Đ a n g t i d l i u . . .
Tuyển Tập Hải Triều Âm

Tuyển Tập Hải Triều Âm
Hoà Thượng Thích Viên Huy

 

Nụ Cười Đích Thực 

Tâm an lạc và thanh tịnh là điều hết sức cần thiết  cho tất cả chúng ta giữa cuộc sống có quá nhiều cái khổ  tồn tại. Phải chăng con người là sinh vật khốn khổ vô  cùng chỉ vì có vô lượng trạng thái khổ đau được miêu  tả ? Thực chất, khổ đau hay hạnh phúc đều phụ thuộc  vào sự chi phối của tâm thức. Trong Duy Thức có câu:  “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Tâm khổ thì  thế giới đầy thống khổ, tâm lạc thì Tịnh độ liền sanh.  Sự an lạc nơi tâm thức chính là yếu tố quyết định đời  sống của mỗi chúng ta hạnh phúc hay khổ đau. Đối với  Phật giáo, khi nói đến sự an lạc và hạnh phúc người ta  thường nghĩ ngay đến hình tượng của đức Di Lặc Bồ  Tát. Mặt cười hạnh phúc với sự rỗng rang, vô ngại nơi  chiếc bụng lớn. Nụ cười đích thực ấy được xây dựng bởi  tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả. Nụ cười không tồn tại  cái khổ thường trú, cười vang cái tánh rỗng lặng như hư  không, chẳng vướng mắc. Dù cho khổ đau hay hạnh  phúc ngài vẫn cười cái mà thế gian chẳng ai cười nổi.  Chúng ta thường thấy hình tượng Bồ Tát Di Lặc được  tạc với dáng ngồi bệt, bụng to, tai lớn cùng với nụ cười  hoan hỷ. Bụng lớn ấy chẳng phải tướng của người say  sưa như dân gian thường nói mà nó mang ý nghĩa thông  qua hai câu thơ: 

Đại đỗ năng dung, dung thế gian   nan dung chi sự 

Hàm nhan vi tiếu, tiếu thế gian nan   tiếu chi nhân.

Dịch nghĩa: 

Bụng lớn năng dung, dung những  điều khó dung trong thiên hạ.  

Miệng cười hỷ xả, xả những điều  khó xả ở thế gian. 

Bụng lớn-nơi dung chứa tất cả những gì thế gian  khó dung chứa, dù đó là đẹp hay xấu, thành hay bại,  xưng tụng hay chỉ trích. Hạnh từ, bi, hỷ xả của đức Bồ  Tát Di Lặc được ví như tính chất của đất, thẩm thấu tất  cả những vật ô uế, bất tịnh và chuyển hoá chúng thành  dưỡng chất giúp vạn vật sinh trưởng. Bất kỳ sự khổ  đau, nhục mạ hay những trạng thái tồi tệ hơn nữa tác  động vào nơi Di Lặc Bồ Tát đều được bụng lớn dung  chứa tất cả lại chẳng buồn phiền và luôn toát ra sự hỷ  lạc tràn đầy.  

Khác với bậc Bồ Tát thượng sĩ, những bậc vì chúng  sanh mà phát khởi đại nguyện dấn thân nơi Ta Bà uế  trước hầu thuyết pháp độ sanh, hàng chúng sanh ngu  muội, căn cơ thấp kém khi tiếp nhận các tác động ngoại  cảnh đưa đến cảm thọ bất lạc liền khó kham nhẫn. Ngay  lập tức tâm thức sanh khởi sân hận và bị chiếm trọn bởi  gốc rễ bất thiện mà đưa đến hành động bất thiện. Lại  do hành động bất thiện nên quả khổ ắt phải lãnh thọ.  Chính do thiếu kham nhẫn, không hỷ xả đối với các  cảm thọ, luôn thủ chấp, bám víu vào cảnh trần mà tự  tạo ra một đời sống khổ đau về cả tinh thần lẫn vật chất.  Đối với cuộc sống chúng ta được bao quanh bởi quá nhiều cái khổ chồng chéo lên nhau thì khi được chút lạc  tạm bợ liền bám víu vào. Chẳng thấy được trong cái lạc  vô thường ấy khổ đau đã tồn tại.  

