BÀI GIẢNG
DUY THỨC HỌC
Cố Hòa thượng Thích Giác Khang
TUẦN 15
Giảng ngày 03-02-2004 âm lịch
Thì cũng như hôm trước chúng ta bắt đầu ôn lại thêm một lần nữa, thì cái bảng mà vô chất tánh cảnh và Hữu chất tánh cảnh đó, tôi chúng ta trả lời những câu hỏi cho xong, để rồi chúng ta qua bảng thứ hai tức là 8 thức, rồi cái bảng thứ ba là 15 hạng chúng sanh, rồi chúng ta sẽ đi vào bài giảng Kinh Sáu Sáu.
Thì cái bảng này nó chắc cũng còn phải sửa lại tôi thấy chưa vừa ý, nhưng mà để chúng ta giảng rồi chúng ta tóm lại cho nó gọn làm sao. Thì như hôm trước tôi giảng đó, chư Phật tử đem cái bảng ra hén, ai cũng phải có cái bảng này để coi tới coi lui đó, cái này nó gom hết cả từ địa ngục tới Như Lai đấy, tất cả sự chuyển biến đấy.
Thì chúng ta, ở trên có Vô chất tánh cảnh, tức là tôi nói đây, tức là cái bản thể của võ trụ đấy, tất cả hiện tượng, tất cả vạn vật chúng sanh và các pháp đều phát hiện từ Vô chất tánh cảnh này, thì thường thường người ta kêu Báo thân của Như Lai đấy, thì bất biến phi không gian phi thời gian, đó là chân như tịnh tức là cái thể của võ trụ. Nhưng mà dòm kỹ lại cái bất biến này nó là chuyển biến vô lượng vô biên rất là thần tốc, thì cái đó kêu là Hữu chất tánh cảnh, tức là chuyển biến đứng lặng, chỉ có thời gian tuyệt đối thôi mà chưa có không gian, tức là chân như động, thì cái này thường thường chúng ta kêu là ứng hóa thân, thì Báo thân là cái thể, ứng hóa thân là cái tướng, thì hai cái này gồm chung là Pháp thân, tức là cái dụng, thì Pháp thân là cái dụng. Thành ra:
– Như Lai chỉ nắm lấy cái Pháp thân thôi.
– Còn Alahán thì chỉ có Báo thân chớ chưa có ứng hóa.
– Chừng nào phát bồ đề tâm ứng hóa thân, thị hiện một thân nhiều thân cho đến vô lượng thân, một cõi nhiều cõi cho tới vô lượng cõi thì Pháp thân mới hiện toàn phần.
Rồi từ đó một niệm bất giác thì mới gọi là căn bản vô minh, mới lọt xuống alaya của cá nhân. Đó, thì chúng ta thấy đây alaya cá nhân đó, thì nó chia làm hai tức là chân với vọng hỏa hợp, chân là nó tiếp tục con đường chuyển biến mà đứng lặng, tức là chúng ta thường kêu đó là thức thứ 8, tức là alaya thức, thức thứ 8. Thì thức thứ 8 thường đó là mặt trăng thứ nhất, còn mặt trăng thiệt là Vô chất tánh cảnh và Hữu chất tánh cảnh, đó là mặt trăng thiệt. Rồi từ đó nó xuống cấp, xuống cấp là danh từ của tôi dùng thôi, trong Kỉnh thì không có, thì chỉ nói: một niệm bất giác rồi xuống alaya cá nhân thôi, thì tôi dùng chữ xuống cấp là mặt trăng thứ nhất, chúng ta nên nhớ Vô chất tánh cảnh thì là một vùng hào quang hoàn toàn bất biến sáng lòa, một biển quang minh uyên nguyên, nhưng mà nhìn kỹ dường như nó có chuyển biến thì đó kêu là Hữu chất tánh cảnh. Rồi khi nó xuống cấp thì nó trở nên mờ, cái vùng hào quang mờ, nói mờ chớ thật là sáng tỏ, nhưng mà so với vô chất và hữu chất nó hơi mờ đi. Thành ra chuyển biến lúc đầu, lúc bây giờ kêu là hư vô vi tế, tức là trạng thái như là hư vô tức là bàng bạc khắp không gian một trạng thái mờ mờ, rồi xuống cấp nữa, ở đây chia làm hai, do vọng tưởng kiên cố nó đập vào cái tướng phần của alaya, thật ra tướng phần kiến phần cũng là sự chuyển biến thôi, chưa có hình tướng gì hết, chuyển biến chậm và chuyển biến nhanh, chuyển biến nhanh thì gọi là kiến phần, chuyển biến chậm thì gọi là tướng phần, thì vọng tưởng kiên cố mới đập vào tướng phần này mong tìm một cái hình tướng, nhưng mà chỉ có hình thôi, tức là chỉ có thời gian chớ chưa có không gian, bởi vì nó chuyển biến đứng lặng thì nó xuống mặt trăng thứ bai, gọi là hư minh le lói chiếu soi, tức là trạng thái chập chờn, từ đây nó bắt đầu dường như có hình dường như chưa có hình, dường như có tiếng dường như chưa có tiếng, dường như có mùi dường như chưa có mùi, nhưng mà hình gì? tiếng gì? mùi gì? thì chưa có, đây là trạng thái le lói, chập chờn mà thôi, nhưng nên nhớ nó cũng vẫn là bàng bạc khắp vô lượng vô biên, khắp cả võ trụ, Rồi nó xuống cấp một cái nữa là mặt trăng thứ ba, thì bắt đầu nó hiện hình rõ rệt, thì có tiếng rõ rệt và có mùi cô đọng, hén, có vị cô đọng, nhưng mà hình gì, tiếng gì, cũng chưa có, chỉ là bây giờ bắt đầu cô đọng lại, kêu là trạng thái bắt đầu muốn dung thông, tức là muốn trộn lẫn một cách thông suốt với cái xao động đấy, thì đến đây là hết.
Rồi nó bắt đầu trở lên chập chờn le lói nữa, rồi nó trở lên hư vô vi tế, rồi trở về với cái mặt trăng thiệt.
Rồi từ đó nó trở xuống, đứng lặng trở xuống: mặt trăng thứ nhất, mặt trăng thứ nhì, rồi thứ ba.
Rồi từ thứ ba trở lên thứ nhì, thứ nhứt.
Nhưng mà nên nhớ đây là một trạng thái vô lượng vô biên trùm khắp cái võ trụ, chúng ta nên nhớ vậy, đó là trạng thái đứng, lặng từ cái bất biến đi xuống tới chuyển biến đứng lặng cái thứ nhất, mặt trăng thứ nhất, rồi chuyển biến đứng lặng mặt trăng thứ nhì, và chuyển biến đứng lặng mặt trăng thứ ba. Mà trong Kinh thường kêu:
– Cái chuyển biến thứ nhất đó là cái nhìn, nếu nói về con mắt;
– Còn chuyển biến mặt trăng thứ nhì kêu là cái thấy;
– Cái thứ ba là cái biết.
Cái biết, cái thấy và cái nhìn, ba cái này so với mặt trăng thiệt đó là cái tánh thấy thì nó là vọng, nó là vọng, bị vì nó thuộc về bóng dáng của mặt trăng rồi, nó không phải là mặt trăng thiệt nữa, nhưng mà nó vẫn giữ hình ảnh trung thực, tức là chưa có không gian. Đây là nói về phần chuyển biến đứng lặng của alaya.
Bây giờ chúng ta qua kế bên phần bên là chuyển biến xao động của alaya. Thì alaya luôn luôn nó là đứng lặng đi vào đứng lặng, nhưng mà khi nó bắt đầu xao động thì kêu nó là mạtna, thì mạtna đó. Chúng ta nên nhớ: cái đứng lặng đi vào đứng lặng tức là chiếu soi rồi tự chiếu soi một cách đứng lặng, do đó nhận thức và đối tượng nhận thức nhập một, nhập một, thành ra chúng ta mới kêu cái nhận thức tuyệt đối, cái nhận thức tuyệt đối. Còn từ đây bắt đầu đứng lặng chiếu soi rồi, chiếu soi trở về bị xao động cho nên không thể nhập một nữa, mà nhận thức và đối tượng nhận thức phải tương ưng, tương ưng.
Thì tương ưng hôm trước tôi có giảng rồi. Thí dụ người nhìn thấy nước thì nước phải tương ưng với người là nước; còn các cõi trời nhìn thấy nước chuyển thành lưu ly, lưu ly đó là đối tượng phải tương ưng với cõi trời; rồi ngạ quỷ nhìn thấy nước là máu, thì cái máu tương ưng cái nhìn của ngạ quỷ.
Còn bên đứng lặng thì chưa có gì hết cái nhận thức với đối tượng nhận thức là một thứ thôi, chỉ là một trạng thái ánh sáng mờ, rồi chập chờn le lói, rồi kết tụ lại. Nhưng mà vật gì? cũng chưa có, chưa có gì hết.
Chúng ta phải hiểu hai cái nó khác nhau.
Thì cái bên mạtna này là hữu lượng hữu biên. Thì theo tôi đề nghị khi nó chiếu soi tự chiếu soi vào cái kiến phần của alaya, bên kia là tướng phần, bên đây là kiến phần, thì nó mới xao động nó chụp mũ lên cái kiến phần này một trạng thái mờ mờ một cái hình bóng mờ mờ mà theo tôi đề nghị đó là hư không vô biên, cái không gian đầu tiên, thì cái không gian này, chúng ta kêu là ngã chấp, cái ngã rất là u ẩn, ẩn núp một cách sâu kín, kín đáo khó mà trừ được, chính cái ngã này là câu sanh ngã chấp, nếu dứt được cái ngã này thì đắc quả Alahán, cái ngã này cái ngã rất vi tế, nghĩa là nó gần như vô lượng vô biên, nhưng mà vẫn hữu lượng hữu biên, hữu lượng hữu biên, nếu mà nó vô lượng vô biên thì nó biến thành, chuyển thành, hòa nhập một với thời gian, bị hóa giải, không gian bị hóa giải vào thời gian, nhưng mà bắt đầu có không gian rồi thì bắt đầu hữu lượng hữu biên, nhưng mà nó cũng rất là bàng bạc, rất là bao la, rất là bao la, thành ra nó rất là u ẩn khó mà trừ được, khó mà trừ được, thành ra trạng thái này nó chưa có cải sửa, chưa có so đo, chưa có tính toán, thành ra kêu nó tỷ lượng không được mà phải kêu nó là trực giác hiện lượng, nhưng mà hiện lượng này là một hiện lượng xao động, sai lầm, méo mó thành ra kêu giống như hiện lượng chớ thật sự không phải hiện lượng, thành ra kêu là tợ hiện lượng; còn cảnh của nó vì chưa có so sánh, chưa có phê phán, chưa có nhận thức, chưa có phê phán, chưa có so sánh, thành ra chỉ là cái bóng mờ của hư không mà thôi, bóng mờ kêu là chân đới chất, nó vay mưọn cái tánh cảnh sửa đổi lại, nhưng mà chưa sửa đổi gì hết, chỉ là một trạng thái của không gian bàng bạc gần như khắp võ trụ. Thành ra kêu nó tợ hiện lượng, cảnh là cảnh chân đới chất, đới là vay mượn vay mượn tánh cảnh mà con chân thật chưa có cải sửa, tức là chưa có hình bây giờ bắt đầu có hình có tướng luôn, hén. Cái alaya thức đó, thì chỉ có hình hư vô vi tế, bây giờ nó tạo thành cái hình có tướng luôn, tức là có thể sờ mó, có thể nắm bắt được, có thể khuôn khổ được, còn cái kia là chưa có khuôn khổ, thì cái này chúng ta kêu là mạtna, mạtna tức danh từ chúng ta còn kêu là nghiệp, nghiệp lực của chúng sanh, cái nghiệp là nguyên nhân đầu tiên câu sanh ngã chấp của chúng ta.
Rồi sau của nghiệp lực đi xuống thấp nữa, vọng hóa chậm lại, vọng hóa chậm lại thì nó thành ra thức thứ 6, thức thứ 6 thì nơi đây nhận thức và đối tượng nhận thức rõ rệt, và có sự phân biệt, sự tính toán, sự tổng hợp, sự phân tích và sự đặt danh các danh từ, chỗ này là chỗ nhiều chuyện nhất của cuộc sống chúng ta, cuộc sống chúng ta đau khổ cũng vì cái thức thứ 6 này, tức là chúng ta kêu là tư tưởng, hén. Thành ra trong Duy Thức học kêu: “công duy thủ, tội duy khôi”, tất cả công lao mà giải thoát cũng là chính hắn, mà cái tội mà luân hồi sanh tử xuống tới địa ngục cũng là do hắn. Thì chúng ta để ý, cái thức thứ 6 này quan trọng nhất, nếu nó đi lên thì nó sẽ chiếu soi, nó tập trung kỹ tập trung mạnh tập trung lâu và tập trung sâu thì nó sẽ thấy được hư không vô biên, tức là của mạtna, nhưng mà nên nhớ thấy mạtna rồi, bị vì nó là xao động mà, vừa thấy là nó mất, mất rồi nó lại tập trung kỹ để nó thoáng thấy nữa, rồi nó lại mất, thì nó mới tạo ra cái đối tượng, nó là con khỉ mà, Te thiên, nó tạo ra đối tượng hư không đó để nó duyên, nhưng mà nên nhớ cái hư không của nó tạo thì không được bao la bằng cái hư không của mạtna, bị vì nó đã chuyển biến vọng hóa chậm lại, thành ra nó tạo hình ảnh giống như hư không, nhưng mà thật sự nó bị giới hạn nhiều hơn là mạtna, chúng ta phải hiểu như vậy, phải hiểu như vậy.
