Tuyển Tập Hải Triều Âm
Hoà Thượng Thích Viên Huy
Chớ chờ đợi
Lý tưởng, mục tiêu hay ước vọng đều là đích đến mà tất cả mọi người muốn đạt được trong tương lai. Tương lai ở đây có thể là một tháng, rộng hơn là một năm hay xa hơn nữa đó là một kiếp người. Tuy nhiên, những ước muốn, những lý tưởng chúng ta hướng đến sẽ chỉ mãi là những ý nghĩ, những vọng tưởng viễn vông nếu chúng ta không thực hiện chúng. Vì vậy, những ai đã đặt ra mục tiêu, một đích đến tối thượng cho đời sống tinh thần lẫn vật chất thì hãy bắt đầu từng bước thực hiện chúng, chớ chờ đợi thời gian luống qua vô ích.
Sở dĩ chúng ta chần chừ không thực hiện những mục tiêu đặt ra bởi nhiều nguyên do. Người thì sợ thất bại, kẻ lại ngại khó khăn, người thì chẳng biết bao nhiêu là đủ rồi cứ mãi ước mơ. Do đó mà nhà văn Lỗ Tấn đã từng nói: “Trên đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng.” Thứ chướng ngại to lớn trên con đường thành công đó chính là sự lười biếng. Không có bất kỳ ai có thể thành công nếu chúng ta cứ biện ra nhiều lý do để không thực hiện những lý tưởng mà bản thân hướng tới. Cũng giống như việc tất cả đều biết rõ thế gian là khổ và con đường duy nhất để thoát khổ ấy là tinh tấn tu tập theo lời đức Phật dạy mới có thể đi đến quả vị giải thoát. Nếu chẳng nỗ lực tu tập, cứ mãi chờ đợi nhưng lại vẫn muốn đạt được quả vị giải thoát là điều hết sức vô lý. Do đó, trong Pháp Cú số 112, phẩm Ngàn đức Phật đã dạy như sau:
“Ai sống một trăm năm,
Lười nhác không tinh tấn,
Tốt hơn sống một ngày,
Tinh tấn tận sức mình.”
Một đời người cứ mãi buông lung, lười biếng, thả mình trôi theo sự lôi cuốn của dục lạc thế gian thì quả thật vô ích. Huống hồ Đức Phật từng dạy rằng “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn” nghĩa là thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Nay tất cả chúng ta đã được thân người chính là điều quý báu, lại hữu duyên được quy y Tam Bảo, nghe pháp cùng nhau tu tập là phước lành không thể nghĩ bàn. Chính vì vậy, tất cả chúng ta cần phải nỗ lực tu tập nhằm gieo trồng thiện căn chuẩn bị cho lộ trình hướng đến giải thoát. Tuy nhiên, sự tu tập hướng đến giải thoát chẳng phải là con đường trải hoa mà đó là con đường đầy chông gai, thử thách để đoạn trừ những lậu hoặc, vô minh vốn đã ăn sâu trong tâm thức. Nếu chúng ta cứ mãi chần chừ, phân vân cho đến khi tử thần gõ cửa thì chỉ còn lại sự sợ hãi, hoảng hốt tột độ do vốn chẳng có nơi nào để an trú. Tâm thức tán loạn, khổ đau tột cùng bởi cái khổ thứ tư trong bát khổ được đức Phật đề cập đến khi nói về Tứ Diệu Đế “chết là khổ”.
Bản chất “chết là khổ” vốn đã là quy luật tất yếu chẳng thể thay đổi nhưng cái khổ lại càng khổ hơn nếu chúng ta thiếu tu tập. Bởi không tu tập đưa đến thiếu trí tuệ, không như lý tác ý, vạn pháp trở nên mờ mịt dưới sự bủa vây của lưới vô minh. Lại bắt nguồn từ vô minh làm nhân sanh khởi, xoay vần vòng luân hồi với khổ đau bất tận. Vòng khổ đau ấy nếu muốn thoát được thì tu tập tinh cần chính là yếu tố quan yếu. Bất kỳ pháp môn tu tập nào đều cần sự tinh cần và nỗ lực không ngừng mới có thể đạt đến đích đến cuối cùng-thanh tịnh hoá tâm thức.
