Trung Phong Tam Thời
Hệ Niệm Pháp Sự Toàn Tập
(nguyên bản)
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
1. Tán Hương
Giới định chân hương,
Đốt xông tận trời thẳm,
Đệ tử kiền thành,
Thắp đặt trong lư vàng,
Khoảnh khắc khói cuồn cuộn,
Tỏa khắp mười phương,
Xưa bà Da Du,
Thoát nạn tiêu tai chướng.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát)
Xướng xong, sư bạch:
Biển giác khởi hư không,
Sa Bà sóng nghiệp trào,
Ai muốn lên bến giác,
Cực Lạc sẵn thuyền về
Đại chúng niệm Phật, đến trước bàn linh, xướng [nam mô] Thanh Lương Địa [Bồ Tát], tụng Tâm Kinh, chú Vãng Sanh, xướng Liên Trì Hải Hội, hồi hướng xong, pháp sư bèn nói pháp ngữ.
Nam mô A Di Đà Phật.
Xướng Phật hiệu này, đến trước bài vị, bèn xướng tiếp
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
2. Tâm Kinh
Nam mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha (3 lần)
3. Chú Vãng Sanh
Nam mô a di đa bà dạ, đá tha già đa dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, a di rị đá, tất đam bà tỳ, a di rị đá, tỳ ca lan đế, a di rị đá, tỳ ca lan đa. Già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha (3 lần)
4. Biến Thực Chân Ngôn:
Nam mô tát phạ đát tha nga đa, phạ lồ chỉ đế. Án, tam bạt ra, tam bạt ra, hồng (3 lần)
5. Cam Lộ Thủy Chân Ngôn
Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha: Án, tô rô, tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, sa bà ha (3 lần)
6. Phổ Cúng Dường Chân Ngôn
Án, nga nga nẵng, tam bà phạ, phạt nhật ra, hộc (3 lần)
7. Liên Trì Tán
Liên trì hải hội,
Di Đà Như Lai,
Quán Âm, Thế Chí ngự đài sen,
Tiếp dẫn lên thềm vàng,
Đại thệ rộng mở,
Phổ nguyện thoát trần ai
8. Kệ Hồi Hướng
Nguyện sanh Cực Lạc cõi Tây Phương,
Hoa sen chín phẩm làm cha mẹ,
Hoa nở gặp Phật chứng Vô Sanh,
Bất Thoái Bồ Tát làm bè bạn
9. Tuyên pháp ngữ
Hồi hướng xong, pháp sư nói bài văn sau đây:
Pháp vương lợi vật,
Bi trí rộng sâu,
Trọn khắp mười phương,
Âm, dương chẳng cách.
Nay nhờ trai chủ… kính vì dịp…. gặp lúc… riêng thỉnh sơn tăng lên tòa. Nhờ vào giáo pháp, làm Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự. Vong linh các ngươi, gặp duyên thù thắng này, hãy tự nghiêm túc oai nghi, đến dự dưới tòa, kính nghe diệu pháp, một dạ lãnh thọ giáo hối.
Nói bài văn ấy xong, đại chúng niệm Phật trở về đàn tràng, lên tòa, đứng đối diện cử bài Tán Hương:
10. Lư Hương Tán
Lò hương vừa đốt,
Pháp giới khắp xông,
Hải hội chư Phật thảy xa nghe,
Chốn chốn kết mây lành,
Lòng thành ân cần,
Chư Phật hiện toàn thân
Nam mô Vân Lai Tập Bồ Tát Ma Ha Tát)
11. Chúc Hương
Một nén hương này, gốc cuộn ngoài kiếp, nhánh trùm vũ trụ, chưa từng được trời đất sanh thành. Há lẽ thuộc âm dương tạo hóa? Đốt đặt trong lò, chuyên dâng cúng dường Thường Trụ Tam Bảo, sát hải vạn linh, Cực Lạc đạo sư A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng, đều cậy vào chân hương, bình đẳng cúng dường khắp cả.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.