Nếu nó tập trung kỹ tập trung mạnh tập trung lâu tập trung sâu nữa thì nó sẽ thấy được alaya thức, rồi nó lại bị mất, rồi nó tập trung mạnh nữa nó lại thấy, rồi nó lại bị biến mất, thành ra biến mất nó mới tạo ra cái alaya thức là chuyển biến đứng lặng để nó duyên, thì alaya này so với alaya thật thì hai cái khác nhau rất xa, vì alaya thức của cá nhân thì nó vô lượng vô biên, còn alaya này thì hữu lượng hữu biên, đây là sản phẩm nội chế mà thôi, nội chế mà thôi, nó thuộc về xao động, còn alaya thuộc về đứng lặng, chúng ta phải hiểu như vậy.
Rồi nếu nó tập trung mạnh kỹ lâu sâu nữa thì nó sẽ thấy được chân như tịnh tức là vô chất tánh cảnh của võ trụ. Thật ra là nó không thấy được, nhưng mà khi nó thanh tịnh rồi, vô chất tảnh cảnh hiện xuống, alaya cũng vậy, cái đứng lặng bao giờ cũng vậy, khi mà cái nước bớt sóng rồi, bớt xao động, nước lặng rồi, thì mặt trăng sẽ hiện hình trong đó, chớ còn sóng không thể đi tìm mặt trăng, mà mặt trăng sẽ đến với nước khi mà sóng đã yên lặng, thì chúng ta nên nhớ như vậy, đây không phải tập trung để thấy, tập trung để cái nước nó bớt xao động, nước lặng, sóng ngầm, thì mặt trăng sẽ hiện, nó loáng thoáng thấy rồi nó lại xao động nữa thì mất, thành ra nó tạo cái đối tượng là vô chất tánh cảnh để nó duyên, thì dĩ nhiên cái vô chất tánh cảnh này là vô chất tánh cảnh nội chế, tức là xao động, tức là xao động, so với cái kia thì khác nhau xa lắm, khác nhau xa lắm, thành ra do đó mà cõi này kêu là vô sở hữu xứ, tức là vô chất tánh cảnh đấy.
Còn tới cõi trời phi tưởng phi phi tưởng xứ, là nó đi tới đó nó thấy rằng bất biến này vẫn chuyển biến, tức phi tưởng là chẳng có tư tưởng, tức là chân như tịnh đấy, mà phi phi tưởng là chẳng phải chẳng có tư tưởng, là trong đó vẫn chuyển biến như thường, thành ra nó tạo ra cảnh giới này kêu là cảnh giới phi tưởng phi phi tưởng, như vậy là nó đi mút tới cái quả Như Lai.
Chúng ta thấy cái thức thứ 6 tạo ra cái Phật Tổ Như Lai giả, Phật Tổ Như Lai giả chúng ta thấy Te Thiên độc đáo vậy đó, thì cái này cái tột cùng của thế giới của tư tưởng. Đó là cái thế giới của thức thứ 6 đi lên tới hư không vô biên là mạtna, rồi đi tới alaya, rồi đi tới vô chất tánh cảnh, rồi đi tới vô chất và Hữu chất tánh cảnh, nó liên đới với nhau, tức là pháp thân của Như Lai.
Rồi bây giờ chúng ta nói đi vọng hóa trở xuống. Đó là vọng hóa tiến hóa trở lên. Bây giờ vọng hóa sa đọa, vọng hóa trở xuống thì bắt đầu chúng ta thấy nó đi xuống như vậy là từ hư không vô biên đi trở về tứ thiền tức là thiền thứ 4 bất lạc bất khổ thọ thì chúng ta thấy là hư không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu xứ phi phi tưởng là thế giới của thiền vô sắc, còn tứ thiền là nó nối liền giữa thiền hữu sắc, thiền sắc giới với thiền vô sắc là hư không, thì hư không theo tôi đề nghị phải là mạtna, còn thức vô biên phải là alaya, còn vô sở hữu xứ phải là vô chất tánh cảnh, bất biến của võ trụ, nhưng mà nên nhớ nội chế nha, còn phi tưởng phi phi tưởng tức là vô chất và hữu chất tánh cảnh dính liền nhau, tức là thế giới Pháp thân Như Lai, thì chúng ta thấy như vậy là tột cùng của tư tưởng rồi.
Bây giờ chúng ta nói về phần vọng hóa mà đi xuống. Thì bắt đầu từ tứ thiền tức là bất lạc bất khổ thọ thì thế giới này chúng ta thấy là thế giới của tỷ lượng, chân tỷ lượng mà tợ đới chất, chân tỷ lượng mà tợ đới chất, thì chúng ta thấy ở đây đó là bắt đầu dường như có hình có tướng, đây là một sự phân biệt, phân biệt giữa sự vật, phân biệt giữa sự vật, tức là đây là cái hoa hồng, đây là bông cúc, đây là bông tường vi, đây là bông trang, đây là bông phấn,… thì đây là thế giới của tứ thiền, nhưng mà ở đó chưa có tình cảm xen vào, chưa có tình cảm xen vào.
Chúng ta thường ở thế giới này, nhưng mà chúng ta không hay, để nó chạy xuống vọng hóa thêm nữa, thì qua cái tam thiền bắt đầu có lạc thọ khổ thọ, hai cái này đối đãi với nhau, lạc thọ tức là từ thế giới đó chúng ta bắt đầu xen vào cái tình cảm riêng, tức là tam thiền đấy, tức là có cái lạc, lạc đây chúng ta phải dịch là cái vui, cái vui đây là có cảm giác vui, và chập chờn chập chờn duờng như có người vui và dường như không có người vui, để nó chi vậy? để nó trộn lẫn với cái hiện lượng tánh cảnh của 5 thức đầu. Thì ở đây chúng ta thấy, hồi nãy chúng ta nói cái mặt trăng thứ ba đó, là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, thì ở đây tứ thiền nó mới trộn lẫn với hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, là chỉ có hình mà chưa có tướng, bây giờ có hình có tướng luôn, có hình có tướng luôn. Hồi nãy như tôi nói: nó là từ một cái vùng hào quang rực rỡ uyên nguyên của mặt trăng thiệt xuống mặt trăng thứ nhất là hư vô vi tế, là một trạng thái bàng bạc trong không gian, vô lượng vô biên, trạng thái mờ mờ, mờ mờ nhân ảnh; rồi đi xuống mặt trăng thứ hai là cái thấy, thì bắt đầu chập chờn dường như có hình dường như chưa có hình, dường như có tiếng dường như chưa có tiếng, dường như có mùi dường như chưa có mùi,… nhưng mà tiếng gì, hình gì, mùi gì, thì chưa có, chập chờn dường như có; rồi xuống tới rõ rệt cô đọng lại có hình có tiếng, có mùi, nhưng mà hình gì, tiếng gì, mùi gì, cũng chưa có nữa, nhưng mà cô đọng lại, thấy rõ, thì thức thứ 6 nó mới chụp mũ qua bên đây, thì cái này chúng ta kêu hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, tức là mặt trăng thứ ba, về phần đứng lặng của mặt trăng thứ ba. Thì từ đây mạtna mới đưa thức thứ 6 chuyển biến vọng hóa xuống mới dung thông với hiện lượng tánh cảnh của mặt trăng thứ ba thành ra thế giới của tứ thiền.
Vậy thì tứ thiền tức là phần xao động của thức thứ 6. Còn hiện lượng tánh cánh mặt trăng thứ ba tức là phần đứng lặng của thức thứ 6. Hai cải này dung thông với nhau.
– Về phần đứng lặng mặt trăng thứ ba của thức thứ 6 là có hình có tiếng có mùi có vị, nhưng mà hình gì tiếng gì mùi gì vị gì thì chưa có rõ rệt, nhưng mà đã cô đọng rồi.
– Bây giờ cái phan vọng hóa của thức thứ 7 đi xuống thành thức thứ 6 đó, mới thành ra có hình, hình cái tịnh xả, hình bông mai, hình bông cúc, hình bông lài, có tướng rõ rệt, bây giờ bắt đều có thể nắm bắt được, có thế sờ mó được; rồi tiếng bắt đầu có the tiếng người nam, người nữ, tiếng loài chim, loài thú, bắt đầu rõ rệt, có tiếng; rồi mùi bắt đầu mùi rõ rệt.
Thì chúng ta thấy giữa cái hình và cái hình có tướng luôn, thì chúng ta thấy rất khó mã phân biệt.
– Thì cái hình mà chưa có tướng kêu là hiện lượng tánh cánh của thức thứ 6.
– Còn có hình có tướng rõ rệt, có thể nam bắt được, thì kêu là chân tỷ lượng tợ đới chất cảnh của thức thứ 6.
Hai cái này dung thông một cách chặt chẽ cũng như là sữa với nước vậy, cũng như sữa với nước vậy. Chúng ta nên nhớ.
Vậy thì hiện lượng tánh cánh của thức thứ 6 là vô lượng vô biên. Còn chân tỷ lượng tợ đới chất cảnh của thức thứ 6 ỉà phần xao động thì hữu lượng hữu biên, hữu hượng hữu biên. Chúng ta nên nhớ, nhớ cái chỗ này, nó như vậy đấy.
Rồi bây giờ thức thứ 6 mới vọng hóa đi xuống thấp nữa thì rời khỏi hiện lượng, rời khỏi cái thức thứ 6 này đi xuống 5 thức đầu, mà 5 thức đầu là vọng tưởng hư minh le lói chiếu soi là đứng lặng của 5 thức đầu, nó mới dung thông với thức này, nhưng mà chỉ dung thông được phần le lói chiếu soi chập chờn thôi, tức là đi vào lạc thọ khổ thọ, bây giờ tôi thường giảng cái tam thiền lạc thọ là có cảm giác mà mất người cảm giác, có cái khổ mà mất người khổ, chỉ còn một trạng thái tràn lan lâng lâng của cảm giác vui mà thôi, còn con người vui thì chập chờn dường như có dường như mất, thành ra nó chỉ dung thông được 5 thức đầu, lạc thọ khổ thọ mà thôi.
Bây giờ bắt đầu vọng hóa đi xuống nữa, tới vọng tưởng kiên cố, thì chúng ta nên nhớ vọng tưởng kiên cố nó nối liền giữa mặt trăng thứ nhất và mặt trăng thứ nhì, cho nên chuyển biến đứng lặng thật là nhanh, cho nên thức thứ 6 này càng đi xuống càng vọng hóa chậm lại, cho nên không thể cải sửa được, mà chỉ chụp mũ in lên trên đó bằng trạng thái hỷ, hỷ tức là nhị thiền rồi đấy; rồi tới tán thán; trú ở; ái trước. Hỷ là nhị thiền, tán thán là so thiền, còn trú ở là cõi trời dục giới, cỏn ái trước qua cõi người và 4 đường ác đạo đi tới địa ngục luôn.
Còn bên khổ thọ đó thì khổ thọ là một trạng thái chập chờn có cảm giác khổ, mà con người khổ thọ dường như có dường như không, trạng thái chập chờn le lói, thành ra nó mới dung thông được với cái đứng lặng của 5 thức đầu, tức là hư minh le lói chiếu soi. Rồi bắt đầu đi xuống cấp nữa cho tới nhị thiền là sầu muộn. Chúng ta nên nhớ hoan hỷ đi với sầu muộn, hễ mà chúng ta nhập vào lạc thọ mà khi mất lạc thọ rồi chúng ta có khổ thọ, mà khổ thọ chúng ta bắt đầu tập trung kỹ lâu sâu nữa chúng ta mới trở lại trạng thái lạc thọ, rồi khi mất lạc thọ chúng ta qua khổ thọ; Còn nếu xuống dốc nữa chúng ta đi tới hoan hỷ, mất cái hoan hỷ thì chúng ta sẽ sầu muộn, đây là cái tương đối.
Nếu mà chúng ta được lạc thọ thì chúng ta đắm nhiễm trong đó thuộc về tham, còn mất cái lạc thọ thì chúng ta khổ thọ, mà chúng ta chạy trốn muốn đứt trừ cái khổ thọ thì gọi là sân. Thành ra tham không lìa sân, mà sân không lìa tham. Thành ra được thì gọi là tham, mà mất gọi là sân.