Bên cạnh sự tinh tấn thì việc xác định pháp môn chơn chánh để tu tập cũng mang yếu tố vô cùng quan trọng. Đức Phật do thấy căn cơ chúng sanh sai khác, đốn tiệm không đồng nên mở môn phương tiện bày ra nhiều cánh cửa hầu đưa chúng sanh bước lần vào con đường hướng đến quả vị Vô Thượng. Tuy nhiên, vào thời đại ngày nay-thời mạt pháp, có rất nhiều tà giáo lợi dụng giáo lý Phật giáo pha trộn đôi chút yếu tố mê tín nhằm thu hút thị hiếu quần chúng. Vì vậy, việc tìm hiểu kỹ về một pháp môn tu tập là điều cần thiết. Chính đức Phật cũng đã từng dạy rằng: “Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”. Hay trong kinh Kalama, thuộc Tăng Chi Bộ Kinh, đức Phật đề ra mười điều chớ vội tin như sau: “Chớ có tin điều gì chỉ vì được nghe điều đó nhiều lần; chớ có tin chỉ vì đó là truyền thống; chớ có tin bởi vì đó là lời đồn; chớ có tin bởi vì điều đó đúng với sách vở và kinh điển truyền tụng; chớ có tin bởi vì nó nghe có vẻ hợp lý; chớ có tin bởi vì điều đó phù hợp với một hệ thống triết lý, tư tưởng; chớ có tin bởi vì lý luận logic và suy diễn; chớ có tin bởi vì điều đó phù hợp với quan điểm của mình; chớ có tin bởi vì người nói điều đó có vẻ là người đáng tin; chớ có tin bởi vì người đó là thầy của mình”. Sự tin tưởng không suy xét thấu đáo dễ đưa đến sai lầm. Một người chỉ tu tập với niềm tin mù quáng sẽ khó đạt được đích đến tối thượng. Không những vậy việc tà tín đưa đến hậu quả nguy hiểm vô cùng cho tất cả chúng ta. Do đó, đối với những gì chúng ta được nghe, được thấy đừng vội tin tưởng. Vì đối với các pháp không phải chân chánh rất dễ làm cho chúng ta đi nhầm đường lạc lối. Giống như tướng cướp Angulimala do vì vị thầy dạy cho những pháp không chân chánh mà đưa đến việc giết người. Cũng vậy, đối với những gì được nghe, được thấy chúng ta cần phải lấy giới luật và giáo pháp của đức Phật đã dạy để xem nó có đúng hay không, xác định chánh giáo hay tà giáo để tránh đi sai đường lạc lối đến nỗi mất mạng.
Một đời người thoắt cái đã qua, chẳng tồn tại lâu dài. Do đó, nếu chúng ta không cấp tốc tu tập, cứ mãi chờ đợi cho đến khi tắt hơi thở thì đã hết một kiếp người. Vậy nên, mỗi người chúng ta cần phải tinh tấn không ngừng, nỗ lực tu tập để tạo một đạo lộ chơn chánh cho tự thân. Chúng ta nên biết rằng, dù chỉ còn sống một ngày mà bản thân nỗ lực tận sức mình để hướng đến con đường giải thoát thì vẫn hơn người sống một trăm năm trong giải đãi, phóng dật. Do đó, những gì chúng ta muốn đạt được, muốn hướng tới thì hãy nỗ lực tinh cần để đạt được những lý tưởng, những hướng đi mà chúng ta đã chọn. Đặc biệt hơn hết đó là tinh tấn tu tập không ngừng trên con đường hướng đến giải thoát. Phải nhanh thoát khỏi sự ràng buộc của ma chướng, cắt đứt sợi dây tham ái, rũ sạch các kiết sử mà thẳng bước về quả vị giác ngộ.
