng một chút gì nữa cả. Đối với tất cả cảnh duyên, những sự kiện trước mắt, lúc nào ta cũng tỉnh, cũng biết, không lầm chạy theo, dần dần sẽ được giác ngộ giải thoát. Nếu công phu tu hành tích cực, liên tục, không cho xen hở, từ chuyên môn gọi là miên mật, nhất định giây phút lóe sáng sẽ đến. Trái lại, ta tu chưa sâu sắc, thì những giây phút này rất xa đối với chúng ta.

Phật tử vẫn còn bị nghiệp ràng buộc, cảnh duyên chung quanh làm trở ngại, nó làm méo mó công huân tu hành của quí vị. Do tu không thấy kết quả nên ngán tu, rốt lại thích cầu xin, trông cậy ở tha lực bên ngoài. Phải biết giải thoát giác ngộ là tự mình, nhưng vẫn còn nhiều người chưa tin điều này. Bởi chưa tin nên cầu đấng nào đó cho mình giác ngộ giải thoát. Bản thân mình không chịu giác ngộ mà biểu ai cho giác ngộ, ai mà cho. Tự mình không cởi mở, tự mình không giải thoát thì phải chịu lẩn quẩn trong ba cõi sáu đường thôi. Nhiều đời chúng ta si mê, không tỉnh giác nên gây tạo những nghiệp nhân không tốt, bây giờ chuốt quả khổ. Nếu muốn chấm dứt sự khổ thì không gây tạo nghiệp xấu nữa. Chúng ta là chủ nhân ông cột thì bây giờ phải là chủ nhân ông mở. Người khác không biết cách mở cho chúng ta đâu.

Như có những điều chúng ta dấu kín trong lòng, không nói ra thì không ai biết được. Khi nào chịu nói ra, tôi muốn như thế, tôi cần như thế, người bên ngoài mới hỗ trợ giúp cho. Còn cứ cất kín hoài thì không ai giải quyết dùm được cả. Đức Thế Tôn và chư vị Bồ-tát cũng vậy, các ngài luôn từ bi chờ chúng ta trình bày, nói rõ nghiệp tập của mình để các ngài chỉ chúng ta cách giải quyết. Nếu chúng ta giấu diếm hoài thì giữa các ngài với chúng ta không dính dáng, không có sự hỗ tương gì cả. Người học thật nhiều, nhớ thật nhiều Phật pháp mà những cù cặn thâm căn cố đế không giải tỏa, không tự mở ra, thì chánh pháp không có tác dụng gì đối với nghiệp tập. Chỉ khi nào chúng ta dám mở cửa, dám khui ra, dám nhìn thẳng nó thì chánh pháp mới có tác dụng, có giá trị.

Con đường giác ngộ hết sức quan trọng, tự bản thân chúng ta hình thành chứ không thể nhờ vả, đợi chờ ai. Người gần gũi nhất trong cuộc đời tu của mình là thầy, kế đến là thiện hữu tri thức, nhưng những vị này dù thương cách mấy, các ngài chỉ cho chúng ta phương pháp để tu chớ không thể tu dùm ta được. Bởi việc tu không phải như tiền bạc, vật dụng, thức ăn, mà nó là vấn đề thể nghiệm trực giác, không thể ban cho. Điều này rất đặc biệt. Như trong kinh Viên Giác nói ngón tay chỉ mặt trăng, ai là người thông minh từ ngón tay nhận được mặt trăng thực ở trên trời. Trái lại, người không ngón tay là phương tiện, chẳng những không nhận ra mặt trăng thực mà làm hư đi ngón tay. Việc áp dụng Phật pháp, nương thiện hữu tri thức tu hành cũng vậy. Nhờ thiện hữu tri thức chúng ta biết được Phật pháp để tu hành, nhưng đạt được kết quả là do chúng ta nỗ lực thật tu thật chứng. Nếu chỉ học chỉ nghe hời hợt bên ngoài, nhất định sẽ không có kết quả.

Khi nào chúng ta nhận và sống được tánh giác mới không bị chi phối bởi ngoại duyên. Sở dĩ mình còn bị trần cảnh chi phối là do còn lầm mê, còn vô minh dày đặc. Vì vậy các cảnh duyên, sự kiện chung quanh kéo lôi mình như chơi. Đôi khi sự việc không đáng gì hết mà nó vẫn kéo lôi, làm cho ta mắc mứu chạy ngược chạy xuôi. Bây giờ làm sao để không bị chi phối? Trước nhất là tỉnh giác. Tỉnh là không lầm, giác là biết. Đối với các pháp mình không lầm, biết rõ nó là đồ giả nên không bị kéo lôi. Phải bén nhạy, thường trực với sự tỉnh giác, không để vắng thiếu quãng nào hết. Liên tục như vậy chúng ta sẽ giảm bớt sự kéo lôi của ngoại duyên. Như bình thường mỗi ngày quí vị làm công việc nhà, nấu nướng dùng trưa, nghỉ ngơi, chiều lại tu tập. Nhưng sáng nay gặp bạn rủ mình đến nhà, gặp nhau vui vẻ rồi tổ chức ăn uống dài dài, mất hết một ngày. Rõ ràng quý vị bị chi phối, mất nhiều cơ hội quý báu để tu tập. Thế nhưng quí vị vẫn mặc nhiên chấp nhận sự chi phối ấy. Đôi khi còn để nó phát triển càng ngày càng nặng, càng dày, rồi thì đương nhiên thấy đó là niềm vui, mất mình hồi nào không biết. Tôi đơn cử một việc nhỏ xíu như vậy thôi, Phật tử nghiệm lại sẽ thấy rõ nếu chúng ta không cương quyết dứt khoát thì suốt đời bị ngoại cảnh chi phối, làm mình mất rất nhiều thì giờ. Khi thành quen rồi, chúng ta cho đó là việc bình thường, làm sao tu hành được nữa.

Người xưa khi hạ thủ công phu không rảnh để cắt móng tay. Như có một vị thiền sư tu trong rừng, ngài đang lùi khoai trong đống lửa. Bấy giờ sứ giả của nhà vua tới thưa: Bạch Hòa thượng! Có chiếu chỉ mời. Ngài lấy tay bới củ khoai trong đống lửa ra lột ăn, nước mũi chảy xuống tèm hem. Sứ giả thấy ngộ quá, nói: Xin ngài hoan hỷ chùi nước mũi dùm. Ngài bảo: Đâu có rảnh mà chùi. Đó là gì? Người xưa tham thiền tu hành miên mật, không để ý tới chuyện bên ngoài, chuyện trau chuốt thân tướng, không quan trọng chiếu chỉ vua ban, chỉ biết việc bổn phận của mình.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy công phu tu hành hằng ngày của mình phải làm sao giữ gìn cho miên mật, tích cực. Luôn luôn như vậy thì đảm bảo có thể thực hiện được giác ngộ giải thoát. Bản thân chúng ta thực hiện được rồi, mới nói đến việc dẫn dắt chúng sinh tới chỗ giác ngộ giải thoát. Năng lực, vốn gốc của mình có đầy đủ thì tất cả việc làm bên ngoài không khó. Ngược lại vốn gốc không có, không vững, ta lại ôm đồm làm việc bên ngoài, nhất định sẽ gặp lúng túng khó khăn, ít khi được thành tựu. Do gốc chưa đầy đủ nên việc nói và làm chưa đi đôi, điều này dễ đánh mất lòng tin của mọi người chung quanh chúng ta.

Có bốn hiện tượng của con người trong cuộc đời, đó là gì?

1. Sự già khụ, quằn quại, tàn phế suy nhược của sắc thân.

Nói gì thì nói, dù người thành công hay thất bại trên mọi lĩnh vực, đến một lúc nào đó thân này cũng sẽ già cụm tàn phế. Bởi vậy các mặt hàng mỹ phẩm luôn luôn được thịnh hành, mỹ viện phát triển nhiều. Là vì sự đổi thay suy tàn của thân này, dù chúng ta mong nó đẹp bền, niềm mong mỏi ấy chỉ là mơ mộng, không có đáp án. Có khi một chút xíu lo lắng, đầu đêm chúng ta không thấy mệt, không thấy già nua, nhưng qua đêm mất ngủ, sáng ra ta thấy tóc bạc, người uể oải, mọi thứ chung quanh nhạt nhòa, không phấn chấn vui tươi nữa. Đó là gì? Là hiện tượng già cụ, thân xác suy nhược còm cỏi.

Có khi Phật tử sẽ đặt câu hỏi người tu thấy thân này không thiệt, thì sợ chi thân thay đổi, tàn lụn? Thưa, tuy biết thân không thiệt nhưng nếu chúng ta không có thân thì lấy gì mà tu. Có thân, có nghiệp tập, có phiền não, có bạn hữu, có cảnh duyên nên ta có tu, có xuất gia, có học pháp, có hành trì lời Phật dạy. Người biết dụng công tu hành thì không lệ thuộc bởi hoàn cảnh, bởi thân nhưng biết dùng thân cho mục đích vì thành đạo nghiệp của mình. Khi thấy thân bị chi phối bởi vô thường, chúng ta càng nỗ lực tu nhiều hơn, từng phút giây gầy dựng đạo lý, trí đức để kịp giác ngộ trước khi thân hoại mạng chung. Thấy và áp dụng như vậy thì mỗi ngày qua không uổng tí nào hết. Nhưng nếu chúng ta không khéo thì cố chấp, khổ đau lụy phiền vì thân, vì cảnh không thật. Phiền não từ vô minh phát sinh. Chúng ta chưa làm chủ được, chưa tỉnh giác, chưa giác ngộ nên bị phiền não nhiễu loạn. Chỉ khi nào tỉnh giác, trí tuệ hiện tiền chiếu phá vô minh tăm tối thì sẽ hết phiền não.

2. Con người khổ đau vì những cơn bệnh của thân. Trên đời này có ai không bệnh? Người già bệnh, người nhỏ cũng bệnh, người có tiền nhiều bệnh, người không một đồng cũng bệnh. Làm sao để đừng bệnh? Đáp án này khó giải quyết lắm. Bởi vì thân là gốc của bệnh, gốc của khổ đau. Chúng ta lỡ ngu si gầy dựng thân này từ những tăm tối, tham đắm, bây giờ bị lụy bởi nó. Không có người nào từ nhỏ tới già không một lần bệnh. Có người rất ít bệnh nhưng mỗi lần bệnh là gần mất mạng. Có người bệnh liên tục như cảm ho, nhức đầu, sổ mũi, đau nhức, gió không ưa mưa không chịu, nên thân phải thọ khổ liên miên. Khi thân càng có tuổi tác, càng bị chồng chất bởi nhiều sự kiện trong cuộc sống thì càng bệnh hoạn suy yếu. Mới hôm nào khỏe mạnh đó, hôm nay chống gậy, chân cẳng xệu xạo.

Ai cũng cầu nguyện, mong mỏi cho thân cường tráng, khỏe mạnh, tươi tắn, sống lâu trăm tuổi. Như vậy, cái mong ước mình phóng tới quá tầm tay, cái hiện thực lại theo chiều trái nghịch. Với người tu, chúng ta có thái độ thế nào trước thực trạng này của thân? Phải hành trì pháp môn gì để thắng lướt, giữ vững công phu, không bị bệnh tật ngã quật, làm mất ý chí tu hành? Nếu chúng ta không làm chủ được, không khắc phục chính mình thì bệnh tật sẽ làm tổn giảm và gián đoạn công phu tu hành. Cho nên người tu phải biết điều hòa thân tâm, nhất là giữ tâm ý thanh tịnh. Dùng năng lực thiền định để thắng lướt những lo sợ khi thân có bệnh. Điều hòa được thân tâm thì chúng ta khỏe mạnh, tu tiến, trí lực phát triển, công phu không bị trở ngại.

3. Hiện tượng chết. Con người nếu không điều hòa, tứ đại bị lệch bên nào thì không còn sử dụng thân được nữa. Khi chết thân này là cái tử thi sình thối, mọi người ghê tởm. Đây là một đề án rất cần thiết cho người tu. Hành giả nào còn chút mơ tưởng về dáng dấp, dung nhan, về vẻ đẹp mỹ miều của thân thì hãy quán chiếu đến giai đoạn thứ ba là thây chết. Quán như vậy sẽ giúp vị ấy hoàn toàn tỉnh. Tỉnh cái gì? Tỉnh vì ghê tởm sự nhơ nhớp, sình chương của thân. thân không thật nên cái đẹp cũng không thật, nhờ thế ta không còn đắm luyến thân nữa.

Nếu một phút giây ta không điều hòa được thân thì đứt thở. Đứt thở thì bỏ thân. Thân bỏ một đôi hôm sình lầy, hôi thối, mọi người ghê tởm chán chê. Dù đó là thân thể của người chí thân chí thương của mình, khi không còn thở nữa trong vòng đôi ba tiếng đồng hồ, người ta gói ghém, đóng hòm chôn tức thì. Thiên hạ nói xây mồ xây mả cho đẹp nhưng thực sự là đắp lại thật kỹ để không bay hơi hôi hám. Từ đó chúng ta nhận ra công phu điều hòa thân là một công phu quan trọng. Ở đây là nói trong giai đoạn ta còn sức khỏe, chứ khi không còn sức khỏe nữa, nói điều hòa là vấn đề không dễ dàng. Điều hòa gì được? Lúc sức khỏe suy thoái, bước đi phải chống gậy, nghĩa là có thêm chân thứ ba nữa, nhưng cần té nó cũng té chỏng gọng như thường. Mình không làm chủ được. Từ đó ta thấy việc điều hòa thân tâm là một pháp tu không thể xem thường. Có vậy chúng ta mới sử dụng thân này trong lúc cần để tu hành.

4. Hiện tượng giải thoát. Ở đây mở ra một chân trời mới, có thể là chỗ mộng mơ cuối cùng của chúng ta. Tại sao mộng mơ? Vì chúng ta bị bức bách bởi thân già bệnh rồi chết, nên mong có một phương pháp, một chân trời nào đó để mình được an toàn. Nhưng nếu mong suông, thì chẳng được gì đâu. Đạo Phật giúp cho con người có nhận định, mở ra những phương thức tu hành, từ đó áp dụng sao cho đúng với sự chỉ giáo của các thiện hữu tri thức. Chúng ta không thể ngồi đó mong được giác ngộ, hoặc chờ người khác trao cho mình sự an vui vĩnh cửu. Bao giờ vướng vào những tơ tưởng ảo vọng như vậy. Phải ngay đây giải quyết việc chính của mình, tranh thủ thực hiện sâu sắc phương pháp Phật dạy.

Hiện tượng thứ tư là hiện tượng cho phép chúng ta được ước mơ, và từ ước mơ biến thành hiện thực. Chân trời đó chúng ta thực hiện được bằng công phu tu hành, giải quyết tất cả những vấn đề lỉnh kỉnh của con người như già bệnh và chết. Chúng ta phải năng nổ, tích cực thực hiện cho bằng được ước mơ của mình. Muốn thế, chúng ta phải có đức trầm tỉnh. Trầm tỉnh để nhận định, để đi sâu vào pháp tu, đối diện với tất cả sự kiện chung quanh, mình không bị động. Chư tổ hồi xưa dạy: Người có công phu tu hành đi như trâu, nhìn như cọp. Nghe nói thì thô, nhưng đó là phương thức tu hành thể nhập được đạo lý.

Nói đi như trâu là sao? Con trâu đi từng bước chắc chắn, không phải như khỉ vượn nhảy phớt qua phớt lại. Người có đức trầm tỉnh đi bước nào chắc nịch bước nấy, đi trong tỉnh giác. Nhìn như cọp là sao? Con cọp luôn nhìn trực diện, không lăng xăng láo liên như khỉ vượn. Chúng ta nhìn dáng dấp bên ngoài có thể nhận định được người sâu sắc, trầm tỉnh hay không? Người tu phải trầm lắng xuống, tỉnh táo xem xét hiện trường chung quanh. Nếu không trầm tỉnh dễ bị té, bị sụp hố, bị lạc đường. Chúng ta uy nghiêm dũng cảm tiến trên con đường giải thoát khổ đau già bệnh chết.

Thiền sư nói: Sống như đắp chăn đông, chết như cởi áo hạ. Mùa hạ nóng bức, cởi chiếc áo nhơ nhớp đầy mồ hôi thì thích thú biết bao nhiêu. Đối với người tu thiền, chết không phải là mất mát mà là thảnh thơi, nhẹ nhàng như cởi được chiếc áo nhơ mùa hạ. Thế gì có gì buồn, có gì phải khóc? Nhưng muốn được như thế không phải dễ đâu. Nếu chúng ta không chủ động dũng mãnh, giải quyết việc của mình, tháo gỡ những trói buộc trong già bệnh chết, thì không thể ung dung tự tại trước sống chết. Vui vẻ lúc sống, bình thản lúc chết là hình ảnh đáng quý nhất của người tu. Có vui vẻ mới tu được, mới ăn ngon ngủ yên, chứ phiền não bức xúc trong lòng hoài làm sao sống nổi. Khi chúng ta làm chủ được, không bị sai sử bởi các pháp, đó là có trí tuệ, có sự tự do tự tại, giản dị như thế.