Thành ra trong Kinh mới nói: “Thọ thị khổ”, bất cứ cái thọ nào, thọ khổ là khổ đã đành, mà thọ lạc cũng lại khổ, sầu muộn đã khổ, mà hoan hỷ cũng là một cái trá hình của đau khổ. Thành ra cái Đạo Phật hay là chỗ đó. Cõi trời thì hạnh phúc sung sướng an nhàn, nhưng mà an nhàn đối với đau khổ, thì đó cũng là một cái xiềng vàng thì cũng nằm trong trói cột mà thôi. Thành ra cái độc đáo của Đạo Phật là không chấp nhận cõi trời, đó là cái phương tiện thôi, không chấp nhận làm phước, mà cái phước là cái phương tiện đi đến trí tuệ, vì lý do đó mấy ông mấy bà thấy tôi không chịu làm phước, mà không chịu tu huệ là chỗ đó, chớ không phải ý riêng của tôi, mà theo tôi hiểu thì ý của ba đời chư Phật đều như vậy, tạo ra cảnh giới trời, tạo ra mấy ông mấy bà đi làm phước, để mấy ông mấy bà làm cái bàn đạp cho cái thức trong sáng, bị vì nếu thiếu phước thì không thể giải thoát được, nhưng mà phước không phải là giải thoát. Tôi lặp lại: phước không phải là giải thoát, phước là xiềng vàng, còn mà tội là cái xiềng sắt, xiềng sét, xiềng cây; xiềng cây muốn đi tới dứt khỏi những trói cột của xiềng không thể được, vì cái tâm trí quá u ám; muốn dứt cả xiềng sắt xiềng vàng thì phải đi tới xiềng vàng. Thành ra phải làm phước, nhưng mà phước vẫn còn bị trói cột trong cái phước, trong cái xiềng của phước. Chúng ta phải hiểu chỗ đó.
Thành ra, tôi một lần nữa, tôi nhắc nhở chư Phật tử là có vô làm phước thì tôi chấp nhận, nhưng mà phải tu huệ, tức là phải nghe pháp, phải ăn chay, về phái hành thiền, để đat nhất là quá Nhập lưu, tệ nhất là quá Nhập lưu ngay trong cuộc sống này. Còn nếu không là tui không vui, tôi không chấp nhận những người làm phước mà không đi nghe pháp, thà rằng tôi sống khổ sở, sống thiếu thốn, mà tôi vui lòng hơn là thấy những người chỉ làm phước để rồi một thời gian nổi sân lên thì “lửa sân đốt hết cả rừng công đức”, là bởi vì thiếu trí tuệ, thiếu trí tuệ.
Trí tuệ thì như tôi nói là chúng ta phải tu tệ lắm là nhị thiền, tức là niệm Phật đếm từ 1 tới 10, niệm Phật khỏi đếm, rồi khỏi cần niệm Phật, phải qua giai đoạn thứ ba, thì chúng ta mới quán xét, chớ cũng chưa trí tuệ được đâu, mới quán xét về “Ngũ đình tâm quán ”. Neu ai thường hay sân thì phải quán từ bi đối trị nó.
Thì chúng ta thấy Sân là cái gì? Thì có người chửi, tôi bị chửi, và có tiếng chửi. Chúng ta phải nắm cái gốc. Thành ra không phải người chửi mà làm cho tôi giận, không phải tôi bị chửi: bị tôi thấy có người chửi có tôi bị chửi và có tiếng chửi, do cái tư tưởng này mới làm tôi giận, thì cái giận là do tư tưởng của tôi chớ không phải người chửi. Nếu người chửi làm cho giận, thì chửi Đức Phật hoặc những người Thánh nhân thì người ta cũng giận nữa, đằng này Đức Phật, những vị đắc quả không bao giờ giận, bị vì người ta không có cái tư tưởng nghĩ rằng: mình bị chửi,có tiếng chửi ác ôn, mà nếu không có tư tưởng này thì làm gì có giận.
Thì cái này phải học giáo pháp, cái này kêu qua tu huệ.
Nhưng mà trước khi như vậy, chúng ta phải quán xét để đè nén, là chúng ta nghĩ rằng: Chúng ta là gì? Thì tất nhiên người chửi là ai? Người bị chửi là ai? cỏn tiếng chửi là gì? Thì chúng ta thấy do nhân duyên mà hội hợp lại có. Chúng ta phải hiếu như vậy. Neu mà nhân duyên rã là không có. Do mắt tai mũi lưỡi kết họp lại thì có người chửi, do mắt tai mũi lưỡi kết hợp lại thì có người bị chửi. Như vậy người chửi là cái gì? Là con mắt, hay lỗ tai, hay lô mũi, tim, gan, hay tỳ, phế, thận? Thì chúng ta thay rời những cái đó là không có người, chỉ có những cái đó hợp lại dường như có một danh từ “người ”, thì danh từ này trong rỗng. Do sự quán xét, sự phân tích, sự tổng hợp này, chúng ta thấy chúng ta bớt sân. Nhưng như vậy đó không phải là Bát Nhã, đây là thức chúng ta trong sáng, thức chúng ta trong sáng.
Mà nếu muốn quán như vậy chúng ta phải qua nhị thiền, tức là niệm Phật đếm từ 1 tới 10, niệm Phật khỏi đếm, rồi khỏi cần niệm Phật. Còn niệm Phật đếm từ 1 tới 10, niệm Phật khỏi đếm, không quán xét được đâu, nếu muốn quán xét là bắt đầu nó nghĩ chuyện khác nữa, bị vì mình chưa có định, do ly sanh mà hỷ lạc tới thôi, do đè nén những cái tư tưởng ác thôi, lý các tư tưởng ác, ly dục ly các ác bất thiện pháp mà mới được cái hỷ lạc, mà ly không nổi thì nó kéo lại. Thành ra qua giai đoạn thứ ba là khỏi niệm Phật nữa mà tự nhiên có tiếng niệm Phật, thì bây giờ chúng ta muốn nghĩ cái gì nó cũng không nghĩ, nó tập trung vào đối tuợng thôi, câu niệm Phật đâu tâm đó, tâm đâu câu niệm Phật đó, thì bây giờ chúng ta mới tập trung vào: Nguời chửi là ai? Người bị chửi là ai? Tiếng chửi là gì? thì chúng ta phân tích theo đường lối khoa học, phân tích tổng hợp đó, nếu phân tích ra thì nó do nhiều duyên hợp lại, mà nếu nhiều duyên này rã thì không có ta, thì chúng ta thấy phân tích như vậy chúng ta thấy con người chúng ta bắt đầu có sáng suốt, có thông minh, nhưng mà thông minh chớ không phải là trí tuệ.
Từ đây chúng ta mới bước qua, nhìn tới sâu nữa thì chúng ta thấy là tất cả đều không có, mắt tai mũi lưỡi, không có hình tướng không có như vậy đâu, đó là thế giới của đới chất cảnh đấy, của chân tỷ lượng mà tợ đới chất đấy, còn nhìn sâu vào trong đó nữa thì chúng ta thấy nó chỉ là những điện tử kết họp lại thôi, kết hợp lại thôi. Chẳng hạn như nước trong cơ thể chúng ta là H2O, mà H20 là: 16 điện tử âm 16 điện tử dương với Oxy, một điện tử âm một điện tử dương với Hydro, và nếu phá bỏ điện tử này thì biến thành năng lục, tức là biến thành thức, không có gì hết. Thì cái không có gì hết chỉ là thức biến, đây mới là trí tuệ, là trí tuệ, tất cả đều phát hiện từ thức, thành ra gọi là: “chỉ có thức mà thôi?” Duy Thức, Duy Thức.
Mà thức này phát hiện từ đâu? Thức này tức là alaya thức đấy, alaya thức phát hiện từ VÔ chất tánh cảnh tức là chân như tịnh, thì chúng ta phải nhận được cái Phật tánh này, cái đứng lặng này, thì chúng ta mới trở về chấm dứt được cái xao động, mà chấm dứt xao động tức là chấm dứt sự sống chết, mà chấm dứt sự sống chết tức là chấm dứt luân hồi sanh tử khổ. Thành ra cái tiến trình chúng ta phải đi như vậy, chúng ta thấy trần ai lai khổ chớ không phải vừa, rồi bây giờ mấy ông mấy bà niệm Phật mà từ 1 tới 10 là muốn chết rồi; rồi khỏi niệm, khỏi đếm nữa, rồi khỏi cần niệm Phật nữa thì giai đoạn này khá cao, nhưng mà còn thấp đấy; giai đoạn thứ tư là chìm đắm trạng thái niệm Phật, tức là mất người, chỉ còn tiếng niệm Phật thôi, rồi một trạng thái ra khỏi trạng thái chìm đắm nữa. Thì 5 giai đoạn này mới hết, nhưng mà giai đoạn thứ ba chúng ta đủ qua rồi, nhưng mà đi thấp lắm, giỏi lắm là quả Thánh thứ nhất, thứ nhì thôi, còn muốn tiến sâu nữa chúng ta phải qua giai đoạn thứ tư, thứ năm, thì chúng ta mới đi thẳng cho tới quả Alahán. Đó là đại khái tôi muốn nói như vậy.
Bây giờ chúng ta trở lại. Thì như tôi nói hồi nãy đó, khi mà cái tư tưởng là cái mấu chốt đi xuống sa đọa, mà cũng chính tư tưởng là cái mầm mong đi tới quả Như Lai, đi tới quả Như Lai. Thì chúng ta thấy thế giới tư tưởng mà nó đi vọng hóa, mà tiến hóa trở lên thì bắt đầu từ chân tỷ lượng mà tợ đới chất cảnh, tức là tứ thiền, mà tứ thiền nếu nó tập trung kỹ mạnh lâu sâu nó thấy được hư không vô biên tức thấy mạtna, nhưng mà mạtna đây là mạtna nội chế so với mạtna của mạtna thiệt, của thức thứ 7 đấy, thì mạtna kia nó bao la hơn, bao la nhưng mà vẫn giới hạn thôi, cỏn mạtna này giới hạn còn ngắn hơn nữa, bị vì nó là cái bóng mà, nó nội chế ra nó thấy được mạtna của thức thứ 7 rồi nó chế ra mạtna để mà nó duyên, để mà nó duyên; rồi nếu tập trung kỹ mạnh lâu sâu nữa thì nó sẽ thấy được alaya, rồi nó cũng chế ra alaya; rồi tập trung kỹ mạnh lâu nó sẽ thấy được chân như tịnh; rồi mạnh hơn nữa cuối cùng mạnh mẽ nhất của nó là thấy chân như tịnh và động hỏa hợp nhau, tức là thấy pháp thân của Như Lai, tới đây tột cùng rồi đấy. Nhưng mà đây nên nhớ đây sản phẩm hoàn toàn của nội chế, tức là hữu lượng hữu biên có giới hạn. Còn tất cả từ alaya, cho tới chân như tịnh, và chân như tịnh và động hòa hợp, thì toàn là vô lượng vô biên, toàn là vô lượng vô biên. Chúng ta thấy hai cái nó khác nhau. Đó là tôi nói về tư tưởng.
Bây giờ tư tưởng đi trở xuống, trở xuống, thì tất nhiên chúng ta thấy rằng cái thế giới của tứ thiền là thế giới của xao động thì nó dung thông, dùng chữ dung thông rất là hay, dung thông này là dung thông giữa xao động và đứng lặng không phân biệt được, vì thế giới tứ thiền là thế giới có hình mà có tướng, có sự phân biệt, chia chẻ, đặt tên kêu gọi, phân tích, tổng hợp,… tất cả những hình tướng tất cả những tên gọi tất cả sự bép xép tất cả sự xí soạn đều phát hiện từ thức thứ 6 này nhưng ở đây nên nhớ chưa có tình cảm nha, chỉ mới là sự phân biệt: đây là người ta, đây là người da trắng, đây là người da đen, đây là người nam, đây là người nữ, đây là con nít nhỏ, đây là người lớn, đây là con chó, đây là con heo, đây con gà, đây là con gà trống, đây là con gà mái,… phân biệt hết, đặt tên kêu gọi phân biệt từ tất cả, nhưng mà chưa có vấn đề thương ghét, thì thế giới này chúng ta kêu là thế giới chân tỷ lượng mà tợ đới chất cảnh. Và nếu chúng ta nhìn sâu vào trong đó thì nó sẽ có hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, nó dung thông hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 là có hình nhưng mà chưa có tướng, mà nếu có hình mà chưa có tướng thì tất nhiên nó bàng bạc vô lượng vô biên khắp cả võ trụ, cỏn có hình có tướng rồi nó không còn khắp võ trụ nữa, mà bắt đầu nó hữu lượng hữu biên. Chúng ta phải hiểu cái chỗ đó.
Còn nếu hiện lượng tánh cảnh mà có tiếng nhưng mà chưa biết tiếng gì, khi thức thứ 6 nó vọng hóa thì nó sửa lại có tiếng có tiếng rõ ràng luôn, tức là có tiếng mà có tướng của tiếng luôn, tức là có người nhận thức và đối tượng nhận thức; còn cái kia chỉ có tiếng mà chưa biết tiếng gì, nghĩa là không có người nói và không có tiếng được nói; còn ở đây có người nói và có tiếng được nói, thì tất nhiên bắt đầu hữu lượng hữu biên; còn cái căn bản của nó là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 là có tiếng thôi, tức là vô lượng vô biên. Thành ra chúng ta thấy hai cái này khó mà phân biệt được, khó mà phân biệt được. Thế giới của có hình với có tiếng thì thế giới đó là thế giới xuyên suốt, xuyên suốt tức là chúng ta không thể nắm bắt được thấy như vậy mà nắm bắt được. Cỏn thế giới có hình có tướng thế giới xao động của thức thứ 6 thì nắm bắt được, đặt tên được, kêu được, rờ mó được, thực nghiệm được. Thành ra hai cái này chúng ta thấy chỉ đường tơ kẽ tóc mà thôi, đường tơ kẽ tóc mà thôi.