Trong Phật giáo, trạng thái tâm tịnh hay uế cùng với khả năng phản quang tự kỷ, liễu tri rốt ráo tâm thức của mỗi người sẽ là cơ sở để phân loại người đó tối thắng hay hạ tiện. Điều này được xác chứng dựa trên bản kinh số 87: Kinh Uế Phẩm, thuộc kinh Trung A Hàm (tương đương với kinh số 5: Không Uế Nhiễm (Anangana Sutta) thuộc Trung Bộ kinh). Trong bản kinh này, tôn giả Sariputta đã nêu lên bốn hạng người hiện hữu trên thế gian này như sau: “Này chư Hiền, thế gian có bốn hạng người. Những gì là bốn? Hoặc có một hạng người bên trong thật có ô uế mà không tự biết, không biết như thật bên trong có ô uế. Hoặc có một hạng người bên trong thật có ô uế nhưng tự biết, biết như thật bên trong có ô uế. Hoặc có một hạng người bên trong thật không có ô uế mà không tự biết, không tự biết bên trong thật không có ô uế. Hoặc có một hạng người bên trong thật không có ô uế và tự biết, biết như thật bên trong thật không có ô uế.” Dựa vào bốn hạng người kể trên, tôn giả lại chia ra hai hạng người: hạng người thứ nhất được gọi là người tối thắng, bậc trí (bao gồm hai hạng người có khả năng tự biết như thật các trạng thái tâm thức đang hiện hữu và ngự trị); hạng người thứ hai đó là người tối hạ tiện, kẻ ngu (bao gồm hai hạng người không có khả năng tự biết như thật về trạng thái tâm thức của chính mình).
Thuật ngữ “bên trong”nhằm ẩn dụ cho tâm của tất cả chúng ta. Đồng thời, khả năng “tự biết” chính là nói đến trí tuệ để có thể thấy rõ tâm thức của mỗi người.
Trong hệ thống kinh điển Phật giáo, chúng ta sẽ dễ dàng nghe đến sự phân chia giữa người tối thắng, hạ tiện hay sự phân chia giữa kẻ ngu và bậc trí. Tuy nhiên, đây chẳng phải là sự phân chia về sắc tộc hay giai cấp mà chính là sự phân định về trạng thái vô minh hay đã đoạn trừ vô minh nơi tự thân của mỗi người. Vậy như thế nào được gọi là kẻ ngu (hạ tiện) và người trí (bậc tối thắng)?
Theo từ điển Pali, danh từ “Bala” tức chỉ cho kẻ ngu, kẻ ác, hạng tối hạ tiện. Kẻ ngu, theo thế gian, là những người không có trí tuệ, đần độ, thiếu hiểu biết. Trong Phật giáo, kẻ ngu được đức Phật định nghĩa như sau: “ Này các Tỳ-Kheo kẻ ngu si, không thông minh, không là bậc chân nhân, tự mình xử sự như kẻ bị mất gốc, không sinh lực, có tội, bị người trí quở trách, tạo nhiều vô phước.” Người ngu là người thiếu trí tuệ, không thông minh. Có thể là do nghiệp lực từ những kiếp trước khiến họ thiếu trí tuệ, cũng có thể là do kiếp hiện tại họ huân tập những điều bất thiện nên dần khiến cho họ trở nên ám độn. Tuy nhiên, người ngu không chỉ nói đến những người có trí tuệ yếu kém, hay là người học hành không giỏi mà ở đây đức Phật muốn nhấn mạnh, người ngu là những người bị uế nhiễm, không nỗ lực tu tập, không có khả năng tiếp thu những điều đức Phật dạy, họ thường làm những điều bất thiện. Do luôn làm các việc ác nên kẻ ngu cũng được xem là kẻ ác, chính vì ngu nên hay làm điều ác và tạo bất thiện nghiệp.
