BÀI GIẢNG
DUY THỨC HỌC

Cố Hòa thượng Thích Giác Khang

 

TUẦN 12
Giảng ngày 11-01-2004 âm lịch

Chúng ta có duyên lành ngồi học hôm nay để chúng ta tiếp tục bài Kinh Sáu Sáu. Nhung trước khi tiếp tục thì, chúng qua cái quán xét về vấn đề tổng quán của Phật giáo trước để chúng ta dễ dàng đi vào bài Kinh Sáu Sáu, tức là vô chất tánh cảnh hữu chất tánh cảnh theo cái nhìn của Duy thức và Thủ Lăng Nghiêm.

Thì quý ông quý bà đem cái bảng ra, hôm nay tôi giảng lại một lần, kỳ này giảng hơi chi tiết hơn đấy, chúng ta nghe mấy kỳ trước thì hơi khái quát thôi, hôm nay chúng ta đi vào chi tiết và nó hơi rõ ràng hơn, cũng có thể nó hơi phức tạp hơn đối với người mới nghe, còn ai đã nghe quen rồi thì nghe rõ hơn, đi vào sâu hơn và chi tiết hơn.

Thì cái bảng chúng ta, ở trên đầu có vô chất tánh cảnh, bất biến phi không gian phi thời gian, là chân như tịnh tức là cái thể của võ trụ; còn cái đó là hữu chất tánh cảnh là chuyển biến đứng lặng hay là thời gian chưa có không gian, phi không gian tức là chân như động tức là cái tướng của võ trụ. Thật ra trong võ trụ của chúng ta, chữ Võ là không gian, Trụ là thời gian, chỉ có không gian và thời gian thôi, ngoài ra không có gì hết, đó là theo Đạo Phật, thì tất cả cái này chỉ là một vùng ánh sáng có biển quang minh rực rỡ mà thôi, ngoài ra không có sự vật gì hết.

Cái vô chất tánh cảnh và hữu chất tánh cảnh này, thì trong Kinh kêu vô chất tánh cảnh là cái thể của võ trụ, còn hữu chất tánh cảnh là cái tướng của võ trụ, hay còn kêu vô chất tánh cảnh là báo thân, hữu chất tánh cảnh là ứng hóa thân, hai cái này: báo thân và ứng hóa thân cùng chuyển biến một lượt, người ta còn gọi vô chất tánh cảnh báo thân này là trí tuệ còn hữu chất tánh cảnh là từ bi, mà từ bi trí tuệ đi liền với nhau, song đôi, thì cái đó gọi pháp thân, tức là cảnh giới của Thường tịch quang hay là cảnh giới của chư Như Lai, nhưng mà do một niệm bất giác thì từ alaya võ trụ mới lọt xuống alaya cá nhân, tức là chúng ta có phần thứ ba là alaya võ trụ do một niệm bất giác gọi là căn bản vô minh mới lọt xuống alaya.

Thì tại sao có một niệm bất giác? Chúng ta đã là chân như rồi, ai cũng là Như Lai hết, mà tại sao do một niệm bất giác mà lọt xuống căn bản vô minh? Thì câu hỏi này là câu hỏi muôn đời, câu hỏi của tư tưởng, câu hỏi từ xưa giờ aỉ coi Kinh Phật cũng thường thắc mắc câu hỏi này, đã là Như Lai, đã là chân như tịnh – động chuyển biến không thời gian không không gian, mà bỗng đâu một niệm bất lọt xuống để rồi luân hồi sanh tử khổ. Như vậy thì mình tu thành Phật rồi, một thời gian nào mình bị căn bản vô minh, một niệm bất giác mình trở xuống làm chúng sanh nữa sao!?! Như vậy thì không phải là Phật.

Thì câu hỏi này chúng ta thấy rất là hữu lý, nhưng mà nó vô lý. Thì trong đó Đức Phật có trả lời nhiều cách mà tôi đã từng diễn giải qua, hôm nay tôi nói so lược thôi. Thì Đức

Phật nói: như người bị chiêm bao vậy. Khi ngủ là chiêm bao, tức là mình mộng.

Thì chiêm bao này từ đâu mầ có? Có người nói do ngủ mà có. Tại sao có lúc ngủ lại không chiêm bao? Có người nói do đè cánh tay mà có. Nhưng có lúc đè cánh tay lại không có chiêm bao, mà có lúc không đè cũng lại chiêm bao. Thì chiêm bao nó không có nguyên nhân đầu tiên, không có cái nguồn gốc. Đây tôi nói đại khái thôi, Đức Phật giảng rất nhiều, nhưng mà tôi thấy tôi cũng không thõa mãn.

Rồi Đức Phật có giảng qua một cái khác: giống như một người nhìn lên hư không. Thì mới nhìn lần đầu hư không trống trơn hoàn toàn yên lặng, nhưng mà nhìn lâu con mắt mỏi thì thấy hoa đốm giữa hư không, thì hoa đốm tức là luân hồi sanh tử khổ đấy, mà hoa đốm thật là không có, nó chỉ là ảo giác hay là huyễn hóa mà thôi. Như vậy thì huyễn hóa này từ đâu mà có? Thì chúng ta cũng nói không từ đâu mà có hết, do con mắt mỏi. Tại sao con mắt không mỏi lại cũng không có hoa đốm? Nói do hư không. Hư không đâu phải sinh ra hoa đốm? Thì tất cả là do nhân duyên chuyển hóa. Thì chúng ta thấy rằng nó cũng không sáng tỏ.

Còn Đức Phật thí dụ qua, cũng như người tưới cây. Khi làn nước mà tưới qua cây, cũng như ánh sáng mặt trời mọc lên xuyên qua ánh sáng mặt trời thì nước nó không có màu, nhưng mà khi xuyên qua ánh sáng mặt trời nó cho bảy màu. Vậy bảy màu từ đâu mà có? Thì cũng là vấn đề chúng ta thấy hơi khó, do không gian, nếu không không gian làm sao có nước, mà nếu không có mặt trời làm sao có bảy màu, mà có mặt trời không có luồng nước làm sao có bảy màu. Thì chúng ta thấy tất cả đều do nhân duyên. Mà theo Đạo Phật nhân duyên không phải là có, cũng không phải là không. Thì chúng ta thấy câu trả lời dường như nó không thỏa mãn.

Cuối cùng có một câu trả lời mà tôi thõa mãn nhất, nhung mà nó ấm ức. Là Đức Phật thí dụ như người đui. Từ lúc bẩm sinh tức là còn ở trong bụng mẹ đã đui rồi, sanh ra là đã đui rồi, nghĩa là không biết ánh sáng mặt trời là một cái gì hết. Thì người đui này hỏi ánh sáng mặt trời. Thì chúng ta thấy câu hỏi đối với người đui thì nó có lý, nhưng mà nếu chúng ta trả lời ánh sáng mặt trời như thế này như thế nọ, nó màu vàng, nó làm cho những vi trùng cóc chết, nó làm cho chúng ta nóng rát bỏng cái da, v.v… trả lời đủ cách, nhưng nếu người đui không thỏa mãn, đến người thứ hai người thứ ba người thứ tư người thứ bảy người thứ mười người thứ một trăm,… tới chừng nào người đui thỏa mãn thôi. Nói: anh giảng tôi không hiểu. Tới người thứ thứ mười thứ một trăm nói: anh giảng tôi rất là hiểu, tới anh trình bày tôi mới thấy sáng tỏ và khúc chiết, bây giờ tôi hiểu ánh sáng mặt trời rồi. Như vậy người đui có hiểu ánh sáng mặt trời hay không? Thì chúng ta thấy rằng nếu chúng ta hiểu biết thì

người đui vẫn không thấy ánh sáng mặt trời, cũng chưa hiểu gì về ánh sáng mặt trời hết, nếu có hiểu thì đó là tưởng tượng về ánh sáng mặt trời, mà tưởng tượng thì không phải là tự thân của ánh sáng mặt trời, đó là ánh sáng qua cái tư tưởng, qua cái vọng tưởng, qua cái tưởng tượng mà thôi, mà tưởng tượng không phải là tự thân không phải sự thật ánh sáng mặt trời, nhưng mà vì chúng sanh đau khổ, nếu mình nói câu hỏi này sai thì nó nằm vạ ngay, thành ra Đức Phật mới mượn cái này giải thích.

Cho đến chừng nào mình thấy sáng tỏ rồi thì Đức Phật mới nói: các con nghe các con hiểu rồi, sự thật cũng chưa được gì hết, mà muốn hiểu biết thật sự thì các con phải có con mắt lành, tức là phải trị bệnh con mắt, chớ không phải trả lời câu hỏi, càng trả lời chừng nào càng sanh sứa thêm vấn đề, và cái nan giải cái bế tắc chừng nấy.

Bởi vì câu hỏi vốn không có, khi trị bệnh hết con mắt rồi, con mắt sáng rồi không còn đui nữa, thì câu hỏi về ánh sáng mặt trời có hay không, chúng ta thấy không có, câu hỏi này chỉ có đối với người đui mà thôi. Mà nếu đui đặt câu hỏi này, thì câu hỏi này vô lý, không đúng lý, suốt đời không thể trả lời, không có cách nào mà làm cho người đui hiểu ánh sáng mặt trời một cách rõ ràng bằng chính con mắt không bị đui. Thành ra khi con mắt trị hết bệnh không bị đui rồi thì câu hỏi về ánh sáng mặt trời không còn nữa, đã trả lời một cách dứt khoát về câu hỏi ánh sáng mặt trời là gì, bằng cách không trả lời gì hết, đó là một cách trả lời thực tế nhất.

Thì qua cái ví dụ này tôi thấy tôi mừng, thấy nó sáng tỏ, nhưng mà mình hơi ấm ức, ấm ức là vì mình chưa có trí tuệ, con mắt mình còn đui.

Bây giờ làm sao hết đui? Thành Đức Phật chỉ chúng ta con đường tu tập để chúng ta hết đui, để rồi tất cả những câu hỏi về cuộc sống này không còn nữa. Mình đặt lên cuộc sống này có vấn đề, thì đó là một cái sai lầm, cuộc sống này tụ thân nó không có vấn đề, mà chúng sanh đặt vấn đề đau khổ. Cuộc sống này đủ thứ khổ hết: nào ăn khổ, mặc khổ, ở khổ, bệnh khổ, sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ,….

Làm sao để tránh khỏi cải sanh cái già cái bệnh cái chết? Câu hỏi này là câu hỏi vô lý, câu hỏi không đúng, nhung mà chúng ta thấy nói vậy là chúng ta bực tức. Rõ ràng anh sanh ra; rõ ràng anh già đi, lụm cụm chân mỏi gối chùng, mắt mờ tai điếc là khổ; rồi bệnh rên la đủ thứ: nào đau bụng, nào nhức răng,… nào đủ thứ hết, hàng trăm hàng ngàn thứ bệnh; rồi phải chết, đủ cách chết, có người chết từ từ nằm đó một năm hai năm mười năm nằm cho tới lở lưng hết, có người chết bị xe đụng,… Sanh thì có một cửa, mà tử thì có hàng trăm cửa. Mà mấy ai không sợ chết!!!

Như vậy chết, sanh, già, bệnh, không phải là vấn đề hay sao??? Nhưng mà theo Đạo Phật sanh già bệnh chết không có vấn đề, mà đặt thành vấn đề sanh già bệnh chết là một cái ngu, một cái dại. Còn giải quyết vấn đề sanh già bệnh chết là thêm một cái dại nữa. Càng giải quyết chừng nào càng bế tắc, càng sanh sứa thêm nhiều vấn đề chừng nấy. Thật sự không có vấn đề, đó ỉà cái độc đáo của Đạo Phật. Nghĩa ỉà tất cả cuộc đời này chỉ ỉà huyễn hóa.

Cũng như chúng ta, hôm trước tôi có giải thích là chúng ta người, cái nghiệp người dưới cái nhận thức của người thì thấy nước là nước; nhưng đối với nhà hóa học thì nước là H20 là chỉ có khinh khí và dưỡng khí, oxy và hydro thôi; rồi nếu nhà điện tử thì hydro là một điện tử âm một điện tử dương, oxy là 16 điện tử âm 16 điện tử dương; còn đối với loài thủy tộc thì nước là nhà ở là không khí là chỗ ở của nó; còn đối với loài ngạ quỷ, trong Kinh nói nó thấy là máu; còn đối với trời là lưu ly. Như vậy nước, cái gì là đúng? Thực tế nước không là gì hết, khi mà phá vỡ điện tử nữa thì nước biến thành năng lực, biến thành năng lực, mà năng lực theo khoa học đó là không biết, rồi từ năng lực nó như là lượng tử như là làn sóng vậy, rồi từ đó mới hiện ra chủng tử là điện tử âm điện tử dưong rồi mới thành H20 rồi mới trở thành nước, tùy theo nhận thức mỗi loài chúng sanh. Thành ra nhận thức nào cũng sai hết. Mà thật tướng của nước ỉà gì? Thật tướng của nước là vô tướng, tức là không có hình tướng, không có hình tướng nên chúng sanh mới chụp mũ thành vô lượng hình tướng.