Rồi bắt đầu bắt đầu thức thứ 6 là chân tỷ lượng tợ đới chất cảnh dung thông hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, rồi bắt đầu nó vọng hóa đi xuống nữa, hồi nãy tôi nói phần tiến hóa đi lên, bây giờ phần vọng hóa sa đọa đi xuống.
Thì cái mức tứ thiền là cái mức chặn giữa, bây giờ đi xuống tam thiền, mà tam thiền như tôi nói là lạc thọ và khổ thọ, lạc thọ là một cái vui mà chưa có người vui, chập chờn dường như có người vui mà chưa có người vui, hén, tức là dường như có nhận thức đối tượng nhận thức, nhưng nhận thức này chưa có rõ lắm, chập chờn. Cái khổ thọ này cũng vậy, là có cái khổ, nhưng mà người chịu khổ chưa có rõ rệt lắm, chập chờn le lói, thành ra nó mới dung thông được với cái 5 thức đầu, cái hiện lượng tánh cảnh của đứng lặng của 5 thức đầu là hư minh le lói chiếu soi. Thì le lói chiếu soi của người ta là bàng bạc khắp cả, vô lượng vô biên khắp cả võ trụ. Còn hư minh le lói chiều 30 soi này là có giới hạn, giới hạn giữa con người và đối tượng là cảm giác, cảm giác hoan hỷ và cảm giác sầu muộn.
Nếu tôi nhập vào nhị thiền, thì tôi sẽ được cái nhị thiền, tôi sẽ hoan hỷ; rồi khi tôi bị quá tải mất luôn cái nhị thiền thì tôi sẽ sầu muộn chớ tôi không được là khổ thọ nữa, mà sầu muộn, tức là ưu thọ nó đối đãi như vậy đó, nghĩa là mất cái hoan hỷ rồi thì phải sầu muộn, tức là không được nằm ở khổ thọ, khổ thọ nó cao hơn là sầu muộn, nó cao hơn là sầu muộn, cũng như hoan hỷ thì nó thấp hơn lạc thọ, lạc thọ cao hơn. Thành ra chúng ta mới thấy trong cái bản này, trong Duy Thức nó để nó không giải thích, mình mới chết, chết mồ chết tổ. Tại sao thức thứ 6 thì có đủ 5 thọ: lạc thọ, khổ thọ, hỷ, ưu và bất lạc bất khổ thọ. Còn 5 thức đầu có lạc thọ, khổ thọ, bất lạc bất khổ thọ thôi, có 3 thọ. Tôi ngồi tôi suy nghĩ hoài mới biết được trạng thái đứng lặng của 5 thức đầu, 5 thức đầu nó chuyển biến nhanh hon thức thứ 6, nhưng mà cái chuyển biến vọng hóa của thức thứ 6 thì chuyển biến nhanh hơn là 5 thức đầu, chúng ta để ý cái bản đi ngược nha, cái đứng lặng thì nó đi xuống, còn cái vọng hóa thì nó đi từ dưới đi trở lên. Cái chỗ đó mà chư Phật tử đặt câu hỏi, của ông Thiện Đức hỏi đấy, câu hỏi chết người đấy, tôi đã nhắc mấy lần, mấy ông mấy bà cái này tôi cứ nhắc hoài, chúng ta không để ý, tới chừng tôi giảng thì mấy ông mấy bà chới với, hén. Chút nữa chúng ta trở lại câu hỏi đấy. Thì chúng ta thấy qua tới nhị thiền là hoan hỷ, mất hoan hỷ thì sầu muộn. Hồi đó tôi không có giảng cái này, tôi không có giảng cái đối đãi này, mấy ông mấy bà không nắm được.
Rồi khi mất cái nhị thiền nữa chúng ta trở xuống cái tán thán, mà mất tán thán thì chúng ta sẽ than van, than van chớ không còn sầu muộn nữa, thành ra cái than van nó nặng hơn sầu muộn.
Rồi bắt đầu xuống cấp vọng hóa nữa thì chúng ta thấy trở về cõi cõi trời dục giới chớ không còn sắc giới, không còn sơ thiền của sắc giới nữa, thì chúng ta sẽ trú ở. Trú ở là cái gì? Trú là chúng ta muốn nằm trong đó. Hỏi mầy trú ở đâu? tức là mình nằm ở đâu? ở đâu, ở là ở ngay, nằm ở ngay trong đó, tức là có sự chiếm hữu bên ngoài, chúng ta muốn được cái hỷ lạc thì chúng ta phải ôm nhau hôn, bắt tay nhau, hoặc mỉm cười, hoặc đá lông nheo, thì bắt đầu mới có hỷ lạc khởi lên, chớ chúng ta không phải trở về hỷ lạc nơi riêng trong xác thân mình nữa. Còn sơ thiền do cái đề mục, khi thắng được cái đề mục rồi thì cái hỷ lạc nó sanh, giằng co giữa ác pháp, cái tư tưởng ác, để rồi chúng ta thắng được nó. Còn cái nhị thiền không phải giằng co nữa, mà tự nhiên không cần niệm Phật là có tiếng niệm Phật. Cái này phải là đếm từ 1 tới 10, khi mất phải kéo lại, hoặc niệm Phật khỏi đếm mà phải theo dõi nó, khi mất phải kéo trở lại, thành ra do cái ly dục đó, mình mới sanh hỷ lạc. Còn ở đây không phải bên trong nữa, mà chiếm hữu bên ngoài là phải đi tìm một người khác phái để sanh ra hỷ lạc, người khác phái: người nam thì thích người nữ, người nữ thì thích người nam thì có khác phái đó, nhưng mà còn cao thượng, thành ra mới trú ở, tức là muốn nằm ở trong đó mãi, mà nếu mất thì than khóc, thành ra cõi trời dục giới cỏn than khóc. Cũng như Anan đấy, Nhập lưu thôi, Nhập lưu tương đương, định lực tương đương cõi trời dục giới thôi, thành ra Đức Phật mất phải khóc, thành ra khi mà chúng ta được, nếu mà Đức Phật lúc đó sống lại thì Anan sẽ trú ở, trú ở chớ không phải là tán thán, hoan hỷ, mà là trú ở, mà khi mất rồi mất cái trú ở thì chúng ta trở nên than khóc. Đó là cái độc đáo của bài Kinh Sáu Sáu vậy, theo tôi cái này cái đề nghị của tôi thôi.
Còn nếu đi xuống thấp nữa, thì tới cõi người và bốn đường ác. Thì chúng ta thấy trú ở rồi không được nữa thì chúng ta phải ái trước. Ái là gì? Ái là thương mến, trước là nắm chặt lấy, nắm chặt lấy cái người đối tượng của mình, nắm chặt lấy người khác phái, thì chúng ta thường kêu là ghen tuông đấy, trạng thái này là trạng thái nặng nề, mà tới nặng nề quá nữa thì đi xuống tới địa ngục, tức là không nắm có được thì phải đập ngực cho tới chết giấc, thì đập ngực cho tới chết giấc xuống địa ngục, mà nếu thắng được thì chúng ta sẽ nắm chặt lấy người đó.
Thành ra chúng ta thấy lằ ở đây cái thức thứ 6 một mình nó đi xuống hết, nó chỉ dung thông được với cái hoan hỷ sầu muộn của 5 thức đầu; còn qua tới vọng tưởng kiên cổ thì hoàn toàn của thức thứ 6 một mình, hoàn toàn thức thứ 6 một mình. Thành ra đi từ địa ngục ngạ quỷ súc sanh atula đều cũng là thức thứ 6 không, hén, tới người cũng thức thứ 6, tới trời dục giới, sắc giới, trời vô sắc giới cho tới Như Lai cũng một mình thức thứ 6, một mình tư tưởng thôi.
Thành ra chúng ta thấy trong Duy Thức rất hay, là tư tưởng thức thứ 6 một mình nó nắm 51 tâm sở, mà trong cuộc sống chúng, ta chỉ có 51 tâm sở thôi, mà nó nắm hết, nó nắm hết, nghĩa là: không quân, lục quân, bộ bình, thủy binh gì, hải quân, nó nắm hết trơn, không có bộ binh nào mà nó không nắm hết, thành ra từ ở dưới địa ngục mà đi tới Như Lai một mình nó tạo tác, nhưng mà thế giới này thế giới của luân hồi sanh tử, của vọng hóa, của xao động, của xao động.
Nhưng mà muốn giải thoát luân hồi sanh tử thì chúng ta phải trở về mặt trăng thứ ba, tức là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, cũng nó đấy, nguyên nhân của luân hồi sanh tử là từ thức thứ 6, từ thức thứ 6, nếu nó tập trung thăng hoa lên thì nó đi tới Như Lai, Như Lai này Như Lai nội chế đó, còn nếu mà nó vọng hóa vọng hóa lên thì nó đi tới Như Lai tiến hóa, cỏn khi mà nó sa đọa xuống thì nó đi tới địa ngục.
Thì chúng ta thấy một mình thức thứ 6 tạo ra bao nhiêu luân hồi sanh tử, bao nhiêu đau khổ. Nhưng mà muốn giải thoát cũng từ thức thứ 6 này, bị vì nó là mặt trăng thứ ba, cái đứng lặng của nó mà dung thông với thức thứ 6 chính là hiện lượng tánh cảnh của mặt trăng thứ ba, mà mặt trăng thứ ba tức là mặt trăng thấp nhất trong vấn đề đứng lặng, trong vấn đề đứng lặng thì dễ nhận nhất, vì nó thấp nhất.
– Mặt trăng thứ ba thường thường chúng ta kêu là cái biết.
– Còn mặt trăng thứ hai chúng ta kêu là cái thấy, nói về bên con mắt đấy.
– Còn mặt trăng thứ nhất chúng ta kêu là cái nhìn. Nhung mà cái nhìn, cái thấy, cái biết đều là bóng dáng của mặt trăng thôi.
– Còn mặt trăng thiệt tức là tánh nhìn, tánh thấy, và tánh biết, đó chính là Vô chất tánh cảnh và Hữu chất tánh cảnh đấy.
Thành ra muốn chấm dứt luân hồi sanh tử khổ thì chúng ta phải dùng cái thức thứ 6 này, tập trung, tập trung từ sơ thiền tức là tầm sát, niệm Phật đếm từ 1 tới 10, niệm Phật khỏi đếm, qua khỏi niệm Phật luôn, thì từ đây chúng ta có thiện tri thức, Thánh nhân giúp đỡ, chúng ta mới nhận được Phật tánh, Phật tánh này tức hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, như tôi nói hồi nãy, cái này dễ nhận nhất thôi. Nói dễ nhận chớ nếu không có Thánh nhân, thiện trí thức giúp đỡ thì không nhận được đâu, chúng ta chạy theo xao động của thức thứ 6 mà thôi, nó cứ vọng hóa, tiến hóa vọng hóa, rồi sa đọa, thoái hóa vọng hóa, cứ như thế nó làm tới làm lui mãi, chừng nào nó biết nó bất lực, có người giúp đõ nó mới chịu ngừng nghỉ đứng lại, thì đứng lại ngay mặt trăng thứ ba, tức là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6. Thì bây giờ từ hiện lượng tánh cảnh này chúng ta thấy rằng nó tạo đi xuống tới địa ngục, tức là gọi là sắc uẩn, sắc uẩn.
Thì trong Kinh nói, sắc uẩn theo trong Thủ Lăng Nghiêm đấy, giới hạn của sắc uẩn tức là sắc và không, thì chữ sắc ở đây chúng ta phải nói rằng tất cả những cái hiện tượng mà có hình hoặc vô hình, tức là con vi trùng, điện tử, cho tới cỏ cây, đất đá, hình hài của chúng ta, bây giờ vật lý đấy, đúng là vật lý, mà vật lý có những cái nhỏ nhen như là điện tử, hoặc là vi trùng, hoặc là tế bào. Thì sắc uẩn là sắc và không, tức là do nhân duyên hợp lại thì có gọi là sắc, khi nhân duyên rã rời thì gọi là không.
Tôi lấy thí dụ. Thí dụ như cái nhà giảng của chúng ta thì đây là sắc: do kèo cột, do ván lá, do thiếc,… này kia thì mới có cái nhà này là sắc, nhưng mà khi thời gian nó cũ, hoặc là mình muốn cất nhà khác, mình đập bỏ thì nó là không, nhưng mà không có cái nhà này thì có đồng gạch vụn, đồng gạch vụn đó là sắc, đồng gạch vụn đó quý vị đập bể ra làm pit-ton thì đồng gạch vụn mất thì trở nên cái nền, có lại cái nền. Thì như vậy sắc không là: nhân duyên có, mà nhân duyên rã là không, mà nhân duyên rã nó tạo ra cái nhân duyên khác thì kêu là sắc, còn nó rã ra nữa thì kêu nó là không, cứ thế. Thành ra cái giới hạn của sắc uẩn này là sự vật chưa có cái biết, chưa có cái biết, hén.