Hòa thượng Viện trưởng dạy chúng ta phải buông những dấy niệm, đừng để nó kéo lôi. Trong bất kỳ sinh hoạt nào, vừa có một dấy niệm là mình buông, định tỉnh, trầm lắng, làm chủ được, tức thì trí tuệ phát sinh. Trí tuệ đó là trí tuệ Bát-nhã, biết rõ tất cả các hiện tượng đều hư giả không thật. Cho nên một khi buông là buông, chứ không nấn ná vướng mắc gì hết, rõ ràng như vậy. Chúng ta lại có thói quen đi lòng vòng. Như hồi chiều mình có phiền não, liền cất vô bụng để tối ngồi thiền tính với nó. Nhưng cất từ chiều tới tối là thêm vấn đề chứ không phải bao nhiêu đó thôi đâu. Câu nói của chị kia hồi chiều như vậy, mình để trong bụng tới tối nó khác. Cho nên mình phải giải quyết tức thì, nghĩa là buông ngay, không thèm cất chứa làm chi cho phiền não. Chuyện tu hành không gì ngoài giải quyết mọi lỉnh kỉnh phiền toái, những bất an bất ổn trong đời sống, trong sinh hoạt của chúng ta. Vì vậy điều kiện tiên quyết là người tu phải luôn tỉnh giác.

Phật nói chúng sanh và chư Phật bằng tuổi nhau. Đó là tuổi thọ vô lượng. Đức Phật đã xuất gia tu hành thành đạo, thuyết pháp giáo hóa và thị tịch cho tới bây giờ hơn hai ngàn năm trăm năm mà chúng ta vẫn còn là chúng sinh mê muội. Do vô minh khiến chúng ta tăm tối, bị trói buộc trong cuộc sống này. Bây giờ mình tháo gỡ, giải thoát nó ra, để trí tuệ hiện tiền. Việc này không phải dễ, rất là khó. Thế thì bây giờ phải tu làm sao? Là đệ tử Phật chúng ta biết rõ, nếu mình không giải quyết việc già bệnh chết thì không ai thay thế cho mình cả. Chỉ bao giờ mình bỏ hết những cù cặn, những thói xấu thì trí tuệ hiện tiền, lúc ấy ta giải quyết được vấn đề.

Phật nói vô minh hết thì cái minh hiện tiền. Vô minh với minh giống như ánh sáng và bóng tối. Chỉ cần cái công tắc mở đèn, chớ nó không có biên cương cố định. Hễ mở đúng công tắc là đèn sáng, tối tăm chạy hết, mà tắt đèn thì tối tăm ập tới, ánh sáng không còn. Biên cương sáng tối tìm không ra, chỉ đòi hỏi chúng ta biết sử dụng công tắc đèn thì vô minh tăm tối nó không bu bám được. Vô minh tăm tối không bu bám được thì chân trời tịnh thanh, rỗng rang sáng suốt hiện bày. Nhờ đức Phật thị hiện nơi đời mà chúng ta biết cách tu tập để được giác ngộ, giải thoát những nghiệp tập của mình. Làm được việc này đến nơi hay không là do chúng ta, chứ không phải ở ngài nữa.

Đức giáo chủ ra đời có nhiều thắng lợi. Thắng lợi thứ nhất là giúp chúng ta giải quyết được những dục lậu phiền não qua công phu tu hành của mỗi người. Nhờ biết nó là dục lậu, là phiền não nên chúng ta không chất chứa, không nuôi dưỡng trong lòng nên không bị khổ. Thắng lợi thứ hai là Phật giúp chúng ta tu tập để được giác giải thoát khỏi sanh tử. Không ai nguyện sinh lại làm người nam hoặc nữ, chỉ mong cho con được giác ngộ giải thoát, không bị ràng buộc nữa. Nếu có tái sinh thì chọn đường đi một cách tự tại, chớ không để nghiệp ràng buộc kéo lôi lẩn quẩn trong luân hồi sinh tử. Các thiền sư còn nói một câu hùng hồn thế này: Nơi nào không có Phật tới đó làm Phật. Những thiền sư có đệ tử đông, khi viên tịch đệ tử thương khóc quá, quí ngài ngồi dậy nói: Ta đi là đã biết đường, việc gì các ngươi phải khóc. Nếu không biết đường, sợ thầy lủi đâu đó mới khóc, đằng này thầy đã biết đường đi mà khóc lóc gì. Thắng lợi thứ ba là tất cả tăm tối chúng ta thảy ra hết. Đồng thời còn giúp mọi người chung quanh cũng được sáng suốt như chúng ta. Đó là thực hành hạnh tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn của chư Phật.

Trong từng phút giây, chúng ta còn bị luỵ bởi các việc ăn mặc, ngủ nghỉ, giao tế nhưng với thâm tâm cương quyết dũng mãnh của người con Phật chúng ta nhất quyết hành trì cho được những điều Phật dạy. Bao giờ sống với tánh giác hiện tiền trùm khắp, nhập pháp thể thanh tịnh sáng suốt trùm khắp là đã đền ân chư Phật. Sau cùng, chúng ta đi theo con đường của chư Phật là nguyện độ tận chúng sanh, đồng về bờ giác. Đó là hoài bão, là chỗ chí thiết nhất của những người con Phật.

Để tưởng niệm ngày đức giáo chủ ra đời, nương nhờ hồng ân Tam Bảo, nhờ phúc trí của các bậc thiện hữu tri thức, chúng ta nguyện sẽ thực hiện được tâm nguyện này của mình, lấy đây dâng lên cúng dường đức Phật nhân ngày Thế Tôn đản sanh.

3. Đặt Lại Tinh Thần Tu

Buổi sinh hoạt hôm nay chúng tôi nói về đề tài Đặt định lại tinh thần tu. Sở dĩ tôi chọn đề tài này, vì thời gian gần đây có nhiều huynh đệ than việc tu không tiến, vọng tưởng nhiều quá. Thật ra khi tu, ai cũng thấy vọng tưởng nhiều hết, chứ không phải riêng ai. Phần lớn chúng ta đều thua, không thắng nổi vọng tưởng. Quí vị phát tâm nhập thất, chuẩn bị cho mình tinh thần tu thật chu đáo mà cũng chưa chiến thắng nổi phiền não vọng tưởng. Tuy nhiên quí vị phát tâm tu như vậy cũng đã quý, đã tốt lắm rồi. Có những hôm tôi ngồi trước điện Phật một mình, người ngoài nhìn vô tưởng không có vọng tưởng, nhưng chỉ tôi mới biết thôi. Ngồi như vậy mà vọng tưởng dẫn đi hồi nào không hay. Lúc đầu thấy bình yên, tự nhiên lát sau thấy sơn trên cây cột dộp tróc một miếng. Thế là vọng tưởng bắt đầu dẫn đi, giả như cây cột này bằng gỗ chắc chắn nó không bị tróc sơn. Người ta nói gỗ bền hơn bê tông nữa, không biết đúng không? Nếu quả như vậy cây cột này được thay bằng gỗ sẽ đảm bảo hơn.

Bây giờ muốn liên hệ gỗ phải mua ở đâu, trong quỹ có tiền chưa, ai làm việc này? Cứ thế nó dẫn đi mênh mang, kéo mình vô rừng mất tiêu, tới chừng giựt mình tỉnh lại thì đã bị vọng tưởng lôi quá xa rồi. Bây giờ có cách nào để điều phục vọng tưởng? Phải thấy rõ nó, đừng để nó làm gì mình. Chúng ta ngồi yên, đừng dấy nghĩ thêm chi hết, nó tới mặc nó, nó đi cũng không đưa. Đưa là chạy theo nó. Mình cứ bình yên, ngồi trong tỉnh táo coi nó làm gì, chúng ta ngồi mà không bị động, luôn luôn làm chủ thì nó không làm gì được ta. Đây là một cách tu. Thiệt ra nhiều khi chúng ta phải phình bụng ra mà chịu, không khéo chạy theo là thua. Mình không nghĩ, không nói gì hết, ngồi sững, một hồi rục rịt coi có tỉnh không. Nhưng nhớ qua được cái này không phải nó ngừng, mà tiếp tục tới cái khác, rất nhiều thứ. Do vậy có khi suốt một thời thiền hai tiếng đồng hồ, chúng ta chiến đấu với vọng tưởng, hết anh này tới anh kia. Điều cần yếu phải nhớ tỉnh. Tỉnh trước mặt, sau lưng, trên đầu, toàn thân đều tỉnh hết. Phải gan dạ mới làm chủ nổi, sơ hở một chút là nó dẫn đi ngay. Đó là những kinh nghiệm trong việc tu hành của chúng ta.

Việc tu hành nếu chúng ta không quyết tâm miên mật thì cuối cùng không có kết quả gì hết. Tu là dừng lại, không chạy theo những vật chất huyễn cảnh bên ngoài. Chúng ta nghỉ ngơi, tỉnh táo, từ đó thấy được con người chân thật tìm ẩn sẵn nơi mình. Nếu ngày xưa đức Thế Tôn chạy đua theo quyền lực, cung vàng điện ngọc bên ngoài thì không bao giờ ngài phát minh được của báu nhà mình. Do ngài thấy được mọi thứ vật chất không thiệt, huyễn hóa, không thể giữ gìn nó mãi, do thiền định và phát sinh trí tuệ, từ đó ngài thấy suốt. Bây giờ chúng ta cũng phải có thời gian thiền định cho tỉnh sáng, phải tập tu như đức Phật mới yên định, mới thấy suốt được.

Một khi chúng ta không yên thì không bao giờ định, không định thì không phát sinh trí tuệ. Dù cho nói chúng sanh có sẵn trí vô sư, nhưng nếu không có định, trí ấy cũng sẽ không hiện. Bấy giờ phiền não cấu nhiễm che phủ hết, trí vô sư cũng nằm trong tủ sắt khóa lại hai ba lớp, không dùng được. Mỗi khi ta nhìn một người bạn làm điều gì bậy, trước nhất ta thấy thương. Bởi vì không phải con người bạn ấy như vậy, mà do trí vô sư bị trùm kín, cho nên bạn làm theo bản năng. Thực ra khi nghe lời Phật dạy, chúng ta tỉnh sáng, nhất định không làm việc sai trái. Chúng ta tôn quí Phật Bồ tát, chư vị tổ sư là vì các ngài có thời gian định tỉnh, đầy đủ trí tuệ, cho nên lời nói việc làm của các ngài đều đúng với chân lý. Từ đó chúng ta học theo các ngài.

Chúng ta là người tu hành, không khéo cũng bị những vọng tưởng dẫn đi dài dài. Những chú vọng tưởng ấy có khi chẳng ra chi, chẳng có gì quan trọng. Như tết Đoan Ngọ là tết của người Trung Hoa mà nó cũng chẳng tha mình. Đang ngồi thiền tự nhiên nghĩ tới ngày mùng 5 đi mua bánh ú về cho đại chúng ăn. Trong chương trình tọa thiền đâu có vụ đó, vậy mà không biết nó xẹt ra lúc nào không hay. Bây giờ ở đâu bán bánh ú nhiều? Miền đông này chỉ có miệt Trảng Bàng Tây Ninh. Phải lựa như thế nào? Bởi vì có những năm bánh ú cắn ra nghe mùi tro nhiều quá, ăn không được. Lại nghe người ta nói họ để hàng the, ăn vô chay gan chẳng hạn. Mình sợ, nên nghĩ phải ăn thử nữa chứ, ăn coi được mới mua. Nghĩ tới nghĩ lui một hồi cái mình nói thôi, bây giờ đừng mua bánh ú tro mà mua bánh ú làm bằng nếp có nhân ăn cũng được. Năm rồi mình cũng tính mua như vậy, nhưng có người nói muốn mua loại bánh ú đó phải đặt trước. Bởi vì dân Thường Chiếu đông, dưới hai trăm cái không đủ chia, cho nên phải đặt trước. Bây giờ đặt trước ai? Không lẽ trong mùa hạ đang tu mà vì muốn ăn bánh ú mình phải chạy vòng vòng? Nghĩ qua nghĩ lại thấy lúng túng. Tới chừng phát hiện ra, trời ơi nãy giờ ba cái bánh ú nó dẫn mình đi dữ rồi. Thôi ngừng lại. Kiểm tra quả thực là mình yếu xìu. Bánh ú còn dẫn mình đi được nói gì tới cái khác. Cho nên các huynh đệ đồng tu than vọng tưởng nhiều là phải. Mình không làm chủ được cái nào hết, hễ cái nào dấy lên là mình theo. Đó là điểm dở của chúng ta.

Trong vấn đề sinh tử, vọng tưởng là đầu mối dẫn chúng ta đi. Từ vọng tưởng mà phát sinh nghiệp. Nói đến nghiệp không thể không nhắc tới cận tử nghiệp, vì nghiệp này mạnh lắm. Một khi cận tử nghiệp hiện ra thì nó dẫn con người đi tới chết, chứ không khi nào nó đưa người ta sống lại. Cho nên khi nào cận tử nghiệp hiện lên là biết mình sắp được ngồi trên bàn và ăn cơm cúng rồi đó. Chỗ này Hòa thượng dạy rất nhiều, Ngài nhắc nhở chư Tăng Ni, Phật tử cẩn thận đối với cận tử nghiệp. Sở dĩ ngài nói nhiều như vậy là để cho chúng ta ngán mà lo tu, không dong rủi lang thang nữa. Phật nói nếu người nào cả đời làm lành, hoặc cả đời làm ác thì lúc lâm chung, một là được sanh lên trời, hai là rơi thẳng xuống địa ngục, không có gì phải bàn. Ngặt nỗi chúng ta đầu tháng làm lành, giữa tháng làm dữ, cuối tháng thì lúc lành lúc dữ. Vấn đề của mình là vấn đề nhiêu khê. Song chiếu theo luật nhân quả, khoảng nào làm ác thì bị quả báo ác, chắc chắn như vậy, không chạy đàng nào được, luật đã thế. Khoảng nào làm lành thì sẽ được hưởng quả lành, không mất mát đi đâu.

Trong kinh Phật dạy có những người phát tâm xuất gia tu hành, nhưng được một thời gian rồi hoàn tục. Ra đời, do hoàn cảnh thiếu thốn, cũng không làm được việc gì nên khổ. Từ khổ nên làm ác, càng khổ càng tạo ác. Bỗng nhiên người đó gặp lại bạn cũ. Người bạn này tốt có lòng thương, nên cứu giúp kẻ ấy. Nhờ thế anh trở lại làm lành. Phật nói trong tình trạng như vậy, lúc người ấy làm ác thì bị quả báo ác, hết quả báo đó rồi do làm lành được quả báo lành. Hết quả báo lành, nếu như phát tâm tu hành quyết liệt vẫn được thành Phật.

Bây giờ quí vị thử ngồi nghĩ lại xem những gì mình đã làm từ hồi nhỏ, coi có tạo nghiệp ác không? Như có cậu bé nuôi một con cưỡng, nó thương quá đi, mong con cưỡng mau lớn để lột lưỡi cho nó nói chuyện. Thương con cưỡng nên đi đâu gặp cào cào vừa con cưỡng ăn liền bắt ngắt đầu ngắt chân bỏ vô túi. Về nhà là cho con cưỡng ăn trước cái đã, chuyện gì thì chuyện. Hết con cưỡng rồi tới con sáo, hết con sáo rồi con oành oạch, rồi con này con khác… nghĩa là làm ác liên tục. Một ngày hại rất nhiều sinh vật để nuôi con chim cưỡng của mình. Những việc làm nho nhỏ của cậu bé mười một mươi hai tuổi, trong vòng hai ba năm mà đã ác như vậy, hà huống khi lớn lên lập gia đình, rồi tiếp cận với cuộc sống làm ăn, vật lộn tranh đua đủ thứ chuyện, thì việc ác không biết bao nhiêu. Nghĩ tới đó mà phát rùn mình.

Cùng là người Việt Nam, nhưng người bờ sông này và người bờ sông kia khác nhau, không ai giống ai. Chỗ này là chỗ Phật nói chúng sanh có cộng nghiệp và bất cộng nghiệp. Người được sanh những nơi có văn hóa là có phước. Trái lại, nếu người rơi vào hoàn cảnh tăm tối là kém phước. Đã kém phước mà còn nhiều chủng ác, làm những việc xấu từ tuổi nhỏ, như vậy cho tới lớn tới già, thử tưởng tượng không biết làm bao nhiêu việc ác? Nhiều vô kể. Theo đó thì quả báo, chỗ đến của người ấy chắc chắn không khi nào tốt đẹp.