Thành ra thật sự cuộc sống chúng ta là không có vấn đề, nhưng mà chúng ta thấy bây giờ chúng ta có rất nhiều vấn đề: vấn đề ăn, vấn đề mặc, vấn đề ở, vấn đề sống, vấn đề già, vấn đề bệnh, vấn đề chết, vấn đề nhà cháy lửa thiêu, nước trôi, vấn đề vợ đẻ con đau,… tất cả đều có vấn đề, mở mắt ra từ sáng tới chiều luôn luôn đều có vấn đề. Mà có vấn đề thì phải giải quyết. Mà giải quyết đâu phải hết, hết vấn đề này thì nó lòi ra vấn đề khác, mà tất cả mọi vấn đề đều là đau khổ, dầu cho giải quyết mà thất bại thì đó là đau khổ dĩ nhiên rồi, còn giải quyết mà thành công cũng lại đau khổ nữa, thành công thì chúng ta mừng nhung mà rồi sau đó thành công sẽ mất, chúng ta sợ nó mất thì đã len lỏi cái đau khổ trong đó rồi, nhưng mà sau đó nó lại mất thiệt chúng ta lại càng đau khổ hơn nữa. Thành ra cuộc sống chúng ta toàn là sự đau khổ, cha mẹ chết đã là khổ, rồi anh em chết đã là khổ, rồi những người thân yêu nhất của mình qua đời mình cũng khổ rồi, thì cái đó khổ đã đành. Rồi khi mình lâu lâu mình tái sanh mình gặp được cha mẹ mình cái mừng, hay là tết rồi tất cả người Việt kiều về thăm gia đình thì đó là cái mừng, nhưng mà trong mừng đã len lỏi trong hội họp thì có nảy mầm chia ly, thì chúng ta vừa mừng chúng ta lại sợ, rồi mai mốt 1 tháng 2 tháng rồi cũng phải chia ly thôi, đã có cái sợ len vào đó thì cái mừng mất. Rồi có phải chia ly hay không? Thật sự 1-2 tháng, 1-2 năm rồi cũng phải chia

1. Thành ra cuộc sống chúng ta, chúng ta thấy cái vui thì ít mà cái khổ thì nhiều. Thì theo Đạo Phật cái vui cũng là một sự trá hình của đau khổ. Thành ra chúng ta thấy là cuộc sống hiện tại của chúng ta có rất nhiều vấn đề. Mà thật sự của Đạo Phật là không có vấn đề.

Mà khi nào mới thấy được không có vấn đề? Là khi nào mình mở con mắt trí tuệ, tức là chẩm dứt con mắt đui.

Thành ra đối với Đạo Phật, chúng ta phải tu tập, phải hạ thủ công phu, phải đi chữa bệnh đau mắt, chớ không phải là nghe giải thích về tất cả hiện tượng giới. Cái giải thích không ăn thua gì hết, cái lý thuyết không ăn thua gì, mình phải thực hành theo lý thuyết để chữa bệnh con mắt đui. Khi con mắt đui thấy rõ rồi thì không còn vấn đề nữa, thì đó mới thật sự là giải quyết vấn đề bằng cách không giải quyết gì hết.

Thì bây giờ chúng ta bắt đầu đi xuống bằng cách đặt vấn đề và bằng cách thấy rõ vấn đề.

Đặt vấn đề ỉà do vô minh.

Thấy rõ vấn đề ỉà do trí tuệ.

Mà càng đặt vấn đề thì càng sanh sứa thêm bao nhiêu vấn đề, càng sanh sứa thêm bao nhiêu đau khổ.

Mà thấy rõ vấn đề rồi, thì vấn đề sẽ sáng tỏ và sụ đau khổ sẽ chấm dứt, cho tới chấm dứt toàn diện thì đó là Như Lai.

Thì con đường đặt thêm vấn đề thì chúng ta kêu là con đường xao động.

Còn con đường mà thấy rõ vẩn đề thì chúng ta kêu ỉà con đường đứng lặng.

Con đường mà xao động, con đường mà đặt thành vấn đề đó là con đường đau khổ. Thì tất nhiên nó có giới hạn, và tùy theo đau khổ của từng loại chúng sanh. Đau khổ nặng nhất là địa ngục, rồi nhẹ hơn một chút là ngạ quỷ, nhẹ hơn nữa là súc sanh, nhẹ hơn nữa là loài nguời nhẹ hơn nữa là loài trời dục giới, nhẹ hơn nữa là loài trời sắc giới, nhẹ hơn nữa là loài trời vô sắc, đến đây cái đau khổ đã biến thành hạnh phúc, hạnh phúc đối với đau khổ, thì hạnh phúc đây là một cái trá hình của đau khổ mà thôi. Đó là cái độc đáo của Đạo Phật.

Neu chúng ta không thấy sự đứng lặng thì suốt đời chúng ta vẫn triền miên trong đau khổ. Thì song song theo trong đó cái đứng lặng là nền tảng để cho mọi sự xao động, mọi sự đau khổ nuơng vào đó mà phát hiện. Tôi nói nuơng vào đó chớ không phải cái đứng lặng sanh ra cái xao động nha, cái đứng lặng là cái nền tảng cái căn bản để cái xao động nuơng vào đó mà phát hiện. Giống nhu nước làm cái nền tảng để sóng nương vào đó mà phát hiện ra đủ hình tướng, còn nước thì không có sanh ra sóng, mà sóng thì do một niệm bất giác, mà niệm bất giác này khi nào chúng ta trở về đứng lặng của nước thì chúng ta thấy niệm bất giác này sẽ chiếu soi, được chiếu soi, sẽ thấy nó là cái diệu dụng của đứng lặng mà thôi, nó không còn là vọng nữa, mà nó chuyển thành trí tuệ. Đó là con đường của Đạo Phật.

Thành ra trước khi Đức Phật chưa ra đời, thì người ta đi từ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, atula, người, trời dục giới, trời sắc giới, tới trời vô sắc giới, tới cõi trời phi phi tưởng là cao nhất. Thôi ngừng ở đây.

Thì tất cả đi trên con đường xao động, từ xao động nặng nề cho tới xao động vi tế, mà cõi trời vô sắc giới là cõi trời rất vi tế, cái xao động rất là nhỏ nhiệm. Rồi từ đó nếu chúng ta nổi lên một niệm, đó là chúng ta đè nén quá mạnh, chúng ta tập trung quá nhiều, tập trung kỹ, tập trung lâu, tập trung sâu, thì chúng ta sẽ đi vào đó. Nhưng mà nếu chúng ta tập trung càng nhiều chừng nào càng mạnh chừng nào thì cái thế phản phục của nó càng mạnh mẽ chừng nấy. Cũng như chúng ta lấy đá dằn cỏ, hay lực sĩ mà đè tên cướp xuống, mà khi nó chống cự lại nó chống không nổi nó nằm bẹp ở đó, mà khi nó chống được nó bật mình mạnh lên. Chúng ta phải hiểu cái thế đó. Thành ra cái thế đè nén, cái pháp môn đối trị là chỉ ứng dụng trong nhất thời thôi. Thành ra chúng ta thấy cõi trời phi phi tưởng là cõi trời cao nhất của cái thế xao động, của vọng tưởng, vọng tình cao nhất, nhưng mà khi một niệm sân nổi lên rồi thì từ cõi trời vô sắc giới phi phi tưởng này rớt xuống làm súc sanh, đi thẳng một cái không qua cõi trời sắc giới, dục giới, gì hết á, không qua cõi người, xuống thẳng thành loài thú, đó là ông Uất Đầu Lam Phất, khi ông ở trong thanh tịnh rồi ông nghe cái tiếng con cá nó đớp mồi, nó ăn bóng nước đấy, thì cái tiếng đó chúng ta thấy rất nhỏ, có thể chúng ta lắng lỗ tai lắm mới nghe, nhưng mà khi một người ít xao động rồi, có người do đè nén mạnh do tập trung mạnh trung kỹ tập trung lâu tập trung sâu thì cái tâm thức rất là trong sáng, thì cái tiếng mà con cá nó đớp cái nước đó thì nó giống như tiếng sấm nổ, giống như tiếng trời gầm, nó vang dội cả cái khoảng không gian mà cõi trời phi phi tưởng nhập định, thành ra ngài bực mình ngài mới phát nguyện một câu: nếu mà ta chết ta sẽ sanh làm loài chim ăn tất cả loài cá này. Thì sau khi ông uất như vậy thì ông bắt đầu sa đọa cõi loài thú cõi súc sanh, sanh làm con chim phi li, phi là bay, bay ở trên xuống đớp mấy con cá ăn hết. Thì chúng ta thấy là nguy hiểm.

Do đó Đức Thế Tôn mới thương chúng sanh, Ngài mới ra đời, Ngài mới chỉ cái pháp đứng lặng. Mà đứng lặng ở đâu? Đứng lặng ở ngay trong xao động. Nước ở đâu? Nước ở ngay trong sóng. Mà nếu chúng ta không nhận được nước, chúng ta đi theo sóng mãi, thì sóng nhỏ, sóng vừa vừa, sóng to, sóng địa ngục, sóng ngạ quỷ, sóng súc sanh, sóng atula, sóng người sóng trời dục giới, sóng sắc giới, sóng vô sắc, dầu cho vi tế cách mấy thì vẫn là sóng.

Còn đi theo cái thế đứng lặng thì bắt đầu nhận được nước. Nhưng mà cái nước nó cũng có nhiều loại nước: nước nó xuống cấp là nước nó chảy yếu, chảy mạnh, nước ẩn, nước hiện.

Nhưng mà chúng ta nên nhớ trên vấn đề xao động thì có giới hạn: có nhận thức và đối tượng nhận thức, có không gian và thời gian, thời gian không gian phải tương ưng với nhau.

Và ngược lại trên thế đứng lặng, thì nó bàng bạc khắp cả võ trụ, nó vô lượng vô biên, dầu đứng lặng xuống cấp là mặt trăng thứ ba thì nó cũng vô lượng vô biên, dầu thăng cấp lên cấp mặt trăng thứ hai nó cũng vô lượng vô biên, dầu thăng cấp lên tới mặt trăng thứ nhất thì nó cũng vô lượng vô biên, dầu nó trở về lên cấp tới mặt trăng thiệt thì nó cũng vẫn là vô lượng vô biên, nhưng mà nó bắt đầu cô đọng lại. Cũng như mặt trăng thiệt, thì mặt trăng thiệt thì hoàn toàn một vùng hào quang rực rỡ sáng suốt mạnh mẽ chói lòa cho đến đạo nhãn Alahán cũng nhìn không chịu nổi; rồi khi nó xuống cấp nó bị căn bản vô minh nó xuống cấp thành mặt trăng thứ nhất thì nó là một vùng hu minh le lói chiếu soi tức là bàng bạc mờ mờ ở đây sương khói mờ nhân ảnh khắp cả võ trụ; rồi khi nó xuống cấp thành mặt trăng thứ hai thì nó thành ra chập chờn dường như có vật, dường như không vật, dường như có tiếng, dường như không tiếng, dường như có mùi dường như không mùi,…. kêu là hư minh le lói chiếu soi, một trạng thái chập chờn; rồi khi nó xuống cấp thành mặt trăng thứ ba thì bắt đầu hiện hình, hiện hình chớ chưa có tướng, tức là cô đọng lại dường như có hình, nhưng mà hình gì? chưa biết, chưa biết. Thì tới đây là hết. Đó là phần đứng lặng.

Tôi nói lại cách khác, tôi nói lại cách khác. Thì từ mặt trăng thiệt tức là chân như tịnh và chân như động, ở trong cái bảng chúng ta đấy, khi một niệm bất giác nổi lên, tôi đã nói rồi “căn bản vô minh không đặt câu hỏi, không hỏi tại sao mà có căn bản vô minh: Đã là chân như tịnh đã là chân như động đã là Như Lai rồi tại sao còn bất giác?” Thì câu hỏi này đặt như vậy không đúng, mà phải vô lý hóa câu hỏi, còn nếu chấp nhận câu hỏi là một điều ngu, mà trả lời câu hỏi lại càng ngu thêm, càng ngu thêm.

Người ta nói là: Giục trừ phiền não trùng tăng bệnh – mà siêu khởi chân như tong thị tà”, muốn trừ phiền não thì lại thêm bệnh nữa, phiền não không thể trừ.

