Đ a n g t i d l i u . . .
Tuyển Tập Hải Triều Âm

Tuyển Tập Hải Triều Âm
Hoà Thượng Thích Viên Huy

 

Đặt Gánh Nặng Xuống

Thật khổ thay một đời sống có quá nhiều gánh  nặng được đặt lên. Những gì được gọi là gánh nặng? Đó  chẳng phải là khối vật chất có trong lượng lớn mà gánh  nặng ở đây tức chỉ cho tâm tham ái, chấp thủ về ngũ  uẩn đưa đến đau khổ, nặng nề và trở thành gánh nặng  nơi trần thế. Sự đau khổ về việc chấp thủ ngũ uẩn được  thể hiện rõ qua Tứ Diệu Đế. Khi đề cập đến diệu đế thứ  nhất và thứ hai, đức Phật nêu rõ về sự thực khổ đế và  nguyên nhân đưa đến khổ. Đây chính là giáo lý thâm  diệu giúp cho chúng ta hiểu tại sao cần phải đặt gánh  nặng mà bản thân đã mang vác nó từ vô lượng kiếp  xuống. Bắt đầu từ sự tham cứu và nhận chân về thực tại  mọi sự hiện hữu phát khởi luôn có khổ đồng thời sanh.  Chúng ta thường chỉ cảm thấy khổ nhưng không nhận  chân như thật về biểu hiện của khổ. Với bát khổ diễn  tả chân thực về hiện trạng của khổ được đề cập đến  như sau:  

+ Khổ vì sự có mặt gọi là khổ sanh. 

+ Khổ vì tàn tạ, héo úa, tiều tụy gọi là khổ già. + Khổ vì năm uẩn mất quân bình đưa đến đau bệnh  nhức nhối, khó chịu gọi là khổ vì bệnh. 

+ Khổ vì tan rã, hoại diệt không còn sức sống của năm  uẩn gọi là khổ chết.  

+ Khổ vì yêu thương năm uẩn bên ngoài gọi là yêu  thương xa lìa khổ. 

+ Khổ vì không hài lòng với năm uẩn bên ngoài gọi là oán tắng hội khổ.

 Tuyển Tập Hải Triều Âm | 63 

+ Khổ vì ước nguyện không thành tựu gọi là cầu mong  không được khổ. 

+ Khổ vì dính mắc chấp năm uẩn này là tôi, là của tôi,  là tự ngã của tôi.  

Tám cái khổ trên chính là biểu hiện tổng quát về  khổ đau bắt đầu từ khi sanh ra cho đến khi chết đi, khổ  đau không ngừng ngớt với sự chuyển đổi từ giai đoạn  này đến giai đoạn khác. Trong vòng luân chuyển bất tận  ấy, mỗi lần luân chuyển thì màn vô minh, ngu tối càng  thêm đặc dày. Tuy nhiên, xét về nguyên nhân chính yếu  của khổ đau thì cái khổ thứ tám, khổ do dính mắc vào  năm uẩn, bao quát toàn bộ các biểu hiện còn lại của  khổ. Do đó, có thể nói, năm thủ uẩn là nguyên nhân cốt  lõi đưa đến mọi sự khổ đau của chúng sanh. 

Chúng ta đa phần đều cho thân ngũ uẩn này là của  ta và lần lần hình thành nên một cái ngã. Chính cái ngã này có sự phân biệt giữa người và ta. Từ sự phân biệt đó mà có chấp thủ, bám víu vào những thứ được mang dưới  cái tên là bản ngã của ta. Để rồi khi một vật gì chúng ta  yêu thích, ham muốn mà không đáp ứng được cái nhu  cầu của bản ngã thì liền sanh đau khổ. Cái khổ ấy bắt  nguồn từ nguyên nhân mà đức Phật đã nhiều lần đề cập  đến trong tam tạng kinh điển như sau: “Sự tham ái đưa  đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc  chỗ này chỗ kia; như dục ái, hữu ái, vô hữu ái.” 

Tham ái (tanha) chính là sự yêu mến, sự thèm khát,  chữ ái ở đây là chỉ cho lòng ham muốn qua cảm thọ, ái chính là nguồn gốc của sự sinh tử luân hồi. Nếu xét về  mặt phân loại, tham ái thường được chia làm ba loại: 

Dục ái (Kamatanha) là sự ham muốn, đam mê, thích  thú đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. 

Hữu ái (Bhavatanha) cũng chính là dục ái nhưng  sanh khởi ở nơi người chấp thường kiến, cho rằng có một bản ngã thường hằng, tồn tại mãi  mãi, không thay đổi, không biến diệt. 

Phi hữu ái (Vibhavatanha) cũng là dục ái nhưng sinh  khởi ở nơi người chấp đoạn kiến, cho rằng tất cả đều  tiêu diệt, hủy diệt, không có gì tồn tại sau khi chết. 