Nếu một gia đình quy y tam bảo, suy nghĩ chỗ này rồi ai cũng muốn tu hết. Tu để làm gì? Để chỉnh đốn, để sắp đặt lại sinh hoạt gia đình trong khoảng thời gian mình còn có mặt đây. Bởi vì những người trẻ khi ra lập gia đình cần có sự tham khảo thế hệ cha ông, để biết rõ sự việc mà sắp đặt đời sống của mình, làm sao giảm thiểu bớt những nhân không tốt. Là Phật tử mà quí vị không giáo dục được con em dừng những nhân xấu, thật là quá dở. Kiểm tra lại trong một ngày, buổi sáng chúng ta nghĩ vớ vẫn, buổi chiều lại lăng xăng, buổi tối càng vọng động, đến khuya ngồi ngủ gục. Cuối cùng bốn thời thiền trong một ngày đêm, mình không dính dáng gì hết, quí vị thử nghĩ tu vậy thì thành gì? Đó là vấn đề hiện thực của chúng ta.

Các vị thiền sư thường nhắc chúng ta hai thứ bệnh mà hành giả tu thiền khó tránh được, đó là hôn trần và tán loạn. Nghiệm lại mình thấy đúng như vậy. Sáng nào nhà bếp cho ăn xôi hoặc món gì hơi khó tiêu, thì tám chín giờ lên ngồi thiền, chắc chắn ngủ gục. Nội cái ngủ gục nó nhận mình cũng tiêu, chứ đừng nói suy nghĩ gì. Tới thời thiền chiều, không phải tại ăn mà sao cũng ngủ? Hành giả lại đổ thừa tại chiều nóng bức. Thôi thì thời thiền tối. Buổi chiều mình ăn nhẹ, không dám ăn đồ sống, đồ lạnh, đồ ngon sợ tối cái bụng chình bình, ngồi không được. Do vậy mình chỉ uống nước sơ sơ hoặc nhiều anh không ăn gì hết. Nhưng rồi thời thiền đầu đêm cũng gục gặc, cũng vọng tưởng suốt. Như vậy là tại sao? Trong bụng trống mà cũng vọng tưởng nữa. Thôi, xả thiền đọc sách rồi ngủ. Tới ba giờ khuya thức dậy, hy vọng đây là thời gian tuyệt hảo nhất, bởi vì qua một đêm nghỉ ngơi khỏe khoắn, những gì cù cặn ban ngày đã hóa giải hết rồi, bây giờ bắt đầu giờ phút tinh anh mới mẻ. Nhưng lạ thay ngồi một hồi cũng ngủ, ngủ suốt. Nhiều tôn giả ngủ còn ngáy nữa chứ, giữa đông người mà dám ngáy! Kinh chưa? Cho nên người xưa bảo hôn trầm là bệnh trầm kha, không có thuốc trị. Chỉ tự mình trị cho mình thôi. Cách trị là chúng ta tự nghiệm, tự nhận ra được cái chân thật có sẵn nơi mình, có thể mới mong trị nổi bệnh hôn trầm.

Ngoài hôn trầm còn có tán loạn. Tán loạn tức là vọng tưởng. Như ở trên tôi đã nói. Ngồi lên bồ đoàn là nó dẫn mình đi năm trên năm dưới, dẫn đi tuốt luốt. Nó dẫn đi mình về không kịp, nghe đánh kiểng xả thiền mới chạy về, thì đã tiêu mất hết công phu, hết thời gian quí báu. Việc tu hành khó như vậy.

Bây giờ đối với hai bệnh hôn và tán, chúng ta phải trị làm sao, để bảo vệ công phu tu hành. Nếu không trị được nó thì công phu của chúng ta trôi loãng đi. Trong kinh các tổ dạy, sở dĩ bị hôn trầm là vì chúng ta tu không miên mật. Cho nên những lúc nhập thất, công phu nhiều huynh đệ mình ít ngủ. Chính tôi trong đợt phát nguyện nhập thất ba năm trên Thiền viện Chân Không, khoảng ba tháng đầu thì bình thường, ba tháng kế tiếp tôi đánh rút. Vì tôi thưa với Hòa thượng là con chia công phu từng đoạn ba tháng. Ba tháng thứ hai tôi đánh rút đâu chừng hai tuần lễ thì bắt đầu con mắt khô queo, cứ mở hoài. Lúc đó cũng làm Hòa thượng lo, thầy sợ mình điên. Bữa nào ăn sáng xong, Hòa thượng cũng lên hỏi đêm hôm ngủ được không? Dạ thưa thầy, con ngủ không được. Hòa thượng nhăn mặt: Thôi, tối chú đừng ngồi thiền nữa, cứ việc giăng mùng ngủ đi. Tới sáng bữa sau Ngài hỏi có ngủ được chút nào không? Dạ chưa. Hòa thượng nói: Thôi bây giờ chú không nên dụng công thái quá, tới giờ nghỉ cứ nghỉ. Nghỉ không vẫn giăng mùng nằm nhắm mắt lại. Thầy dạy đủ cách hết, nhưng bệnh mỗi ngày mỗi tăng.

Cuối cùng tôi nghiệm ra phóng túng quá thì sanh hôn trầm, thúc bách quá lại sanh mất ngủ. Mình không có kinh nghiệm nhưng ham tu, do đó công phu thái quá, tự nhiên sanh bệnh. Bây giờ phải dịu lại, dịu lại ở thần kinh chứ không phải dịu lại ở thời khóa. Chúng ta cần phải điều hòa thân tâm. Khi điều hòa được rồi việc tu rất nhẹ nhàng. Từ đó tôi ngủ lại bình thường, vui vẻ tiếp tục tu hành. Tinh thần vui vẻ là một phương thuốc, nó ổn định những việc mình đang vướng mắc. Sau khi tụng kinh xong, nghỉ một chút rồi tọa thiền. Xả thiền ra, tôi tôi giăng mùng nằm nhắm mắt lại, trong lòng không sợ gì hết, ngủ được một giấc, như vậy là yên rồi. Sáng ra thầy lên hỏi bữa nay sao? – Dạ khi hôm con ngủ được. Thầy nói: Bữa nay thấy tỉnh rồi đó.

Người ta nói tu thiền không khéo bị điên. Không khéo là không biết điều hòa. Công phu không quá thẳng, không ngồi trông đợi điều gì. Khi thấy vui, tu hành thắng tiến là mình muốn làm tới. Thân này, sức chịu đựng của hệ thần kinh vừa phải, quá tầm nó thì không điều động được. Khi chúng ta không điều động nó được thì phiêu lưu lắm, bấy giờ sanh đủ thứ bệnh. Cho nên điên ở chỗ đó. Hoc nói tu thiền bị ma ốp cũng trong những quảng quá tầm này. Vui quá cười hỉ hả thì ma hoan hỷ nhập. Buồn quá, rầu rĩ như cơm nguội buổi chiều thì ma buồn rầu nhập. Nếu lười nhác thì ma lười nhập. Tinh tiến quá thì ma tinh tiến nhập. Hễ quá đà là sai. Từ đó tôi có một chút kinh nghiệm điều hòa, nên suốt thời gian nhập thất an ổn.

Xin nói thêm về một triệu chứng bệnh quá đà nữa. Có một thời gian tôi thích đọc bài Chứng Đạo Ca. Hồi trước Hòa thượng dạy mình hiểu nhưng có những chỗ chưa thông lắm. Tự nhiên hôm đó ngồi ăn cơm, không biết sao nhớ tới Chứng Đạo Ca, rồi đi tìm đọc. Đọc say sưa. Buổi sáng tôi dán mắt đọc, tới chừng bỏ quyển kinh ra thì thấy nhà bếp đã đem cơm lên cho mình. Buổi trưa thấy ngủ uổng quá, ăn xong súc miệng rửa mặt rồi lại ngồi đọc. Tôi tưởng đâu đọc chút thôi, ai ngờ đọc một hồi nghe đánh kiểng thức chúng. Buổi chiều cũng đọc. Cứ như vậy, chừng hơn một tuần tôi bị sảng. Vì vậy tôi đề nghị với những huynh đệ cùng tu thiền, phải điều hòa thân tâm. Điều hòa thân tâm là điều hòa sức khỏe mà cũng là điều hòa công phu tu hành. Có thế mới tiến được, nếu không chúng ta bị hụt hẫng rồi sanh biến.

Chúng ta phải tự làm chủ lấy. Mỗi người tự biết bệnh của mình. Chúng ta lắng nghe những kinh nghiệm của các bậc tiền bối, của thầy tổ, nhưng thực sự ta phải tự thể nghiệm. Thể nghiệm để biết tật, biết bệnh của mình mà trị. Như vậy mới yên được. Nếu mình không trị mà cứ ngồi đó đợi thầy thuốc thì không bao giờ hết bệnh. Khi mình làm chủ được thì mọi việc sẽ ổn, sẽ bình thường. Tu thiền tưởng đâu ngồi yên, nhưng thiệt ra đó là một cuộc chiến đấu kịch liệt, mình phải làm chủ. Vọng tưởng vừa nhảy ra, mình liền điểm trán khiến nó dừng lại. Việc này đâu ai biết, chỉ có đương sự biết được thôi. Cho nên tôi nói huynh đệ cố gắng giữ tâm không chạy theo, không dính mắc vọng tưởng. Mình không chạy theo, không dấy khởi, không dính mắc thì nó làm gì được mình.

Từ năng lực, từ trí tuệ chúng ta huân tập lần lần sáng ra, rồi sẽ hóa giải, sẽ đập tan những sôi nổi, bồng bột từ những năm tháng cũ. Đọc kinh sách thấy vọng tưởng nhiều quá đi, mình đâm sợ, không biết chừng nào nó hết. Quí vị đừng lo, cứ tu tới, một lúc nào đó mình kiếm nó không ra nữa. Đó là lúc trí tuệ khỏe mạnh rồi, đạo lực đã sung mãn, mình bình yên tỉnh táo, không còn bị xoay bởi những hiện tượng vọng tưởng. Bấy giờ muốn vọng tưởng cũng không khởi vọng được.

Thêm một điều nữa, ở đây nói quả báo có là khi có tác động thành nghiệp, nếu không tác động, không có thành nghiệp thì không có quả báo. Trong chuyện tu hành điều này khiến cho anh em chúng tôi vững niềm tin. Ví dụ như người tu không lập gia đình và gìn giữ giới luật, bảo vệ việc tu hành. Tuy nhiên những vọng tưởng về gia đình ở lứa tuổi thanh niên làm sao không có. Ngoài đời người ta lớn lên lập gia đình, đó là chuyện đương nhiên rồi. Bây giờ thầy tu không lập gia đình, tuy nhiên thoảng qua những giây phút vọng tưởng về cuộc đời, về con người, về gia đình, về xã hội v.v… các thầy cũng có. Nó là vọng động, như vậy những suy gẫm này có quả báo không? Nếu nó có quả thì các thầy không tu giải thoát khỏi luân hồi sinh tử nổi. Đó là điều mà đa số thanh niên tu hành đặt ra như vậy.

Thật ra người có tu, tự nhiên nhận ra chỗ này. Tuy có vọng tưởng, nhưng chúng ta không chạy theo, không để nó dấy khởi tiếp tục. Nó mới vừa manh nha từ trong ý niệm liền bị chúng ta đưa vào chỗ không lặng, trong kinh Kim Cang nói đưa nó vào chỗ tịch diệt. Vì vậy nó chưa phát ra thành nghiệp, chưa hành động, cho nên không thọ quả. Còn nếu vọng tưởng vừa dấy khởi, mình chạy theo, tiếp tục nuôi dưỡng khiến nó lớn lên, tạo nghiệp, dẫn phát ra hành động thì phải thọ quả. Đằng này chúng ta gắng gổ, quyết tâm, vọng tưởng không có chỗ tác động nên không thành nghiệp. Bởi thế, rất nhiều vị tăng trẻ khinh thường, không coi giá trị giữ giới là cao tột nên họ không giữ được đời tu của mình. Quả thật tâm niệm có những vướng mắc, nhưng nó thoáng qua nhẹ thôi, không quấy động nổi định lực và trí tuệ, do vậy chúng ta vẫn tu được. Thành ra chính bản thân người tu phải đi vào con đường thể nghiệm đó. Hòa thượng nói vọng tưởng không làm gì được mấy chú, nếu mấy chú nghe lời thầy ở trong khung của thiền viện, nỗ lực tu học. Lúc nào cũng sống theo sự sắp đặt, theo quy chế của thầy, thì vọng tưởng không dẫn mấy chú đi đâu được. Chỉ khi nào chúng ta chạy theo vọng tưởng, nó mới lôi mình đi.

Nhà thiền có câu chuyện trong nhà sáu cửa, bên trong có con khỉ kêu chóe chóe, con khỉ bên ngoài nghe cũng đáp lại chóe chóe. Bây giờ nếu con khỉ bên trong ngủ, con khỉ bên ngoài kêu đã rồi đi, không ăn thua gì hết. Qua câu chuyện, Tổ sư muốn nhắc nhở huynh đệ chúng ta phấn khởi trong tinh thần tu tập. Nếu công phu chính đáng thì nhất định mình đi tới nơi tới chốn. Chúng ta tin chắc đời trước mình đã có công phu thì đời việc tu hành sẽ thành tựu.

Đạo thì luôn lưu thông, không bị trói buộc, thẳng vào chỗ vô trụ, vô niệm. Ở đây Hòa thượng dạy chân tâm vô niệm. Nếu chúng ta ngồi không suy nghĩ gì mà rỗng rang sáng suốt, trong tâm không hình tướng, không bị hoại diệt, rõ ràng sáng suốt. Đó là vô niệm, là chân tâm. Nếu người chưa nhận ra được tâm này, thường bị vọng tưởng dẫn đi. Bây giờ xoay lại nơi mỗi động dụng của mình, thấy là chân tâm, nghe là chân tâm, ngửi là chân tâm, nếm là chân tâm. Nghĩa là cái biết là chân tâm. Chân tâm đó luôn hiện tiền mà vô niệm. Vì chân tâm vô niệm nên không dính mắc, thấy liền biết là chân tâm rồi. Huynh đệ đang vọng tưởng mà đừng chạy theo nó là vô niệm.

Lục tổ lại dạy: Vô trụ tức là tánh sẵn có của mình, cái đó bất sanh bất diệt. Vô tướng là gì? Là ngay nơi tướng mà không dính mắc tướng. Tức là ngay nơi tất cả các hiện tượng, chúng ta không dính mắc. Đối với tất cả hình tướng, hiện tượng chung quanh, mọi thứ đầy dẫy hết mà mình không dính mắc cái nào hết, đó là vô tướng. Vô niệm là có vọng tưởng mà không theo vọng tưởng. Vô trụ là tánh giác sẵn có không trụ chỗ nơi nào cả. Tinh thần vô trụ, vô tướng, vô niệm của Lục tổ đã đươc Hòa thượng chỉ dạy lại cho chúng ta thật rõ. Vừa biết là chân tâm, tức không theo vọng tưởng.

Từ công phu tu tập, chúng ta cố gắng phát huy thành ra năng lực tự do tự tại. Ví dụ như nói vô niệm, thì mình phải làm sao đừng theo vọng tưởng, trong bất cứ thời nào ở đâu, cũng không theo vọng tưởng. Vừa dấy niệm, không theo; nhớ cái gì đó, không theo; mình biết rõ mình có chân tâm. Chúng ta cố gắng trong công phu hằng ngày như vậy. Việc tu lưu ý cố gắng nhưng không nên quá đà. Vì quá đà dễ sinh bệnh. Có người ráng tu đến được chỗ phát tâm hoan hỷ, nhưng không biết làm chủ, phát cười lên. Thấy cái gì phấn khởi quá phát cười lên. Từ đó về sau mất tự chủ, lúc nào cũng cười hết. Đi cũng cười, đứng cũng cười, ngồi cũng cười, gặp ai cũng cười, chạy ngoài nắng ngoài mưa gì cũng cười cả. Lúc đó quá cỡ rồi, bị ma hoan hỷ nhập.

Trái lại với cười là buồn. Cái gì cũng buồn được. Đang ngồi tu, nhớ đứa cháu cha mẹ nó mất hết, nó đi làm thuê làm mướn, không được học hành tội nghiệp, ở chỗ đó người ta hành hạ, đánh đập mà không cho ăn no. Nó bị bệnh, khổ đau không biết đi đâu, không có nơi nương tựa, không ai giúp đỡ… Nhớ cái thương, cảm động quá mình khóc lên. Khóc mà không tự chủ được thì từ đó về sau gặp cái gì cũng khóc, khóc riết vậy. Một mình cũng khóc, giữa mọi người cũng khóc, đi ngoài trời cũng khóc, ở trong nhà cũng khóc. Đó là ma sầu bi nhập. Thành ra cái gì quá đà thì trở ngại. Chư huynh đệ biết thế đừng để rơi vào tình trạng quá đà. Việc tu hành cần gìn giữ trong sự điều hòa, trong vô niệm, vô trụ và vô tướng. Đó là tinh thần của người tu thiền.