Thí dụ tôi làm ác tôi thấy khổ muốn trừ khổ thì tôi lấy cái lạc đè cái khổ xuống, thế là cái khổ nằm dưới cái lạc nằm trên, cái khổ sẽ ngủ ngầm, thì vô tình tôi tưởng cái khổ là khổ, còn cái lạc là vui, thật sự cái lạc là trá hình của đau khổ, cái lạc nó có nhiều cái cường độ lắm.

Thí dụ như chúng ta thấy người chưa giữ giới gì hết thì đau khổ; người giữ 3 giới thì sướng hơn nhưng không giữ giới nhưng mà lại khổ hơn người 5 giới; người 5 giới thì sướng hơn người 3 giới, sướng hơn người không giữ giới nhưng mà khổ hơn người 8 giới; người 8 giới thì sướng hơn người 5 giới, 3 giới, người không giữ giới nhưng mà khổ hơn người 10 giới. Như thế thì cái hạnh phúc này là chỉ là hạnh phúc trá hình của sự đau khổ mà thôi. Chúng ta tiến mãi tiến mãi thì chúng ta nhìn thấy ở trên chúng ta cũng chưa bằng ai, nhưng mà ở dưới cũng chưa ai bằng mình, thì chúng ta cứ lẩn quẩn mãi trong vỏng so sánh, trong vòng đối đãi, trong thế nhị nguyên, trong thế phải quấy vinh nhục lợi hại thịnh suy khen chê, thế là chúng ta chiếp mắt bỏ xiềng sắt qua xiềng vàng, nhưng mà dầu cho xiềng gì cũng nằm trong chữ xiềng. Đó là cái bên xao động đấy.

Còn bên đứng lặng thì khác. Thành ra một niệm bất giác chúng ta mới xuống mặt trăng thứ nhất đó là alaya thức của cá nhân, alaya thì nó không của ai hết, nó là của võ trụ, nhưng mà vì nó bị xuống cấp, nó vì một niệm bất giác căn bản vô minh cho nên có alaya cá nhân, thì alaya cá nhân mới chia làm hai:

– Trong đó có chân vọng hỏa hiệp, chân đây nó tiếp tục đi theo con đường đứng lặng nhưng mà bị xuống cấp.

– Còn vọng là nó tiếp tục đi theo con đường xao động bị vọng hóa, càng vọng hóa nó càng biến ra hình tướng càng ngày càng thô tháo, nhận thức và đối tượng nhận thức càng ngày càng xuống, càng vọng hóa càng thô tháo càng ù lì cho đến mất luôn cả thời gian chỉ còn không gian trơ cứng đó là vật lý.

Còn bên đây nó xuống cấp thì xuống cấp nhưng bao giờ nó cũng là thời gian tuyệt đối nghĩa là chưa có không gian do đó nó vô lượng vô biên, nhưng bắt đầu nó cô đọng lại dường như chập chờn có vật và không vật, rồi tới vật hiện ra rõ rệt, nhưng mà vật gì thì chưa biết.

Thì tôi lấy thí dụ như là:

– Ban đầu thì con mắt tôi, nói căn mắt trước đi, con mắt tôi đối với cái ly ở trước mặt tôi, thì chúng ta thấy trong Kinh thường nói do duyên nhãn căn do duyên sắc trần là cái ly thì phát hiện cái nhãn thức, thật sự ra cái này nói về xao động. Nhưng mà cái đứng lặng ở đâu? Dạ thưa cũng nằm ở trong đây. Nhãn căn, cái ly và nhãn thức thật sự nó đứng lặng, nó chỉ là hư vô vi tế, tức là một trạng thái mờ mờ bàng bạc, do vọng tưởng kiên cố đập vào trong cái tướng phần của alaya mà có một trạng thái lờ mờ bàng bạc hư vô vỉ tế khắp cả không gian, cái này đời đời kiếp kiếp dầu cho có thành Phật hay sa đọa xuống chúng sanh thì nó vẫn thế thôi, nó vẫn thế thôi. Thì cái vọng tưởng này kêu là vọng tưởng kiên cố mà trong Duy thức học gọi là “thị” mầ chúng ta dịch ra tiếng Việt là “nhìn”, có một cái nhìn. Nhìn cái gì? Nhìn không cái gì hết, cả cải nhãn căn cũng là thức cũng là bàng bạc cũng là hư vồ vi tế, cả cái vật đối tượng cũng là hư vô vi tế, cả cái nhãn thức cũng là hư vô vi tế, tất cả đều bàng bạc đều mờ mờ nhân ảnh hết, chưa có gì hết, đó là trạng thái của đứng lặng đã xuống cấp, tức là chúng ta từ mặt trăng thiệt lọt xuống mặt trăng thứ nhất, thì trong Kinh thường kêu là “thị” mà chúng ta thường dùng danh từ tiếng Việt là “nhìn” “Nhìn mà chưa thấy”.

* Rồi xuống cấp một cái mặt trăng thứ hai là bắt đầu chập chờn le lói, hư minh le lói chiếu soi, dường như có vật dường như không vật, hơi hơi cô đọng rồi, dường như có tiếng dường như không tiếng. Hồi nãy thì bàng bạc chưa có gì hết chỉ là thức thôi, bây giờ bắt đầu cô đọng lại. Cô đọng lại hư minh le lói chiếu soi chập chờn, dường như có vật mà dường như biến mất rồi lại có vật rồi lại biến mất; dường như có tiếng rồi lại biến mất, dường như có tiếng rồi lại biến mất; rồi lại có mùi rồi lại biến mất rồi lại không mùi rồi lại biến mất rồi lại có mùi; rồi lại có vị ngọt dường như có vị mà không biết vị gì rồi nó lại biến mất; dường như có xúc dường như không xúc,… nó cứ thế, nó chập chờn chập chờn. Rồi nếu tiến lên mặt trăng thứ nhất thì mất, nó chỉ là một trạng thái bàng bạc mờ mờ nhân ảnh, rồi từ mờ mờ nhân ảnh này mới hội tụ lại dường như có vật dường như không vật, dường như có tiếng dường như không tiếng,… Đó là mặt trăng thứ hai.

* Rồi xuống cấp một cái nữa, có vật thật sự rồi đấy, vật bây giờ cô đọng lại rõ rệt, nhưng mà vật gì? chưa biết; Tiếng thì có rõ rệt rồi đó, nhưng mà tiếng gì? tiếng người hay tiếng chim hay tiếng loài chó tiếng heo? chưa biết, mà biết rằng có tiếng, có mùi rồi đó, nhưng mùi gì? mùi thơm thối? chưa biết, nhưng cái mùi nó cô đọng lại rõ rệt, tới đây là hết. Đây là bên phần đứng lặng.

Bây giờ chúng ta qua bên xao động. Đứng lặng thì nó mới theo chiều thẳng đứng là đi theo tất cả Thánh nhân. Còn xao động chúng ta thì đi theo vòng tròn. Đứng lặng thì đi theo đường thẳng, bởi vì nó bàng bạc khắp cả võ trụ mà nó vô lượng vô biên. Còn bên xao động thì nó hữu lượng hữu biên, nó đập vào cái kiến phần của alaya, alaya thì chúng ta thấy là nó chân vọng hỏa hợp, nếu theo đứng lặng thì nó là chân, còn đi theo xao động thì nó là vọng, nhung mà nó chia làm hai: “sông Tuông nước chảy hai đường”, một cái đường đứng lặng, một cái đường xao động. Đứng lặng tiếp tục đi cái vô lượng vô biên nhưng mà xuống cấp. Còn xao động đi trên con đường vọng hóa càng ngày càng thô tháo tới hiện có hình có tướng tưong ưng nhau. Thì chúng ta thấy là con đường đứng lặng là chưa có không gian. Con đường xao động bắt đầu có không gian, mà không gian là một danh từ khác của ngã, ngã là cái ta đấy.

Còn đứng lặng thì chưa có ta mà chỉ có pháp mà thôi, một cái pháp tuyệt đối, chỉ có cái thấy mà thôi, chỉ có cái nhìn mà thôi, mà không có đối tượng, nghĩa là có đối tượng cũng được mà không đối tượng cũng được.

Còn bên xao động mà nếu không đối tượng thì nhận thức không có, mà nhận thức không có đối tượng không có, mà nhận thức càng vi tế chừng nào càng nhanh chóng chừng nào thì cái đối tượng càng vi tế chừng nấy.

Còn bên đây không có, nó chỉ xuống cấp, xuống cấp thôi, nhận thức nó không cần đối tượng, nghĩa là có bao nhiêu đối tượng cũng được, mà không có đối tượng nào cũng được, muôn đời nó chỉ là nhận thức. Mà đối tượng đó là đối tượng của xao động, cả nhận thức và đối tượng của nhận thức xao động nó đều thấy hết, bị nó đứng lặng mà, nó đứng lặng mà.

Còn xao động nó chỉ thấy trong phạm vi đối đãi của nó thôi. Thí dụ tôi nói hồi nãy người thì thấy nước là nước chớ không thể thấy nước là máu được; nhưng mà khi cái nhận thức mà hạ xuống thấp thành ngạ quỷ rồi, cái nhận thức của ngạ quỷ cái hiểu biết của ngạ quỷ thì nước không còn, nước là máu; còn nếu mình thăng hoa nhận thức lên thành các cõi trời hóa học thì nước biến thành Oxy Hydro;… thì cái này kêu là nhận thức tưong ưng, tức là cùng ưng chịu đi song đôi với nhau. Thì chúng ta qua phần xao động.

Đứng lặng thì chúng ta thấy alaya đó thì nó đứng lặng đi vào đứng lặng tức là nó chuyển biến nhanh rồi chuyển biến chậm lại, rồi trở về chuyển biến nhanh rồi trở về chuyển biến chậm, nhưng mà nó chuyển biến mà nó đứng lặng, đứng lặng tức là nó chuyển biến rất nhanh mà nó đứng một chỗ, nó không có xao động. Nhưng một khi nó xao động rồi thì bắt đầu có chủng tử, chủng tử tức là không gian tức là có chủng tử thiện chủng tử ác chủng tử vô ký. Cỏn khi nó đứng lặng rồi tất cả chủng tử đều biến mất, thành ra chủng tử mà đi vào alaya thức rồi đó thì nó biến mất. Nhưng mà khi bắt đầu xao động thì nó có chủng tử trở ra, mà xao động có chủng tử trở ra thì kêu nó là mạtna. Còn đứng lặng mà khi nó xuống cấp thì kêu đó là vọng tưởng kiên cố, xuống cấp nữa thì kêu là hư minh le lói chiếu soi, xuống cấp nữa thì thành ra dung thông. Còn bên đây, khi xao động vi tế đó thì kêu mạtna, mạtna tức là vọng tưởng u ẩn; cỏn nếu nó vọng hóa nữa thì kêu là vọng tưởng dung thông, bây giờ nó mới dung thông với cái tánh cảnh đấy, cái xao động và cái đứng lặng hỏa nhau như sữa và nước. Thành ra bên xao động cũng kêu là dung thông, mà bên đứng lặng cũng kêu là dung thông, cái này anh Tề thiên đại thánh đấy, chúng ta thấy ảnh độc đáo, chúng ta thấy ảnh đi từ địa ngục cho tới Như Lai, ảnh xuống địa ngục ảnh phá sổ hết, ảnh đập luôn Địa tạng, bôi hết tất cả sổ của tất cả diêm vưong, loài khỉ từ nay không còn chết nữa, bất tử, ông nào đặt ra quyển Tây Du độc đáo đấy, rồi ổng đánh lên tới Ngọc hoàng thượng đế chạy te tét hết, rồi rượt tới phải Như Lai xuất hiện ra, tới Như Lai ổng mới đầu hàng. Như Lai có đánh gì đâu, Như Lai chỉ rõ cái gốc tích ổng thôi: “mày là cái con khỉ, mày tu mấy ngàn năm, nhưng so với Ngọc hoàng thượng đế cũng không ăn thua gì, người ta tu nhiều hon, mày như vậy còn tu lại nữa, tức là còn đi thỉnh Kinh thì mới thí tài với Như Lai, thi gì thi cũng không qua cái bàn tay 5 uẩn của Như Lai. Tới cái đó ông mới chịu đầu hàng đấy, tức là đè bẹp xuống cái ngũ uẩn, dầu cho sắc uẩn dầu cho thọ uẩn dầu cho tưởng uẩn dầu cho hành uẩn dầu cho thức uẩn cũng nằm trong cái bàn tay của Như Lai, tức là bị ngũ uẩn, thì bây giờ phải thỉnh Kinh tức là phải đầu hàng cái ông thức uẩn, tức là Tam tạng, hén, chỉ có Tam tạng mới gỡ được cái bùa đó thôi. Thì cái đó chúng ta nói sau. Thành ra chúng ta thấy triết lý của Tây du rất là hay, rất là hay. Tam tạng là thức uẩn, còn Te thiên đó là tưởng uẩn, còn ông Bát giới là 5 thức trước là thọ uẩn, còn con ngựa đó là sắc uẩn, còn lại cái ông Sa Tăng tức là mạtna đấy tức là hành uẩn.