Rồi tiến lên tới thọ uẩn là bắt đầu chiếm hữu cái sắc uẩn này, nghĩa là có căn trần thức và có sự tác ý vô đó, thì trong Kinh thường gọi là xúc, do căn trần thức đắm nhiễm nhau mới chiếm hữu cái sắc uẩn này, thì đó kêu là thọ, Neu mà rời căn trần thức ra thì kêu là ly, thì không có thọ, hén. Thành ra giới hạn của thọ là xúc và ly, giới hạn của thọ là xúc và ly.
Rồi bây giờ qua cái thứ ba là khi chúng ta biết cái tình nhiễm này rồi, cái thương ghét này rồi, chúng ta bỏ cái thương ghét, thì thương ghét này trong Duy Thức học thường kêu là độc ảnh cảnh, mà cái nhận thức của nó kêu là tợ tỷ lượng. Tỷ lượng là so sánh nhận biết mà nhận biết một cách sai lầm, tương tợ, thành ra kêu là tợ tỷ lượng. Thì cái thương ghét này do nhận thức của từng cá nhân chụp mũ gán vào nó, thành ra kêu là độc ảnh cảnh, là cái cảnh chỉ một mình chúng ta, cái biệt nghiệp chúng ta chụp mũ lên nó thôi.
Thí dụ cái nhà giảng này, thì nó chỉ là tợ đới chất cảnh thôi, nó là hình tướng nhà duyên lại như vậy thôi, nó là sắc uẩn, nó là cái nhà hợp lại, đâu có thương ghét gì. Nhưng mà đối với tôi, tôi rất thích nó, vì là chỗ giảng của tôi, rất thuận tiện cho tôi. Nhưng có một số người ta lại không thích, thì cái này riêng của tôi và cái riêng của người đó, thì thế giới, bây giờ cái nhà giảng này có được thương được ghét, thì được thương được ghét đó là thế giới của độc ảnh chớ không cỏn là thế giới của đới chất nữa. Do có căn trần thức, có cái nhà này đó là cái trần, là cái đối tượng, còn cái căn là con mắt, con mắt của tôi nhìn thấy, nó, là do cái thương ghét của tôi, cái thức biến của tôi hợp lại, do sự tiếp xúc giữa căn trần thức này mới sinh ra sự đắm nhiễm, thì cái đó gọi là xúc; khi rời cái căn trần thức, con mắt tôi không thấy nữa, và cái nhà này không có nữa, thì tất nhiên cái thọ cảm không có. À! Chúng ta phải nhớ như vậy. Do sự tiếp xúc của căn trần thức mà có thọ, khi rời cái xúc này, căn trần thức thiếu một trong ba cái đó thì cái thọ không có. Thành ra mới nói thọ uẩn là do xúc và ly, giới hạn của nó.
Bây giờ cái thứ ba là đới chất cảnh, tợ đới chất cảnh. Đới chất cảnh là gì? Là cái cảnh mà vay mượn của tánh cảnh mà sửa lại theo cái nghiệp của từng chúng sanh. Thí dụ nghiệp người, thì tôi thấy cái nhà này là cái nhà, thấy cái nhà giảng đường này là nhà giảng đường, nhưng mấy ông mấy bà là người cũng thấy là nhà giảng đường vậy; nhưng mà đối với một con chó, đối với một con kiến, đối với một con thằn lằn thì cái nhà này khác, con thằn lằn cái nhà này không phải cái nhà mà cái chỗ nó đớp mồi, thí dụ, tôi thì không phải con thằn lằn tôi không biết, mình đoán vậy thôi, thì cái nhận thức con thằn lằn thì phải tương ưng với đối tưọng nhận thức. Đó, thành ra thế giới đới chất cảnh là là thế giới có chủng tử trong alaya, mạtna thức thứ 7 mới moi trong đó cung cấp cho nó nó nhớ lại, cái nhớ lại này nó sẽ chụp mũ in lên thế giới tánh cảnh là có hình, thành ra có hình có tướng luôn theo cái nghiệp của từng chúng sanh. Thành ra nếu không có nhớ lại là không có đới chất cảnh, không có tư tưởng. Thành ra trong Kinh mới nói tư tướng là nhớ và quên. Khi quên là sự vật không có hiện ra được, một người mất trí thì không thể thấy cái nhà này là cái nhà nữa, không có thể thấy con chuột là con chuột nữa, mà có thể họ bóc con chuột họ nhai họ ăn, bị con chuột bây giờ ông không còn nhớ là con chuột nữa, họ sẽ thấy theo hình thức của họ nhận thức. Thành ra khi có nhớ là có tư tưởng, thành ra tư tưởng chỉ là một sự nhớ lại mà thôi, khoa học không biết cái này, tâm lý học của khoa học còn dở cái vấn đề đó. Thành ra trong Thủ Lăng Nghiêm độc đáo ủ, nhớ vầ quên là giới hạn của thức thứ 6, nếu trong alaya mà mất hết cái chủng tử nhớ thì nhìn cái này không biết là cái gì hết, hén, mình đã từng thấy cái nhà giảng này qua rồi, trong alaya có, bây giờ nó moi ra nó đưa ra, thì bây giờ theo nghiệp người thì thấy là cái nhà giảng.
Thì chúng ta nên nhớ cái tưởng uẩn với sắc uẩn gần giống nhau.
– Cái sắc uẩn là hình tướng sự vật mà chưa có nhận thức, tức là chưa có người biết cái sắc uẩn, chỉ có sắc uẩn thôi, tức là vật lý thôi.
– Còn ở đây cũng vậy cái vật lý mà có người biết là vật lý, thì cái nầy là tưởng uẩn, hén cái người biết là cái nhận thức chụp mũ lên cái này. Thành ra thế giới của tợ đới chất mà là chân tỷ lượng.
Thì chúng ta thấy là như vậy, thì tới đây là hết, cái cuộc chuyển biến nó là như vậy, nó là như vậy.
– Thành ra muốn chấm dứt luân hồi sanh tử khổ thì chúng ta phải nắm ngay cái thức thứ 6 này.
– Và muốn tiếp tục luân hồi sanh tử khổ, muốn có 72 phép biến hóa, muốn có thần thông thì cũng ngay thức thứ 6 này.
Như tôi nói hồi nãy, nó nắm hết 51 tâm sở, thì nó sẽ tạo ra cảnh địa ngục cho tới cảnh Như Lai, nhưng mà cái cảnh nó tạo, vọng hóa nhất tới thức thứ 6 hết rồi, còn qua mạtna tới hư không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu xứ, phi phi tưởng là thế giới của Như Lai, là thế giới tưởng tượng độc đáo của sự tập trung cao độ, của sự tập trung cao độ, đó là cái mê hồn trận mà chúng ta khi đi vào đó khó mà ra, nó giống như thánh quả thôi, thì khi lên như vậy là chúng ta lạc vào ngũ ấm ma, ngũ ấm ma.
Thì chúng ta nên nhớ cái sắc uẩn đó, cái thọ uẩn đó là cái thứ hai, và cái tưởng uẩn của thức thứ 6, rồi cái hành uẩn của thức thứ 7, cái tưởng uẩn của thức thứ 6 độc đáo nhất, cái hành uẩn rồi tới thức uẩn, thức uẩn tức là alaya.
Thì chúng ta thấy là sắc uẩn này khi chúng ta muốn chiếu kiến nó, tức là muốn cho nó trở ve chân không, thì chúng ta phải đi từ cái thức thứ 6, tức là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, mới chiểu kiến được cái sắc uẩn, bị sắc uẩn là chưa có người nhận thức mà chỉ có đối tượng thôi, chỉ có không gian vật lý mà thôi.
Thì trong Kinh thường nói:
– Chúng ta đi chúng ta biết mình đi.
– Chúng ta đứng chúng ta biết mình đứng.
– Chúng ta ăn chúng ta biết mình ăn.
– Chúng ta mặc chúng ta biết mình mặc.
– Chúng ta đi chậm, biết đi chậm, đừng cải sửa thành đi lẹ, nếu cải sửa thành đi lạ là có tư tưởng xen vào rồi, là mất cái đứng lặng hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 là mất rồi, bị nhích một chút xíu là nó qua cái tỷ lượng chân đới chất rồi,
Nó Lăng Ịẽ nó nhìn cái sẳc uẩn đì đứng ngồi nằm. Mà nó thấy đi mau quá, bây giờ sửa lại đi chậm, tức là tư tưởng xen vào rồi, cái hiện lượng tánh cảnh thức thứ 6 ẩn ngay trong đó, và thế giới của xao động của thức thứ 6 đới chất cảnh là bắt đầu xen vào đó.
Thành ra Tinh là chúng ta đừng phê phán, đừng chỉ trích, đừng cải sửa, đừng gì hết, phải luôn luôn chỉ nhận diện mọi sự vật mà thôi, nhưng mà đây nhận diện dưới hình thức vật lý thôi, chớ chưa có tâm lý, chưa có cảm giác.
Rồi từ đó khi nhận diện được cái đó rồi chúng ta mới qua cái hiện lượng tánh cảnh của 5 thức đầu, tức là hư minh le lói chiếu soi, tức là cái thấy đấy, cái thấy này độc đáo hơn, nó chuyển biến nhanh hơn, đứng lặng nhanh hơn, bị vì nó đi xuôi từ trên xuống mà bây giờ nó đi ngược trở lên, thì cái này mới đủ điều kiện, hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 và hiện lượng tánh cảnh của 5 thức đầu hợp tác với nhau thì mới đủ điều kiện để chiếu phá được thọ uẩn, vì thọ uẩn nó rất vi tế, nó là vọng hóa nhanh hơn là sắc uẩn, nó là một trạng thái le lói chập chờn, thì chỉ có cái đứng lặng của le lói chập chờn này mới chiếu kiến được nó, thì muốn qua cảm giác, tất nhiên là. Thành ra cái đầu sắc uẩn chúng ta phải đắc quả Nhập lưu thôi, tức là quả Thánh thứ nhất thôi. Bây giờ muốn chiếu kiến về thọ uẩn, chúng ta phải qua quả Thánh thứ nhì Nhất vãng lai, và nếu chiếu kiến hẳn, Nhất vãng lai chỉ làm nhẹ được thọ uẩn thôi, mà chiếu kiến hẳn được thọ uẩn phải là Bất lai quả Thánh thứ ba. Vậy chúng ta phải qua cái hư minh le lói chiếu soi, tức là hiện lượng tánh cảnh của 5 thức đầu, mà nếu chúng ta qua hiện lượng tánh cảnh của 5 thức đầu rồi tất nhiên chúng ta đã qua hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, còn nếu hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 thì chưa có hiện lượng tánh cảnh của 5 thức đầu, hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 là mặt trăng thứ ba, nó đã là xuống cấp chậm rồi, cỏn xuống cấp nhanh hơn là mặt trăng thứ hai, tức là hư minh le lói chiếu soi thì mới đủ điều kiện để chiếu phá, chiếu kiến được cái thọ uẩn, chiếu kiến được thọ uẩn. Thành ra nói làm nhẹ bớt thọ uẩn tức là nhận được cái lạc thọ và khổ thọ, làm nhẹ được cái lạc thọ và khổ thọ, thì tất nhiên tới đây chúng ta thấy những cái ái trước, trú ở, tán thán, hoan hỷ đã chấm dứt rồi đấy, chúng ta mới bắt đầu qua cái lạc thọ, mà lạc thọ tức là chúng ta thấy nó nằm về tam thiền, thì nó là chập chờn le lói nữa, mà le lói theo vấn đề vọng hóa; còn cái kia cũng chập chờn le lói, nhưng mà le lói theo chiều hướng đứng lặng. Để ý chỗ đó hén. Thành ra nó dung thông là như vậy đấy, dung thông là như vậy đấy. Còn hồi nãy chúng ta thấy cái vật lý, thí dụ như thấy cái bình thủy, thì bình thủy là vật ly tức là một trạng thái kiên cố, chúng ta thấy sự vật này, như người phàm phu thấy nó là có mãi mãi, và bền vững không bao giờ mất, không bao giờ tiêu, thì kêu là kiên cố, chúng ta coi xác thân này cũng vậy, chúng ta nghĩ là nó sống hoài, thì đó là một cái vọng tưởng kiên cố, kiên cố của cái xao động, thì vọng tưởng này giống như vọng tưởng của cái đứng lặng, đứng lặng là đập vào tướng phần alaya kiên cố. cố là gì? cố là cứng, kiên là bền bỉ, bền bỉ và cứng ngắc đập đó mãi để có hình, bây giờ có hình có tướng luôn, có hình có tướng luôn, mà hình tướng này chúng ta nghĩ nó là kiên cố, mà kiên cố này là kiên cố của xao động; còn kiên cố của vọng tưởng kiên cố của đứng lặng là đập vào tướng phần của alaya, thành ra một cái kiên cố của đứng lặng và một cái kiên cố của xao động dung thông với nhau, dung thông với nhau. Còn ở đây cũng vậy, một cái vọng tưởng một cái le lói chiếu soi của đứng lặng là hư minh le lói chiếu soi của 5 thức đầu, còn một cái xao động của 5 thức đầu cũng là le lói nữa đó là lạc thọ và khổ thọ, lạc thọ và khổ thọ chỉ có lạc thôi, còn con người hưởng lạc nó chập chờn le lói; còn cái kia thì có cái hình dường như có dường như không, le lói chập chờn. Bây giờ cái lạc thọ nó có hình tướng thật sự, nhưng mà con người hưởng lạc thì nó chập chờn, nó chập chờn; thành ra bên kia chưa có đối tượng; bên đây có nhận thức và đối tượng, nhưng mà đối tượng thì nó rõ, còn nhận thức thì chập chờn. Thành ra hai cái này nó dung thông nhau mà chúng ta khó mà phân biệt được, thành ra trạng thái này là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 không thể chiếu kiến nó được, mà phải hư minh le lói chiếu soi mới chiếu kiến được lạc thọ và khổ thọ. Tới quả Bất lai Thánh thứ ba mới chấm dứt hẳn lạc thọ và khổ thọ, mới lạc vào thế giới bất lạc bất khổ thọ của tứ thiền, thành ra chúng ta thấy quả Thánh thứ ba nằm ở trong cõi tứ thiền.