Trong hàng đệ tử Phật cũng có những người về mặt trí tuệ họ rất ám độn, ngu si nhưng họ vẫn không bị cho là kẻ ngu, kẻ ác. Tôn giả Cullapanthaka là một ví dụ điển hình. Xét về mặt học thuật tôn giả rất ám độn, bởi xuất gia đã lâu nhưng không thể thuộc nổi một bài kệ. Tuy nhiên, sau khi được đức Phật dạy cho phương pháp pháp tu tập: phất trần trừ cấu (phủi trừ bụi dơ) tôn giả nỗ lực thực hành theo và chứng đắc thánh quả. Do đó, có thể thấy sự phân chia người ngu hay kẻ trí phụ thuộc vào khả năng phân biệt tà, chánh; chân, ngụy cùng với sự nỗ lực không ngừng hướng đến giải thoát nơi tự thân mỗi người chứ chẳng phải dựa vào sự khôn khéo, mưu mẹo thường thấy nơi thế gian.
Xét về sự phân loại, người ngu gồm hai nhóm sau: “Có hai loại người ngu này. Thế nào là hai? Người có phạm tội nhưng không thấy có phạm tội và nguời không chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội lỗi của mình.” Kẻ ngu là những người phạm lỗi nhưng không tự mình biết lỗi và cũng không chịu sửa đổi khi có người khác chỉ lỗi. Bản thân người ấy không có khả năng tự thấy lỗi mình, chỉ mãi u mê trong đêm dài không lối thoát. Do đó, kẻ ngu như người từ bóng tối đi vào bóng tối. Lại dựa theo kinh Hiền Ngu mà người ngu thường có ba đặc điểm như sau: “Này các Tỳ Kheo, có ba đặc điểm, đặc tướng và đặc ấn này của người ngu. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỳ kheo, người ngu tư duy ác tư duy, nói lời ác ngữ và hành ác hạnh.”Tư duy ở đây chính là sự suy nghĩ, nhận thức của một người về biểu tượng, khái niệm, phán đoán. Người tư duy ác tư duy tức thường nghĩ về những điều ác, gây đau khổ, tai họa cho người khác như: nghĩ đến việc hãm hại người, cạnh tranh hơn thua với người khác, nghĩ về sự khao khát ái dục,…Do tư duy không chân chánh nên đưa đến hành động và lời nói bất thiện. Theo Túc Sanh Truyện, người ngu, người ác có năm hành động như sau: kẻ ác hằng rủ người khác làm những điều sai lầm; kẻ ác làm những việc không phận sự của mình; kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải; mặc dù nói ra sự chân thật, lời lẽ phải, kẻ ác cũng không nhận thức đúng đắn, trái lại còn hờn giận, chuốc oán, gây thù; kẻ ác không tuân theo luật lệ, luật pháp của một nơi chốn, một xứ sở, một quốc độ. Chúng ta có thể thấy tất cả những hành động của kẻ ác, kẻ ngu đều là những hành động xấu, không có trí tuệ, không có giới luật. Dưới cái nhìn bị bao phủ bởi vô minh nên kẻ ngu không biết đâu là việc nên làm, đâu là việc không nên làm. Kẻ ngu không những khiến bản thân mê mờ, ngu muội mà họ còn làm cho những người thân cận họ cũng bị ảnh hưởng theo những thói hư, tật xấu. Do đó, không thân cận kẻ ngu là việc cần thiết cho hành giả sơ cơ tu tập.
Việc thân cận kẻ ác có nhiều điều nguy hiểm mà ngài Quy Sơn Linh Hựu đã từng nhấn mạnh rằng: “Hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục” nghĩa là quen gần kẻ ác ngày càng thêm lớn những tri kiến ác, sớm tối làm ác thì phải chịu quả báo trước mắt, sau khi chết đi phải chịu trầm luân, một khi mất thân người, vạn kiếp khó mà khôi phục lại được. Do đó, đức Phật dạy chúng ta:
“Tìm không được bạn đường,
Hơn mình hay bằng mình,
Thà quyết sống một mình,
Không bè bạn kẻ ngu.”