Ba loại tham ái đều được xây dựng dựa trên thành  kiến sai lầm về bản chất các pháp, hay nói cách khác đó  là do vô minh nên có tham ái. Trên nền tảng của sự mê  mờ thiếu trí đưa đến sự nắm giữ, bám víu vào đối tượng  chúng ta ưa thích rồi từ đó sanh ra đau khổ. Nguồn gốc  khổ đau phát xuất từ nơi tự thân có quá nhiều tham ái  về bản ngã và thủ chấp về thế giới. Dựa trên lý duyên  khởi chúng ta có thể thấy, khi ái phát sanh thì theo sau  nó chính là thủ hiện hữu. Một khi hai chi phần này đã hoạt động thì các chi phần khác cũng hoạt động và bắt  đầu một vòng luân hồi tái sanh liên tục không có điểm  dừng. Cái vòng sanh tử luẩn quẩn ấy biết khi nào mới  có thể chấm dứt nếu chúng ta cứ mãi gánh trên vai một  đãy chứa đựng ngũ uẩn giả tạm này. Chỉ khi nào chúng ta vất được gánh nặng về sự tham ái và chấp thủ thì khi  ấy ngũ uẩn không còn là gánh nặng. Xét về mặt chữ nghĩa thì chỉ cần chúng ta vất ra khỏi thân tâm một chữ “thủ” thì liền bỏ được gánh nặng ấy chỉ còn lại ngũ uẩn  đơn thuần. Bản chất ngũ uẩn chẳng phải là gánh nặng  mà gánh nặng chỉ được đặt lên khi tâm thức tồn tại ái và  thủ. Do đó, trong kinh Tương Ưng, đức Phật dạy rằng: 

“Năm uẩn là ghánh nặng 
Kẻ ghánh nặng là người  
Cầm lấy ghánh nặng lên 
Chính là khổ ở đời 
Còn đặt ghánh nặng xuống 
Tức là lạc ở đời. 
Đặt ghánh nặng xuống rồi  
Không mang thêm gánh khác,  
Nếu nhổ khát ái lên 
Tận cùng đến gốc rễ 
Không còn đói và khát 
Để giải thoát tịnh lạc” 

Đã biết rõ ngũ thủ uẩn chính là gánh nặng thì chúng ta phải tự mình cởi bỏ chúng xuống thì mới có thể thoát được sự đau khổ. Nêu biết đó là gánh nặng  nhưng vẫn mang trên mình thì chính là những kẻ vô minh. Những kẻ ấy đắm vào dục lạc chút ít của thế gian  để rồi khổ đau muôn kiếp vẫn cảm thấy thõa mãn. Đối  với những người có trí, khi đã biết rõ được nguyên nhân  của đau khổ thì phải tìm cách đoạn trừ chúng thì mới có thể tiến bước trên con đường giải thoát giác ngộ. 

Muốn đặt gánh nặng thủ uẩn thì phương pháp  cốt lõi không gì ngoài sự thắng tri ngũ uẩn theo ba sự thật. Ba sự thật ấy chính là vô thường, khổ, vô ngã. Khi  chúng ta thắng tri một cách rõ ràng về ba trạng thái này  của ngũ uẩn thì liền có thể đoạn tham ái và chấp thủ.  Bản chất của ngũ uẩn vốn dĩ là vô thường, khổ và vô ngã. Chính cái thân mà chúng ta thường cho nó một  bản ngã ấy thực chất chỉ là một khối thịt do tứ đại sanh  cùng với tâm thức. Nó là sự kết hợp giữa danh và sắc.  Khi các yếu tố này hòa hợp thì thân ngũ uẩn này vẫn  tồn tại nhưng khi các yếu tố hợp thành này tan rã thì liền đoạn diệt. Sự tồn tại của một mạng sống chỉ trong  chốc lát. Nó mong manh như sương ma buổi sớm, thoắt  cái đã không còn tồn tại. 

Do đó, những thứ chúng ta cảm thọ được đều nằm  trong sự chi phối của vô thường. Ngay cả sắc thọ tưởng  hành thức cũng chẳng thể tồn tại một cách mãi mãi.  Như ngài Na Tiên đã từng giải thích trong Kinh Mi Tiên  Vấn Đáp: “Tất cả căn, trần, thức và những tâm sở đồng  sanh ấy chúng tương quan tương duyên với nhau. Như vậy thì thức, cái nhận biết, đâu phải là chủ thể, đâu phải  là cái độc lập, đâu phải là tự ngã thường hằng nương gá ở trong thân.” Khi thấy rõ được sự vô thường, biến hoại  trong ngũ uẩn thì bản thân chúng ta tự nhận chân được  rằng làm gì có cái nào được gọi là tôi, là của tôi và là tự ngã của tôi. Mọi thứ đều do đầy đủ các yếu tố mà hợp lại hình thành nên một thân do nhiều yếu tố tạo thành.  Cái thân ngũ uẩn này khi chết liền tan hoại, không thể nào tồn tại một cách vĩnh viễn. Nhưng do chúng ta bị vô minh che lấp lầm tưởng rằng đây là bản ngã của ta nên  dùng chính những thứ giả tạm này mà tạo ra nghiệp để rồi chính nghiệp ấy lại là yếu tố khiến chúng ta luân hồi  sanh tử không dừng. 

Bản chất của ngũ uẩn không hề gây nên sự đau khổ nhưng do chúng ta không thấy được bản chất thật sự của nó nên sanh ra tham ái và chấp thủ đối với thân này  nên mới bị khổ đau. Do đó, khi đã tu tập và hiểu rõ về ngũ uẩn thì chúng ta nên đoạn trừ những nguyên nhân  đưa đến khổ đau một cách tận gốc. Để có thể đoạn trừ được những thứ khổ do ngũ uẩn gây ra, hành giả phải  nỗ lực tu tập thì mới đoạn trừ được bởi lẽ có những sự tham đắm rất vi tế mà chúng phải tu tập mới có thể dứt  được. Quá trình đoạn trừ sự tham ái và chấp thủ đối với  ngũ uẩn không phải là việc một ngày liền có thể làm  được. Vì vậy, hãy nỗ lực áp dụng các phương pháp được  nêu trên để có thể chặt đứt cái khổ do thủ chấp đem lại.

 

Trang 1 2 3 4 5 6 7 8 9

0 0 Phiếu
Xếp Hạng Bài Viết
Đăng ký
Thông báo về
guest

0 Bình Luận
Mới nhất
Cũ nhất Được bình chọn nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả ý kiến