Niệm ba lần xong, đại chúng cùng ngồi xuống, khắc [3] dẫn khánh, khởi mõ, tụng:
ĐỆ NHẤT THỜI PHÁP SỰ (Thời Thứ Nhất)
1. Kinh Di Đà:
Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát (3 lần)
Phật Thuyết A Di Đà Kinh
Tôi nghe như thế này:
Một thời, Phật ngự tại nước Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc và đại tỳ-kheo tăng một ngàn hai trăm năm mươi người cùng nhóm họp, đều là những đại A La Hán được mọi người hay biết: Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lỵ Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà. Các đại đệ tử như thế đó.
Và các Bồ Tát Ma Ha Tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát và các đại Bồ Tát như thế và Thích Đề Hoàn Nhân v.v… vô lượng chư thiên đại chúng cùng nhóm họp.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo trưởng lão Xá Lợi Phất:
– Từ đây qua khỏi mười vạn ức cõi Phật về phương Tây, có thế giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy có Phật, hiệu là A Di Đà, nay hiện đang thuyết pháp.
Này Xá Lợi Phất! Cõi ấy vì sao tên là Cực Lạc? Chúng sanh cõi ấy không có các sự khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên tên là Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc, bảy tầng lan can, bảy tầng lưới mành, bảy tầng hàng cây, đều bằng bốn báu, bao quanh trọn khắp. Vì thế, cõi ấy tên là Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức đầy ắp trong ấy. Đáy ao thuần dùng cát vàng trải đất. Bốn phía là bậc lên, lối đi, dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên có lầu gác, cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang hoàng. Hoa sen trong ao, to như bánh xe, màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng, vi diệu thơm sạch.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thường tấu nhạc trời, vàng ròng làm đất. Ngày đêm sáu thời, mưa hoa mạn-đà-la cõi trời. Chúng sanh cõi ấy, thường vào sáng sớm, ai nấy dùng y kích đựng các hoa đẹp, cúng dường mười vạn ức Phật trong những phương khác. Trong khoảng bữa ăn, trở về nước mình, dùng cơm, kinh hành.
Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi ấy thường có các loài chim kỳ diệu nhiều màu, như chim: bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hòa nhã. Tiếng ấy diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, các pháp như vậy. Chúng sanh cõi ấy, nghe tiếng ấy rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Này Xá Lợi Phất! Ông chớ có nói những con chim ấy thật sự do tội báo sanh ra. Vì cớ sao vậy? Cõi nước Phật ấy không có ba đường ác.
Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật đó còn không có cái tên ba đường ác, huống hồ có thật? Các loài chim ấy đều do A Di Đà Phật muốn pháp âm được tuyên lưu bèn biến hóa ra.
Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và lưới mành báu, phát ra âm thanh vi diệu, ví như trăm ngàn loại nhạc cùng lúc hòa tấu. Nghe âm thanh ấy tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao Phật ấy hiệu A Di Đà?
Này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy quang minh vô lượng chiếu các cõi nước mười phương không bị chướng ngại. Vì thế, Ngài hiệu là A Di Đà.
Lại này Xá Lợi Phất! Thọ mạng Phật ấy và nhân dân Ngài vô lượng vô biên A Tăng Kỳ kiếp, nên tên là A Di Đà.
Này Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật đến nay đã là mười kiếp.
Lại này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh Văn, đều là A La Hán, chẳng thể tính toán để biết được nổi. Các vị Bồ Tát cũng giống như thế.
Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Lại này Xá Lợi Phất! Chúng sanh sanh vào cõi nước Cực Lạc đều là A Bệ Bạt Trí, trong số ấy nhiều vị là Nhất Sanh Bổ Xứ, số ấy rất nhiều, chẳng thể tính toán hòng biết được nổi, chỉ có thể tạm nói là vô lượng vô biên A Tăng Kỳ.
Này Xá Lợi Phất! Chúng sanh nghe nói, hãy nên phát nguyện, nguyện sanh cõi ấy. Vì cớ sao vậy? Được cùng các thượng thiện nhân như vậy cùng nhóm họp một chỗ.
Này Xá Lợi Phất! Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức, nhân duyên để được sanh về cõi kia.
Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe nói đến A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Kẻ ấy lúc mạng sắp hết, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt. Người ấy lúc mất, tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Này Xá Lợi Phất! Ta thấy điều lợi ấy nên nói lời sau: “Nếu có chúng sanh nghe nói như vậy, phải nên phát nguyện, sanh về cõi kia”.