Thực chất bên trong tâm thức của mỗi chúng ta luôn tồn tại song song kẻ ngu và người trí. Vậy nên, không thân cận kẻ ngu ở đây cũng chính là điều phục các tâm bất thiện khiến chúng không tăng trưởng, hướng dần đến đoạn diệt. Kẻ ngu, hạ tiện sẽ hiện khởi ngay khi chúng ta làm những điều bất thiện. Điều quan trọng khi phân định ra người tối thắng và hạ tiện hay kẻ ngu, người trí chẳng phải muốn chúng ta chấp vào nhị nguyên lý thuyết mà đây chính là sự chia chẻ để hướng đến hoàn thiện bản thân. Việc chuyển hoá tâm thức của mỗi người để loại bỏ sự ngu, ác, bất thiện nơi tâm khiến dần trở nên tối thượng, có trí.
Sự nguy hại, vô minh của kẻ ngu, hàng tối hạ tiện, hạng người nên tránh xa đã được tìm hiểu rõ.Vậy bậc trí có những điều thù thắng gì mà bậc đạo sư khuyên nên gần gũi? Bậc trí trong tiếng Pali được gọi là Pandita. Dựa theo quan niệm của thế gian, người trí thức là những người thông minh, học cao, hiểu rộng, có bằng cấp, học vị như thạc sĩ, tiến sĩ, bác học, triết gia,… ho đều là những người có trình độ về mặt học vấn. Trong Phật giáo, quan điểm về người trí lại có phần khác đi, người trí thức có thể không có bằng cấp, học vị, họ là “Bậc hiền trí, thông minh, là bậc chân nhân, tự mình sử xự không như người mất gốc, có sinh lực, không có tội, không bị người quở trách và tạo nhiều phước đức.” Định nghĩa này đối lập với định nghĩa về kẻ ngu, kẻ ác. Người trí cũng có ba đặc điểm được đức Phật đề cập đến trong kin Tăng Chi bộ như sau: “ Này các Tỳ-Kheo, có ba đặc điểm, đặc tướng, và đặc ấn này của người trí. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỳ-Kheo, người trí tư duy thiện tư duy, nói lời thiện ngữ, và hành các thiện hành”. Người trí tư duy thiện tư duy tức luôn suy nghĩ hướng thiện, không nghĩ đến việc làm tổn hại hay gây đau khổ cho người khác cũng như tất cả mọi loài. Với tư duy thiện đưa đến hành động và lời nói thiện. Bậc trí có đủ trí tuệ để thấy được sự tai hại của việc ác, thấy được bản chất của tất cả các pháp là vô thường, thấu hiểu về Tứ Diệu Đế một cách sâu sắc. Nhờ đó họ đối với các bất thiện pháp không có tâm mong cầu, họ luôn tinh cần tu tập và thực hành các thiện pháp.