Hôm nay tôi nói một vài kinh nghiệm bản thân, cách đối trị vọng tưởng nho nhỏ như vậy. Hy vọng từ những kinh nghiệm khiêm tốn này, huynh đệ chúng ta gắng gổ. Đây là việc làm tự nguyện, cho nên ta không thể ngồi đó đợi chờ, ỷ lại, trông cậy vào ai giúp mình. Nếu còn bị những niệm tưởng lăng xăng thì ta cố gắng tu tập thực hiện được vô niệm. Làm sao để mình được an nhiên tự tại, sống với chân tâm của mình. Nếu người hay chấp tướng, gặp tướng nào cũng ôm giữ, bây giờ biết sai thì phải bỏ. Các tướng không thiệt nên ta không chấp, ấy là được vô tướng. Nếu được vô tướng tam muội, vô niệm tam muội, vô trụ tam muội là được chánh thọ hay chánh định. Đã định thì chúng ta không bị lăng xăng xoay chuyển, an trú tỉnh táo sáng suốt.

Từ lời Phật tổ dạy, với sự quyết tâm của mình, nhất định chúng ta tu thành công. Bản thân mỗi vị làm tròn nguyện ước của mình đồng thời cũng làm vui lòng những người chúng ta mang ơn, các bậc thầy tổ. Tu có kết quả như vậy, chúng ta đóng góp một phần nào công đức vào sự thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, tức là thành tựu được sở nguyện tu hành, làm cho Phật pháp được mở mang trường cửu. Như thế mới xứng đáng là người đệ tử Phật.

4. Theo Dấu Đạo Sư

Hôm nay là ngày lễ kỷ niệm Khánh Đản đức Bổn sư Thích-ca-mâu-ni lần thứ 2545. Trong ngày này, tất cả những người con Phật đều hướng về đức Từ phụ, dâng hương tưởng niệm, đón mừng sự thị hiện của Ngài trong cõi đời. Từ nơi nguồn trí tuệ vô biên, từ con người đặc biệt này mà tất cả chúng ta biết hướng về quy y Tam bảo, phấn phát tu hành cho đến ngày viên mãn.

Trước tiên chúng ta cùng ôn lại vài nét sơ lược về lịch sử của đức Phật.

Ngài sinh nhằm ngày trăng tròn trong vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini), tại thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) Bắc Ấn Độ. Cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Maya. Sinh ra và lớn lên trong tiện nghi của bậc đế vương, nhưng Ngài không an vui, trong tâm luôn khoắc khoải về thân phận kiếp người. Cuối cùng Ngài từ bỏ thân phận Thái tử, xuất gia tìm đường giải thoát cho mình và tất cả chúng sinh.

Giai đoạn đầu, Ngài tu khổ hạnh. Trước khi xuất gia sống trong nhung lụa, nhưng ngài thấy những thứ đó chỉ là giả tạm, thêm ràng buộc, không giải quyết được gì cả. Thế nên khi quyết tâm từ giã cuộc đời đế vương, bước vào đường đạo Ngài tu khổ hạnh. Tuy nhiên trải qua một thời gian, Ngài thấy rằng: Phương pháp này, đạo lọâ này với khổ hạnh khắc nghiệt, ta đã không chứng đắc Tối thượng cứu kính, đó là Tri kiến thù thắng của bậc Thánh. Tại sao? Vì ta đã không đạt Trí tuệ cao thượng có khả năng đoạn tận khổ đau, giải thoát luân hồi sinh tử. Bởi thế, dù đã đạt được những công phu trong giai đoạn tu khổ hạnh, nhưng Ngài không yên lòng, không mãn nguyện vì chưa đạt được trí tuệ cao tột thù thắng. Từ nhận thức này, Ngài quyết tâm từ bỏ khổ hạnh và tìm một đạo lộ khác. Đây là nhân duyên tiến tới giai đoạn hành thiền dưới cội Bồ-đề suốt 49 ngày đêm. Dưới cội bồ-đề, Ngài trải toà cỏ và thệ nguyện: Nếu không chứng đạo quả Vô thượng Bồ-đề, giải quyết được vấn đề luân hồi sinh tử, dù thịt nát xương tan, Ta cũng không rời khỏi chỗ ngồi này. Đó là lời thệ cả quyết. Cho nên suốt 49 ngày đêm, bằng sức đại hùng đại lực Ngài kiên định ngồi thiền dưới cội bồ-đề, chiến thắng tất cả ma quân và cuối cùng đại trí tỏa sáng, Ngài chứng quả tại đây.

1. Bốn Tầng Thiền

Sau khi từ bỏ khổ hạnh, Ngài đã trải qua từng giai đoạn công phu hành thiền. Tầng thứ nhất Ngài đạt được là Sơ thiền. Ở tầng Sơ thiền, Ngài ly dục tịch tịnh, đoạn được tất cả dục và pháp bất thiện, nên tâm phát sanh niềm vui do ly dục.

Nói đến đây, xét lại công phu của chúng ta, rõ ràng mình chưa thực hiện được ly dục, nên chưa được tịch tịnh hỷ lạc. Sự quyết tâm và kiên thệ của đức Phật đã cho chúng ta một bài học. Nếu trong đời tu hành, mình không quyết tâm, không quyết tử thì sẽ không được gì cả. Thời xưa, chư Phật đã đạt được các tầng thiền như vậy với sự nỗ lực không ngừng, chúng ta cũng có thể đạt được nếu mình lập chí như các ngài.

Đến tầng thứ hai, Ngài phát triển được sự nội tĩnh và nhất tâm. Đây là một trạng thái hỷ lạc do định sanh. Trong công phu tu thiền, nếu thực hành đúng, chúng ta cũng có được ít nhiều kinh nghiệm này. Nếu buông hết những niệm lăng xăng, chúng ta sẽ được định tĩnh. Tất cả các pháp chung quanh không kéo lôi nữa, chúng ta làm chủ, không mắc míu bởi các hiện tượng bên ngoài. Đây là giai đoạn thiền định đi tới trạng thái nhất tâm. Nội tĩnh, tức là trong nội tâm yên tĩnh, sáng suốt, không một pháp trần nào sai sử được nên ta được định, được niềm vui trong khi định. Có thể nói người tu thiền nào nếu quyết tâm, tu đúng cũng đạt được như vậy.

Đến tầng thiền thứ ba, niềm vui vi diệu hơn, sâu sắc hơn, đặc biệt hơn. Đây là niềm vui do an trú trong chánh niệm tỉnh giác. Nếu tất cả chúng ta hiện tại đây luôn tỉnh giác, nội tâm lúc nào cũng rỗng rang, niềm vui sẽ tăng tiến. Niềm an lạc này có là do ta không lầm chạy theo những giả cảnh, những mắc míu đối với thân và tâm. Ta luôn ở trong chánh niệm hiện tiền, nội tại vững vàng sáng suốt an nhiên.

Đến tầng thiền thứ tư, là tầng thiền xả tất cả cảm thọ, tâm hoàn toàn thanh tịnh. Đây là giai đoạn trí lực đã viên mãn, định tĩnh hiện tiền, cho nên những cảm thọ hoặc khổ vui v.v đều yên lắng dứt bặt. Nội tâm hoàn toàn thanh tịnh.

a. Niềm vui Ly dục

Chúng ta thấy trong công phu tu hành, muốn được định, được tuệ, được chánh niệm hiện tiền, thì những niệm lăng xăng loạn tưởng phải lặng hết. Người có thiền định, trí tuệ sẽ phát sáng, tất cả cảnh duyên chung quanh không làm gì được họ, nên hành giả có những niềm vui. Niềm vui ban đầu là lìa dục niệm. Dục niệm là những ham muốn, thích thú với các cảnh duyên. Bước đầu của người tu thiền là dừng được trạng thái đắm trước đó. Với công phu như thế nào, chúng ta làm chủ được những dục niệm. Chỉ có công phu thiền định thôi. Muốn được thiền định phải có một quá trình tu tập, không thể chỉ nói mà chứng đạt. Do vậy người tu phải phấn đấu, chịu khó chịu khổ, tích cực công phu. Nếu không như thế nhất định chúng ta sẽ bị quây, bị say đắm bởi dục niệm, không làm chủ được. Không làm chủ được thì sẽ tạo nghiệp rồi bị nghiệp dẫn, trôi lăn trong dòng luân hồi sinh tử.

b. Niềm vui Định sinh

Sau khi đã làm chủ dục niệm sẽ được định. Giản dị như vậy. Định là gì? Định là dừng lại, là lóng lặng. Người được định không bị kéo lôi, không còn lầm chạy theo các pháp bên ngoài, nên có niềm vui bên trong. Ở đây Hòa thượng dạy chúng ta là Sống với Ông Chủ hay Sống với tánh giác của mình. Đây là giai đoạn thứ hai trong công phu tu hành.

c. Diệu lạc Chánh niệm

Giai đoạn thứ ba hành giả không còn bị tác động bởi tất cả cảnh duyên chung quanh, được chánh niệm hiện tiền. Người này có một sức tỉnh giác rất là phi thường, cảm thọ tự tại an lạc đối với thân. Tu đến giai đoạn này hành giả thấy thân an lạc vi diệu. Chúng ta ngồi tu thì có khi bị nóng bức hoặc lạnh buốt, làm bức xúc thân này là vì chưa đạt đến những trạng thái khinh an của các tầng thiền. Người chánh niệm trải qua một quá trình công phu dày dặn, làm chủ được thân này nên có niềm an lạc lớn. Đây là giai đoạn được bất động, sống trong chánh niệm.

Làm sao chúng ta sống trong chánh niệm? Muốn được chánh niệm chúng ta phải có nội công phu, đó là định. Nói theo danh từ thông thường cho dễ nhận, đó là bất động. Đức Thế Tôn bảo ngài thường ở trong Na-già đại định, tức lúc nào ngài cũng ở trong định. Chúng ta chưa được như vậy. Nếu có định cũng chỉ định trong một giai đoạn thôi. Sở dĩ chưa được định là vì ta còn chao đảo, chưa làm chủ dục niệm, chưa khắc phục được vọng tưởng lăng xăng, chưa gỡ những ràng buộc làm trở ngại cho việc thiền định của chúng ta. Nói Gỡ, nói Tháo, nói Dừng, nói Dứt v.v là một cách nói. Tóm lại là chúng ta chưa được bất động đối với tất cả các cảnh duyên.

d. Xả niệm Thanh tịnh

Đó là tầng thiền thứ ba. Đến tầng thiền thứ tư, phát triển hoàn toàn viên mãn luôn luôn được thanh tịnh. Chữ Thanh (?) là trong, chữ Tịnh (?) là sạch. Người tu hành đến giai đoạn này, tất cả dục niệm không còn, những cảnh thiện ác chung quanh cũng không có, mọi duyên ràng buộc không làm gì được. Đến chỗ này hành giả hằng được thanh tịnh. Trong những ước mơ của người tu, chúng ta tu mong nhất là được thanh tịnh, giác ngộ giải thoát.

Ngay trong công phu hằng ngày, làm sao đối với tất cả dấy niệm, chúng ta làm chủ được là có thể đi vào các tầng thiền trên rồi. Giản dị như vậy. Hòa thượng dạy hãy làm chủ những niệm tưởng lăng xăng của mình. Đó là giai đoạn đầu của công phu biết vọng. Đến giai đoạn thứ hai, khi đã thuần rồi chúng ta được định. Nhưng lưu ý không phải làm chủ được thì liền được định. Chúng ta phải có quá trình công phu, nghĩa là phải tu hành liên tục, miên mật. Sau khi được định rồi, cái định đó sẽ đi vào thâm diệu, nội tại chúng ta vững, hoàn toàn tỉnh sáng, tâm chúng ta sẽ được thanh tịnh, giác ngộ giải thoát.

Nhìn qua quá trình đó, chúng ta xét lại xem mình còn có những điểm nào sơ suất, trở ngại thì sửa đổi khắc phục. Người ta nói tu thiền dễ bị lạc hay dễ bị điên! Lời nói này không sai. Bởi vì đây là tu tâm, chuyên nhìn vào nội tại, nội tĩnh của chính mình, không bị cuộc hạn trong hình thức nào. Nếu lệch một chút chúng ta sẽ bị lạc và dễ điên lắm. Do vậy nên người tu thiền bắt đầu công phu phải cẩn thận từng đoạn, từng phần, kiểm xét cho thật kỹ, xét mình có làm chủ được chưa. Đối với tất cả dấy niệm, ta còn bị nó kéo lôi hay đã tỉnh sáng, phải thành thật với chính mình mới được. Trong tinh thần tu hành kỹ lưỡng kiên cố như vậy, nhất định chúng ta sẽ thành công.

2. Ba Trí Chứng Minh

Sau khi đã vượt qua những giai đoạn này, tâm đức Phật thanh tịnh không còn cấu uế, thoát ly lậu hoặc, nhu nhuyến, dễ sử dụng, kiên cố, bất động. Ngài hướng tâm hồi tưởng đến các tiền kiếp Lậu hoặc tức là những lầm mê còn vướng trong luân hồi sinh tử. Đức Phật dứt bặt, thoát ly được tất cả lậu hoặc, tâm Ngài nhu nhuyến, dễ sử dụng. Bấy giờ là tâm kiên cố, bất động. Từ đó Ngài mới hướng tâm nhìn lui về các tiền kiếp.

Kinh Kim Cang, Phật dạy Tâm quá khứ bất khả đắc, Tâm vị lai bất khả đắc, Tâm hiện tại bất khả đắc. Nghĩa là tâm quá khứ không thể được, tâm vị lai và hiện tại cũng thế. Tại sao Phật lại hướng tâm về quá khứ? Nên hiểu trong khi đang tu, Phật dạy chúng ta đừng vướng mắc trong bất cứ tâm nào, quá khứ hiện tại cũng như vị lai. Tâm không trụ không mắc mới được thiền định, hoàn toàn thanh tịnh. Khi đã thanh tịnh rồi thì tùy duyên, chúng ta có quyền hướng tâm về trước hoặc lui về sau. Còn chưa được như thế thì không nên để tâm trụ trước vào đâu cả.

Ở đây đức Thế Tôn đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi nên tâm Ngài tự tại vô ngại trong thời, việc hướng tâm không có gì sai quấy cả.

a. Túc Mệnh Trí

Giai đoạn đầu, Ngài hướng tâm nhớ lại nhiều kiếp quá khứ Ngài đã trải qua: Một đời, hai đời, ba, bốn, năm đời, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, một trăm, một ngàn, một vạn đời Ngài nhớ rõ trong vô lượng đời Ta ở nơi kia, tên họ như vậy, gia tộc như vậy, đẳng cấp như vậy, lối sống như vậy Sau khi thân hoại, Ta lại tái sinh nơi khác, với tên họ như vậy và rồi mệnh chung như vạây Bằng các cách này, Ta nhớ lại các đời sống quá khứ với nhiều đặc điểm, nhiều hoàn cảnh. Ta chứng được Túc Mệnh Trí hay Túc Mệnh Minh. Cái nhớ biết này, ghi nhận từ công phu tu hành, trong sự chứng đắc chứ không phải nghiên cứu sách vở, hoặc do người khác nói lại với mình. Thành ra cái nhớ này là của người có công phu tu thiền chứ không phải của thầy bói. Bây giờ có khi ngay trong hiện đời mà chúng ta nhớ không hết nữa. Những việc khoảng 2, 3 tuổi cho tới 10 tuổi, chúng ta nhớ không rõ. Ta nhớ đầu này ráp với chỗ nọ Trong khi đức Phật hướng tâm thanh tịnh, Ngài nhớ rõ, thấy rõ tất cả những sự việc trong vô lượng kiếp quá khứ giống như nhìn vào gương sáng thấy tất cả các vật. Thấy biết rõ ràng như vậy. Đó là từ định tuệ, từ công phu tu hành mà được.

b. Con Mắt Tuệ

Đến giai đoạn thứ hai, Ngài chứng Thiên Nhãn Minh tức là có con mắt thanh tịnh. Con mắt này siêu phàm, vượt tri kiến phàm tục, thấy tất cả cảnh chúng hữu tình, sự cao sang hạ liệt, thông minh ngu đần, mỗi người tái sinh ở cõi lành hoặc cõi dữ, tùy theo hạnh nghiệp riêng. Được Thiên Nhãn Minh là được Con Mắt Tuệ. Nhìn bằng Con Mắt Tuệ sẽ thấy rõ nghiệp nhân nghiệp quả của vô lượng chúng sinh không lầm. Nghĩa là, vô lượng chúng sinh từ hạnh nghiệp nào, hoặc bị đọa vào thế giới khổ đau. Chúng sinh tu tạo phúc lành, có hạnh nghiệp thiện được sinh vào thiên giới, những nơi an lạc. Thấy biết rõ tất cả những sự việc như thế. Túc Mệnh Minh là hướng tâm nhìn thấy, biết việc của mình trong vô lượng kiếp. Thiên Nhãn Minh là hướng tâm thấy biết việc của vô lượng chúng sinh trong nhiều đời kiếp. Người có tu chứng sẽ đạt những thần dụng như thế. Nói thần dụng hay nói thần thông nghe lớn lao, thật ra đó là những cảm nhận mà chúng ta có thể trải qua nếu mình tu tập đạt kết quả tốt. Như người giữ giới luật trang nghiêm thanh tịnh thì có trí tuệ, thấy biết mọi pháp đều sáng suốt đúng đắn, biểu hiện phúc lạc ra ngoài. Nhìn người đó, chúng ta cũng cảm thấy an lạc. Hoặc người bị sử duyên tăm tối trói buộc, ta nhìn vào thấy cũng bất an. Như ở Tây Tạng, các vị Lama đi ra ngoài, được quần chúng đón mừng rất nồng nhiệt, sau đó các Phật tử vây quanh cúng dường.