Này Xá Lợi Phất! Như nay ta tán thán lợi ích công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà, phương Ðông cũng có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Ðại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Này Xá Lợi Phất! Nam phương thế giới có Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Ðại Quang Phật, Ðại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc có Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương dưới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật.Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương trên có Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật. Hằng hà sa số chư Phật như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi là kinh Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm?
Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này, thọ trì và nghe danh hiệu chư Phật thì những thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, đều được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vì thế Xá Lợi Phất! Các ông đều phải nên tin nhận lời ta và lời chư Phật đã nói.
Này Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh cõi Phật A Di Đà, thì những người ấy đều được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, với cõi Phật ấy, hoặc là đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh.
Vì thế Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu có lòng tin hãy nên phát nguyện, sanh cõi nước ấy.
Này Xá Lợi Phất! Như ta nay khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật. Các đức Phật ấy cũng khen ngợi ta, công đức chẳng thể nghĩ bàn, mà nói thế này: “Thích Ca Mâu Ni Phật có thể làm được chuyện hy hữu rất khó, có thể ở trong cõi nước Sa Bà, nhằm đời ác ngũ trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì các chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó tin này”.
Này Xá Lợi Phất! Nên biết ta trong đời ác Ngũ Trược, làm chuyện khó này, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì hết thảy thế gian nói pháp khó tin này, thật là rất khó!
Phật nói kinh này xong, Xá Lợi Phất và các tỳ-kheo, hết thảy thế gian, trời, người, A Tu La v.v… nghe lời Phật dạy, hoan hỷ tin nhận, làm lễ mà lui)
2. Vãng Sanh Chú
Nam mô a di đa bà dạ, đá tha già đa dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, a di rị đá, tất đam bà tỳ, a di rị đá, tỳ ca lan đế. A di rị đá, tỳ ca lan đá. Già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha.
Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát.
Niệm ba lần xong, Sư vỗ xích[4], bạch:
3. Khai Thị
Thế giới duyên gì tên Cực Lạc?
Chỉ vì các khổ chẳng hề xâm,
Nẻo về nếu muốn tìm cho được,
Hãy đối trần lao liễu tự tâm.
Đề hồ, tô, lạc đều sanh từ sữa; thoa, xuyến, bình, mâm đều chế từ vàng. Đường xa mười vạn ức, Đông Tây nào có cách ngăn. Trong mười hai thời, phàm thánh cùng là một đường. Cúi đầu chắp tay trước tướng bạch ngọc hào, sao sáng ngời, mặt trời rạng rỡ. Ca ngâm khen ngợi dung nhan vàng ròng, sét động sấm rền. Mặt trăng trong mát, hễ chỗ nào có nước đều hiện bóng. Mây công đức không núi nào chẳng phủ. Hương tượng[5]vượt sông, vừa niệm hồng danh bèn thoát khỏi hai tử[6]. Chim Ca Lăng[7] ra khỏi vỏ, niệm danh hiệu tốt lành, vượt trỗi ngàn lần các âm thanh khác. Dùng tình suy nghĩ khó hiểu thấu, một niệm hồi quang ắt dễ về. Rốt ráo nào phải ngoài tâm, phân minh chỉ ngay trước mắt. Xét kỹ như thế; vậy nay đại chúng, hệ niệm Di Đà, chuyên tu Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự, nhưng nếu không lạm dự cả tu lẫn chứng, giải thích câu nói “đích thân được Phật thọ ký” như thế nào đây?
Vỗ xích một tiếng, lại bạch tiếp:
Gió luồn cây tấu ngàn muôn nhạc,
Ao bốn màu sen tỏa ngát hương)
Người gõ mõ bắt giọng:
4. Niệm Phật
A Di Đà Phật thân vàng ròng,
Tướng tốt quang minh khôn sánh ví!
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào,
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc,
Trong quang minh hóa vô số Phật,
Hóa các Bồ Tát cũng vô biên,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm hàm linh lên bến giác
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật)
Niệm Phật một trăm tiếng, người gõ mõ bắt giọng bài tán sau đây:
5. Tán Phật
Đại nguyện bậc nhất,
Quán tưởng Di Đà,
Bốn mươi tám nguyện độ Sa Bà,
Chín phẩm trỗi sóng vàng,
Lưới báu chen bày,
Độ vong linh vượt ái hà)
Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát
Niệm ba lần xong, pháp sư vỗ xích bạch:
6. Khai Thị
Các khổ đều từ tham dục khởi,
Từ đâu dục khởi biết chăng là?