Chúng ta thấy là cái tiến trình ngũ uẩn là tiến trình của mỗi người của chúng ta. Thành ra chúng ta mỗi người bắt đầu đi vào thỉnh Kinh.

Tôi đã nói rồi, từ mặt trăng thiệt đi xuống mặt trăng thứ nhất là bàng bạc, do duyên nhãn căn do duyên sắc trần phát hiện nhãn thức, thì bên đứng lặng, cái đó là bên xao động đấy, chút nữa chúng ta thấy xao động rất hay, thì nó chỉ là trạng thái bàng bạc, chua có nhãn căn chua có sắc trần chua có nhãn thức gì hết, chỉ là một trạng thái bàng bạc khắp hu không, tức là bàng bạc khắp võ trụ, tức là vô luợng vô biên, bao giờ cũng nhu bao giờ, nó cứ mãi mãi nhu vậy, dầu chúng ta xuống địa ngục thì cái đứng lặng này vẫn nhu vậy, dầu chúng ta thành Nhu Lai nó cũng vẫn nhu vậy, nó không bao giờ mất; rồi nó xuống cấp mặt trăng thứ hai thì tất nhiên bắt đầu hiện hình chập chờn, hu minh le lói chiếu soi, tức là duờng nhu có vật dường như không, dường như có tiếng dường như không, dường như có mùi dường như không,… là một trạng thái chập chờn, còn cái kia là một trạng thái mờ mờ chưa có gì hết, chúng ta thấy cái này hay lắm, rồi chập chờn do đó cái xao động nó mới chụp mũ nó mới dung thông được; rồi xuống tới mặt trăng thứ ba thì bắt đầu nó hiện hình mà chưa có tướng, chúng ta nên nhớ hình tôi muốn nói là cái thời gian chớ chưa có không gian, có nghĩa là không gian bằng với thời gian, không gian bị hóa giải vào thời gian, mà không gian đây tức là ngã chấp, còn thời gian đây kêu là pháp chấp, pháp này là pháp tuyệt đối, còn cái ngã đối với pháp đó là cái ngã tương đối đối với pháp đi song hành, đi song đôi với nhau tương ưng với nhau, còn cái pháp này pháp tuyệt đối là chưa có ngã, chưa có ngã, mà chúng ta thấy trong Thiền tông còn kêu là cái hiện tiền, còn cái ngã thì kêu là quá khứ hiện tại vị lai, thì cái hiện tiền nó bao trùm quá khứ hiện tại vị lai trong một cái nhìn sátna vĩnh cửu,nghĩa là quá khứ hiện tại vị lai không thấy được cái hiện tiền, mà hiện tiền thì bao trùm cả quá khứ hiện tại vị lai, đó là cái độc đáo, mà bao trùm vậy mà bao trùm luôn cả cái pháp đối với ngã nữa.

Bây giờ chúng ta qua phần xao động:

– Là khi vừa xao động ra trong alaya thì chỉ có đứng lặng đi vào đứng lặng, nhưng mà khi nó tiếp tục đứng lặng xuống cấp nữa thì nó thành ra vọng tưởng kiên cố chúng ta kêu là vô minh, vô minh chi mạt, mà nếu so với, cái này nó hợp tác với thức thứ 7, mạtna là câu sanh ngã chấp đấy, mà nó lại là phân biệt pháp chấp, mà nếu chúng ta diệt câu sanh ngã chấp rồi thì cái vô minh này diệt được phân nửa thôi, nghĩa là nó hợp tác thức thứ 7 còn nó hợp tác với câu sanh pháp chấp của căn bản vô minh ở trên nữa, căn bản vô minh đó tức là câu sanh pháp chấp, còn ở đây vọng tưởng kiên cố này tức là phân biệt pháp chấp, cái đó chúng ta để ý, chúng ta giảng sau, nó hơi khó đấy, còn nếu nó hợp tác với mạtna thì nó hợp tác nó thành ra câu sanh ngã chấp, thành ra phân nửa là câu sanh ngã chấp phân nửa là phân biệt pháp chấp, nếu mà đối với căn bản vô minh là câu sanh pháp chấp thì nó là phân biệt pháp chấp, còn nếu đối với câu sanh ngã chấp nó hợp tác với câu sanh ngã chấp kêu là vô minh, chúng ta phải hiểu. Thì ở đây chúng ta thấy rằng alaya vừa nhất quyết xao động rồi thì kêu là mạtna, bắt đầu có chủng tử, thì chủng tử này xao động thành ra nó không được vô lượng vô biên nữa, nó chiếu soi rồi nó tự chiếu soi phân nửa thì nó bị xao động, thành ra nó tự chiếu soi không hết, nó xao động thì tất nhiên nó in vào trong, nó chiếu soi ra rồi giờ nó chiếu soi thẳng vào hồi quang phản chiếu trở lại, thì nếu mà đứng lặng thì đâu có chuyện gì, đằng này nó hồi quang phân nửa nó bắt đầu xao động, xao động nó mới chụp mũ lên cái kiến phần alaya cái bóng mờ, bóng mờ tức là không gian, mà không gian này tức là hữu lượng hữu biên, đã xao động rồi thì không còn vô lượng nữa, nhưng mà nó gần như vô lượng vô biên, bị vì từ cái vô lượng vô biên nó bắt đầu chuyển biến thành không gian tức là chuyển thành hữu lượng hữu biên nó rất là vi tế, thành ra chúng ta không thể kêu nó là tỷ lượng được, tỷ lượng là có sự so sánh, nó chưa có so sánh, mà kêu nó là hiện lượng là trực giác, thì trực giác không có xao động đằng này nó xao động, thành ra kêu nó là tượng tợ như trực giác, thành ra trong Kinh kêu là tợ hiện lượng. Còn hiện lượng thì nó đi tánh cảnh, tánh cảnh là gì? là cảnh thật, tánh cảnh là cảnh vô tướng, không có hình tướng gọi là tánh cảnh, chỉ có vùng hào quang thôi. Mà bây giờ nó có sự mờ mờ rồi, mờ mờ dường như có hình có tướng, bên kia nên nhớ bên đứng lặng hồi nãy là hình thôi chưa có tướng tức là có thời gian tuyệt đối mà chưa có không gian, bên đây bắt đầu có thời gian không gian tương ưng nhưng mà chưa có rõ rệt, cái không gian này quá rộng lớn nó gần như bằng với thời gian, còn bên đứng lặng thì không gian thời gian bằng nhau thành ra kêu là không gian hóa giải vào thời gian. Bây giờ không gian bắt đầu tách biệt để đi tương ưng với thời gian, thì cái không gian này chúng ta kêu là ngã chấp, danh từ khác của ngã, bắt đầu ngã từ đây, mà cái ngã vi tế nhất là mạtna tức là hành uẩn kêu là u ẩn, ẩn là núp, u là sâu kín, ẩn núp một cách sâu kín, nghĩa là chúng ta thoáng nhìn chúng ta tưởng nó là trực giác, bị vì cái không gian này nó gần tương đương thời gian. Hồi nãy trong alaya không gian thời gian là một, thành ra không gian hóa giải vào thời gian. Bây giờ không gian với thời gian là hai, nhưng mà cái không gian này còn rất rộng rãi, gần như là vô lượng vô biên, gần chớ chưa phải là vô lượng, thành ra cái ngã này cái ngã rất là u ẩn, ẩn núp một cách rất là sâu kín, thành ra nó chưa cải sửa gì hết, thành ra nó kêu là tương tợ như hiện lượng tương tợ như trực giác mà thật sự tương tợ chớ không phải trực giác, thành ra cái cảnh nó không phải cảnh thật nữa mà kêu là chân đới chất, đới là vay mượn, chất là chất liệu của tánh cảnh, mà chân là chưa cải sửa gì hết, nó chỉ một cái bóng mờ, bóng mờ thôi.

– Rồi đây nó bắt đầu mới vọng hóa, vọng hóa thì nó thành ra thức thứ 6 không còn mạtna nữa, bây giờ mới thật sự là cải sửa hết đấy, đây là tới ông Tề thiên đấy, ông Sa Tăng giao qua ông Tề thiên đấy. Thì ông Tề thiên

Ổng vọng hóa mà cũng còn rất vi tế, rất vi tế, vọng hóa nó hơi nặng hơn cái ngã chấp rồi đấy, nặng hơn hành uẩn rồi đấy, nhưng nó còn rất vi tế cho nên nó xao động rất ít, cho nên cái chân như tịnh và chân như động của võ trụ đó mới hiện hình trong nó, chân như tịnh và chân như động chúng ta thường kêu chân như thiệt là Niết Bàn, thành ra chúng ta đừng đi tìm Niết Bàn, mà Niết Bàn sẽ tìm đến với chúng ta trong lúc chúng ta đè nén cái tâm thức cho nó bớt xao động thì mặt trăng thiệt sẽ hiện dần trong đó, thì cái thức này nó xao động rất là ít, bị vì nó từ mạtna, mạtna xao động rất là ít, bây giờ nó xao động hơn nữa vọng hóa hơn nữa nhưng mà rất ít, thành ra chân như tịnh và chân như động mới hiện hình trong nó, thì nó loáng thoáng nó thấy được cái đó, bởi vì nó xao động mà lúc tập trung kỹ tập trung mạnh tập trung lâu tập trung sâu thì nó thoáng thấy được chân như tịnh và chân như động, tức là thoáng thấy được cái pháp thân của Như Lai, nhưng mà chỉ một chút thôi thì nó biến mất, bây giờ nó mới tưởng tượng nó tạo ra cái pháp thân để mà nó làm đối tượng để cho nó duyên, cái này cái độc đáo của Te thiên đấy, độc đáo của anh thức thứ 6, hén, làm đối tượng để cho nó duyên; rồi một chút nữa nó tập trung kỹ tập trung lâu tập trung sâu nó thoáng thấy nữa, rồi khi mà tập trung không kỹ không lâu không sâu thì nó lại biến mất, nó tạo đối tượng để nó duyên nữa, mà nó không biết cái giả với thiệt nó trộn lộn, nó không biết, nó không biết cái nào là giả là thiệt, trong lúc tập trung mạnh thì nó thấy, mà trong lúc tập trung yếu thì nó lại mất, thì nó tạo ra cái đối tượng nó hồi nãy, cái tưởng tượng của nó thì nó duyên vào đó thành ra nó tưởng đâu là chân như tịnh kêu là phi tưởng là chẳng có tư tưởng thì tức là chân như tịnh, còn phi phi tưởng chẳng phải không có tư tưởng tức là chân như động, thành ra dường như có tư tưởng dường như không tư tưởng, thế là kêu là phi tưởng phi phi tưởng là cõi trời cao nhất của ông Tề thiên đại thánh, thành ra ổng cũng loáng thoáng thấy được cái pháp thân vậy, chân như tịnh và chân như động, nhưng mà rồi nó tạo ra rồi nó loáng thoáng thấy rồi nó tạo ra, nhưng mà chúng ta nhớ cái lõi là xao động thì vẫn là xao động chớ không thể thành Thánh được, cái này quan trọng lắm nha, thì chúng ta mới thấy cái giới cấm thủ mà tôi thường hay kể hôm trước là những bậc vĩ nhân, những thiên tài với Thánh nhân khác nhau là khác nhau ở chỗ nào. Thành ra chúng ta thấy rằng nó cũng thấy được Phật tánh cũng như các bậc Thánh nhân vậy, nhưng mà khác, nó thấy trên vấn đề xao động mà thấy, nghĩa là mặt trăng thiệt hiện với nó chớ nó không thể là mặt trăng thiệt, còn cái kia là từ cái đứng lặng người ta đi vào cái đứng lặng, cái này là cái xao động ít mà mặt trăng thiệt hiện ở trong nó, rồi khi nó xao động nhiều thì mất rồi xao động ít thì hiện rồi lại mất, mà khi mất thì nó tạo ra đối tượng để nó duyên.