Trong cõi tứ thiền có 9 cõi, thì 5 cõi chúng ta kêu là Ngũ Tịnh Cư Thiên thì thuộc về Bất lai, còn 4 cõi kia là của thiên ngoại đạo.
Ngoại đạo là gì? là nó không phải đi theo con đường đứng lặng, mà nó di theo con đường xao động, tức là nó qua tứ không đấy rồi đi tới quả Như Lai bằng nội chế; còn ở đây không, người ta sẽ đi qua quả Alahán, và người ta đi tới quả Như Lai. Hai cái nó khác nhau một chút xíu đó.
Rồi chúng ta thấy, đến đây là quả Thánh thứ ba thì mới có dứt được sắc uẩn thọ uẩn, còn tưởng uẩn chưa có đụng tới được. Bị tưởng uẩn nó là tứ thiền mà, nó là một trạng thái bất lạc bất khổ thọ, nó chỉ có nhận thức và đối tượng nhận thức, sự phân biệt, sự chia chẻ, đặt tên, gọi danh, nhưng mà chưa có tình cảm xen vào đó, cái anh Te Thiên độc hơn anh Bát Giới, tỉnh táo hơn, nó sáng suốt hơn, phân biệt hết tất cả mọi sự giá với sự thật. Thì cái này, hư minh le lói chiếu soi cái đứng lặng không thể chiếu kiến được nó, mà phải nhờ tới cái alaya, nhờ tới cái alaya, tức là vọng tưởng hư vô vi tế, cái đứng lặng của alaya mới có thể chiếu kiến được tưởng uẩn, hén, chiếu kiến được cái chân tỷ lượng mà tợ đới chất cảnh này.
Thành ra chúng ta thấy rằng khi mà chiếu soi vào những cái tình cảm mà lạc thọ khổ thọ đó, mà bị cái hiện lượng tánh cảnh đứng lặng của 5 thức đầu chiếu kiến thì nó biến mất, nhưng mà khi qua thức thứ 8 rồi mà chiếu soi vào hiện lượng tánh cảnh, chân tỷ lượng mà tợ đới chất cảnh đó thì nó hiện nguyên hình là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, hai cái dung thông mà hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 với chân tỷ lượng mà tợ đới chất không phân biệt được:
– Một cái có hình rõ rệt. Nhưng mà hình gì? Chưa biết.
– Một cái có hình rõ rệt. Mà hình gì? Phân biệt được cái gì, có đàng hoàng hết.
– Một cái xuyên suốt. – Một cái chướng ngại.
– Một cái chưa có ngã. – Một cái có ngã rành rành.
Nhưng mà đây chưa có tình cảm nha.
Thành ra chân tỷ lượng tợ đới chất, khi được hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 8, tức là hư vô vi tế chiếu kiến nó thì nó hiện nguyên hình là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, thì cái này hiện lượng tánh cảnh của thức thứ
6, thì bây giờ thức thứ 6 này, alaya mới chiếu kiến luôn cả hư không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu xứ và phi phi tưởng thì tất cả cái này cũng hiện ra là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, bị cái này là nội chế của tư tưởng, hàng hóa nội chế của tư tưởng, là tứ thiền nè, hư không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu xứ, phi phi tưởng toàn là của tư tưởng nội chế, nó tập trung rất là kỹ lâu sâu mạnh, thì cái này phải alaya thức tức là hư vô vi tế hợp tác với chân như tịnh mới chiếu kiến được nó thì nó hiện nguyên hình là hoàn toàn hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 là có hình, hình cô đọng rồi, nhưng mà hình gì? có tiếng, nhưng mà tiếng gì? cũng chưa biết, có mùi, mà mùi gì? chưa biết, nhưng mà đã cô đọng rồi, cô đọng: hình, tiếng, mùi rồi đàng hoàng hết, rồi vị đàng hoàng hết, nhưng mà vị gì? chưa biết bây giờ có mùi đàng hoàng, có tiếng đàng hoàng, hình đàng hoàng, hình đó cái đồng hồ, hình đó cái tịnh xá, hình đó là mấy ông mấy bà, hình là người nam người nữ, hình là con trâu, con chó, con bò rõ ràng, phân biệt hết, cái nào ra cái nấy, hình tướng rõ rệt. Nhưng mà khi hiện lượng tánh cảnh của alaya tức là hư vô vi tế hợp tác với chân như tịnh chiếu soi nó, thì nó hiện nguyên hình là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, cả tới hư không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ đều bị chiếu soi hiện nguyên hình hết, là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, thì cái này Bất lai, Nhập lưu, Nhất vãng lai làm sao thấy được tánh cánh này, không thể thấy được hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 được.
Tới đây thì đâu phải thôi, đó là phá được cõi trời sắc giới và vô sắc giới, tức là trong 10 kiết sử đây, thì chúng ta thấy cõi trời sắc giới và vô sắc giới Alahán mới chiếu kiến được, mới chiếu kiến được. Rồi từ đây cái này không phải bở đâu, nó còn chiếu kiến thêm nữa.
Thì chúng ta thấy là bây giờ cái xao động nó chấm dứt rồi, hết xao động rồi, tất cả thế giới xao động bị chiếu kiến hết, hiện nguyên hết, chỉ còn thế giới đứng lặng thôi. Nhưng mà chúng ta nên nhớ, thế giới đứng lặng so với vô chất tánh cảnh vẫn là vọng thôi, hay nói đúng như trong Kinh Lăng Nghiêm: “không phải vọng không phải chân”, mà thế giới vọng hóa bị triệt tiêu hết, bị chiếu kiến rõ rệt hết rồi, hiện ra toàn là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 thôi, chính ảnh tạo ra, chính hiện lượng tánh cảnh thức thứ 6 này, bị vì mặt trăng thứ ba nó xuống cấp quá chậm, thành ra bị cái vọng hóa quá nhanh dung thông nó, dung thông nó, thì bây giờ chiếu kiến tới vọng hóa nhanh của thức thứ 6 rồi nó hiện nguyên hình, mà vọng hóa của cảm tình cũng là thức thứ 6 nhưng mà chậm quá, xuống chậm quá, vọng hóa quá tệ, quá ù lì, chỉ có thức thứ 6 này cái vọng hóa chuyển biến rất nhanh, thành ra khi mà chiếu kiến nó thì nó hiện nguyên hình là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, mà nếu Alahán như mà vậy chưa có đắc quả gì đâu, cái này cũng vẫn là vọng thôi, so với cái vô chất tánh cảnh vẫn vọng, thì Vô chất tánh cảnh cũng phải chiếu kiến luôn cái hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 nữa, để trực nhận nó trở về chân không, rồi chiếu luôn hiện lượng tánh cảnh của 5 thức đầu, rồi chiếu luôn hiện lượng của vọng tưởng kiên cố, và chiếu luôn cái vọng hóa của thức thứ 7, vọng hóa thức thứ 7 là ngã mạn, mà vọng hóa của 5 thức đầu đó là vọng tưởng, chúng ta kêu là phóng dật, còn vọng tưởng kiên cố tức là vô minh, trừ hết cái này chúng ta thấy chúng ta trở về vọng tưởng hư vô vi tế và đi tới cái chân như tịnh thì tới đây đắc quá Alahán, nhưng mà còn kẹt vào hư vô vi tế không thể chiếu phá được, nó là một trạng thái bàng bạc, nó gần như chân như tịnh vậy, bị vì nó liên can tới tất cả vô lượng vô biên pháp giới, liên can tới tất cả vô lượng vô biên vọng tưởng alaya cá nhân của vô lượng vô biên chúng sanh, thì khi hiện như vậy rồi không thể phá được, cái này có thể tùy thuận thôi. Thành ra khi mà còn sống thì vị Alahán còn kẹt vào cái alaya thức này kêu là Ngũ uẩn Niết Bàn, mà chúng ta thường kêu danh từ là Hữu dư y Niết Bàn, còn dư sót cái thân ngũ uẩn này, thành ra vị Alahán phải trả về nghiệp quá khứ, tức là trả về nhân quả, nhưng mà nghiệp mới vĩnh viễn không có nữa, còn mang xác thân ngũ uẩn này cũng bị chặt, bị chém, bị đâm, bị giết chết, thì Alahán có thể bị giết chết như thường, nhưng mà tạo nghiệp mới Alahán không có. Và khi bị giết, bị đâm đánh, Alahán vẫn không khởi tham sân sỉ, tức là cái nghiệp mới không có, mà nghiệp cũ vẫn còn, chỉ khi chết rồi bỏ xác thân này thì gánh nặng được đặt xuống, việc phải làm đã làm xong, phạm hạnh đã thành, từ nay không còn trở lại nữa, trở về chân như tịnh. Như vậy Niết Bàn tịch tịnh mới có 1/3 Niết Bàn thôi, tức là hóa thành dụ, vì còn alaya này. Mà alaya là gì? nó liên can tới vô lượng alaya, không thể diệt nó được. Thì cái đứng lặng này, cái chuyển biến đứng lặng vẫn là chuyển biến đứng lặng, dù Alahán có nhập vào đó và vô lượng chúng sanh vẫn là vô lượng chúng sanh, thì vô trong đó nằm thì thấy rằng nó liên can tới vô lượng, thì liên can này kêu là phân biệt pháp chấp, phân biệt pháp chấp, do Alahán nhìn tới còn phân biệt cái alaya của mình, bây giờ không phải là của mình nữa mà nó là liên can tới alaya vô lượng chúng sanh, mà alaya của vô lượng chúng sanh đều phát hiện từ chân như tịnh của mình, vậy là tất cả chúng sanh đều là mình hết, nếu mình muốn ôm trọn pháp giới thì mình phải tùy thuận vô lượng chúng sanh mới được, chớ alaya cá nhân mình bây giờ mất rồi, không còn là cá nhân nữa, mà nó chỉ là một điểm nhỏ của trong bãi sa mạc của chân như tịnh mà thôi. Thành ra vị Alahán cũng phải phát bồ đề tâm, tùy thuận alava cá nhân của một chúng sanh, nhiều chúng sanh, vô lượng chúng sanh thì bây giờ mới ôm trọn cả pháp giới. Thì đó, tất cả những cái này nằm trong Hữu chất tánh cảnh, thì bây giờ pháp thân mới hiện toàn phần.
Thôi, tôi nói đến đây là hết rồi. Như vậy rõ rồi hén.
Thì bây giờ chúng ta trở lại câu hỏi bữa hỗm, để chúng ta trả lời cho rõ. Tôi giảng hết trong này rồi đó, hén, từ nay là kỹ tới chúng ta qua 8 thức nữa, rồi qua 15 hạng chúng sanh, chúng ta đi vào bài Kinh Sáu Sáu rất dễ dàng. Nói dễ dàng chớ chua chắc mấy ông mấy bà trả lời được đấy, hén. Thì bây giờ của tôi tới đây là hết.
Bây giờ chúng ta câu hỏi mà hóc búa nhất gút mắt nhất. Câu hỏi thứ nhất của ông Thiện Khánh, chúng ta thấy ông Thiện Khánh trả lời tương đối sáng tỏ rồi đấy. Còn câu hỏi của ông Thiện Đức dường như nó còn mắc nghẹn đấy, là chúng ta chưa nuốt trôi. Bữa hôm tôi đặt lại câu hỏi cũng sai nữa, không phải như vậy, mà nó phải khác hơn một chút. Chút nữa tôi lặp lại câu hỏi thứ hai. Còn câu hỏi thứ ba của cô Thiền cũng gút mắc đấy, cũng đau đớn, cũng gặm nhấm chúng ta dữ. Ba câu hỏi này đều nằm trong bài giảng của tôi hồi nãy hết, chúng ta lựa bài giảng chúng ta trả lời thì được, mà chúng ta không khéo là nó kẹt, hén.