Những bậc tu hành giữ giới trang nghiêm thanh tịnh, các ngài hướng tâm về cái gì đều thấy biết rõ cái ấy. Nhất là các vị thâm niên, công phu kiên cố, sống được với chánh niệm, có khi các ngài chỉ ngồi gần mình, nhìn gương mặt mình, nghe hơi thở mình các ngài biết nghiệp tập của mình ra sao. Người tu tới đây không bao giờ bị lui sụt nữa. Sở dĩ chúng ta còn bị lui sụt là vì tâm chưa được thanh tịnh, Con Mắt Tuệ chưa hiện tiền. Thế nên cái thấy của ta còn kẹt trong duyên, trong cảnh, trong luân hồi sanh tử.

Phật nói chúng sanh chịu luân hồi sinh tử từ vô lượng kiếp, thay hình đổi dạng vô lượng lần. Có khi Thế Tôn nói tất cả những người nam là cha của ta, tất cả người nữ là mẹ của ta. Nói như thế không sai. Vì trong vòng luân hồi, duyên nghiệp ràng buộc, đời này làm mẹ đời kia làm con, đời này làm cháu đời kia làm cha chẳng hạn Con mắt mình chỉ thấy trong phạm vi hiện đời này. Đôi khi một đời này mình thấy chưa hết, làm sao thấy được các chuyện đã qua? Chỉ có Con Mắt Tuệ phát triển được thì cái thấy mới thấu suốt, thấy đúng như thật.

Chúng ta tu rất cần trí tuệ này. Vì cái nhìn lầm không tới nơi của mình chỉ một phút sơ hở thôi, cũng gây tạo nghiệp nhân không tốt. Đã gây nghiệp rồi thì sẽ bị quả báo. Có khi quả báo dài dài không có cơ hội dừng dứt. Như chư tổ thường nói: Sợi dây luyến ái gia đình nhiều kiếp dứt không được. Sợi dây tình cảm gia đình vô lượng kiếp bỏ không rồi. Đó là cái thấy của những vị đã hé mở cửa Đạo, thấy được lẽ thực. Thấy được lẽ thực, chứng được lẽ thực gọi là người Kiến Đế. Chữ Đế là chân lý. Bao giờ chúng ta thấy được lẽ thực của các pháp thì mọi sự ràng buộc không làm gì được mình.

Bởi chưa thấy được lẽ thực nên ta còn bị lầm, bởi chưa giác nên ta còn mê. Dù có giác, cái giác ấy cũng từng phần, từng đoạn thôi. Do vậy chúng ta vẫn chưa làm chủ được. Chữ Mê là quên. Mình ngủ quên là mê, tới giờ tu mà quên là mê v.v Thành ra nói Mê là nói quên. Cái quên ở đây tựu trung là quên tánh giác của mình. Quên tánh giác là quên hạt ngọc quý báu. Do đó chúng ta làm kẻ nghèo thiếu khổ đau lang thang xuôi ngược giữa giòng lưu lạc. Chúng ta quên rằng mình là con ông trưởng giả, con của Phật. Bởi quên nên lang thang nghèo khó, phải đi làm thuê làm mướn vất vả cùng cực. Bây giờ làm sao? Bây giờ phải nhớ, nhớ tức là nhận lại tánh giác. Giác là Biết. Ở trên nói Mê là quên, bây giờ Giác là nhớ lại. Nhớ cái gì? Nhớ mình có cái tánh giác.

Trong ngày kỷ niệm đức Bổn sư ra đời, từ nơi Ngài chúng ta có được pháp học hôm nay, biết đạo lý tu hành, có an vui là nhờ ân đức vị giáo chủ của chúng ta. Ngài thị hiện ra đời tu hành khó khổ như vậy, cuối cùng chứng đạt trí tuệ viên mãn. Từ đó Ngài dạy cho chúng ta biết mình có sẵn tánh giác, nhưng vì quên nên không nhận ra. Bây giờ nhớ lại tất cả chúng ta đều có khả năng thành Phật, đều là Phật sẽ thành. Trong kinh Pháp Hoa đức Phật nói chúng ta có Tri Kiến Phật. Chỉ cần nhận và hằng sống với Tri Kiến Phật là chấm dứt lang thang khổ sở. Nhớ là nhớ như thế, chứ không phải nhớ trước đây tôi có nhà lầu, xe hơi, làm ông gì Nhớ như vậy là nhớ bậy, chỉ khổ thêm chứ không sướng ích gì! Mình là con của Phật. Phật là Giác. Như vậy mình có khả năng giác ngộ. Bao giờ nhận lại viên ngọc quý báu vô giá đó, chúng ta cũng sẽ thành Phật.

Chúng sanh vì bước lang thang đã khổ nhiều. Một niệm lầm mê chưa dứt là gây tạo nghiệp nhân bất hảo. Bây giờ chúng ta đã nhận ra chỗ khuyết, nhận ra sự lầm mê rồi, thì tập trung công phu phát huy và nhớ lại, đừng quên nữa. Một khi nhớ lại rồi, tự nhiên ta thấy phấn khởi. Đạp lên được đất chân thật, nhất định mình sẽ không lui sụt công phu tu hành. Điều kiện bây giờ là quyết tâm nhớ lại gốc của mình, dẫm được lên đất chân thật thì cởi bỏ khổ đau trong nhiều kiếp sanh tử.

c. Lậu Tận Minh

Giai đoạn sau cùng, đức Phật chứng Lậu Tận Minh, tức là tất cả lạâu hoặc không còn. Ngài tuyên bố: – Ta đã giác ngộ, thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không còn trầm luân sinh tử nữa. Đây lời Ngài nói trong kinh A hàm: Sinh đã đoạn tận trong ta. Ta đã hoàn thành đời phạm hạnh. Những gì cần làm đã được làm xong, ta không còn tái sinh nữa. Ngài hoàn toàn giác ngộ giải thoát.

Giác ngộ hoàn toàn là lậu hoặc không còn. Do mê lầm chúng sanh gây tạo nghiệp nhân trong vòng luân hồi sinh tử. Bao giờ trí tuệ sáng suốt, không còn mê lầm thì không gây tạo những nghiệp nhân đi trong luân hồi. Chúng ta muốn giác ngộ trước nhất phải kiểm lại xem mình còn nhớ hay đã quên tánh giác. Nhớ, nhưng nhớ từng giai đoạn, chứ không nhớ hoàn toàn. Nếu cố lên chúng ta sẽ không bị quên nữa thì luôn sống với cái toàn giác, tức tánh giác của chúng ta. Sống được với tánh giác thì sẽ giống như đức Phật nói Sinh đã đoạn tận trong ta. Ta đã hoàn thành đời phạm hạnh. Những gì cần làm đã được làm xong, ta không còn tái sinh nữa.

Tất cả những dấy niệm ta buông được, hoàn toàn định tĩnh, tuệ Bát-nhã phát triển, thấy tất cả pháp đều không thật nên không vướng mắc, không chạy theo thì an toàn. Công phu hằng ngày đều đặn như thế, chúng ta cũng có phần như các bậc thánh hiền, chứ không đến đổi vô phần đâu.

3. Cái nhìn về Ba Trí Chứng trong áp dụng công phu

Từ Túc Mệnh, rồi Thiên Nhãn, đến sau cùng là Lậu Tận. Xét từng giai đoạn, chúng ta có thể thực hiện được không? Nói Tam Minh, Lục Thông là nói đến đạo lực, trí tuệ, chứng đắc siêu việt, độc đáo của các bậc Thánh, của vị giáo chủ. Qua quá trình đó, chúng ta nghiệm lại công phu của mình để cố gắng vươn lên đến chỗ rốt ráo ấy.

Trước nhất chú tâm của chúng ta là bỏ tất cả dục niệm. Nếu không bỏ dục niệm thì không có định. Không định thì không làm chủ được những vọng tưởng lăng xăng. Chỉ khi làm chủ được vọng tưởng, Con Mắt Tuệ mới hiện tiền, chúng ta sẽ không lầm, không quên tánh giác. Như lời Phật dạy chúng ta là Phật sẽ thành, có đầy đủ Tri Kiến Phật, nghĩa là có sẵn chất Phật. Từ đó ta mạnh mẽ thành tựu cho chính mình, dù có trải qua thời gian bao lâu cũng không ngán ngại. Đến bao giờ sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập và thành tựu viên mãn giác ngộ giải thoát.

Tu thiền mà nói chứng đắc là điều sai lầm. Tuy nhiên ở đây nói chứng đắc mà không có chứng đắc gì cả. Ví dụ mình bỏ quên một viên ngọc, bây giờ nhớ lại, có gì đâu chứng đắc! Phật nói chúng sanh có Tri Kiến Phật nhưng bỏ quên, bây giờ nhớ và nhận lại, không có gì chứng đắc. Cho nên nói chứng đắc mà không có gì chứng đắc. Chúng ta đừng lầm chỗ này.

Bây giờ tôi nói Túc Mệnh Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh qua cái nhìn khác. Trong kinh nói: Vào khoảng canh hai đức Phật chứng được Túc Mệnh Minh, thấy biết nghiệp nhân của mình và tất cả chúng sinh nhiều đời về trước từ việc làm lành làm dữ, cha mẹ quyến thuộc, giàu sang nghèo hèn, thọ yểu xấu đẹp cho đến mỗi đời tên họ là gì đều biết rành rẽ.

Bây giờ chúng ta ngồi thiền, hôm nào thấy như vậy thì hãy bất động, có cái gì sáng lóe lên cũng cứ bình thường. Biết chuyện quá khứ vẫn thản nhiên, không có tâm xua đuổi những hiện tượng ấy, đó mới thực là người bất động, thấy biết đến nơi đến chốn. Nếu một cảnh duyên nào, một lóe sáng nào được ta ghi nhận với tâm vui mừng hay lo sợ liền bị ma nhập. Người tu thiền điên là ở chỗ đó. Cho nên đối với cảnh duyên phải bất động.   Cảnh vui cảnh buồn gì mình cũng an nhiên bình thản, hằng sống với tánh giác thôi. Đó là chỗ đến mà cũng là công phu chúng ta phải thực hiện cho bằng được.

Giai đoạn thứ hai được Thiên Nhãn Minh, ở đây ghi nhận như thế này. Nửa đêm Ngài chứng được Thiên Nhãn Minh, thấy rõ ba cõi sáu đường những cảnh giới hoặc an vui hoặc nhơ bẩn, chúng sinh hoặc xinh đẹp hoặc xấu xa rõ ràng như nhìn vào trong gương. Chỗ này người tu thiền dễ bị vướng mắc lắm. Như một lúc nào đó chúng ta ngồi thiền tự nhiên trước mắt có vầng sáng hiện ra, mình thích thú hoặc bất an tùy theo cảnh hiện trong ấy, thế là theo quần tà. Giả dụ như trong vầng sáng hiện ra rắn độc hoặc hiện ra kiếp trước mình xấu xa, ta không thích nên thấy khổ, đây gọi là ma sầu bi nhập. Bây giờ không quan trọng tất cả những hình ảnh ấy nữa, cứ giữ tâm bất động, chúng ta làm chủ được, sống được với tánh giác liên tục thì những hiện tượng ấy tự tiêu tan. Nếu ánh sáng hiện ra những hình ảnh làm cho chúng ta vui, khiến tâm dao động tức là bị ma hoan hỷ nhập. Ma ở đây không có nghĩa là ma quái nanh vuốt, đi hổng chân trên mặt đất, mà là ta không làm chủ được tất cả các hiện tượng. Cho nên với người tu thiền, không để cảnh vui làm tâm hỷ phấn phát, không để cảnh buồn làm tâm bi sống dậy. Người tu nếu không khéo dễ rơi nước mắt lắm. Cảnh nào cũng thương, việc gì cũng khóc. Người như vậy mới nhìn thấy như từ bi, nhưng thật ra bị ma bi nhập, chớ không phải từ bi.

Đến giai đoạn thứ ba: Sao mai mọc lên thì Ngài chứng được Lậu Tận Minh, dứt sạch phiền não, rõ hết đầu đuôi nghiệp duyên, tâm thể lặng yên sáng suốt. Bấy giờ Ngài đã thành Phật. Tất cả lậu hoặc dứt hết nghĩa là tất cả sự mê lầm không còn nữa thì Ngài thành Phật. Đây là chỗ đến sau cùng của tất cả người tu chúng ta. Nhất định mình sẽ được thành Phật, sẽ giác ngộ như Phật, không còn lãng quên và lẽo đẽo xuôi ngược trong vòng luân hồi sinh tử nữa. Chúng ta tự tại hiên ngang đi trên con đường sáng suốt, con đường mà Tổ sư nói là Thường độc hành Thường độc bộ. Đó là con đường dứt tất cả lậu hoặc, không còn mê lầm nữa. Giác ngộ giải thoát rồi chúng ta sẽ giải quyết được tất cả sự kiện mà từ lâu không giải quyết được. Đó là sự kiện gì? Già, bệnh và chết. Người tu có tiến bộ cũng phải sợ điều này. Nói sợ là một cách nói để giữ vững công phu đến nơi đến chốn. Người công phu trậm trầy trậm trật phải ngán thôi, bởi vì già thì không còn khỏe mạnh tươi trẻ, tu rất khó. Bệnh tu cũng không được. Chết, mất thân rồi lấy gì tu! Già, bệnh, chết có thể chụp mình bất cứ lúc nào, nó không tha thứ một ai. Người phát tâm tu hành, học Phật và hành trì chánh pháp để hết khổ, được vui, không lẩn quẩn trong luân hồi sinh tử nữa. Thấy rõ đường đi, mạnh mẽ tiến thẳng trên con đường giác ngộ giải thoát. Cho nên có ai hỏi: – Thầy tu để làm gì? Hoặc kết quả của việc tu hành ra sao? Mình có thể trả lời: – Tôi tu để không còn bị lầm mê, để giải quyết già bệnh chết. Đồng thời động viên huynh đệ cùng đi trên con đường giải thoát.

Người tu thiền đi đường nào, tựa vào đâu, ai hướng dẫn? Đi trên đường giải thoát, tựa chỗ không thể tựa, mình hướng dẫn chính mình. Việc trọng đại như thế, nên mỗi chúng ta phải ý thức trách nhiệm của mình, không phải đơn giản đâu. Vị giáo chủ chúng ta dũng mãnh dứt khoát bỏ tất cả những thú vui của cuộc đời để đi tu, ý nghĩa rất siêu việt. Cho nên chúng ta phát tâm tu hành, hướng theo Phật đạo cũng mang ý nghĩa to tát vô cùng. Nên cần phải cố gắng vượt qua những tầm thường, để mỗi chúng ta thấy việc làm hết sức to lớn của đời mình. Từ đó chúng ta phát nguyện làm cho được, thực hiện trọn vẹn tâm nguyện của mình.

Hôm nay trong ngày kỷ niệm đức Phật đản sanh, tôi xin nêu lên vài nét về quá trình chứng đắc của đức Thế Tôn. Qua đó chúng ta nghiệm xét lại công phu của mình xem có bị sai lạc hay không để sửa đổi đúng theo pháp Phật đã chỉ dạy. Cuối lời tôi xin chúc chư huynh đệ hằng sống được với tánh giác, giải trừ tất cả lậu hoặc, để được giác ngộ giải thoát như đức Phật.

5. Dừng Tâm Sinh Diệt

Buổi sinh hoạt hôm nay, chúng tôi chọn đề tài dừng tâm sanh diệt. Nhân có một Phật tử than: Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.