Tôi xin thưa cái này do tôi tham thiền tôi trình bày nhé, thì về chư phật tử đừng tin tôi cũng đừng bỏ, thì tham thiền sâu mình cảm thấy như vậy, thì nếu có sai thì sau này mình sửa lại, hén, thành ra tôi ít dám phổ biến, cái này tôi không thấy trong sách vở nào giảng hết á, trong Kinh thì rất là cô đọng rất là bí hiểm, do chúng ta phải ngồi thiền chúng ta tìm lấy thôi, chớ không có ai giảng, học giả nào giảng cũng chạy cái này hết trơn, giảng phơn phớt qua rồi bỏ, chạy, tôi bực tôi thấy không sáng tỏ, tôi tìm cả Thanh tịnh đạo tôi coi, tìm cả tới Đại trí độ luận, tôi coi Đại trí độ luận thuộc về Long Thọ Đại thừa tối thượng thừa, Thanh tịnh đạo thuộc về Nguyên thuỷ, Tiểu thừa, đều có giảng bốn cõi này hết, nhưng mà rất là mơ hồ, càng coi càng thấy bế tắc, không hiểu gì hết. Thì thôi phải trở về cái tham thiền của mình. Ke đó tôi nói tiếp nữa. Tôi xin thưa trước cái này là cái giải thích của tôi thôi nhé, thì các học giả cũng giải thích vậy thôi, tùy theo cái hiểu biết của mỗi học giả, nhưng cái hiểu biết có thực hành nó, có tham thiền sâu vào đó, thì cái hiểu biết nó tương đối sáng tỏ hơn, tôi chỉ đưa cái gì sáng tỏ thôi, các học giả nhiều khi cũng trật lất hết, mình không biết đâu mà rờ. Thời Đức Phật thì Ngài chỉ đua ra bài toán thôi, và đưa đáp số, còn cái lời giải là không có, cái độc đáo của Đạo Phật là chỗ đó, lời giải là mỗi người tự tìm lấy, rồi sau khi mà đúng cái đáp số thì đi đúng đường, trật đáp số là đi sai, chỉ có thế thôi.

Bây giờ tới phần thứ hai. Là khi vọng hóa xuống thấp nữa thì nó không thấy được cái pháp thân Phật, không thấy chân như tịnh và chân như động nữa, mà chỉ thấy chân như tịnh thôi, thấy được cái bản thể chớ cái diệu dụng, thấy cái chân không chớ cái diệu hữu là không thấy nữa, hồi nãy thấy chân không diệu hữu, bây giờ khi vọng hóa nhiều quá thì nó không thấy chân không diệu hữu mà chỉ thấy chân như tịnh thôi, thấy được cái bản thể thôi, mà khi thấy bản thể rồi một chút nữa, bị vì nó xao động nó không có nằm một chỗ được, xao động nhiều xao động ít, rồi tập trung mạnh nữa xao động nhiều rồi yếu nữa nó mất, rồi tập trung mạnh nữa nó hiện ra rõ, rồi yếu nữa nó mất, thì bây giờ nó thấy cái bản thể rồi chút mất, thì nó mới tạo ra cái bản thể, tạo ra chân như tịnh để nó duyên. Mà chân như tịnh là gì? là phi không gian phi thời gian, cái đứng lặng hoàn toàn, cái bất biến, chúng ta gọi nó là bất biến chớ không phải là chuyển biến đứng lặng nữa, mà cái này là không có chuyển biến, bất biến, mà hễ bất biến rồi không có không gian không có thời gian, còn chuyển biến là bắt đầu có thời gian nhưng mà đứng lặng thành ra không có không gian, còn chuyển biến xao động là có thời gian có không gian tương ưng, chúng ta phải nắm được ba cái đó:

– Một cái là bất biến, là nơi đây chưa có không gian chưa có thời gian.

– Một cái là chuyển biến đứng lặng tuyệt đối, tức là nơi đây chưa có không gian, không gian bị hóa giải vào đó, chỉ có nhận thức thôi

– Một cái là chuyển biến xao động là có thời gian có không gian tương ưng.

Hiểu kịp không? Ráng nghe hén, chớ tôi giảng càng ngày càng rõ hơn, càng ngày càng sáng tỏ, và cũng có thể là phiền phức hơn, rắc rối hơn, là tùy theo trình độ của mỗi người, thì chúng ta nghe hôm nay cũng là lần thứ 9 thứ 10 gì rồi, tức là chúng ta đi liên tục, chúng ta có một khái niệm rồi, có chủng tử trong alaya rồi, thì hôm nay nghe sáng tỏ hơn. Còn người nào mới tới thì điếc con ráy luôn, Sư nói cái gì từ đầu tới đuôi tôi chăng hiểu gì hết, thì phải bền đi, nghe thêm vài lần nữa, ít nhất cũng vài chục lần, mỗi lần tôi nói thì tôi phải tóm những cái trước.

Thì tiếp tục là cái phi tưởng phi phi tưởng nó thấy được chân như diệu hữu, tức là chân như tịnh và chân như động, thấy được sóng và nước dính liền với nhau, thấy được trí tuệ và từ bi một lúc, tức là thấy pháp thân của Phật, nhưng mà do đè nén mạnh đè nén kỹ đè nén lâu và đè nén sâu mà thấy, mà đè nén làm sao mà đè nén hoài được, có lúc nó trồi có lúc nó sụt, do đó mà cõi trời phi tưởng phi phi tưởng có thể lọt xuống tới súc sanh như tôi nói hồi nãy, nó sụt xuống các ngài bắt đầu tập trung kỹ lại nữa thì nó thoáng thấy nữa, thấy nữa rồi nó sụt xuống nữa mất, thì các ngài tạo ra đối tượng để mà duyên, tạo ra cái sản phẩm nội hóa, giả đấy để mà duyên, một hồi nữa khi tỉnh táo các ngài tập trung kỹ nữa thì sản phẩm thiệt hiện ra, rồi khi nó mất các ngài tạo ra sản phẩm nội hóa, nội chế cái giả để mà duyên, cứ thế làm như nó có liên tục một cái là pháp thân của Phật tức là chân như tịnh chân như động nó dính liền. Rồi sau vọng hóa mạnh hơn chút nữa thì mất luôn chỉ còn chân như tịnh thôi, cái chân không thôi, cái diệu hữu không có, thành ra chân không diệu hữu là Như Lai, còn chân không đây là Alahán thôi, chỉ có trí tuệ mà không có từ bi, chân như tịnh tức là trí tuệ, còn chân như động tức là từ bi, mà ở đây bây giờ mất cái từ bi mất cái diệu dụng, chỉ còn bản thể thôi. Mà bản thể thì sao? Thì chưa có không gian, chưa có thời gian, rồi một hồi nó mất, nó vọng hóa hơn nó mất, bắt đầu tập trung kỹ lâu sâu hơn nữa thì bắt đầu nó hiện, cứ thế các ngài thấy đuợc chân như tịnh, rồi các ngài mới tạo chân như tịnh nội hóa các ngài duyên nó, rồi lại thấy rồi lại mất. Rồi vọng hóa thêm nữa thì cái chân như tịnh biến mất, không thấy nữa, thì bây giờ thấy alaya, nó xuống cấp rồi đấy, nó xuống cấp lần, giờ tới mặt trăng thứ nhất mặt trăng thiệt đã mất rồi, vì vọng hóa nhiều quá, thành ra thấy được alaya thức vô biên, nên nhớ alaya thức cũng vô biên nhá, chân như tịnh cũng vô biên nha, chân như động cũng vô biên nha, nghĩa là trí tuệ cũng vô lượng vô biên, mà từ bi cũng vô lượng vô biên, mà alaya cũng vô lượng vô biên, cái này toàn là đứng lặng, vô lượng vô biên không, chỉ có cái là chân như tịnh là bất biến, bất biến nó trùm khắp vô lượng vô biên, mà từ bi của bất biến, từ bi này cũng vô lượng vô biên nhưng mà nó là cái diệu dụng của trí tuệ, còn xuống alaya thức cũng vô lượng vô biên nó là alaya của cá nhân thôi, thì chúng ta thấy tới đây vọng hóa hơi nặng rồi đó, thì nó thấy được alaya thức. Nhưng mà nó là cái lõi của nó là xao động thì nó mất, mất thì nó phải tạo đối tượng alaya thức giả để nó duyên, rồi nó tập trung kỹ mạnh lâu sâu nữa thì nó thấy alaya lại, rồi lại mất rồi nó tạo đối tượng để nó duyên. Rồi khi vọng hóa nặng nữa thì alaya thức mất luôn bây giờ bắt đầu đi vào cái hữu lượng hữu biên, mà hữu lượng hữu biên vi tế nhất tức là mạtna, cái không gian gần như bằng với thời gian, thì nó thấy được hư không vô biên, hư không tức là mạtna đấy, cái hư không là cái đầu tiên của mạtna, cái đầu tiên của mạtna tức là cái ngã đấy, đây là cái ngã u ẩn nhất, dứt được cái hư không vô biên này đắc quả Alahán mới trở về alaya thức đưọc, còn dứt được alaya nữa mới trở về chân như võ trụ được, mà alaya thì không thể dứt, nó thuộc về cái đứng lặng mà, cỏn cái xao động thì dứt, xao động khi mình nhìn kỹ thì nó biến mất, còn cái đứng lặng nhìn kỹ nó thì nó hiện nguyên hình, nó trở về alaya võ trụ, thành ra cái đứng lặng cái alaya thức chúng ta phải tùy thuận chớ chúng ta không thể diệt nó, cỏn mạtna thì diệt nó. Chúng ta phải hiểu hai cái: cái hữu luợng hữu biên thì chúng ta sẽ nhìn nó, nó sẽ chấm dứt, nó sẽ biến mất; cỏn cái vô lượng vô biên nhìn kỹ nó nó sẽ hiện nguyên hình, nó là alaya của võ trụ, chúng ta phải để ý cái chỗ đó: một cái Bát nhã, một cái tư tưởng. Bát nhã thì vô lượng vô biên, Bát nhã thì không có đối tượng mà có vô lượng vô biên cái đối tượng. Còn tư tưởng có đối tượng có một đối tượng thôi mà đối tượng phải tương ưng với nhau, nhận thức và đối tượng phải đi song đôi. Cỏn bên đây chỉ có nhận thức thôi, không có đối tượng, có nghĩa là có vô lượng đối tượng. Chúng ta phải hiểu như vậy, nhưng mà rồi hai cái này rồi nó phải ăn nhập với nhau. Neu mà chúng ta đi xao động thì chúng ta chết.

Đó thì tôi mới nói cái thứ nhất là phi tưởng phi phi tưởng tức là chân không diệu hữu; Cỏn vô sở hữu xứ tức là chân như tịnh tức là chân không; Còn thức vô biên tức là alaya thức, ba cái này đều là chuyển biến đứng lặng vô luợng vô biên. Rồi tới hư không vô biên thì cái này thật sự không có vô biên đâu, cái này nó gần như vô biên mà nó hữu biên, tức là mạtna, thức thứ 6 ảnh mới chiếu soi được cái mạtna.

Tới đây vọng hóa thêm nữa thì mất luôn cái mạtna, bây giờ thức thứ 6 mới trở về thức thứ 6. Trở về thức thứ 6 là cái gì? Là tứ thiền, đây là thế giới của đới chất cảnh, hồi nãy thế giới của mạt na đó là thế giới của đới chất mà chân đới chất, tức là có dính liền với tánh cảnh, chúng ta nên nhớ cái thế tư tưởng chúng ta tưởng tánh cảnh là tách rời tánh cảnh, không, không bao giờ có tách rời, tánh cảnh luôn luôn nó liên lạc với đới chất và chân đới chất và tợ đới chất, thành ra cái phi phi tưởng phân nửa tánh cảnh phân nửa đới chất cảnh, còn cái vô sở hữu xứ cũng phân nửa tánh cảnh phân nửa đới chất, còn cái alaya cũng phân nửa tánh cảnh phân nửa đới chất, rồi tới cái mạtna này cũng vậy, nó một chân bên alaya, bị

VÌ nó đập vào kiến phần alaya, kiến phần alaya là đứng lặng, mà nó là xao động, thành ra một chân cũng phân nửa tư tưởng và phân nửa Bát nhã, phân nửa tánh cảnh và phân nửa đới chất. Đó, rồi bây giờ tới tứ thiền tứ thiền là thế giới đới chất thật sự đấy, bây giờ từ đây bắt đầu mất tánh cảnh, mất tánh cảnh của alaya của mặt trăng thứ nhất, mặt trăng thiệt đấy, bây giờ nó duyên vào cái tánh cảnh của thức thứ 6, hồi nãy tôi nói bên kia là có hình, có hình chưa có tướng, thì bây giờ bắt đầu cái không gian mới tạo cái hình này có tướng luôn, có tướng luôn, thành ra ở đây tôi mới nói là cái thế giới đới chất cảnh này đó bây giờ nó bỏ thế giới tánh cảnh của alaya, của chân như tịnh chân như động, bây giờ nó lấy tánh cảnh của mặt trăng thứ ba để nó dung thông, hồi nãy nó dung thông với cái kia bây giờ nó dung thông với cái này, thành ra thế giới đới chất cảnh này là thế giới tánh cảnh của thức thứ 6 và thế giới xao động của thức thứ 6, thì chúng ta kêu là tứ thiền, tức là hiện có hình có tướng, nhưng mà rất là vô hình rất là vi tế, thành ra nơi đây chưa có cảm giác, chưa có cảm giác, một trạng thái đó là bất lạc bất khổ thọ, không vui mà cũng không khổ, loáng thoáng thấy có xác thân, thấy có bông hoa, thấy có hình tướng, có biết này là bộng hoa cú,c đây là hoa hồng, đây là hoa móng tay chẳng hạn, đây là hoa lài,… nhưng mà cái thương ghét chưa có, biết đây là người, biết đây là người Việt Nam biết đây là người Mỹ, biết đây là người nam biết đây là nữ, biết đằy là con chó biết đây là con heo, con bò,… bắt đầu có sự biết phân biệt nhưng mà chưa có sự chiếm hữu, chưa có sự thương ghét, thì thế giới đó bắt đầu thế giới của đới chất cảnh tức là thế giới của tứ thiền, thế giới của tứ thiền, tức là nó ăn rập với cái thức thứ 6 đứng lặng, hiện lượng tánh cảnh của đứng lặng ăn qua với chân tỷ lượng của tợ đới chất cảnh, hai cái hòa hợp với nhau.