Thì câu hỏi thứ nhất của ông Thiện Khánh thì chúng ta thấy hơi sáng tỏ rồi. Thì như tôi nói hồi nãy là khi mà thức thứ 6 nó tập trung kỹ lâu mạnh sâu thì nó loáng thoáng nó thấy được hư không vô biên tức là thấy được mạtna, rồi nó tạo ra cái mạtna tưởng tượng của nó để nó duyên; và alaya; rồi vô sở hữu tức là chân như tịnh; rồi chân như tịnh và động dính liền là phi tưởng phi phi tưởng để nó duyên. Thì ông Thiện Khánh nói như vậy, theo tôi nói thì đó là cõi trời vô sắc giới thôi, cõi trời sắc giới, vô sắc. Thì ông Thiện Khánh nói nếu mà thấy Phật tánh loáng thoáng như vậy đó là Nhập lưu rồi. Như vậy giữa Nhập lưu và cõi trời sắc giới, vô sắc giới khác nhau như thế nào? thì câu này tôi thấy đa số đã trả lời rất đúng. Thì bây giờ ai chưa trả lời bữa nay tập trả lời, đó là câu hỏi thứ nhất.
Câu hỏi thứ nhì thì sửa lại, hồi nãy tôi có giảng, hồi nãy tôi có giảng đấy. Nhưng mà bữa hôm lặp sai, rồi sau ông Thiện Đức với cô Như Quang ở lại mới nhắc là hôm trước tôi có giảng vậy, thì tôi có nhớ lại vì tôi giảng qua rồi tôi không nhớ, nhưng mà nhắc lại tôi không phải giảng vậy, nói như vậy mà không phải vậy, nó kẹt vậy đó, thì cái bài giảng tôi nó sơ sót, tôi công nhận, giảng làm sao giảng cho đủ hết được, nó sơ sót, thì đúng ra cái lỗi ở tôi, nhưng mà sau đó tôi có thí dụ, mà thí dụ thì không bao giờ sơ sót, nó rất rõ ràng, thì đó là sơ sớt của mấy ông mấy bà, đúng ra tôi quỳ hương trước, mấy ông mấy bà quỳ hương sau, cái bài giảng của tôi thì sơ sót thiệt, nhưng mà khi tôi có thí dụ, tôi bắt đầu thí dụ rất là rõ ràng, rất là rõ ràng. Như hồi nãy tôi nói đó, khi mà thức thứ 6, chỗ này là chỗ khó nhất, mấy ông mấy bà lặp lại là khó nhất.
Thức thứ 6 mà vọng hóa thì nó là chân tỷ lượng mà tợ đới chất cảnh, tức là ở đây nó xí soạn bép xép nhất, nó đặt danh từ, bị vì cái kia hiện lượng tánh cảnh thức thứ 6 có hình có tiếng có mùi có vị, nhưng mà hình gì? tiếng gì? mùi gì? vị gì? chưa có, chỉ là một trạng thái cô đọng, mà hình xuyên suốt mà lại bàng bạc khắp vô lượng vô biên cả võ trụ, hiện lượng tánh cảnh mà; rồi bây giờ nó lại là có giới hạn, có hình thì có tịnh xá, có người, có người nam người nữ, có người Pháp, người Anh, có người Mỹ, có đàn bà đàn ông, có con nít, có người lớn, có trâu bò heo chó rõ rệt, đàng hoàng hết, có hình có tướng luôn, bây giờ bắt đầu chướng ngại, có ngã; hồi nãy chưa có ngã mới pháp thôi, cái đó là pháp chấp đấy; còn cái này bây giờ ngã chấp, mà ngã phải tương ưng pháp. Thì hai cái này chúng ta khó mà phân biệt được.
Thì do đó mà tôi mới nói là khi mà như vậy phân biệt như vậy rồi, nếu chúng ta vọng hóa xuống thức thứ 6, vọng hóa xuống tức là đi xuống 5 thức đầu nó thành lạc thọ khổ thọ, bắt đầu có tình cảm vào đó, nhưng tình cảm này cũng cỏn cao thượng, tức là tình cảm bên trong chớ chưa chiếm hữu bên ngoài, mà đi tới chiếm hữu bên ngoài mới có hoan hỷ, tán thán, rồi trú ở, ái trước, hay là sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực rơi vào bất tỉnh, thì như tôi nói hồi nãy đó, thì thế giới này là thế giới của độc ảnh cảnh, tức là của Thọ uẩn, mà chúng ta thấy Nhập lưu chỉ diệt được sắc uẩn thôi, còn thọ uẩn này phải Nhất vãng lai và Bất lai, thì khi mà nhìn thấy được cảm giác lạc thọ hoan hỷ tán thán và khổ thọ này thì nó biến mất, bị vì nó do cá nhân của mỗi người chụp mà, thuộc về thế giới độc ảnh cảnh, thành ra khi mà dùng cái Phật tánh chiếu soi thì cái này nó biến mất, cái độc ảnh cảnh biến mất thì nó loài ra thế giới của chân tỷ lượng, mà tợ đới chất cảnh, tức là cảnh như vậy là như vậy, cái tịnh xá là tịnh xá, cái nhà giảng là nhà giảng, cây trúc là cây trúc, không có thưong ghét trong đó, nhưng mà cây trúc này cũng là thế giới của đới chất cảnh chớ chưa phải là cảnh giới thật, thì cái này Bất lai Nhập lưu Nhất vãng lai cũng không thể chiếu kiến được, phải nhờ tới Alahán, hiện lượng tánh cảnh của Alahán mới chiếu soi vào cảnh vật này thì nó hiện nguyên hình là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, cái này thì quả thánh thứ ba và thứ nhì thứ nhất không thấy được hiện lượng tánh cảnh này, không thấy được tánh cảnh này. Mấy ông mấy bà bắt cái lỗi ở chỗ này cái lỗi ở chỗ này: tại sao chỉ Alahán thấy được tánh cảnh? mà Nhập lưu Nhất vãng lai Bất lai không thấy được tánh cảnh? như vậy Sư đã nói, ông Thiện Đức đại diện cho mấy ông mấy bà hỏi, hồi đó tôi chới với, tôi nói trời không lẽ ông Thiện Đức mà không biết chỗ này, giảng thì nó sơ sót thiệt, hén. Sư đã nói rằng: đi tới thiền thứ ba, tới nhị thiền, tức là niệm Phật đếm từ 1 tới 10, niệm Phật khỏi đếm, và khỏi cần niệm Phật, mà có thiện tri thức giúp đỡ thì thấy được Phật tánh, mà Phật tánh tức là hiện lượng tánh cảnh chớ gì. Còn bây giờ Sư giảng ở đây là chỉ Alahán mới thấy được hiện lượng tánh cảnh, còn quả Thánh thứ ba, thứ nhì, thứ nhất không thấy được hiện lượng tánh cảnh. Như vậy có mâu thuẫn hay không? thì rõ ràng là nó mâu thuẫn. Thì tôi sơ ý tôi không để ý cái vụ mà niệm Phật khỏi đếm mới thấy được tánh cảnh, đó là tôi có giảng thật, như cái này tôi cũng nói vậy, như vậy là quả Alahán mới thấy được tánh cảnh, còn quả Thánh thứ ba và thứ nhì thứ nhất không thấy được tánh cảnh. Vậy cái này tánh cảnh, còn cái kia là cái gì? Tôi nói: thấy được Phật tánh, mà Phật tánh là hiện lượng chớ gì, hiện lượng thì đối tượng hiện lượng là cái gì? là tánh cảnh. Mà bây giờ Sư nói: quả thánh thứ ba, thứ nhì, thứ nhất không thấy được tánh cảnh. Thì cái này quả là cái sơ sót của tôi, một cái quá tệ của tôi, nhưng mà kéo lại một cái là tôi có thí dụ, có thí dụ, thì cái này là cái lỗi của mấy ông mấy bà. Tôi, hôm đó tôi có thí dụ là cái đồng hồ. Tôi, hôm tôi có nói cũng cái đồng hồ thôi, tôi nói: cái đồng hồ đây, đó là thế giới của sắc uẩn, vì nó là vật lý, nó đâu có cái nhận thức gì đâu, thì tôi còn có nói nữa à: nếu mà tôi biết đây cái đồng hồ theo nghiệp người, thì cái biết tôi và cái biết cái đồng hồ, thì đây mới là thế giới của tưởng uẩn, thì tưởng uẩn nó có nhận thức và đối tượng, còn sắc uẩn nó chỉ là vật lý ù lì thôi. Đó thì Nhập lưu khi nhìn cái đồng hồ này, biết cái đồng hồ, hén, thì hiện lượng tánh cảnh cái đồng hồ không có vấn đề phê phán hay chỉ trích cải sửa gì hết. Còn bây giờ bắt đầu tôi mến cái đồng hồ, hay tôi ghét cái đồng hồ, thì qua thọ uẩn thì cái này phải Nhất vãng lai Bất lai quả thánh thứ hai và thứ ba mới chiếu phá được cảm giác này, thì cảm giác này biến mất, lạc thọ khổ thọ này biến mất, mới lòi ra cái đồng hồ thôi, không có thương ghét, thì cái đồng hồ này không có thương ghét đây là thế giới tỷ lượng đới chất cảnh, mà tỷ lượng đới chất cảnh này qua Thánh thứ ba làm sao mà chiếu kiến được, thứ nhì thứ nhất khỏi nói rồi, Thánh thứ ba chiếu kiến không được, phải Alahán mới chiếu kiến được. Khi mà chiếu kiến cái đồng hồ thì nó hiện nguyên hình là thế giới của hiện lượng tánh cảnh, thì cảnh này chỉ có Alahán là Thánh thứ tư mới chiếu kiến được, thứ ba thứ nhì thứ nhất không thấy được tánh cảnh. Như vậy tôi thấy quá rõ ràng rồi còn gì nữa, cái này thì quá rõ ràng, cái thí dụ thì quá rõ ràng rồi. Còn cái giảng, thì tôi thấy sơ sót, vậy là sơ sót. Đó, ông Thiện Đức mới hỏi: Sư nói như vậy là tại sao Alahán mới thấy được tánh cảnh của đồng hồ, còn Nhập lưu thấy Phật tánh là thấy cái gì? Phật tánh phải là một danh từ của hiện lượng hay không? Mà hiện lượng, đối tượng của hiện lượng là gì? Phải tánh cảnh không? Vậy thì tánh cảnh này, tánh cảnh này, bao nhiêu tánh cảnh? mà tại sao Sư nói quả thánh thứ ba và thứ nhì thứ nhất không thấy được tánh cảnh? Đó là câu hỏi của ông Thiện Đức. Rõ chưa? giờ phải lặp lại đọc từng chữ nữa không? rồi chậm chậm xuống hàng nữa không? hay sao nữa? ở đây cũng hơi lẹ, nếu viết là viết không được, nhưng mà rõ quá rõ rồi đó. Thì bữa đó tôi có giảng cái đó tôi công nhận tôi có, nhưng mà cái thí dụ tôi thấy quá rõ ràng, cái thí dụ thấy quá rõ ràng, mấy ông mấy bà nghe lại băng, tôi có thí dụ đó, tôi nhớ bữa đó tôi có cái đồng hồ nữa, ông Minh Hà mới nhắc lại, à! nếu thí dụ thì tôi không có lỗi, còn nếu không có thí dụ là tôi có lỗi, hén.
Còn bây giờ tới câu hỏi số ba của cô Thiền. Như vậy rõ chưa? nếu rõ chút trả lời đó, một chút nói không rõ nữa thì chết luôn.
Bây giờ muốn hai câu hay muốn ba câu luôn. Câu này là căng đó, khó á, thành ra cái bài giảng tôi nằm trong đó hết, chớ không phải không có, bị vì tôi nói về phải tham thiền lại, đòi hỏi mấy ông mấy bà phải qua cái nhị thiền, tức là niệm Phật khỏi đếm, ngồi lắng nghe thôi, kiểu như Sư Từ vậy đó, bắt đầu nghe pháp được khỏi niệm Phật nữa, ngồi xuống là có tiếng niệm Phật thôi, nhưng mà coi chừng tinh tấn à, không tinh tấn là mất đấy, bởi vì pháp môn đối trị là “văn ôn võ luyện”, mà hễ còn tinh tấn thì còn, mà không tinh tấn là mất.
Thành ra bên Cực lạc nói thí dụ hay lắm: khi mình tinh tấn thì hoa sen nó nở, khi lười biếng giải đãi thì hoa sen nó héo rồi nó rụng luôn, thì tất nhiên ở ta bà.
Mà Bát Nhã thì không có vấn đề đó, Bát Nhã thì Phật tánh nó hằng hằng thôi, không cần phái tập luyện gì hết trơn á, đạo điều kiện thì nó hiện thôi mà hễ khi muốn thanh tịnh lại vô nhị thiền ỉà nó hiện thôi. Thành ra cái Bát Nhã nó lợi cho mình hơn.
Còn cái này phải tu, phải tập trung, phải đè nén, phải giữ giới cho kỹ, phải ngồi thiền cho lâu, thì bắt đầu mới có nó, nó mới hiện được; còn mà không giữ giới, nó xao động, ông nội tôi năn nỉ tập trung cũng không nổi nữa, hễ nó quá tải rồi phải chịu thôi.
Thành ra cái Bát Nhã nó không có quá tải.
Còn cái tập trung của nhất niệm nó có quá tải, hay không quá tải, nếu mình giữ giới kỹ, mà đụng chuyện phiền não quá tải thì mất luôn, sa đọa luôn.