Do quên tự tánh Di Đà Phật,
Dị niệm lăng xăng trọn hóa ma,
Trong giáo pháp có nói: “Sanh nhưng vô sanh, Pháp Tánh lặng trong; vô sanh mà sanh, nghiệp quả đành rành”. Như sanh vừa nói đó, chính là dấu vết sanh diệt của chúng sanh. Còn vô sanh thì chính là tâm tánh tịch diệt[8] của chư Phật vậy. Pháp Tánh trạm nhiên là linh minh trạm tịch, huyền diệu chân thường, không gì không có, ai nấy sẵn đủ. Chỉ vì thoạt đầu bất giác, đột nhiên động tâm, tưởng vọng là chân, mê mất bản thân, chạy theo vật dục. Do vậy, lưới nghiệp quấn trói, lưu chuyển năm đường. Luôn thăng trầm theo sanh tử, suốt từ xưa đến tận nay chưa hề gián đoạn. Nên biết: Sanh tự duyên sanh, nhưng Pháp Tánh chẳng sanh cùng với duyên. Diệt thì duyên tự diệt, chứ Pháp Tánh chẳng cùng diệt theo duyên. Do vậy, nói: “Pháp Tánh trạm nhiên”. Đó là nói về: “Sanh nhưng không sanh” vậy! Vô sanh mà sanh là chúng sanh mê vọng nhập tâm, chứa nghiệp thành quả, dối chịu luân chuyển, lầm thấy sanh diệt. Pháp Tánh về bản thể giống như hình ảnh được hiện nơi gương, giống như viên ngọc phản chiếu màu sắc [những vật xung quanh]. Phải biết: Ánh sáng của gương vốn tịnh, thể của châu trọn không tỳ vết. Vật – cảnh soi rõ lẫn nhau, hình sắc chẳng trái nghịch. Hình sắc đến đi giống như nghiệp quả đành rành vậy. Bởi thế, trong sự sanh diệt rành rành, chư Phật chỉ thấy vô sanh. Trong vô sanh trạm nhiên, chúng sanh chỉ thấy sanh diệt. Chỉ do mê – ngộ sai khác đến nỗi hiện lượng khác nhau, chứ thật ra: Sanh không có tự tánh, vô sanh cũng không có tự tánh. Hễ ngộ thì sanh diệt đều là vô sanh, còn mê thì vô sanh đều thành sanh diệt. Do vậy, lìa khỏi cái này không còn gì khác, đấy chỉ là một thể mà tên gọi khác nhau.
Xét như vậy, A Di Đà Phật chính là tâm ta, tâm ta chính là A Di Đà Phật. Tịnh Độ chính là phương này, phương này chính là Tịnh Độ. Há chẳng phải do mê ngộ nên tự khác nhau, nào có thánh phàm sai biệt! Vậy nên hiện tiền đại chúng, hãy đem A Di Đà Phật nơi tự tánh cùng với cái lưỡi của đại chúng, cùng nhau xoay chuyển rộng khắp căn bản pháp luân. Các nhân giả còn gì vướng mắc nữa chăng? Hiểu thấu chăng?
Sanh diệt vô sanh, sanh chẳng sanh,
Cực Lạc sanh về há cấm ngăn?
Hồng trần muôn trượng nào ai biết:
Búp sen xòe nở rạng trăng thanh.
Sư bạch xong, [Duy Na] khắc dẫn khánh, gõ mõ nhỏ, tụng:
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
Pháp sư và đại chúng ra khỏi tòa vừa đi nhiễu vừa niệm Phật một ngàn tiếng, đến trước bàn linh, dứt tiếng niệm Phật. Nhịp tang, chập chõa, xướng niệm Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
Namo mô| | Quáno Thế| | Âmo | Bồo | TátC | |
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
Mỗi danh hiệu niệm ba lần xong, khắc dẫn khánh, gõ mõ nhỏ, tụng:
7. Phát nguyện – Phổ Hiền thập nguyện vương
Một là lễ kính chư Phật,
Hai là khen ngợi Như Lai,
Ba là rộng tu cúng dường,
Bốn là sám hối nghiệp chướng,
Năm là tùy hỷ công đức,
Sáu là thỉnh chuyển pháp luân,
Bảy là khuyên Phật trụ thế,
Tám là thường học theo Phật,
Chín là hằng thuận chúng sanh,
Mười là hồi hướng khắp cả
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Xướng tiếp:
8. Tán thán Tam Bảo – Tán Phật Bảo
Phật Bảo ngợi khôn cùng,
Thành tựu công phu vô lượng kiếp.