Nụ cười chúng ta thường thấy trong thế gian chẳng  phải nụ cười biểu hiện hạnh phúc đích thực. Thế gian  tràn đầy thống khổ và chúng sanh cười nụ cười chẳng  trọn vẹn, chẳng xuất phát từ an lạc thực sự nơi tâm thức,  chẳng phải nụ cười bất diệt. Nụ cười của chúng sanh  thay đổi theo ngoại duyên tác động. Chúng ta thường  cười khi thành công, khi đạt được những điều bản thân  mong muốn, cười khi cái lạc thọ ập đến. Những cái lạc  tạm thời nơi thế gian như chút mật ngọt nơi đầu lưỡi dao  sắc nhọn. Chúng sanh mê mờ chẳng thấy lưỡi dao chỉ  thấy mật ngọt, tranh nhau liếm mật liền bị đứt lưỡi. Vô  minh khiến chúng sanh mê mờ tâm trí, tự tạo ra thế giới  lạc thọ bởi vọng tưởng, điên đảo. Đắm chìm vào những  nhận thức sai lầm bởi những nụ cười tạm thời nhằm xoa  dịu khổ đau vốn đang bủa vây cùng với sự chi phối của  vô thường nơi kiếp nhân sinh. Thế cho nên chúng ta  thường nghe câu “ lắm kẻ cười ra nước mắt” chính là  chỉ cho cái cười xuất phát nơi tâm thức chứa đầy thống  khổ. Nỗi khổ ấy do sự tham chấp và ái luyến của tất  cả loài hữu tình. Chúng ta thường than khổ nhưng lại  chẳng truy nguyên nguồn gốc của khổ, chỉ thấy khổ và  than khổ. Tất cả chúng ta chẳng khác nào đứa trẻ con  khi không vừa ý nó liền khóc để thể hiện sự khó chịu.  Chúng ta cũng thể hiện sự khó chịu qua than trách, qua  cái cố bám víu chút lạc để xoa dịu cái khổ đã ăn sâu từ thân thể đến tâm thức. 

Sự an lạc đích thực chỉ hiện hữu khi chúng ta nhận  chân ra được thực thể về pháp giới tánh gói gọn trong  lưới càn khôn của vô thường luân chuyển. Có điều gì  thực sự tồn tại nơi thế gian vốn giả hợp thành? Thân  và tâm của chúng ta có thật chẳng nếu chia chẻ ra từng  bộ phận? Trên thực tế, chúng ta chẳng tìm thấy bất cứ  nơi nào tồn tại về một cái ngã bất diệt nhưng đa phần  lại chấp chặt vào một thứ sở hữu mang tên “ngã sở”.  Chúng ta sẽ tìm thấy cái ngã thể ấy ở đâu khi thân và  tâm của mỗi người đều do duyên sanh, giả danh mà tồn  tại. Vậy lý luận ngã sở có chăng là một thành kiến ngu  muội lấy bản thể vô ngã bám víu vào vật chất tạm bợ. 

Cùng xuất phát điểm từ hai chủ thể chẳng thật có mà  khẳng định đây là “tôi” và đây là “của tôi” thì quả thật  vô minh. Do sự ám muội về mặt nhận thức ấy khiến  chúng ta không nhận chân được không tánh bao trùm  khắp pháp giới. Chỉ khi nào chúng ta thấu triệt được  không tánh hằng hữu ấy, phá bỏ mọi tham chấp, bám  víu, đoạn khổ đau do vô thường chi phối thì nụ cười an  lạc đích tự tự nhiên sanh khởi, chẳng nhọc tìm kiếm. 

 Trong Phật giáo, ngoài biểu tượng của ngài Di Lặc  với nụ cười hỷ xả thì còn giai thoại niêm hoa vi tiếu: đức  Thế Tôn cầm cành hoa sen khai thị, trong đại chúng chỉ  duy nhất Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp mỉm cười. Ngay  sau đó, đức Phật liền tuyên bố với các thầy Tỳ-Kheo:  “Ta có chánh pháp vô thượng trao cho Ma-ha Ca-diếp.

Ca-diếp là chỗ nương tựa lớn cho các thầy Tỳ-kheo,  cũng như Như Lai là chỗ nương tựa cho tất cả chúng  sinh”. Nụ cười của Trưởng lão Ca Diếp đến nay vẫn có  nhiều tranh cãi khi mọi người cố gắng lý giải trạng thái  ấy. Tuy nhiên, chúng tôi chẳng cố đào sâu về phương  diện tranh luận, điều mà tôi muốn hướng đến chính là  nhấn mạnh về trạng thái đồng nhất thể giữa những  bậc thánh nhơn cảm ứng tương thông, dùng tâm truyền  tâm, đồng nhập vào không tánh, lìa nơi ngôn ngữ, văn  tự mà thấu triệt vạn pháp. Với sự giác ngộ đích thực lưu  xuất ra nụ cười bất diệt của những bậc thánh đã chấm  dứt mọi trói buộc, thể nhập vào thanh tịnh địa rốt ráo.

 

Trang 1 2 3 4 5 6 7 8 9

0 0 Phiếu
Xếp Hạng Bài Viết
Đăng ký
Thông báo về
guest

0 Bình Luận
Mới nhất
Cũ nhất Được bình chọn nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả ý kiến