Đ a n g t i d l i u . . .
Tuyển Tập Hải Triều Âm

Tuyển Tập Hải Triều Âm
Hoà Thượng Thích Viên Huy

 

Triết Lý Nhân Quả  Trong Phật Giáo

Triết lý Nhân Quả là một trong những triết lý Phật  giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân  Việt. Điều này được thể hiện đậm nét qua những câu ca  dao tục ngữ xa xưa như: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp  dữ” hay “gieo gió, gặt bão”. Tuy nhiên, phần đông mọi  người vẫn chưa thực sự thấu triết toàn bộ triết lý thâm  diệu này. Người ta chỉ hiểu những phần nổi của lý nhân  quả qua cái nhìn phiến diện với mục đích như liều thuốc  an thần, xoa dịu những khổ đau trong cuộc sống. Thực  chất triết lý nhân quả trong Phật giáo chính là nguyên  lý của tất cả mọi sự hiện hữu, mọi đau khổ hay mọi sự  vận hành tất yếu của vạn pháp mà được bao hàm trong  nhiều triết lý thâm diệu khác. 

Nhân Quả hay gọi đầy đủ là Nhân Duyên Quả Báo  bao gồm ba yếu tố: Nhân, Duyên và Quả. Nếu thiếu  một trong ba thì không thể nào được gọi là Nhân Quả.  Chúng ta thường quên mất yếu tố “Duyên” khi nói về  nhân quả. Duyên chính là yếu tố cần và đủ để quy luật  nhân quả vận hành. Nếu nghiên cứu và suy xét một  cách sâu sắc hơn thì duyên chính là cái tổng hợp tất cả  các nhân tố để quả có thể hình thành. Chúng ta nên  hiểu rằng không có bất kỳ vật nào trên thế gian chỉ do  một nhân mà tạo thành. Tất cả các pháp hữu vi đều tồn  tại dựa trên sự tổng hợp nhiều nhân duyên với nhau.  Do đó, có thể nói Quả chính là yếu tố có được do nhân  duyên đồng thời sinh.  

Một điều đặc biệt hơn hết khi phân tích nhân sinh quan theo triết lý Nhân Quả thì không hề có bất kỳ nhân  tố nào được gọi là định mệnh cũng như không có bất kỳ  đấng toàn năng nào tạo ra con người. Một con người  được hình thành dựa trên nghiệp lực của tự thân (quả).  Trong kinh Trung Bộ, Tiểu kinh Nghiệp Phân Biệt,  Đức Phật đã từng dạy rằng: “Các loài hữu tình là chủ  nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là  thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa,  nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt,  có ưu.” Mỗi người phụ thuộc vào biệt nghiệp mà có  sự khác nhau ở nhiều kiếp sống. Tuy nhiên, cũng có  trường hợp cộng nghiệp do những nhân tương đồng  với nhau tạo nên một cái nghiệp chung của một cộng  đồng hay ở một nhóm người. Giống như trong Jataka  có đề cập đến việc dòng tộc Thích Ca bị tàn sát bởi vua  Vidùdabha (Tỳ Lưu Ly). Mặc dù đức Phật đã ba lần cản  trở nhưng cũng không thể nào giúp dòng tộc của ngài  tránh khỏi nghiệp quả thả thuốc độc vào dòng sông  trong quá khứ. Vì vậy, có thể thấy nhân thiện hay ác đã  gieo trồng xuống khi hội tụ đủ duyên ắt sẽ trổ quả. Do  đó, ngài Quy Sơn cũng từng khẳng định rằng: “Giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên  hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ”.  

Xét theo phương diện của thập nhị nhân duyên,  giữa mười hai chi phần đều nằm trong lý nhân quả tại  ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Vô minh và hành được  đặt trong quá khứ. Hiện tại gồm tám chi phần: Thức,  Danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu. Tương lai với hai chi phần Sanh và Lão tử thể hiện quá trình tái sinh. Với  các mắt xích nhân quả nối nhau không ngừng tạo nên  một vòng tuần hoàn bất tận mà trong Phật giáo thường  gọi đó là vòng luân hồi (Samsara). Không thể có bất kỳ  một chi phần nào đơn lẻ sanh khởi để vận hành vòng  luân chuyển ấy. Ngay cả vô minh, chi phần thường được  xem là xuất phát điểm để vận hành duyên khởi cũng  chẳng do một nhân mà sanh khởi. Vô minh là sự tổng  hợp tất cả những nhiễm ô, lậu hoặc được tích tụ lâu dần  làm nhân và quả của nó chính là hành. Dựa trên lập  trường của lý duyên sinh thì lý thuyết đấng sáng tạo hay  định mệnh đều không thể tồn tại. Mỗi người đến với thế  giới cùng với những nghiệp nhân đã tạo và mỗi cá nhân  lại là người thừa tự nghiệp, là chủ nhân để điều khiển  thiện, ác, tốt, xấu. Không ai có thể gieo nhân và bắt  chúng ta gặt quả được. Do đó, chớ có sợ hãi khi nghe  những điều tà thuyết vu vơ của bọn tà ma ngoại đạo,  những người tự xưng là bậc có khả năng ban phước  giáng họa, bởi lẽ không ai có thể điều khiển được  nghiệp lực ngoài chính chúng ta. 

Nhân Quả không phải là một lý thuyết khó hiểu vì  nó hiện hữu ngay trong cuộc sống chúng ta. Có thể lấy  ví dụ như việc chúng ta gieo trồng hạt giống. Ngay khi  quyết định mua loại hạt giống nào thì chúng ta đã biết  rõ cái quả của nó là gì. Chúng ta muốn trồng ớt thì mua  hạt giống ớt, muốn trồng cà thì mua hạt giống cà. Cũng  vậy, trong cuộc sống khi chúng ta nhìn nhân thì sẽ biết  cái quả trong tương lai và ngược lại, muốn biết nhân thì hãy nhìn quả ngay trong hiện tại. Trong quy luật nhân  quả không có trường hợp đột biến gen để cho quả sai  khác. Nhân nào quả đó là lý thuyết bất di bất dịch. Do  đó, khi nói đến luật nhân quả nó thường được định  nghĩa: “Nhân là cái năng sinh, quả là cái sở sinh. Có  nhân ắt có quả, có quả ắt có nhân.” Hạt giống và quả  đều nằm trong nhau và tùy theo giống loại mà có quả  tương ứng, không sai lệch. 

Có thể thấy, quy luật Nhân Quả luôn vận hành  trong cuộc sống của chúng ta. Không có bất kỳ ai có  thể bước ra ngoài vòng luân chuyển bất biến này. Triết  lý này giúp cho tất cả chúng ta nhìn thấy rõ những gì  chúng ta đang thọ lãnh trong hiện tại chính là cái quả  của nhân trong quá khứ và những hành động thiện, ác  ngay thời điểm hiện tại lại chính là nhân đưa đến quả  trong tương lai. Hiểu được triết lý này một cách thấu  đáo rồi thì sẽ không còn bất kỳ sự hận thù, hơn thua  nào còn tồn tại trong chúng ta. Vậy nên, mọi người hãy  để cho quy luật Nhân Quả vận hành và chúng ta không  phải tạo thêm bất kỳ hạt giống bất thiện nào nữa.

 

Trang 1 2 3 4 5 6 7 8 9

0 0 Phiếu
Xếp Hạng Bài Viết
Đăng ký
Thông báo về
guest

0 Bình Luận
Mới nhất
Cũ nhất Được bình chọn nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả ý kiến