Rồi bắt đầu nó xuống vọng hóa nữa thì từ đây bắt đầu có sự chiếm hữu, có chiếm hữu, xuống lạc thọ khổ thọ, tức là tam thiền, lạc thọ khổ thọ bắt đầu nó mới đi qua cái 5 thức đầu, nghĩa là chập chờn dường như có vật dường như chưa có vật, dường như có tiếng dường như chưa có tiếng,… bây giờ có tiếng thật sự, có vật thật sự, có tiếng thật sự có vật thật sự, và có sự thương ghét trong đó, nhưng mà cái thương ghét này còn ở trạng thái chập chờn, vì đây là trạng thái le lói chiếu soi mà, thì nó cũng thương ghét nhưng mà thương ghét chập chờn, nghĩa là người thương và đối tượng được thương chưa có rõ rệt, thành ra chúng ta nhớ lại trong Kinh giải thích: “Neu ai cảm xúc với “lạc thọ” mà hoan hỷ, tán thán, trú ở, ái trước thì tham của vị ấy tùy miên sẽ tùy tăng”. Mà Lạc thọ là gì? Hoan hỷ là gì? Hoan hỷ đây là nhị thiền, là có người vui và đối tượng được vui. Thí dụ tôi ngồi thiền tôi thấy lâng lâng, tôi niệm Phật đếm từ 1 đến 10 tôi niệm Phật khỏi đếm tôi khỏi niệm Phật luôn thì đây là trạng thái vui, tôi không còn tranh đấu giữa tạp niệm và nhất niệm nữa, thì cái này kêu là hỷ tức là tôi biết rằng tôi đang vui, có cái vui và có tôi biết, thì nó rõ ràng quá, có nhận thức có đối tượng nhận thức. Nhưng mà “ly hỷ diệu lạc” thì bây giờ mất người, chỉ còn trạng thái vui tràn khắp cơ thể thôi, tôi không còn thấy có xác thân nữa mà chỉ có trạng thái vui thôi, trạng thái này kêu là một trạng thái chập chờn, dường như có nhận thức dường như mất nhận thức, chỉ còn cái đối tượng nhận thức thôi, chỉ còn cái lạc thọ thôi, thì nó hòa được với cái đứng lặng, đứng lặng là cái hư minh le lói chiếu soi là trạng thái chập chờn chỉ có hình mà chưa có tướng, bây giờ có hình có tướng luôn, nhưng mà cũng trạng thái chập chờn, thành ra trong Kinh mới nói cái mừng, đó là khi tôi khát nước tôi biết rằng tôi có nước uống sẽ đã khát, nhưng mà tôi chưa uống đâu, thì trạng thái này là mừng, là có người biết mình sắp sửa đã khát và có cái đã khát được chấm dứt; Nhưng mà khi tôi uống nước vô rồi nó mát lạnh cả cơ thể tôi quên mất con người tôi, chỉ còn một trạng thái lâng lâng cái này kêu là lạc thọ, tức là chập chờn dường như mất thân dường như có thân, chỉ còn một trạng thái lạc thôi. Thì cái khổ thọ cũng giống như vậy, hén, cái khổ thọ khi nó xuống dốc thành ra sầu muộn, “Nếu ai cảm xúc với khổ thọ mà sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực rơi vào bất tỉnh, sầu muộn đó là lo lắng, thì có người lo và có đối tượng được lo, nhưng mà khi khổ rồi đó thì tràn ngập hết cơ thể, mất cái người lo mà chỉ còn một trạng thái khổ thôi, một trạng thái chập chờn của khổ đau. Chúng ta coi chừng nha, cái này tôi tham thiền tôi thấy tôi cười, tôi ngồi tôi cười một mình, tôi nói trời ơi Đức Phật độc đáo thiệt, con người độc đáo thiệt.

Thành ra từ cái tứ thiền là bất lạc bất khổ thọ, nếu tôi thăng hoa lên thì cái lạc thọ khổ thọ biến thành ra đới chất cảnh, còn cái này kêu là độc ảnh cảnh. Độc ảnh cảnh là gì? Là cái ảnh tưởng tượng của từng cá nhân, cái biệt nghiệp của từng cá nhân. Còn cái tứ thiền đó là cái đới chất cảnh là cảnh cộng nghiệp của mỗi loài chúng sanh, thấy sự vật thôi, biết cái này người ta, biết cái này người Việt, biết cái này người Mỹ, biết cái này con chó, biết cái này con trâu,… nhưng mà chưa có thưong ghét vào đó, thì thế giới này là thế giới của đới chất cảnh, là vay mượn mà cải sửa hết, cảnh thật của nó tánh cảnh là chưa có hình tướng gì hết, bây giờ bắt đầu có hình tướng, tức là bây giờ cải sửa hoàn toàn theo cái nghiệp của mình, theo cái nghiệp của mình. Như tôi nói hồi nãy, nếu con người thấy nước là nước, cỏn các nhà hóa học thì thấy H2O, còn loài thủy tộc thì nó thấy là nhà ở không khí, tùy theo cái nhận thức của mỗi người, nhưng mà nhận thức của cộng nghiệp chúng sanh thì thấy nước là nước thì đó là thế giới của đới chất cảnh, nhưng mà tôi thích nước tôi ghét nước là tôi qua độc ảnh cảnh liền, cũng là nước vậy nhưng mà có người thích có người ghét, nhưng mà đã là người thì thấy một thứ như nhau thôi, thấy là nước chớ không thể thấy khác được, nếu thấy khác được là loài chúng sanh khác, chúng sanh khác cũng vậy, thí dụ loài thủy tộc đi, thấy nước là nhà ở là không khí của nó, nhưng có khi cái nhà này nó ghét; hay cõi trời thấy nước là lưu ly, nhưng có vị trời ghét lưu ly có vị trời thích lưu ly,… thì cái đó là cái độc ảnh cảnh của mỗi vị, cái biệt nghiệp của mỗi vị. Thành ra chúng ta thấy tứ thiền là thế giới của đới chất cảnh.

Rồi qua tới lạc thọ khổ thọ là thế giới của chiếm hữu, nhưng mà chiếm hữu còn rất là vi tế, người chiếm hữu và đối tượng chiếm hữu chưa có rõ rệt cỏn le lói chiếu soi, nó mới hòa được cái tánh cảnh của thức thứ 6, mà đây là thức thứ 6 đi xuống 5 thức đầu để rồi chụp mũ, để rồi dung thông nó, thông là không chướng ngại, dung là trộn lẫn, trộn lẫn một cách không chướng ngại. Thành ra ở đây chúng ta không có nhận được bất lạc bất khổ thọ của 5 thức đầu, mà cũng không nhận được thế giới đới chất cảnh của 5 thức đầu, nó chập chờn chập chờn’ Nhưng mà tại sao trong Kinh mới nói là 5 thức đầu chỉ có lạc thọ, khổ thọ và bất lạc bất khổ thọ, chỉ có ba thọ thôi; cỏn trong thức thứ 6 nó tới 5 thọ, có hỷ có ưu luôn. Thì chúng ta biết trạng thái 5 thức đầu chập chờn, chập chờn tức là dường như có nhận thức dường như chưa có nhận thức, còn hỷ ưu là có nhận thức rõ rệt, thành ra thức thứ 6 không thể cải sửa được mà đi xuống nữa, đi xuống qua sắc uẩn, qua sắc uẩn. Mà sắc uẩn thì chúng ta thấy nó là cái vọng tưởng kiên cố, nó là hư vô vi tế, cái hào quang nó đứng lặng quá xá sáng, thì cái thức thứ 6 đến đây là vọng hóa tột cùng, vọng hóa quá thô tháo rồi thì làm sao mà cải sửa được, không thể dung thông được. Mà không dung thông được thì sao? Chụp mũ lên, in lên trên đó. Thành ra cảm xúc với “lạc thọ thì qua hoan hỷ, qua tán thán,… thì là xuống dốc rồi đấy, tán thán thì cõi sơ thiền đấy, trú ở qua cõi dục giới trời dục giới, ái trước thì qua tới cõi ngạ quỷ súc sanh atula. Còn bên đây cũng vậy, qua khổ thọ thì qua tam thiền rồi đấy, là chập chờn le lói chiếu soi là thức thứ 6 nó mới hợp tác với 5 thức đầu, nhưng mà cải sửa không được, tới khổ thọ là hết rồi, còn sầu muộn là nó đi xuống sắc uẩn, xuống sắc uẩn, sầu muộn rồi than van, than khóc là cõi trời dục giới cõi người, đập ngực rơi vào bất tỉnh xuống ngạ quỷ súc sanh xuống địa ngục luôn, tức là bắt đầu cuộc luân hồi sanh tử trở lại. Thành ra chúng ta thấy xuống địa ngục luôn cái này trở lại sắc uẩn, sắc uẩn thô kệch ù lì, thành ra cái sắc uẩn này là do thức thứ 6 cải sửa. Thành ra sắc uẩn mà cải sửa trên đâu? In lên trên vọng tưởng kiên cố, nhưng mà không cải sửa vọng tưởng kiên cố được, còn in lên trên cái hư minh le lói chiếu soi, cải sửa được có cái lạc thọ khổ thọ thôi, cỏn hỷ ưu là không được phải đi xuống dưới in lên trên đó, thành ra chỉ dung thông tới 5 thức đầu là hết.

Rồi trở lên nữa từ cái vật lý thô tháo đó chúng ta thấy thăng hoa lên bắt đầu có cảm giác: cảm giác lạc thọ, khổ thọ. Cảm giác lạc thọ khổ thọ lên vi tế nữa thì bất lạc bất khổ thọ tức là tứ thiền. Rồi bất lạc bất khổ thọ lên nữa cái tư tưởng thanh tịnh nó sẽ chiếu soi nó thấy được mạtna thức, rồi nó lại mất nó mới tạo ra cái mạtna thức giả để mà nó duyên; rồi nó thanh tịnh nữa nó bắt đầu vọng hóa ít nữa lànó tập trung kỹ tập trung mạnh tập trung lâu tập trung sâu nữa thì nó thấy đuợc alaya thức, rồi mất nó sẽ duyên vào alaya thức để làm đối tượng nó duyên, rồi nó đi qua mạtna rồi nó lên alaya thức rồi nó lên chân như tịnh rồi nó cả chân như tịnh và động luôn, tới đây là hết. Đó là con đường đứng lặng và xao động của chúng ta trong từng sátna mà chúng ta không hề thấy, nó vẫn chuyển biến chuyển biến và chuyển biến.

Thành ra địa ngục tức là đất đá hay những người điên thì chưa có linh hồn, tức là lấy sắc uẩn làm linh hồn, mà sắc uẩn thì chưa có cái biết, tức là đất đá, cái tịnh xá, cái nhà, và những người ta là những người điên, điên mà điên quá tới: giết cha giết mẹ, làm mình Phật ra máu, phá hòa hiệp tăng,… đó là con người đang sống mà đã điên thì chết thành ra sắc uẩn, cái linh hồn không có nữa, tức là cái biết chưa có.