Tôi nói: Nếu đạo hữu bắt được những vọng tưởng ấy đem tới đây, tôi quất cho nó mấy roi. Bằng như đạo hữu không bắt được, tôi cũng không biết làm sao hơn. Hòa thượng thường dạy: Vọng tưởng không thật, đừng theo nó thì yên. Ngày xưa một thiền sư Trung Hoa nói với người học trò hỏi đạo thế này: Ma quỷ nào dẫn ông tới đây hỏi đạo?. Ông đệ tử không trả lời được. Thật ra niệm tưởng là gì? Nó là những dấy niệm. Chữ niệm là nhớ nghĩ. Sự nhớ nghĩ thì đa dạng, nó ra sao mình không biết, dài ngắn thế nào không hình dung được. Nó có mặt vào những lúc mình không thích tí nào hết. Lúc nghỉ ngơi, ăn uống, tụng niệm, tọa thiền v.v.. nó cứ trào dâng với đủ thứ hình thức, cái còn lại trong chúng ta sau khi nó tới viếng là phiền não. Bởi vì nó tới quấy rầy choáng hết một khoảng thời gian, sự an tĩnh của chúng ta mất hết. Cho nên nghĩ đến công phu tu hành mình không vui. Như người khách mình không thích tiếp, không muốn tới mà họ cứ tới hoài, quý vị sẽ phiền não chứ gì. Mình muốn nói thẳng: Tôi không thích ông nữa. Nhưng có ai mà dám nói thẳng đâu, nên nó xìu xìu ểnh ểnh, chùng chùng, thẳng thẳng, thành ra phiền não, bất ổn.

Cho nên điều mà ở đây chúng ta cần trao đổi là công phu. Chúng ta phải làm sao có được một chút thiền định. Như nghe người nào nói: Sao con cứ bị vọng tưởng quấy rầy hoài, mình biết công phu của vị đó chưa được định. Bây giờ chúng ta phải làm sao để được thiền định? Trong công phu tu hành, nếu mình có thiền định thì trí tuệ phát sinh, bấy giờ vọng tưởng lăng xăng không làm gì được ta. Thật ra chúng tôi cũng còn niệm tưởng, nhưng tôi không quan trọng nó. Nó muốn tới thì tới, muốn đi thì đi, tôi không quan tâm, việc tôi tôi cứ làm. Những lúc nào chúng ta làm chủ được thì nó đứng ngoài cửa ngó thôi, không làm sao động đến ta nổi.

Bây giờ tôi đề nghị quí Phật tử khi vọng tưởng lăng xăng đến mình cứ mặc kệ nó, không phiền, không bận tâm, không nghĩ ngợi gì về nó. Miễn làm sao tâm chúng ta vững, tròn đầy thì tự nhiên vọng tưởng không làm gì được mình. Đó là một cách để chúng ta nuôi dưỡng công phu. Theo lời Phật dạy, người tu thiền mạnh trị vọng tưởng rất dễ. Do sức thiền định của chúng ta yếu nên khó yên ổn, vọng tưởng cứ quấy rầy hoài. Quý vị nghiệm lại xem trong một ngày, sự tu tập của mình cứ loay hoay với ba thứ gì đâu. Cuối cùng chúng ta thấy hôm ấy trôi qua một cách vô lý, mình không làm được gì.

Nghĩ cho cùng không ai bắt chúng ta đi mãi trong luân hồi, mình cũng thừa biết vòng luân hồi luẩn quẩn, lọt vô đó rồi thì cứ loay hoay mãi, không ai gỡ ra được. Đức Phật thị hiện nơi đời chỉ dạy những phương pháp để chúng ta dừng, cắt đứt vòng loay hoay luẩn quẩn đó, nhưng chúng ta làm chưa được. Bởi thực tế hiện tại những niệm tưởng ta chưa dứt được, những lăng xăng dấy niệm vẫn còn. Bây giờ chúng ta phải cố gắng! Nghĩ lại coi ai bắt mình đi trong đó? Tại sao mình đi tu? Thật ra đâu có ai bắt, vọng tưởng cũng không đem dây đem hèo gì tới bắt mình theo nó, tự nhiên mình cứ như vậy. Cuối cùng quả thật vì định tuệ của mình yếu quá, nên chúng ta bị loay hoay như vậy.

Bây giờ tập trung tu hành làm sao để chúng ta có sức mạnh. Sức mạnh bằng trí lực, dũng lực, bằng sự tỉnh táo. Có sức mạnh ấy ta mới trị được những thứ kia. Tu làm sao để không bị luân hồi sanh tử nữa, đừng loay hoay lẩn quẩn nữa, thật là khó ghê lắm. Bởi vì thói quen lăng xăng mình chưa chịu dừng. Nhiều vị nói: Thưa thầy con đến thiền viện là nhất định tu đến chết thôi. Tôi bảo: Tốt! Phải có tinh thần, có tâm mãnh liệt như vậy mới tu được, mới xứng đáng. Nhưng ở trong chùa đâu được mười ngày, lại thưa: Thầy ơi! Ở nhà kêu con về. Hỏi về làm gì? Nói không biết nữa, cứ điện thoại lên kêu con về, nhất định phải có mặt con mới giải quyết được. Đó, cứ như vậy thôi. Lần nầy điện thoại kêu về, lần sau tự dưng tới khoảng đó quí vị tự về.

Ngoài ra còn nhiều thứ khác nữa. Chẳng hạn nhức đầu quá phải đi bác sĩ, hổm rày ăn không được phải đi bác sĩ, hai chân đau phải đi bác sĩ, con mắt lem nhem phải đi bác sĩ v.v.. trăm ngàn thứ việc. Như vậy làm sao tập trung được tỉnh lực để yên tu, đạt được định tuệ. Với cuộc diện này, nhìn chung chúng ta yếu thế hơn vọng tưởng. Nghĩ cũng lạ, phải chi mấy thằng vọng tưởng nó to lớn hay hung tợn mạnh mẽ nên mình ngán mình sợ, đằng này không thấy mặt mày nó ra sao, nhưng nó lôi tới đâu là mình theo tới đó, mà chẳng thể làm gì nổi nó.

Bây giờ đối với vọng tưởng chúng ta phải làm gì? Phải khởi lên một sự quyết tâm, một niệm kiên quyết mình không chơi chung với nó, không chấp nhận nó, nó rủ mình đi mình không đi, có điện thoại tới liền cắt đứt v.v.. như vậy mai ra mới có thời gian tu. Tôi nghĩ ngày xưa Bồ tát Sĩ Đạt Ta ở trong khổ hạnh lâm sáu năm, nếu ngài cứ bị triều đình gọi điện thoại về hoài chắc là không thiền định gì được. Không đắc cả những pháp tu của ngoại đạo, hà huống là định tuệ, trí lực của pháp giác ngộ giải thoát. Nhờ Bồ tát Sĩ Đạt Ta kiên quyết một phen qua sông, ngài quyết liệt tăng tiến cho tới thành Phật. Sau khi thành Phật rồi, ở nhà năm lần bảy lượt cho người mời về, chớ không phải gọi bằng điện thoại nha, bấy giờ Phật mới chịu về. Khi về ngài chủ động, chớ không phải bị sắp đặt chỗ này chỗ kia. Đọc lại những đoạn sử này mình thấy thích thú làm sao.

Tin đức Thế Tôn trở về Ca-tỳ-la-vệ, Tịnh Phạn vương và thần dân, hoàng thân quốc thích chuẩn bị một cuộc đón rước thật long trọng. Tuy nhiên Phật không báo trước về lúc nào, đón rước ở đâu, ăn nghỉ ra sao. Triều đình cũng cho người hỏi han tin tức nhưng Phật không nói. Ngài về bất ngờ trong hình ảnh một vị khất sĩ hướng dẫn tăng đoàn đi khất thực từng nhà. Thành ra sự chuẩn bị linh đình của triều đình không dính dáng gì tới Thế Tôn cả. Ngài dẫn đệ tử đi khất thực, khất thực đầy bát rồi về, cứ cơm sẵn đó mà dùng đúng như pháp.

Hình ảnh này cho chúng ta một bài học thật quí báu. Chúng ta đi đâu sắp về là điện thoại báo “Trưa nay nấu cơm nha, thầy đi với mấy chục Phật tử nữa đó. Ra chợ coi cái gì ngon mua về nấu”. Do vậy ở nhà phải tính toán đúng giờ, tất bật chuẩn bị đủ thứ. Thấy như bình thường nhưng rõ ràng mình mất chủ động. Đáng lẽ trên đường mình tự do, muốn đi thì đi, muốn ngừng thì ngừng, chừng nào về tới thì tới, không quan trọng việc đặt định ở nhà phải cơm nước, như vậy khoẻ hơn không. Mình đi đứng tự tại, nói làm tự tại, không bị lệ thuộc bởi điều gì cả. Đàng này dính mắc cơ sở, sự sắp đặt… đủ thứ. Nghiệm từ những việc nhỏ rồi tới những việc lớn, sự tu hành vì thế khó giải thoát quá. Rất khó, chớ không phải đơn giản.

Ngày về của đức Thế Tôn ở cung thành Ca-tỳ-la-vệ, bao nhiêu người trọng vọng, đón rước, cả vua Tịnh Phạn cũng thế. Nhưng Thế Tôn thực hành đúng theo nghi luật của một đức Phật. Ngài không để sự thân thương của gia đình, tổ quốc làm trở ngại phép ứng xử của một đức Phật. Người tu chúng ta bây giờ không khéo còn dính mắc hơn ai hết. Như từ đây tôi về Đà Lạt thăm Hòa thượng, vừa tính đi thì mấy chú thị giả biết, liền điện thoại lên Trúc Lâm báo: Bữa nay thầy về đó nha, khoảng mấy giờ đó là tới. Mỗi lần thông tin như vậy, có khi Hòa thượng lo. Ngài trông Ủa! Nghe nói chú đi hồi sáng mà tới chiều mới tới, xe có sao không, đi gặp chuyện gì không… Quý vị thấy, những vướng mắc của mình ảnh hưởng đến chung quanh. Cho nên chúng ta cố gắng làm sao gói gọn lại, tháo gở lần ra, để cho hơi thở, cho sự sống của mình được tự do tự tại một chút.

Bây giờ chúng ta phải định vị lại, định vị cái gì? Định vị chúng ta là một chúng sanh còn trong luân hồi sanh tử hay đã giác ngộ giải thoát? Nghe thầy dạy tất cả chúng sanh đều có tánh giác, ta phải sống được với tánh giác thì mới tự tại, mới giác ngộ giải thoát. Nhưng bây giờ chúng ta biết được tánh giác ấy chưa, sống được với nó chưa, hay chỉ nghe và nói qua danh từ? Với người tu, tôi nghĩ mình phải biết mình. Người xưa dạy chúng ta phải phản quan, phải biết mình như thế nào. Tôi nghĩ trong công phu, sự tỉnh giác mạnh mẽ và sự khiêm cung trên bước đường tu tập sẽ giúp cho hành giả đẩy lùi vọng tưởng một cách có hiệu quả.

Hòa thượng thường động viên chư tăng: Mấy chú phải tỉnh, nghe tiếng kiểng liền ngồi dậy, cuốn mùng liền, dù muỗi mòng gì cũng cuốn lại. Rửa mặt rồi đi tới đi lui, hít thở. Nếu thấy hơi lừ nhừ, uống thêm vài hớp trà rồi đi ngồi thiền. Trong những thời điểm mình thấy mắt không muốn mở ra, chân không muốn đứng lên, dậy cứ ngồi đó không chịu rửa mặt, nếu mình chìu theo nó, thì nó dẫn đi đâu? À, ngồi đó một chút là ngã ra, nằm xuống. Nằm xuống rồi không biết gì nữa. Tới chừng giựt mình thức dậy nghe đâu năm giờ, người ta xả thiền rồi. Như vậy suốt hai tiếng đồng hồ, mình ở trong si mê, tăm tối. Cho nên thiền sư nói hôn trầm là ma quỷ, quả đúng như vậy. Mình đâu biết gì nữa, nó dẫn đi tuốt luốt không hay. Cũng tại tâm không quyết liệt, xìu xìu ểnh ểnh mà ra nông nổi ấy.

Nếu chúng ta cố gắng, mãnh tỉnh một chút thì sẽ vươn lên, vượt qua những trạng thái đó. Nghiệp tập chúng ta vốn sâu dày mà công đức cạn mỏng, nếu không cố gắng làm sao tu được. Các thiền sư thường nhắc: Ông đợi tới chừng nào mới kết thúc sanh tử? Lúc còn tỉnh táo, có thể kiên quyết, có thể lập định thế này thế khác thì phải cố gắng thực hiện cho bằng được. Chớ đợi tới khi không làm chủ nổi thân này, đầu óc mù mờ, thân thể mệt mỏi thì đâu có tu được nữa. Cho nên chúng ta phải định vị để cố gắng vươn lên, nhất định chúng ta phải thoát ra khỏi con đường trầm luân sanh tử.

Bồ tát Sĩ Đạt Ta khi ngài khổ hạnh triệt để, thân thể gầy còm, không thể tưởng tượng nổi. Trong sách diễn tả, hai ánh mắt của ngài sâu hóm như đáy giếng. Thân chỉ còn một chuỗi xương sống thôi, ngài biết con đường tìm đạo của mình trước đây chưa rốt ráo, chưa viên mãn. Do vậy ngài kiên tâm quyết chí phải đi cho tới viên mãn. Từ đó ngài nhận bát sữa của nàng mục nữ và đi tới dưới cội Bồ-đề, trải cỏ ngồi với một lời thề kiên quyết: Dù thịt nát xương tan, nếu chưa đạt được đạo quả vô thượng thì ta nhất định không rời khỏi chỗ ngồi này. Phải ý chí lẫm liệt như vậy mới có một ngày mai giác ngộ rực rỡ. Chúng ta ngược lại, cứ chấp nhận ngã xuống rồi ngáy lên, tới chừng trời rực sáng là đã năm giờ. Bửa nào rũi ro như vậy, sáng mai nghe đánh bảng ăn cơm, mình tự thấy xấu hỗ làm sao, thấy không xứng đáng tí nào hết. Anh em dậy tu, người nấu cơm chịu nóng, chịu lạnh, dọn lên cực khổ, bây giờ nghe bản mình lên ăn tỉnh bơ. Ngày nào cũng như vậy thì biết thành cái gì?

Đối với tâm sanh diệt, nếu chúng ta dứt được thì làm chủ vấn đề sanh tử. Thật ra chỗ này rất khó nói. Khi Hòa thượng giảng, có người hỏi: Người tu Tịnh độ, lúc lâm chung niệm Phật A Di Đà thì được Phật rước, mình tu thiền tới lúc lâm chung ai rước? Các thiền sư nói đó là lúc tự tại chọn đường mà đi, chứ không ai rước hết. Chỗ nào chúng sanh cần đến độ thì tới độ. Tới như một sứ giả chứ không phải bị nghiệp dẫn. Rõ ràng như vậy, khi niệm lăng xăng dứt được thì sanh tử dứt được. Đi đứng nằm ngồi trong mọi giờ giấc kiểm nghiệm, mình thấy niệm lăng xăng chưa dứt, thì biết vòng luân hồi chưa thể dứt.

Chúng ta muốn dứt niệm lăng xăng khó hay dễ? Rất dễ cũng rất khó. Đừng chạy theo nó thì dễ, còn chạy theo nó thì khó. Hoà thượng dạy chúng ta phải chủ động, đừng để nó chủ động mình, phiền lắm. Chúng ta đều biết vòng luân hồi sanh tử nếu không dừng được thì chúng ta còn khổ. Biết sẽ khổ mà cứ lao tới, đó là người không có trí tuệ. Các thiền sư nói khổ lại thêm khổ. Thành thử bây giờ phải làm sao dừng được lăng xăng. Nghiệm lại quá trình tu tập, đối với những dấy niệm chúng ta còn nhiều hay ít thì đoán được kết quả của mình. Từ đó cố gắng, chứ khỏi cần trông cậy vào ai.

Có một đệ tử đến hỏi thiền sư: Thưa thầy con có Phật tánh không? Thiền sư đáp: Không có. Vị đệ tử ngạc nhiên hỏi lại: Tại sao Phật bảo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mà thầy lại nói con chó không có Phật tánh? Thiền sư đáp: Tại vì có mà không dám nhận thì cũng như không có. Quý vị thấy phải vậy không? Mình biết dễ mà tu không được kể như khó chớ gì. Dễ mà khó. Khó nhưng rất dễ. Đây là chỗ ách yếu trong công phu tu hành của chúng ta.

Trong cuộc sống hiện tại, nếu chúng ta không chỉnh đốn công phu, cứ để ngày qua ngày, trôi theo các sự duyên, trong tâm luôn dấy niệm loạn tưởng, thì làm sao tự chủ để đi con đường mình chọn. Thiền sư thì phải làm chủ, không bị nghiẹâp dẫn. Nghiệp là cái gì? Nghiệp là năng lực tạo tác từ thân khẩu ý. Thân làm gì, miệng nói gì, ý nghĩ gì, các thao tác ấy tạo thành năng lực, năng lực đó hình thành nghiệp lực. Nghiệp lực dẫn mình đi thọ báo. Ví dụ chúng ta hay nói lời gì, làm gì, lâu dần thành quen, nó dẫn mình đi theo hướng đó. Rồi ý nghĩ, như xưa nay mình chuyên môn nghĩ xấu thiên hạ, thì ý nghĩ ấy tạo thành năng lực, đẩy mình đi tới chỗ hễ nghĩ là nghĩ xấu thiên hạ.