Dựa trên những định nghĩa đã được đề cập đến, chúng ta có thể thấy bậc trí xét theo khía cạnh của đạo Phật hay của thế gian học đều là những người có đạo đức, có giới luật. Người trí luôn tự thấy lỗi của mình, không che giấu nó mà còn ra sức sửa đổi để làm cho bản thân tốt hơn. Đối với ba nghiệp thân, khẩu, ý, người trí giữ gìn và hộ trì tam nghiệp được thanh tịnh, không hướng đến việc bất thiện ngay cả trong ý nghĩ. Do không hành động sai trái nên bậc trí và người ngu có cách xử sự khác nhau. Cụ thể như trong kinh Trung Bộ, đức Phật từng so sánh như sau: “Này các Tỳ-Kheo, trường hợp này làm không thích ý, nhưng đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỳ-Kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc trí, về sức kiên trì của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực của con người. Và này các Tỳ-Kheo, người ngu không suy xét rằng: Dẫu trường hợp này không thích ý, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm. Người ấy không làm trường hợp này. Do không làm trường hợp này, nên không đưa lại lợi ích cho người ấy. Còn người trí, này các Tỳ-Kheo, suy xét rằng: Dẫu trường hợp này làm không được thích ý, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm. Người ấy làm trường hợp này. Do làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.” Đối với việc khó làm nhưng đem lại nhiều lợi ích, bậc trí không từ bỏ. Bậc trí nỗ lực để có thể đạt được những kết quả tốt trong tương lai. Ngược lại, kẻ ngu do thấy việc khó trước mắt nên liền từ bỏ, không có sự kiên trì, nỗ lực. Cũng như trong việc giữ gìn và thực hành giới luật, người trí thấy được lợi ích trong việc hành trì giới nên họ ra sức nỗ lực hành trì còn kẻ ngu lại thấy những giới luật phiền hà, rắc rối bởi giới luật không thỏa mãn những nhu cầu cầu của bản thân họ nên liền từ bỏ.
Với sự thông tuệ của bậc trí có thể là người hướng dẫn đường đúng đắn nhất hàng sơ cơ nhập vào đạo. Lợi ích khi thân cận bậc hiền trí cũng giống như người đi trong sương buổi sáng, tuy không ướt áo, nhưng luôn được thấm nhuận. Con đường trở thành bậc chân nhân là một quá trình gạn lọc và đào thải những ác bất thiện, lậu hoặc để thân tâm dần trở nên thanh tịnh. Nó cũng giống như quá trình người thợ đãi cát tìm vàng. Người thợ phải bỏ công sức loại bùn dơ, cát, các rác để cuối cùng chỉ còn lại vàng- thứ quý giá nhất. Chúng ta cũng như vậy, bản thân đều là những người trí nhưng những tạp chất nơi vô minh, tham ái cho chúng ta bị che mờ đi, không còn nhận bản chất vốn vẫn là bậc hiền trí.
Do đó, một người được xem là tối thắng, là bậc trí, bậc chân nhân chỉ khi họ có trí tuệ. Nhờ có trí tuệ mà đối với các trạng thái thiện hay bất thiện của tâm thức đều thấu triệt rốt ráo. Do tự liễu tri về sự thanh tịnh hay cấu uế của tâm nên có thể khắc phục và đoạn trừ chúng thông qua các phương pháp tu tập. Trí tuệ có công năng đoạn diệt các ác pháp, bất thiện và tăng trưởng thiện pháp. Đối với những kẻ được xem là tối hạ tiện khi họ thiếu mất trí tuệ, thiếu sự nhìn nhận đúng sai, chỉ hành động theo bản năng. Những người như vậy dù tâm có vốn không có cấu uế cũng sẽ dễ dàng bị cấu uế xâm chiếm và ngự trị. Cũng ví như kẻ thiếu trí cho rượu là thuốc tốt, chẳng biết đây là loại nước khiến cuồng say, mải mê uống cho đến khi thân, tâm điên đảo.
Người tối thắng, kẻ hạ tiện hay người trí tuệ, kẻ ngu si đều phụ thuộc vào năng lực phản tỉnh của tự thân.
Loại năng lực này sanh khởi từ trí tuệ phát sanh do sự tu tập đoạn trừ tam độc dơ bẩn thường trú trong tâm. Đồng thời, cấu bẩn trong tâm được đoạn trừ, tâm hoàn toàn thanh tịnh chính là yếu tố vô cùng quan trọng cho những ai đang hướng đến con đường giải thoát, giác ngộ. Do đó, không một ai trên cõi đời này có thể trở nên tối thắng hay hạ tiện nếu chỉ dựa trên khía cạnh vật chất, giai cấp, huyết thống. Vậy nên, mỗi người hãy nỗ lực tu tập không ngừng để đoạn trừ cấu uế trong tâm và trang hoàng tự thân bằng trí tuệ tối thắng.