Rồi mới tiến hóa thành rong rêu, mới thành ra cỏ thì bắt đầu mới có thọ uẩn, thì lấy cái thọ uẩn làm linh hồn, lấy cái thọ uẩn làm linh hồn, thì chết rồi cái thọ uẩn này mới ban đầu nó thọ khí âm dương mới thành thọ uẩn được, còn cái cỏ này bắt đầu nó mới thọ khí âm dương vững vàng thì thọ uẩn này là cái biết mà chưa phân biệt, biết một trạng thái lờ mờ vui buồn thôi; rồi mới tiến lên tưởng uẩn là loài thú bắt đầu có sự phân biệt nhưng mà chưa có ý chí tức là chưa có hành uẩn, thì loài thú nó lấy tư tưởng làm linh hồn, chúng ta coi chơn lý Sư Trưởng rất rành cái vụ này; khi chết cái tư tưởng này bắt đầu tiến hóa lên tới hành uẩn là có sự sự đắn đo lựa chọn tính toán thì sanh lên cõi người, nhưng mà người chưa có kinh nghiệm chưa có kiến thức chưa có ký ức, thành ra chúng ta thấy có người thọ 5 giới mà giữ hoài không được, cái này người thôi chớ chưa phải trời dục giới, mà có người thọ một cái người ta giữ dễ dàng thôi, mà chưa thọ người ta đã giữ rồi, thì đây là các bậc trời dục giới: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, có người ăn chay tập ăn hoài ăn không được, có người vô người ta ăn chay trường hoặc 10 ngày người ta ăn dễ ợt thôi, thì những người này có căn kiếp trước, đã tu rồi bây giờ tiếp tục tu nữa, còn người kia chưa tu, hồi đó mới lớp 1 bây giờ cũng ráng tiếp tục lớp 1 lớp 2 thôi, còn người ta học lớp 7 người ta nghỉ một thời gian người ta chết đi bây giờ người ta sanh lại thì người ta tiếp tục ôn bài vở người ta qua lớp 7 lóp 8 lại, thì cuộc đời cũng vậy, mà cuộc luân hồi sanh tử của chúng ta cũng vậy thôi, chúng ta nên nhớ như vậy. Thành ra tới cõi trời mới bắt đầu đủ ngũ uẩn, nhưng mà có nghĩa là địa ngục không phải không có ngũ uẩn nha, chưa hiện với hiện thôi, chớ không phải địa ngục là có một uẩn, địa ngục nó đủ hết trơn, từ sắc thọ tưởng hành thức nhưng mà có cái hiện cái chưa hiện. Cũng như là cái đứng lặng địa ngục cũng có đứng lặng, đứng lặng luôn tới Như Lai, nhưng mà nhận được hay không nhận được. Thành ra Đức Phật sau khi Ngài đắc quả Ngài lấy làm lạ: “Trời ơi! tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có chân nhu tịnh chân nhu động, tất cả chúng sanh đều là Nhu Lai, nhung mà nhận được hay không nhận được thôi. Như Lai đã nhận được, các con đang nhận và sẽ nhận, chớ không phải có một mình ta là Như Lai, võ trụ là của chung của tất cả chúng sanh, nhưng mà chưa nhận được thì đau khổ, mà nhận được thì giải thoát”.

Thành ra tu theo cái vọng hóa là tu theo cái tiến trình từ sa đọa mà tiến hóa lên từng cấp bậc.

Còn tu theo bên đứng lặng là tu theo nhận lại, mà nhận lại thì không có pháp môn, không có không gian, không có thời gian, bởi vì nó vô lượng vô biên, mà bao giờ cũng như bao giờ nó là như vậy thôi, nó đi tới có hình mà chưa có tướng, rồi đi tới chập chờn le lói chiếu soi, rồi tới hư vô vi tế, rồi đi tới ánh sáng uyên nguyên rực rỡ cả võ trụ, không có hình tướng gì hết; Rồi nó lại xuống cấp mờ mờ hư vô vi tế, rồi lại hư minh le lói chiếu soi, rồi lại là dung thông; rồi dung thông mới đi lên hư minh le lói chiếu soi, rồi hư vô vi tế rồi một vùng hào quang rực rỡ, cứ thế đời đời kiếp kiếp.

Còn bên vọng hóa tùy theo nhận thức, như tôi giảng hồi nãy, đi từ: địa ngục, tới cỏ cây, rồi tới súc sanh, rồi tới loài người, rồi tới trời dục giới, sắc giới, vô sắc, nhưng mà tất cả đều có đầy đủ hết, bên đứng lặng tất cả đều có đầy đủ hết, chỉ cần chúng ta nhận lại thôi. Mà nhận bằng cách nào? Đó là một vấn đề, đó là một vấn đề.

Thôi tôi nói đến đây chúng ta tạm ngưng, tạm hiểu hen. Bữa nay rõ quá rồi phải không? Còn ai thắc mắc gì nữa không? 4 giờ 32 phút rồi đó, tức là cỏn có nửa tiếng là hết giờ, hén. Xong kỳ tới tôi tóm bài thứ hai, tức là 5 thức, thức thứ 6 thức thứ 7 và thức thứ 8, rồi tới 15 hạng chúng sanh là hết, chúng ta bắt đầu đi vào bài Kinh Sáu Sáu. Mà Kinh Sáu Sáu trả lời không được nữa thì quỳ gối, đó là xứng đáng, cái này giảng hết bài Kinh Sáu Sáu đấy, chỉ cần đem cái này vô tìm hiểu bài Kinh Sáu Sáu là sáng tỏ hết, trong này giải thích hết. Thành ra tôi giảng vầy, ý là tôi muốn nói giải thích bài Kinh Sáu Sáu rồi đó, nhưng mà bài Kinh Sáu Sáu để mấy ông bà làm việc, tôi đặt câu hỏi thôi, đặt câu hỏi thôi, thì tôi đã trả lời hết trong này rồi, không những bài Kinh Sáu Sáu mà trả luôn cà Bồ tát nữa, tức là cái này tôi nói sự tôi kéo qua lý, sự là xao động, mà lý là đứng lặng, rồi sự lý hợp nhau đó là Bồ tát, còn sự sự đó là vô chất tánh cảnh và hữu chất tánh cảnh là thế giới của Như Lai, thì cái bảng này gồm chung hết tất cả 15 hạng chúng sanh. Thì chúng ta về coi tới coi lui, ai cũng có cái bảng này, ai không có thì photo, rồi về nhìn tới nhìn lui, soi tới soi lui, còn nếu mình chưa rõ nữa hỏi bạn mình, còn nếu không ấy mượn cái băng, mà nhớ nội bộ thôi hén, đừng phổ biến ra ngoài, người ta không biết, nội bộ nếu có sai thì tôi sửa, tôi cũng chưa chắc là đúng, nhưng mà tôi thấy nó sáng tỏ quá, bữa nào tôi thấy nó tối nữa tôi sửa lại, tôi tham thiền tôi thấy nó quá rõ rồi, thì nắm cái bảng này chúng ta sẽ đi vào bài Kinh Sáu Sáu, rồi xong chúng ta phải qua Thủ Lăng Nghiêm, đây là từ sự qua lý, sự là người trời là bốn đường ác bốn đường thiện, từ bỏ ác qua thiện, rồi chúng ta qua cái lý là đứng lặng tức là Alahán, trong bài Kinh Sáu Sáu tới đó hết, rồi từ cái lý này chúng ta trở ra tùy thuận với sự để nhập pháp giới từ một chúng sanh đến nhiều chúng sanh, thì đó là sự lý vô ngại pháp giới của Kinh Thủ Lăng Nghiêm, rồi tới thị hiện vô lượng chúng sanh vô lượng cõi đó là sự sự vô ngại pháp giới, tức là chân như tịnh chân như động, vô chất tánh cảnh hữu chất tánh cảnh là hết, chừng đó tôi với mấy ông bà vô lò thiêu luôn, chúng ta đồng vãng sanh về Cực lọt, ý về Cực lạc, như vậy là xong.

Bây giờ có ai hỏi gì không? Có chỗ nào chưa hiểu thì hỏi lại, để rồi kỳ tới tôi thôi á, bắt đầu đi qua Duy thức cái bảng đó, thì cũng nằm trong cái bảng này thôi, nhưng mà nó nhìn về khía cạnh khác, rồi tới 15 hạng chúng sanh cũng trong này thôi, nhưng mà giải thích về khía cạnh khác, ba cái này hợp lại nó mới sáng tỏ, thì cái này tổng quát đấy, cái này nằm hết trong đó.

Còn nửa tiếng nữa, ai có hỏi gì thì hỏi, còn không có mấy ông bà thông suốt hết thì tôi hỏi, mấy ông bà hơn tôi đó, tôi cho mấy ông bà lựa trước, hỏi trước, mà nếu không hỏi thì tôi hỏi vậy, mà mấy ông bà hỏi thì tôi trả lời, còn nếu mấy ông bà hỏi thì tôi phải trả lời đấy, có vậy thôi. Giờ để 5 phút suy nghĩ hén, ai hỏi gì thì hỏi, còn không thì tôi hỏi, bữa hỗm mấy câu chưa trả lời nữa đấy, phải trả lời còn không thì quỳ gối hết, hay là cạo đầu luôn cũng được, như vậy càng tốt, đầu năm chúng ta cạo đầu để tiến hóa lên 8 giới, giờ ở nằm một chỗ hoài lười biếng. Thì thôi, không thắc mắc gì thì trở lại câu hỏi ông Thiện Khánh và ông Thiện Đức hôm trước, mà dường như chúng ta trả lời chưa dứt khoát. Thì câu của ông Thiện Khánh cũng quan trọng đấy, là như tôi nói trong tứ thiền đó, là khi cái tâm chúng ta tập trung kỹ tập trung mạnh tập trung lâu tập trung sâu thì từ tứ thiền là bất lạc bất khổ thọ, khi mà chúng ta bớt vọng hóa thì chúng ta thấy được thế giới của cộng nghiệp, tức là mọi sự vật dường như nó mờ ảo, nó muốn qua cái biến mất, nó muốn qua cái vô hình kêu là vô sắc, cảnh giới này là cảnh giới của sắc, mà cái sắc cuối cùng nó là cái liên lạc giữa sắc và vô sắc, cỏn từ lạc thọ trở xuống là cảnh giới của tình, của tình nhiễm, đằy là cảnh giới của tưởng, nó bắt đầu dứt tình, thì tất nhiên là sự vật nó thấy loáng thoáng, thì tất nhiên là kêu thế giới đới chất tức là sự vật nó hiện rõ hình tướng nhưng mà chưa có sự thương ghét, thì kêu là cảnh giới bất động, thì đây bất động trong Kinh dùng nhiều danh từ, bất động là cảnh giới này là gió bát phong không đụng tới, và tam tai không đụng tới, chữ tam tai chúng ta phải hiểu à, tam tai có sự có lý, tam tai là nước lửa gió, nước là nước lụt ngập cả võ trụ một người nhập tứ thiền cũng không chết, rồi lửa là lửa cháy khắp cả võ trụ khắp cả không gian người nhập tứ thiền cũng không đụng tới, còn gió đây tức là gió bát phong: vinh nhục lợi hại thịnh suy khen chê cũng không đụng tới tâm của người tứ thiền, kêu là cõi bất động, cõi bất động, chúng ta phải nhớ, thì cái đó nói về cái sự thôi; thì theo cái lý nói về tham sân si, nhưng mà nó bất động đây nghĩa là đè nén đấy, còn khi mà thôi nhập định rồi quá tải cũng phải chịu thôi, tứ thiền là một trạng thái của đè nén khá cao, thành ra cõi bất động này thì do đè nén thôi, thành ra nó tưong đương với một vị Bất lai. Bất lai cũng vậy, Bất lai có gió bát phong cũng không đụng tới được, thì ở đây muốn nói nước là nước tham, chớ nước ở ngoài là nước ngập, thì người nhập tứ thiền thì cái xác thân dường như muốn mất rồi, qua vô sắc rồi thì là nước ngập không đụng tới, mà nước đây theo trong Kinh thì “nước tham một dãi đen xì”, nước tham đây tức là gì? tham ăn, tham mặc, tham ở, tham bệnh, thì người nhập vào tứ thiền thì xác thân muốn mất rồi. Chúng ta thấy trong đó tam thiền là cái lạc tức là chìm đắm trong trạng thái lạc, hơi thở còn, xác thân đã mất; tứ thiền thì hơi thở mất luôn, hơi thở mất luôn, nhưng nếu nhìn kỹ thì nó còn chập chờn hơi thở, hơi thở nó nối liền giữa cái thân và cái tâm. Chúng ta nên nhớ, theo trong tiên “tinh khí thần”, tinh là xác thân, khí là hơi thở, thần là cái hiểu biết của chúng ta, thì cái thần mà sở dĩ nó có linh động là nhờ cái khí, mà cái khí mà nó dài là nhờ cái tinh, thành ra ba cái: tinh khí thần nối liền với nhau mà ở giữa chính là khí, nếu khí mà mạnh thì cái tinh sẽ củng cố, mà khí mạnh thì cái thần sẽ sáng tỏ, đây là thần là cái thức thôi chớ không phải trí tuệ, mà là trí thức thôi. Thì ở đây cũng vậy, cái cõi tứ thiền của chúng ta là một cõi bất động, bất động là do đè nén mà bất động, kêu là cõi bất lạc bất khổ thọ, thành ra tôi mới nói bất lạc bất khổ thọ siêu thường là vượt lên trạng thái bình thường, là do đè nén mà có chớ không phải tự nhiên mà có, nó khác với bên Bát nhã, Bát nhã cũng bất lạc bất khổ thọ mà tự nhiên thôi. Chúng ta phải hiểu như vậy. Như vậy thì ông Thiện Khánh mới nói là Sư thấy người nhập vào tứ thiền rồi sau khi qua tưởng tượng qua mới thấy được cái hư không vô biên tức là thấy được mạtna thức dường như nó vô lượng vô biên, rồi mới tạo ra cái hư không đó để duyên, rồi khi tập trung kỹ mạnh sâu nó hiện ra rồi nó lại mất thì tạo ra để duyên; rồi kế đó tới thức vô biên tức là alaya, thì đây là cái đứng lặng thật sự đấy, thì đây gọi là thế giới của tánh cảnh, thành ra nó cũng thoáng thấy được thế giới tánh cảnh rồi nó tạo ra cái nội hóa để nó duyên; rồi nó lại thấy đưọc chân như tịnh rồi lại mất, loáng thoáng nó mất rồi lại hiện, thành ra nó tạo ra cái đối tượng giả tạo để nó duyên; rồi tới thấy chân không diệu hữu nó cũng tạo ra để nó duyên. Thì như vậy Thiện Khánh nói thấy loáng thoáng như vậy thì không phải cõi trời vô sắc giới nữa, mà đó là Nhập lưu. Như vậy chúng ta làm sao phân biệt giữa Nhập lưu và cõi trời vô sắc giới, làm sao phân biệt được?