Người tu phải chủ động ba nghiệp thân, khẩu, ý. Đó là cách chúng ta khống chế năng lực xấu. Được thế ta mới tự tại, còn không khống chế nó, không có năng lực gì hết thì đâu thể tự tại. Nếu muốn trước giờ phút lâm chung tự tại chọn đường đi thì ngay đây ta phải tự tại. Bây giờ mình chưa tự tại nên ngồi nghĩ một hồi thì toát mồ hôi lạnh. Thiền định chưa vững, thầy dạy phải tỉnh mình cũng chưa tỉnh, xìu xìu ểnh ểnh, buổi khuya ai nấy đều dậy ngồi thiền còn mình nằm ngủ. Thói quen xấu chưa dừng được tức là còn bị nghiệp lôi.

Chư huynh đệ nhớ, khi thấy tay chân quờ quạng, hơi thở yếu, ta không còn chủ động được là biết lúc này mình sắp từ giã. Đừng sợ, đừng hoảng hốt thì mới không đi vào các đường dữ. Bằng ngược lại, nghiệp lực sẽ dẫn chúng ta thọ sanh ở những nơi tương ưng. Trong kinh nói rằng người vừa nhắm mắt, tự nhiên thấy trời nổi sấm sét, rồi tiếng hú, tiếng gầm của cọp beo thật ghê gớm, đương sự mất tự chủ. Bấy giờ bên cạnh không có đệ tử, cũng không thân thuộc, không có cha mẹ, hoảng quá rồi chạy lẩn quẩn. Thấy có lùm tre gai nào đó liền tới núp cho cọp beo đừng xơi. Nhưng vừa núp vô, mở mắt ra thấy mang lông đội sừng, chuyển sang đời khác. Nghiệp dẫn chúng ta đi chớp nhoáng như vậy. Nguy hiểm ghê chớ đâu phải chuyện đơn giản. Do vậy cần phải định vị kiểm thấy mình chưa sáng, còn nghiệp nào xấu nhiều thì phải lo tu sửa, đừng để tới lúc sắp lâm chung, không thể tu kịp nữa.

Huynh đệ nghĩ rằng, khi mình lâm chung có những bậc thầy, những huynh đệ đến nói lời khai thị, nếu ???c như thế thì tốt. Giả như không có thì sao? Cho nên ngay trong khi sống, mình luôn nhớ những lời khai thị thì mới đảm bảo lúc lâm chung an ổn. Thầy tổ chúng ta thường dạy, người tu phải quan tâm vào việc chính của mình, không để dính mắc chuyện bên ngoài. Có ông thầy nào dạy đệ tử tu thì cứ tu, nhưng chuyện làm ăn lỗ lã của ai con phải biết dùm không? Không có. Chẳng có thầy nào dạy kỳ vậy. Chỗ này chúng ta chính chắn nghiệm lại, xem mình có làm đúng lời thầy dạy chưa, hay mình còn quan tâm nhiều thứ bên ngoài? Thiù dụ chiều chiều ra ngồi gốc Bồ-đề, thấy xe chạy rần rần, thiệt là sảng sốt. Rồi nghĩ, không biết mấy anh em chạy tới đâu, có chuyện gì không? Nghĩ rồi tưởng tượng, vẽ thêm sự việc. Có một người trong nhóm năm bảy huynh đệ nói chuyện xe đụng ở bên tây bên tàu gì đó. Chuyện vừa dứt thì chuyện xe đụng ở Sài Gòn hay Vũng Tàu được kế tiếp. Hết Sài Gòn, Vũng Tàu tới các tỉnh miền nam rồi miền bắc. Tự nhiên buổi chiều hôm đó xe đụng tùm lum hết. Cuối cùng đứng dậây ngơ ngác, vọng tưởng dẫn cả đám đi nhà thương. Việc người ta chạy báng mạng ngoài đường có dính dáng gì tới mình đâu, mà suốt buổi chiều xúm nhau, cấm đầu vô đó mà tưởng tượng, mà nói thôi là nói. Đó là gì? Là điên đảo vọng tưởng, là không soi xét lại chính mình mà chiếu lộn ra bên ngoài. Thành ra tầm bậy, khiến cho ba nghiệp không thanh tịnh.

Là người tu, chúng ta phải quan tâm vào việc của chính mình ngay bây giờ. Ta đang ngồi đây, làm gì? Đang ngồi tự tại, không làm gì hết. Nhớ luôn quan tâm như vậy, không để niệm lăng xăng phóng ra, thì mới làm chủ được. Còn nếu ngồi đó mà nói chuyện năm trên năm dưới thì tu không biết chừng nào cho xong. Đó là ta không chiếu cố, không chủ động, không xoay lại, không quan tâm chính mình. Việc làm của chúng ta là vừa nghĩ tới chợ Phước Thái liền chặt, nghĩ Sài Gòn chặt, nghĩ Vũng Tàu chặt, nghĩ Đà Lạt cúp luôn. Như vậy mình mới yên. Nếu chúng ta chỉ chuyên tâm chiếu cố việc của mình, đừng chạy ra ngoài, thì ngay đó trí tuệ rực sáng, mình có thể dừng bớt vọng tưởng dễ dàng.

Bây giờ chúng ta có thể đoán biết tại sao mình nhiều vọng tưởng? Tại vì mình cứ nghĩ ngợi, cứ lo ra hoài. Bộ phận đầu não cứ lao lư hoài, từ đó hình thành những dấy niệm, vọng tưởng thế này thế khác. Bây giờ làm sao đừng để như vậy nữa. Đó là điều rất khó nhưng không phải là không làm ???c, nếu chúng ta chịu làm. Hoà thượng dạy niệm vừa dấy lên liền biết, thì cái biết đó là chân tâm. Ngài chỉ thẳng như vậy cho chúng ta tu, nhưng nếu huynh đệ không chịu thực hiện, cứ xìu xìu thì tới lúc bỏ thân này chúng ta sẽ quờ quạn. Cho nên bây giờ phải hạ quyết tâm nỗ lực tu hành.

Chúng ta biết rằng mình đã lang thang trong luân hồi sanh tử nhiều đời kiếp rồi, bây giờ là lúc phải dừng. Biết luân hồi sanh tử khổ, đã nếm cái khổ đó nhiều rồi, bây giờ phải tự ý thức, tự dừng, tự mình làm chủ, đừng để nó kéo lôi lang thang nữa. Như hôm nay, huynh đệ chúng ta đang ngồi lắng nghe cách hành trì tu tập để được tự tại đối với các pháp, không bị luân hồi sanh tử nữa. Đó là một bước tiến. Do đó chúng ta biết cách dừng, biết sợ luân hồi sanh tử thì kết quả sẽ bớt trôi lăn. Như Phật nói: Người tại gia bị gia duyên ràng buộc như gông cùm, biết như vậy rồi quí vị không để cho những thứ đó bận bịu mình nữa. Đó là một cách vươn lên, vùng lên để được giải thoát.

Đã có cách rồi, bây giờ chúng ta phải gì? Phải nỗ lực, phải tinh cần. Vọng tưởng không có hình tướng gì hết, nhưng nó có sự hấp dẫn, vì vậy mình dễ lao theo. Bây giờ ta phải giành quyền làm chủ. Làm chủ ban ngày, làm chủ ban đêm, làm chủ luôn cả trong giấc ngủ và tất cả các sinh hoạt của mình. Dĩ nhiên thời gian đầu chưa quen ta bị rối loạn, không được như ý, nhưng không nản chí cứ tiếp tục thực hành như thế, dần dần ta sẽ làm được. Trước tiên chúng ta dừng được một số niệm tưởng lăng xăng, từ từ hạ quyết tâm phải chiến thắng toàn bộ bọn chúng.

Thiền sư Phù Dung thường nhắc nhở: Các ông đi trong luân hồi sanh tử đã nhiều lần, bây giờ cố gắng ngay trong đời này phải giải quyết cho xong, đừng đi theo lối mòn đó nữa, chỉ toàn khổ ách mà thôi. Biết khổ thì đừng lao tới, phải dừng, phải tự khắc phục lấy. Các ông hạ thủ công phu giống như người trồng hoa trên đá. Chúng ta luôn quan tâm, xét lại việc bổn phận của mình, dù khó khăn bao nhiêu cũng cố gắng, nhất định sẽ thành công. Tóm lại, làm sao dứt được luân hồi sanh tử, đó là điều cốt yếu nhất của người tu.

Muốn dứt luân hồi sanh tử phải làm chủ được những dấy niệm, đừng để nó chi phối mình. Làm chủ cách nào đây? Quí vị sắp đặt trong nhà có tấm bảng nhỏ, trên đó ghi rõ năm giờ sáng thức dậy ngồi thiền, sáu giờ ăn cơm, bảy giờ làm việc, mười một giờ nghỉ… sắp cho tới năm giờ chiều. Đã ghi trên đó thế nào thì làm y như vậy. được thế là tập trung, là có sức mạnh. Chúng ta muốn tu đạt kết quả tốt thì phải đủ bản lĩnh giải quyết việc của mình, không để lơ lững nữa. Ví dụ năm giờ là giờ tọa thiền, gần năm giờ có bà bạn điện thoại tới nói: Chị ơi! Bữa nay mình đi chơi chỗ này vui lắm. Nếu quý vị có quyết tâm trong việc tu hành, sẽ trả lời: Cảm ơn chị, năm giờ em có việc. Cắt một cái rụp, khỏi giải thích gì hết. Làm được như vậy nhất định quý vị có sức mạnh, nhất định sẽ thành công.

Việc tu hành hằng ngày phải cương quyết đối với các dấy niệm, các vọng tưởng. Chúng ta cố gắng chủ trì nó, đừng để nó dẫn mình đi. Trong những việc đời thường, ta làm một cách an ổn, không để phiền não len vô, đó là sự định tỉnh thường nhật. Sự định tỉnh nếu được thực tập thường xuyên sẽ có sức mạnh phi thường. Như khi chúng ta ngồi thiền được định, đó là chuyện dĩ nhiên. Nhưng xả thiền ra mình còn định hay không, mới là chuyện đáng nói. Người có sức định tỉnh sâu, trí tuệ sáng suốt, thấy rõ các sự kiện trước mắt trong mọi thời điểm, mọi sinh hoạt. Đó mới là nội lực chắc thực.

Hành giả tu thiền không được ai đón như hành giả tu Tịnh độ, thì mình phải tự tại mà đi. Nếu không, khi thấy mưa, gió, sấm chớp, tiếng la hét, kêu thương của người thân v.v làm mình không yên. Những thứ đó sẽ kéo lôi mình vào các đường xấu. Như vị nào trước phút lâm chung mà sân thì đi vào cõi ngạ quỷ. Thường thường khi gần chết, người ta nhớ lại đủ thứ chuyện cũ. Có người nhớ lại rồi sân, hoặc thân thể đau nhức quá cũng sân. Nhiều người đau quá không thể niệm Phật mà kêu trời, vì họ không làm chủ được thân đau nhức. Chúng ta đôi khi cũng vậy, vì hằng ngày không quen làm chủ nên tới lúc hấp hối, cận tử nghiệp quay mình. Bây giờ phương pháp tu hành chúng ta đã nắm, chỉ còn tích cực gầy dựng năng lực trong công phu, để đảm bảo có thể chủ động được trước phút lâm chung. Lúc này phải có sức mạnh mới cắt được dòng cận tử nghiệp.

Các thiền sư Việt Nam luôn dạy chúng ta phản quan tự kỷ, đó là việc bổn phận của mình. Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn. Chính mỗi người nghiệm xem coi mình làm chủ được chưa, rồi những huynh đệ chung quanh có làm chủ được không? Trong huynh đệ chúng ta có người làm chủ được, đó là tin vui, giúp mình tin tưởng rồi tất cả sẽ làm chủ được hết. Chúng ta tu thiền, Tổ bảo phải được định, có trí tuệ, chúng ta cố gắng tu cho ???c như vậy. Chớ biểu được định, chúng ta không định, không định làm sao có tuệ, mà không có định tuệ thì đâu làm chủ được.

Trong số các Phật tử đây, có nhiều vị đâu phải mới đi chùa ngày hôm nay. Tôi biết quý vị đã đi chùa nhiều năm tháng rồi, đã học Phật, đã có tâm tu hành mong cầu giác ngộ giải thoát, nhưng tại sao không được kết quả tốt. Đó là vấn đề quí vị phải suy nghĩ. Các thiền sư nói: Mỗi chúng ta đều có chân tâm, có bản lai diện mục, có Phật tính. Phật tính là gì? Là chất Phật thật. Có sẵn tánh Phật chúng ta mới tu thành Phật được. Nếu không có tánh Phật mình tu không thành Phật đâu. Chúng ta có sẵn nhưng vì bỏ quên, ngược xuôi theo trần cảnh bên ngoài nên lắm lem. Bây giờ cố gắng xoay về, nhận lại tánh Phật ấy thì hết khổ, hết lang thang trôi dạt trong sáu nẻo luân hồi. Đó là chúng ta biết tu.

Thiền sư Hoàng Bá có lời răn nhắc thế này:

Muốn thoát trần lao việc phi thường,

Đầu dây nắm chặt giữ lập trường,

Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt,

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.

Mình phải là người gìn giữ lập trường. Bởi vì muốn tu, muốn được hết khổ, được giải thoát thì phải giữ vững lập trường. Nhưng chỉ giữ vững lập trường không đủ chưa? Chưa. Ví chẳng một phen xương lạnh buốt, nghĩa là nếu chúng ta không có công phu, không có sự gắng gổ, thì không thể nào giác ngộ. Câu chót ngài nói: Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương, tức là không có công phu chắc thực thì trí tuệ không sáng suốt, không nhận ra được tánh Phật sẵn có nơi mình.

Trên đường tu, chư huynh đệ chúng ta hữu duyên kết được chủng Phật và ít nhiều gì chúng ta đã có một quá trình tu tập. Ngày hôm nay mình nhận ra lẽ chân ngụy là đã khá lắm rồi, bây giờ chỉ cần cương quyết lên, nỗ lực công phu thấu xương thấu tuỷ thì lo gì không có ngày đạt đạo. Kính chúc toàn thể chư huynh đệ dừng được tâm sanh diệt của mình, để rồi tất cả chúng ta tích cực bảo vệ sự tu tập của mình đạt được kết quả viên mãn, vĩnh viễn an vui, tự tại.

6. Nhớ Phật Nhớ Tu

Hôm nay ngày rằm tháng tư năm Quý Mùi, là ngày kỷ niệm khánh đản đức Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni. Giờ này Phật tử khắp năm châu đang thành tâm kính mừng ngày đấng giáo chủ ra đời. Tại đạo tràng Thiền viện Thường Chiếu tất cả Tăng Ni Phật tử cũng nhất tâm hướng về đức Bổn sư, kính mừng kỷ niệm ngày đản sanh của đấng Từ phụ. Nhân đó chúng ta cùng nghiệm xem mình phải làm gì trong ngày này dâng lên cúng dường đức Phật, để tỏ tấm lòng thành đối với Ngài.

Theo chúng tôi, chúng ta là con Phật, nhớ Phật thì phải nhớ tu. Người thời nay yếu đuối hơn người thời xưa trong việc tu hành. Người xưa có thể khắc phục, vượt qua mọi trở ngại khó khăn để thành tựu sở nguyện của mình. Cũng vấn đề như vậy nhưng chúng ta không gắng gỗ, không vượt qua được. Như ai cũng biết nguồn gốc của khổ đau là sự ham muốn, nhưng không ai từ bỏ sự ham muốn. Chúng ta biết rõ nếu giảm thiểu sự ham muốn hay dừng được ham muốn thì sẽ hết khổ đau. Giản dị như thế. Nhưng ta vẫn chưa dừng được. Như vậy chúng ta thử đặt vấn đề: Sự ham muốn là gì? Nó chính là những dấy niệm, những đam mê, mong muốn của con người. Nếu dừng những dấy niệm, làm chủ được mình là người biết tu thiền. Chúng ta cố gắng tỉnh sáng, đừng để những sự kiện chung quanh có sức mạnh quấy động, làm cho mình rối loạn. Nếu không chủ động được như vậy, chúng ta sẽ bị những dấy niệm đó dẫn đi.

Phật tử ít nhiều cũng có trải nghiệm công phu, song vì điều kiện chưa đủ hay nhân duyên còn hạn chế, quí vị thực hiện chưa liên tục. Vì thế chúng ta còn những quảng trống để niệm tưởng lăng xăng kéo lôi, từ đó sanh ra bất an bất ổn. Nếu quyết tâm, sắp xếp sinh hoạt khéo léo, nhất định quí vị sẽ tăng tiến việc tu hành. Có tu tiến mới có sức mạnh, có năng lực gầy dựng công phu đến rốt ráo viên mãn. Phải biết tu sửa từ gốc chính là tu ở lòng ham muốn, danh từ chuyên môn nhà Phật gọi là tham dục. Chúng ta chủ động được mình, không bị tham dục chi phối điều động thì con đường luân hồi chấm dứt, con đường tự tại an vui giải thoát lập tức mở ra.