Cũng như ông uất Đầu Lam Phất, từ cõi trời phi phi tưởng mà xuống làm con chim phi ly, tức là đọa xuống súc sanh đấy. Chúng ta thấy từ địa ngục ngạ quỷ súc sanh atula người trời dục giới, sắc giới, vô sắc giới, mà cao nhất trời vô săc là phi phi tưởng, mà dám văng xuống một cái tới ngạ quỷ, tới súc sanh, tới là tầng thứ ba. Nhưng mà chúng ta nên nhớ cái súc sanh, con chim phi ly của uất Đầu Lam Phất không phải là súc sanh của loài chim phi ly đó đâu nhé, cũng vô số chim phi ly, cả trăm cả triệu chim phi ly, nhưng mà chim phi ly của Uất Đầu Lam Phất không phải là mấy con chim phi ly khác nha, bị vì cái căn người ta đã là cõi trời phỉ phi tưởng rồi, thì một thời gian người ta tiến một cái mau, người ta vọt lên phi phi tưởng lại đấy, chúng ta nên nhớ. Tôi nói: cũng như đi học, bây giờ mấy ông mấy bà học tới lớp 8, thì cha mẹ nói nghèo quá thôi con nghỉ, nghỉ 3 năm 4 năm 5 năm 7 năm, bây giờ có tiền rồi con đi học lại, thì đâu phải quên hết, bài học lớp 8, 8 năm trời trôi theo dòng nước? không còn cái gì hết? không có vấn đề đó, vẫn còn trong alaya, có thể ôn bài lại, nếu mà thông minh nữa chừng 5-7 bữa thôi, còn ngu si nữa, ra ngoài tạo nghiệp nhiều nữa, thì phải 1- 2 tháng hoặc 1-2 năm, còn nếu làm quá ác thì mất hết. Cái này thì có. Thí dụ mình giết cha, giết mẹ, giết hỏa thượng, giết Axàlê, hay giết Alahán, thì mất hết, bao nhiêu công phu tiêu hết, xuống địa ngục luôn; còn nếu mà làm ác vừa vừa, như ông kia chỉ nổi sân, con cá nó đớp mồi thôi, thì cái tiếng nó nhỏ re chớ gì, chưa chắc mình nghe được, nhưng mà ông nghe như tiếng sấm nổ, tiếng trời gầm, vì quá thanh tịnh đi, thành ra từ đó ông nổi sân thành súc sanh, thì chúng ta thấy cái sân này đâu có gì nặng đâu, thì ông về đó một thời gian ông tu tập cũng lên lại thôi.
Rồi bây giờ trở lại. Hả! câu ba khi khác hả? Câu hai bây giờ lặp lại nữa hả? Trời đất ơi! lặp lại. Bây giờ đưa micro cô lặp tôi nghe lại thôi. Câu số hai không lặp nữa được. Ai muốn lặp tôi đưa micro lặp lại, tôi nghe có đúng không, chớ như vậy cỏn lặp cái gì nữa! Nếu mấy ông mấy bà không ghi vô mà đố lặp được đó, không dễ lặp đâu. Tôi thấy cái vấn đề Bát Nhã khó nói lắm á, tôi là tôi bạo gan tôi giảng, cũng như mọi lần giảng là tôi nhằm hít con mắt muốn chết luôn, tôi đi vô thiền định, giảng lơ mơ là không có chạy, nó cứ lộn hoài, nếu không khéo nó lộn tùm lum hết.
Bây giờ hai câu, hay thêm câu thứ ba? Thì thôi hai câu thôi, kỳ tới tôi làm tiếp nữa.
Phật tử: Nếu thấy đồng hồ là thọ uẩn, có thuơng ghét là tuởng uẩn. Trời ơi! về nói ông Sư Khang giảng vậy thì tội nghiệp cho tôi quá, mới giảng đây mà nói vậy rồi. Thấy đồng hồ là thọ uẩn, có thương ghét là tưởng uẩn. Sướng không!?!
Câu hỏi thứ hai, ai đứng ra trả lời? Tôi không trả lời nổi nữa, nó quá tải, nó tải rồi, tôi không có giảng nổi. Bây giờ ai giảng nè? Cô nói thọ uẩn với tưởng uẩn khác nhau làm sao? Chắc tôi nói lẹ quá chớ gì? Có micro không?
Micro đưa ra đi, cô ấy nè, cô đưa Phật tử trả lời.
– Phật tử trả lời.
Tôi có giảng vậy, nhưng mà sau tôi có cho thí dụ. Nhưng mà đầu tiên tôi lý thuyết trước, hén, tôi nói:
– Sắc uẩn do duyên hợp, mà khi duyên mất thì kêu là không, mà nó không, nó qua cái sắc khác, do cái duyên nữa thì gọi là sắc, nhưng mà đây nó không có cái biết, cái sắc chỉ là vật lý ù lì thôi, chưa có người nhận thức.
– Còn qua tới thọ uẩn là chụp mũ lên sắc uẩn này bắt đầu có người cảm giác có người cảm giác rồi đấy, tức là có người thưong ghét và có đồng hồ được thưong ghét, thì đây là thọ Uẩn, mà thọ uẩn đây sở dĩ có là do có đồng hồ, có con người nhận thức và có cái cảm giác, tức là có căn có trần có thức, ba cái này tiếp xúc nhau, đắm nhiễm nhau, thì mới có thọ; còn thiếu một trong ba cái này không có xúc, không có xúc thì không có thọ. Có không? Hồi nãy tôi có giảng không?
Rồi đó bây giờ tới bỏ cái tình cảm thì hiện ra cái đồng hồ như cũ, nhưng mà đồng hồ có người nhận biết và có đối tượng được nhận biết, nhưng mà không có tình cảm, nó khác với sắc uẩn là có người nhận biết; cái sắc uẩn hồi nãy là cái đồng hồ ù lì chưa có cái biết.
Bây giờ có tôi biết và cái đồng hồ được biết, nhưng mà thương ghét không có, ờ! tôi biết cái đồng hồ này của Việt Nam, cái đồng hồ này của Trung Quốc, cái đồng hồ này hình vuông, cái đồng hồ này hình chữ nhật, cái đồng hồ này đẹp, cái đồng hồ này chưa có qua đẹp xấu hén, cái đồng hồ này hình chữ nhật, đồng hồ này của Việt Nam, đồng hồ này nó làm tại đâu, nó dựng đứng, hay như thế nào, nó có kim giờ kim gió kim reo hay không? thì tất cả những cái phân biệt này đó nó thuộc về thế giới của tưởng uẩn.
Rồi bây giờ tôi bắt đầu thích cái đồng hồ này, thì thấy qua thế giới độc ảnh cảnh của thọ uẩn.
Rồi bây giờ mất luôn cái biết, còn đồng hồ không, thế giới của sắc uẩn.
Có vậy thôi chứ có gì đâu. Bây giờ hiểu chưa? Còn thắc mắc gì nữa không? Bây giờ bắt đầu trả lời câu hỏi, bây giờ bắt đầu trả lời hai câu thôi, hén, hai câu thôi. Rồi cho mấy ông mấy bà về kiếm Kinh sách mấy học giả giải thích đấy, thì chúng ta thấy giải thích không có rành, tôi coi hết trơn, có ông Thạc Đức tức là Nhất Hạnh giải thích tương đối, nhưng mà cũng không có sáng tỏ bằng cái bảng của mình, tôi coi cái bảng này tôi mới thấy nó hay, giải thích rất rành, rất là rành, còn cái kia ông nói rất hay.
Bây giờ ai trả lời hai câu hỏi này trả lời cho sáng tỏ, câu hỏi thứ nhất tương đối dễ, hôm trước trả lời gần đúng hết. Còn câu hỏi thứ hai thì chúng ta sửa lại, câu hỏi thứ hai hôm trước trật hết, bữa nay đặt câu hỏi thứ hai mới đúng, câu hỏi thứ hai mới đúng rõ ràng.
Bây giờ ai bắt đầu trả lời đi. Ông Thiện Đức có hỏi, thì nói rằng cái mệnh đề thứ nhất thì dễ rồi đó, là thường thường tu tới nhị thiền, tức là niệm Phật đếm từ 1 tới 10, niệm Phật khỏi đếm và khỏi niệm Phật luôn, thì theo Sư nói tới giai đoạn này nếu có thiện tri thức giúp đỡ thì nhận được Phật tánh. Thì cái đó tôi có giảng, nhưng mà tôi nói tôi không nói Phật tánh của ai nữa, không có nói Nhập lưu gì hết, nói nhận được Phật tánh. Thì thường thường mấy ông mấy bà hiểu đó, Phật tánh của Nhập lưu, rồi bây giờ tôi giảng hôm nay thì tôi nói rằng: khi mà như hồi nãy cái đồng hồ đó, tôi thí dụ đó, thì khi mà mình thấy được cái đồng hồ thì đồng hồ đó là sắc uẩn, tức là chưa có người nhận biết, mà chỉ có cái đồng hồ ù lì thôi; bây giờ tôi thương ghét cái đồng hồ, thì đó là độc ảnh cảnh của thọ uẩn; còn bây giờ tôi biết đây là cái đồng hồ, có người biết và cái đồng hồ được biết, thì đây là tưởng uẩn. Nghe rõ chưa? Đó, thì Nhập lưu đó chỉ chiếu phá được sắc uẩn, là chiếu phá cái đồng hồ thôi, nghĩa là nhận được cải đồng hồ do duyên hợp này kia, hén. Rồi kế tới cái thọ uẩn, tức là thương ghét cái đồng hồ, thì phải Nhất vãng lai và Bất lai, quả Thánh thứ nhì và thứ ba thì mới chiếu kiến được, quả Thánh thứ nhì thì nhẹ đi cái thương ghét, quả thánh thứ ba mới dứt hẳn thương ghét, thì hiện ra rõ cái đồng hồ có người nhận biết và có đối tượng đồng hồ được nhận biết, trong đó chưa có thương ghét, thì đây là tưởng uẩn, đây là tưởng uẩn. Thì tưởng uẩn này quả thánh thứ nhất thứ nhì và thứ ba không chiếu phá được, tới quả Thánh Alahán thứ tư mới chiếu phá được nó, mới chiếu kiến được nó, tất nhiên phải dùng alaya thức của thức thứ 8 hợp tác với chân như tịnh mới chiếu kiến được cái tưởng uẩn này. Thì tôi đã nói rằng nếu mà chiếu kiến cái thọ uẩn đó thì cái thọ uẩn nó biến mất, nghĩa là cái thương ghét nó biến mất. cỏn chiếu kiến tưởng uẩn này, tức là người nhận thức và đối tượng nhận thức là cái đồng hồ, thì cái đồng hồ này sẽ hiện nguyên hình là thế giới hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, tức là đó là vọng tưởng dung thông. Nghe rõ chưa? Bởi vì cái hiện tượng này đó, cái đồng hồ này đó thì người nhận thức và cái đồng hồ được nhận thức là có hình có tướng luôn; còn hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6 đó, thì là cái đồng hồ chưa có rõ rệt, nó chỉ có cái hình mà chưa có tướng, hén, có người nhận thức mà cũng chưa có; bây giờ có người nhận thức rõ rệt, có cái đồng hồ rõ rệt, thì đây là vọng tưởng của thức thứ 6. Còn cái đứng lặng thức thứ 6 là dường như có vật, dường như chưa có vật, chỉ có hình thôi, thành ra tới Alahán mới chiếu phá cái hình tướng này, thì nó hiện ra nguyên hình là chỉ có hình thôi, chưa có tướng, tức là qua cái vọng hóa của thức thứ 6 là cái đồng hồ, thì nó sẽ hiện nguyên hình là không còn cái đồng hồ nữa, chỉ có hình hiện ra thôi, thì cái hình này tức là hiện lượng tánh cảnh của thức thứ 6, thì cái tánh cảnh này chỉ có Alahán mới thấy, còn quả thánh thứ ba thứ nhì và thứ nhất không thấy được. Ông Thiện Đức mới hỏi: như vậy Sư nói quả thánh thứ ba thứ nhì và thứ nhất không thấy được tánh cảnh, mà sao Sư nói nhị thiền đó thấy được Phật tánh, mà Phật tánh đối tượng Phật tánh là tánh cảnh, vậy thì cái tánh cảnh này và tánh cảnh này có mâu thuẫn hay không/ Sư nói quả thánh thứ ba thứ nhì và thứ nhất không thấy được tánh cảnh, bây giờ Sư nói nhị thiền thấy được tánh cảnh rồi, Bây giờ tới cái này, Sư nói quả thánh thứ ba thứ nhì và thứ nhất không thấy, được tánh cảnh, mà hôm trước thì Sư nói chỉ cần nhị thiền đó là thấy tánh cảnh rồi. Như vậy có mâu thuẫn hay không?
Nghe rõ không?
Thì hiện cái đồng hồ nhận thức tôi đã điên mất rồi, thì cái này thế giới của sắc uẩn.
Bây giờ tôi tỉnh táo lại, tôi bắt đầu thích cái đồng hồ, tôi muốn chiếm hữu cái đồng hồ, đồng hồ này là của tôi, tôi xài nó rất lợi, hén, thì tôi cho nó là của tôi, tôi rất thích nó, thì cái này là thọ uẩn.
Rồi bây giờ tôi biết cái cảm thọ đó là không đúng tôi chỉ biết cái đồng hồ là đồng hồ, tôi không có thương ghét nữa.