Thì cái này hồi xưa ngoại đạo lầm đấy các ngoại đạo lầm đấy, chỉ có Đức Phật ra đời thì bắt đầu có Nhập lưu. Nhập lưu thì phải nhận rõ được cái đó đấy, thành ra cái Nhập lưu cũng căng lắm chớ không phải dễ, khi mà thấy được Phật tánh, thấy được cái đứng lặng rồi, thì mới thấy được cái đứng lặng cái xao động nó khác nhau làm sao, tức là thấy được Bát nhã và tư tưởng nó khác nhau làm sao, hay nói cách khác thấy vô niệm với nhất niệm khác nhau làm sao?

Từ tạp niệm qua nhất niệm dễ phân biệt thôi. Thí dụ mấy ông bà niệm Phật đếm từ 1 đến 10 nó nghĩ tùm lum hết thì đây là tạp niệm, niệm Phật đếm từ 1 đến 10 chỉ nghĩ Đức Phật thôi không nghĩ cái gì khác thì nhất niệm, dễ thôi, dễ phân biệt quá.

Nhưng mà vô niệm là cái gì?

Giữa nhất niệm với vô niệm khác nhau làm sao?

Thì nó không phải giống cái kia, cái kia từ thoái hóa lên tiến hóa.

Còn cái từ nhất niệm qua vô niệm là một sự nhận lại.

Nhất niệm là sự tiến hóa.

Còn vô niệm không có tiến hóa mà cũng chẳng có thoái hóa, mà là một sự nhận lại.

Tạp niệm mà đi đến nhất niệm là có vô lượng pháp môn, có vô lượng thời gian, có vô lượng không gian, có vô lượng thầy, phải tu tập phải cố gắng, phải ngồi lâu, phải giữ giới cho kỹ.

Còn vô niệm là không có vấn đề đó, không có thầy, không có pháp môn, tất cả pháp môn vứt bỏ hết, không có thời gian, không có không gian, nhận lại là nhân ngay bây giờ và tại đây, mà không nhận lại thì thôi, chớ không có lai rai, không có từ từ, không có ông thầy nào đưa mình tới đó hết, một mình trơ trọi đi thẳng vào đó, “do Ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy” thì đó mới là Như Lai, đi tới vô niệm là không có thầy, không có thầy, người thầy chỉ là người hướng dẫn thôi, người tạo điều kiện cho mình nhảy vào đó thôi, cũng như mình đói thì ông thầy tạo điều kiện cơm cho mình, còn ăn hay không do ở mình, mình bệnh ông thầy tạo thuốc cho mình, uống hay không do mình, mình tự nhảy vào đó, nhưng mà cái điều kiện thì phải có người khác giúp đỡ, đó là Thánh nhân hoặc thiện tri thức. Như vậy câu thứ nhất này mấy ông mấy bà phải phân biệt cho rành.

Như thế nào là tứ thiền, tứ không? Và như thế nào là Thánh nhân?

Thì nó cũng trở lại câu hỏi của giới cấm thủ.

Như thế nào là vĩ nhân? Như thế nào là thiên tài? Như thế nào là thần đồng? Nó khác với Thánh nhân như thế nào?

Thì nó nằm qua trên này. Tôi đã giảng nhiều lần, thế mà cái bài giới cấm thủ tôi cũng phải trả lời thôi, không ai trả lời đuợc hết. Thành ra chúng ta thấy là nó dung thông, khó mà nhận ra được những bậc vĩ nhân, thiên tài, thần đồng khác với Thánh nhân như thế nào, nó chỉ đường tơ kẽ tóc thôi, đường tơ kẽ tóc thôi.

Hôm đó tôi có nhắc là thấy rằng cái thức thứ 8 nó làm việc một mình nó không cần thức nào hết; thức thứ 7 nó cũng làm việc một mình nhưng mà phải có thức thứ 8, không có là nó không làm được; cỏn thức thứ 6 nó có thể làm việc một mình nhưng mà luôn luôn phải có thức thứ 7 và thức thứ 8; còn 5 thức đầu thì phải có đủ hết, có thức thứ 6, thứ 7, thứ 8, không có là không được. Chúng ta thấy như vậy là chúng ta phải hiểu chỗ đó.

Thì thôi, câu hỏi giờ mấy ông bà bắt đầu trả lời đi, là giữa tứ thiền tứ không với Nhập lưu nó khác nhau làm sao? Ông Thiện Khánh nói nếu loáng thoáng thấy được Phật tánh rồi thì cái đó là Nhập lưu chớ không thể nói là cõi trời được. Thì cái câu của cô Thiền hôm trước nói cũng giống giống như vậy đó, nó hoi khác một chút, sẵn đây tôi nói luôn. Lúc đó hết giờ, tôi thấy cổ hỏi mà pháp hội nín thinh hết, tôi thì muốn pháp hội trả lời thôi, cổ nói Sư nói cái chỗ này hơi mâu thuẫn, là Sư nói khi nhìn ra ngoài tịnh xá, ngoài cổng thấy loáng thoáng có một hình bóng, mà nếu mình không suy nghĩ gì hết mình đoán biết đó là Sư Giới, mà đến đúng thật sự là Sư Giới đó là hiện lượng tánh cảnh, cổ bắt cái lỗi rất là hay, mà không biết pháp hội có biết không, sẵn trả lời luôn, mà Sư đã nói rằng hiện lượng tánh cảnh, tánh cảnh là vô tướng tức là không có hình tướng, bây giờ sư thấy rõ là Sư Giới có hình tướng rõ ràng mà tại sao Sư nói đó là tánh cảnh, vậy có mâu thuẫn hay không? Tánh cảnh là thật tướng của các pháp, mà thật tướng của các pháp là vô tướng, mà vô tướng làm sao bây giờ có tướng Sư Giới? Cái đó là cái độc đáo của cổ, giờ chúng ta trả lời làm sao? Hôm đó cô có hỏi, phải không cô Thiền, cô thắc mắc vậy phải không? Tôi nói khi dòm ra ngoài cổng thì thấy hình bóng của một nhà Sư không biết đó là ai, bây giờ mình nhìn ra tôi nói có Sư nào đến kìa, bây giờ mấy ông mấy bà không cần suy nghĩ biết đó là Sư Giới, không suy nghĩ gì hết, mà ra thật sự là Sư Giới, thì đó là hiện lượng tánh cảnh, mà nếu không phải Sư Giới thì là tỷ lượng đới chất cảnh, là chân đới chất, còn nếu có sự suy nghĩ trong đó thì qua đới chất. Thì cổ mới hỏi là Sư nói tánh cảnh là cảnh thật của các tướng, mà cảnh thật của các tướng là vô tướng, mà bây giờ tại sao hiện lượng tánh cảnh mà lại có Sư Giới, Sư Giới là hình tướng rồi. Như vậy chúng ta trả lời làm sao? Bữa đó bị hết giờ, thành ra tôi để mấy ông mấy bà suy nghĩ, ông mấy bà lười biếng quá, tôi thấy lười biếng quá, chắc phải cạo nhớt á, chớ để như vầy là giao cho tôi hết thì tôi thấy buổi học là không xong, gánh hát bồ tèo chắc phải bỏ thôi, mấy ông mấy bà phải làm việc, phải thao thức, phải cố gắng. Bây giờ hỏi câu đầu trả lời đi, tới câu hỏi ông của Thiện Đức hơi cao hơn nữa đấy, hơi độc đáo hơn đấy, câu hỏi này lâu lắm rồi à, nghỉ tết chắc quên hết rồi, chúng ta ăn tết là ăn chết luôn. Giờ tới mấy ông mấy bà đi, hồi nãy đã nói hỏi tôi trả lời, bây giờ thông suốt hết thì bây giờ tôi hỏi thì phải trả lời, mà câu này không phải tôi hỏi mà ông Thiện Khánh hỏi, rồi tới câu ông Thiện Đức nữa, nếu không xong là tôi không giảng tiếp, tôi nói truớc á, là không thể đi sằu nữa, tới đây là bế tắc thôi, chịu làm việc thì chúng ta mới đi được. Giờ ai trả lời nè? Không ấy tôi kêu á, cuối cùng dùng chính trị không được phải dùng quân sự á, quân sự là tôi bắt quỳ gối không có đánh đập gì đâu, quỳ cây nhanh hoặc là quỳ sơ mít, rồi cùng nữa quỳ sầu riêng, mấy ông mấy bà chắc chịu sầu riêng hơn á, nó ngon hơn. Giờ ai trả lời nè? Nín thinh hết vậy nè, trời ơi Bát nhã gì mà kỳ vậy ha, mà chịu trả lời tới chừng hỏi mà không chịu trả lời, thì thôi còn làm được cái gì nữa, mà bài giảng tôi giảng hết rồi đó, nếu mà tôi trả lời cũng trong bài giảng của tôi thôi, nó tức là tức chỗ đó, phải chi mình không có giảng thì mình không bực, mà giảng rồi lấy cái bài giảng của mình giảng lại trả lời thôi, chớ không phải là tôi không giải thích, tôi giải quyết hết rồi, bây giờ chỉ ôn lại là dùng cái danh từ của mình thôi, mấy ông bà phải biết cái khó khăn của Bát nhã, cho mấy ông bà tập làm để biết cái khó khăn của Bát nhã, cái lời nói nó khó diễn tả vấn đề giữa tư tưởng và Bát nhã, nhưng mà phải tập làm chớ, càng làm alaya thức mình càng linh động sinh động hơn, thì sau mới ra làm pháp sư mới độ đời được, mấy ông bà là tương lai của Phật pháp, là cột trụ của ngôi nhà Phật pháp đấy, đây là sư cô với tăng tương lai không á, tôi thì không bao lâu tôi ra đi rồi đó, còn mấy ông bà, nếu đầy đủ hết thì tôi đi á. Giờ ai nữa nè? Giải thoát mà tha thiết thao thức là phải ngồi thiền, phải lấy cái bảng này coi cho kỹ rồi quán xét tới quán xét lui rồi mới tập làm, nếu mà chúng ta chưa có có thể nói tự tại được thì có thể viết vào giấy, nhưng mà nên nhớ của mình, mà hễ mình làm chừng nào chính mình làm thì mình ghi lại trong alaya thức chủng tử độc đáo của mình, thì đó là của mình, thì nó mới trở thành chính là máu thịt xương da của mình, còn mượn người khác làm tức là mình dối mình, dối người khác, thì cuối cùng là mình đếm bạc cho ngân hàng, cuối cùng không ích lợi gì hết, ở đây có nhiều người đếm bạc cho ngân hàng đấy, ra làm thiệt luôn, ra đếm bạc ngân hàng thiệt luôn, thì vô đây đừng có đếm bạc kiểu đó nữa, chúng ta cố gắng làm.

Thì tôi cũng cầu chúc mấy ông bà, năm mới chúng ta cố gắng đi tới con đường giải thoát, thì đây là chúng ta đi thẳng vào chân lý đấy, thì cố gắng hén. Cái bảng này có sẵn, ai chưa có thì photo, rồi hỏi chúng bạn mình, hoặc là nếu ấy đem cái băng này về nếu có máy mở ra nghe, rồi tập làm lấy, nếu mà có thể làm được không nói được thì viết vào giấy, viết vào giấy cầm đọc thì dễ ợt thôi, nhưng mà nên nhớ của mình làm để rồi có chủng tử trong alaya.

Vậy tới đây xin tạm ngưng, và cầu chúc mấy ông bà mau tiến đến con đường giải thoát, đắc thánh quả Alahán. Mô Phật.