Nỗi bất an là gì? Là những điều không như ý, nó rất tế vi. Người tu muốn được an lạc thì phải loại bỏ những tâm trạng bất an đi. Niềm an vui hạnh phúc chân thật từ nơi mình gầy dựng. Kiểm lại trong sinh hoạt hằng ngày, những nỗi bất an nhiều hơn an ổn. Sự an ổn tới với chúng ta ít ỏi lắm, còn bất an bất ổn lúc nào cũng sẵn sàng, nó tấn công chúng ta bất cứ lúc nào. Thoáng đâu đó được yên một chút, nhưng rồi chuyện bất như ý lại đến. Giây phút bình an mong manh quá, nhường lại cho nỗi lo sợ, toan tính, muộn phiền đè nặng trên tâm chúng ta.

Bây giờ mình biết phương dược để trị liệu, tiêu dung những thứ đó chính là Phật pháp, là thiền định thì hãy ứng dụng ngay. Chúng ta tự khắc phục, tự tu để được bình yên. Chúng ta không cầu khấn, không để mất thời gian, không ngược xuôi mong cầu ai ban cho mình sự bình an hạnh phúc cả. Mình tự vươn lên, siêng năng hành thiền, lấy lại sự định tỉnh và quyền làm chủ, tự chịu trách nhiệm đối với bản thân. Khi nào hết tham, hết sân, hết si thì được giác ngộ giải thoát. Như vậy đối với những niềm đau nỗi khổ ta tháo gỡ, buông bỏ không khó.

Trong sinh hoạt hằng ngày, người xưa dạy phải tỉnh, đừng để vọng tưởng lừa. Có thế mới không bị phiền não bất an tấn công, còn yếu đuối mất tỉnh giác dễ bị nó vây hãm. Nó là cái gì? Phiền não cấu uế là những pháp trần không thật, nếu nó thật chắc chúng ta không tu nổi. Bởi nó không thật nên ta có thể bỏ được, tu được. Tuy nhiên, phiền não có sức mạnh của nó, người tu không nên xem thường lơ là, nếu không quyết tâm đối trị, sẽ thua chúng dài dài. Cấu uế là những thứ không trong sạch, chúng ta phải loại bỏ đi. Muốn thế phải có công phu rèn luyện.

Rèn luyện như thế nào? Giống như người thợ rèn muốn rèn thành một món đồ, phải nướng thỏi kim loại đỏ lên cho nó mềm nhũng ra mới đập sửa, uốn nắn thành hình mình muốn làm. Đối với công phu tu hành cũng thế, chúng ta phải rèn luyện. Hằng ngày tỉnh táo sáng suốt rèn luyện, không để tâm bâng quơ, buông lung, ngược xuôi hay bị trói buộc bởi những sự kiện bên ngoài. Đó là công phu, là rèn luyện. Ở đây đặc biệt là đối với niệm tưởng, những sự kiện, hình ảnh, vấn đề chung quanh chúng ta, phải có sự rèn luyện loại bỏ nó ra. Những gì không cần thiết thì không quan tâm, không ngó tới. Thường chúng ta không làm được như vậy. Nói không cần nhưng cứ để ý tới, không buông xuống được, cuối cùng mở cửa cho nó vô nhà hết. Thành ra trong nhà chủ khách không rõ ràng, chủ không ra chủ, khách không ra khách. Người xưa làm chủ được việc này, những người khách không cần các ngài mời ra hết. Còn chúng ta chẳng những không mời khách ra mà còn để khách lộng quyền. Do vậy phiền não cấu uế vây hãm cả đời.

Tu tập là rèn luyện để có sức mạnh như sắt thép, chúng ta phải kiên quyết như vậy mới được. Xét kỹ mình chưa kiên quyết nên chưa chịu khó rèn luyện, công phu không vững vàng. Những sự kiện chung quanh ta thật ra đã có từ vô thủy cho tới bây giờ, khối u nhọt ấy nếu không cắt bỏ nó sẽ làm mình đau đớn vô cùng. Cho nên rèn luyện công phu cứng chắc để trị liệu, hóa giải phiền não. Công phu không vững sẽ không hóa giải nổi, như vậy tu cả đời vẫn phiền não cấu uế khổ đau. Lợi ích của rèn luyện công phu ngoài việc trừ bỏ phiền não còn được tịnh hóa thân tâm. Được vậy bước đường tu hành của chúng ta mới có kết quả chắc chắn.

Người tu nếu không có công phu, lúc đầu mình hướng dẫn cho Phật tử hóa giải phiền não, nhưng thời gian sau quanh trở lại, Phật tử khuyên lại mình. Khuyên làm sao? – Thầy ơi! Thầy ráng tu đi, ra ngoài khổ lắm! Hồi đầu mình làm thầy khuyên người ta: – Tất cả các Phật tử phải làm đúng theo lời Phật dạy để hết khổ được an vui. Bây giờ tới thầy cũng tâm sầu bạch phát. Đó là vì không rèn luyện công phu nên không làm chủ được, hoặc chủ không ra chủ khách không ra khách, chủ khách lẫn lộn nên mới như thế.

Chúng ta thử soát xét lại công phu của mình, như từ bảy giờ sáng tới bây giờ hơn chín giờ, trong hai ba tiếng đồng hồ, bao nhiêu sự kiện xảy ra, chúng ta giải quyết như thế nào, thua hay thắng? Nếu thua thì cố gắng lên, còn thắng thì không kiêu hãnh, phải cố gắng giữ vững được ý chí để tiến lên nữa, chứ không phải chỉ thắng bữa nay, ngày mai không thắng nữa. Như vậy gọi là rèn luyện công phu. Việc này nói ra nghe mau chóng nhưng phải mất nhiều năm tháng, mới thực sự có chút ít công phu rèn luyện. Chỉ người tu tỉnh mới dừng lại trước dòng trôi của cuộc đời, luôn xét nét kỹ càng tâm mình khi đối duyên xúc cảnh. Một niệm sơ hở là một khúc của dòng chảy, nó cuốn trôi ta đi mãi không cùng. Như những dòng nước xa nguồn, nó trôi ra biển cả mênh mông, đi về đâu ai biết được!

Đầu mối từ sự dấy niệm, sự ham thích của chúng sanh mà hình thành một dòng xoáy, trôi mãi như thế. Nếu chúng ta có sức rèn luyện, có công phu dừng sự ham muốn ấy thì dòng xoáy kia sẽ tan loãng, không hình thành được, không làm gì nổi mình. Rõ ràng một niệm vừa khởi lên, chúng ta buông được thì tâm lăng xăng mất liền. Ngược lại, nếu ta không làm chủ thì nó kéo đi tạo nghiệp. Thành ra dừng được dấy niệm thì tịnh hóa thân tâm, thành tựu được pháp hạnh cao siêu. Đã thanh tịnh thì tự nhiên tâm trở thành độ lượng. Một khi lòng đã mở rộng, ta có thể vượt qua tất cả những phạm vi nhỏ hẹp, sống dung thông tất cả. Con người độ lượng là con người không dính mắc, con người thênh thang. Muốn được độ lượng phải hành hạnh buông xả.

Đỉnh cao của pháp hạnh mà người xuất gia thực hiện tu tập là hành hạnh buông xả, không còn vướng mắc gì để đi tới tâm độ lượng vô cùng tận. Buông xả cái gì? Cái gì cũng buông hết, còn vướng mắc là còn buông xả. Xét lại chúng ta còn vướng cái nhà, miếng đất, chiếc xe, con cháu bất cứ cái gì nếu còn một niệm vướng mắc thì buông xả hết. Có buông xả như vậy mới tự tại, giải thoát. Hình ảnh tổ sư đứng trên một cành lao nhỏ lướt trên mặt biển, thể hiện thần dụng từ công phu rèn luyện buông xả triệt để mà ra. Nếu chúng ta buông xả triệt để cũng sẽ được thần dụng như thế.

Chúng ta buông xả hết sẽ được bình yên. Chữ bình là bằng, chữ yên là yên ổn, tức bằng phẳng yên ổn. Bằng phẳng yên ổn ở đây là không mắc mứu, không ngược xuôi rối rắm vì cấu uế phiền não. Người xưa dạy Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ. Không phải chưa sáng như đưa ma mẹ, sáng rồi thì ngồi chơi xơi nước. Công phu phải liên tục, lúc nào cũng vậy, rèn luyện kiên cường bền bĩ mới mong sáng được việc của mình, thực sự là người an ổn. Muốn bằng thẳng an nhiên thì những gì không bằng thẳng phải san bằng. Tất cả những vướng mắc trong cuộc đời này ta buông hết mới gọi là có chút phần tương ưng

Hằng ngày từ sáng tới chiều, trong mọi sinh hoạt đi đứng nằm ngồi, ăn cơm, ngủ nghỉ, làm việc v.v… đều sống trong sự tỉnh giác, buông xả. Chứ đợi tới giờ tụng kinh, ngồi thiền mới tu thì chưa thể gọi là rèn luyện công phu. Mọi hiện tượng chung quanh mình chưa làm chủ được thì khi sắp lâm chung khó có thể làm chủ nổi. Giây phút ấy niệm nào mạnh sẽ kéo lôi chúng ta đi thọ thân sau. Hình ảnh người thương, kẻ ghét sẽ dẫn chúng ta đi thọ sanh, từ đó tiếp tục gặp nhau vai trả trả vai không biết đến bao giờ mới xong. Cho nên phải có công phu rèn luyện để chủ động ngay trong hiện tại. Ví dụ mình soát xét lại, thấy từ sáng tới chiều, niệm tưởng nặng về ăn uống, ta không làm chủ được, cuối cùng nó kéo mình vô bếp, vô nhà hàng, vô quán… Vô đó để gặp những người cũng nặng về niệm tưởng ăn uống, cùng nhau quây quần trong một nghiệp ấy. Tóm lại còn niệm tưởng là còn phiền não, còn khổ.

Rèn luyện phải đi đôi với hạnh kiên trì, chứ không phải qua loa lấy lệ. Như chúng ta đang tu tập, chiều đến cả đạo tràng đều tụng kinh Bát-nhã. Đằng sau Thiền viện nghe tụng Bát-nhã, đằng trước Thiền viện cũng nghe Bát-nhã, bên phải Thiền viện cũng nghe Bát-nhã, bên trái Thiền viện cũng nghe Bát-nhã, chính trong Thiền viện cũng tụng Bát-nhã. Bữa nay nghe tụng Bát-nhã, ngày mai tưởng đổi kinh khác, té ra lại cũng Bát-nhã. Phía trước phía sau, hai bên ở giữa toàn là tụng Bát-nhã. Đó là rèn luyện. Tụng Bát-nhã tới bao giờ chúng ta có thần dụng vô cùng vô tận mới thôi. Ngoài tụng kinh Bát-nhã còn ngồi thiền, giữ giới hạnh, thúc liễm thân tâm, hành tất cả pháp hạnh của người xuất gia.

Các bậc tu hành bên tông Tịnh độ cũng không làm việc gì khác ngoài câu niệm. Người tu thiền thì sao? Người đã vào định thì không có gì làm động họ hết, lật bên đây cũng thiền định, xô té bên kia cũng thiền định, trong mọi sinh hoạt lúc nào cũng thiền định hết. Được như vậy thì tất cả phiền não cấu uế, vọng tưởng lăng xăng không làm gì nổi. Đó là người tự tại giải thoát, ra khỏi sinh tử, chấm dứt phiền não khổ đau. Nói tới sinh tử là nói tới vấn đề lớn lao mà chúng ta phải đương đầu. Cái sanh mình phải đương đầu, rồi tử như là ản án đã tuyên án. Như trong huynh đệ chúng ta, ai không chết? Có thân này đều phải bị chết bị sinh, không ai chống lại được. Chỉ người nào tu được thần dụng, đầy đủ trí tuệ thì mới chống lại được bản án đó. Thế nên chúng ta phải cố gắng hơn nữa, quyết tâm thực hiện cho được viên mãn công phu tu hành. Nếu có niệm chểnh mảng, chùng bước, liền chỉnh đốn ngay. Người tu đáng khen là người biết sửa lỗi, công phu mới tiến nhanh. Người xưa nói: Người không có lỗi trên đời hiếm lắm. Người có lỗi biết sửa là người quý, người tốt.

Chúng ta không tự ti mặc cảm, không tự tôn tự đại, là một người tu bình thường. Công phu như thế, pháp hành như thế, cứ thế liên tục giữ gìn, không được xem thường. Từng giai đoạn tỉnh sáng, xét nét thật kỹ, đừng để ngày tháng trôi suông, làm hỏng đi việc tu hành. Mỗi ngày qua, chúng ta kiểm điểm thấy chỗ nào chưa ổn thì khắc phục. Đây gọi là biết lỗi liền sửa, có thế mới xứng đáng là đệ tử Phật. Nhờ tỉnh táo sáng suốt, ta tự chịu trách nhiệm về các việc làm của mình, thành bại nên hư ta có thể nắm được.

Người tu phải siêng năng thực hiện pháp hành, siêng năng một cách liên tục. Siêng năng liên tục ở đây không có nghĩa là siêng ăn, siêng ngủ, siêng chơi, siêng nói chuyện tào lao, mà siêng đây là siêng bỏ vọng tưởng, siêng tỉnh táo an nhiên, siêng tu hành. Mình biết hoàn cảnh luôn đổi thay, thân này giả tạm, lợi dụng thâncảnh này để thành tựu Phật đạo. Chúng ta không đánh mất cơ hội thuận lợi, không đánh mất thời gian, như vậy hy vọng mới vẹn toàn công phu. Thật ra đây cũng không phải việc quá khó khăn, đòi hỏi mình nhăn mặt, há miệng, trợn mắt v.v.. ta bình thường an nhiên nhưng phải tỉnh. Tỉnh là gì? Là không ngủ mê nói mớ, không tham đắm ngũ dục, không bị còng trói bởi bất cứ việc gì, không lệch bên này, không vướng bên kia, lúc nào cũng trôi tròn an nhiên. Người như vậy gọi là tỉnh.

Nếu chúng ta làm chủ được, không bị vọng tưởng kéo lôi, nhất định sẽ tin tưởng vào công phu của mình. Bởi vì mình không bị lệch bên nào, không trở ngại công phu, nhất định sẽ tự tại, giải thoát, ổn định. Chúng ta xét lại, ăn mặc ngủ nghỉ, tiếp khách, làm việc, nhà cửa, xe cộ v.v.. chúng ta không vướng cái nào, không bị lệ thuộc hình ảnh nào, như vậy là tự tại rồi. Còn vướng thì chưa tự tại nên phải rèn luyện. Phút lâm chung, khi cận tử nghiệp hiện ra, hình ảnh nào mạnh sẽ lôi ta đi theo nó. Tham có mặt ta bị tham kéo, sân có mặt ta bị sân kéo, si có mặt ta bị si kéo. Chúng ta sẽ vướng, sẽ mắc mứu ở người mình không ưa thích hay rất ưa thích, từ đó phát sinh ra khổ. Cho nên phút ấy là phút quan trọng, nó được hình thành bởi công phu hằng ngày của chúng ta. Ghét nổi dậy chúng ta không theo, thương nổi dậy ta cũng không vướng, tự mình tiêu dung, buông xả tất cả. Người được như vậy mới đảm bảo làm chủ khi sinh tử đến.

Nghiệp chính là thói quen, hơi hớm thành chủng tử rồi, khi cận tử nghiệp hiện ra thì hơi hớm chủng tử đó có mặt. Nó có mặt thì khổ vô cùng. Cảnh thương kéo chúng ta cũng có, mà cảnh ghét đến chúng ta cũng không từ bỏ được. Muốn từ bỏ, muốn tự tại với nó, ngay bây giờ ta phải làm chủ, đừng để nó kéo lôi thì đối với cái chết mình mới làm chủ được. Đó là điều tất cả chúng ta phải đương đầu. Chúng ta nhớ, trong công phu hàng ngày, thương ghét vui buồn gì cũng phải buông hết. Người tu thiền là người đi theo con đường tự tại giải thoát, ưng đi đâu thì đi, không bị ràng buộc bởi cái gì hết. Muốn thế ngay từ bây giờ chúng ta phải đầy đủ pháp hạnh, không thể thiếu tỉnh táo sáng suốt được.

Trong ngày lễ kỷ niệm đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ra đời lần thứ 2547, tại đạo tràng Thiền viện Thường Chiếu tất cả chúng ta quý kính, hướng về vị giáo chủ nguyện đem công phu của mình dâng lên cúng dường Ngài. Để được là những thích tử xứng đáng, chúng ta nguyện tu hành đúng như lời Phật dạy, theo dấu Như Lai đi trọn con đường Phật đạo. Chúng ta tự hứa sẽ quyết tâm tu hành trong từng phút giây, để không cô phụ chí nguyện của mình, không cô phụ tứ ân, trong đó cao tột hơn hết là thâm ân của đức Như Lai.