Thân trượng sáu vàng ròng vòi vọi,
Giác đạo tột Tuyết Sơn,
Ngọc hào quang rạng rỡ giữa mày,
Chiếu sáng rực sáu đường tăm tối,
Ba hội Long Hoa nguyện tương phùng,
Diễn nói pháp chân tông.
Ba hội Long Hoa xin gặp gỡ,
Diễn nói pháp chân tông
Xướng xong, niệm Phật trở về đàn, lên tòa, ngồi xuống xong, dứt tiếng niệm Phật, Sư vỗ xích, bạch:
9. Khai Thị
Bản thân ai nấy vốn sẵn Di Đà, trong tâm mỗi người đều là Tịnh Độ. Hiểu thì thời thời thấy Phật, ngộ thì bước bước Tây Phương. Từ trước tới đây đã tạo lập đạo tràng tịnh nghiệp Tam Thời Hệ Niệm, nay Phật sự thời thứ nhất đã viên mãn. Công huân thù thắng như trên, gieo vào trong biển đại nguyện Di Đà, chuyên vì vong linh… cầu sanh Tịnh Độ. Nhưng nghĩ kể từ vô thỉ cho đến đời này, một niệm trái nghịch chân, sáu căn đuổi theo vọng, theo tình tạo nghiệp, buông lung cái Ngã làm quấy. Thân nghiệp thì giết, trộm, tà dâm. Lỗi nơi miệng là nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác. Ý ác thì thường nổi tham – sân, sanh lòng yêu mến si mê sâu xa. Do ba nghiệp này, vọng duyên lôi trói, thường chìm lỉm trong trần lao, chỉ mờ mịt cùng năm tháng. Nghĩ muốn thoát lìa, chỉ có cách nhờ vào sức huân tu sám hối. Mong những tội lỗi nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ngay lập tức nhanh chóng tiêu tan; khiến cho phù trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ngay lập tức thanh tịnh. Lại cầu sanh Cực Lạc, hoàn toàn nhờ vào phát nguyện. Xin nhọc sức pháp chúng, khác miệng cùng âm, kính vì vong linh chí tâm sám hối phát nguyện.
10. Sám hối
Người thuộc ban trên đánh khánh, đại chúng cùng niệm[9]:
Xưa kia trót tạo bao nghiệp ác,
Đều do vô thỉ tham sân si,
Từ thân miệng ý phát sanh ra,
Nay đối trước Phật xin sám hối.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
Xướng xong, sư vỗ xích, bạch[10]:
11. Khai Thị
Trên đây, sám hối phát nguyện đã xong. Vong linh… hãy nên biết: Phàm là giáo pháp Tịnh Độ, ngửa nhờ A Di Đà Phật bốn mươi tám nguyện đại từ đại bi sâu nặng, thâu tóm mười phương hết thảy chúng sanh. Hễ ai đầy đủ tín tâm đều được vãng sanh. Tin là tin có Tây Phương Tịnh Độ, tin có chuyện A Di Đà Phật nhiếp thủ chúng sanh. Tin bọn chúng sanh chúng ta có phần được vãng sanh. Dù nói là Di Đà nhiếp thủ chúng sanh vãng sanh, phải tin đấy chỉ là tùy tâm tự hiện, cảm ứng đạo giao, rốt ráo chẳng phải do từ bên ngoài mà có. Tin như thế mới là chân tín.
Tín nhưng thiếu Hạnh thì tín ấy chẳng thành; Hạnh thì như kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai”. Kinh A Di Đà nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe nói đến A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Người ấy lúc mạng chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ở đằng trước. Người ấy khi mạng chung, tâm không điên đảo, liền được sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Hành như thế thì gọi là Chánh Hạnh.
Hạnh nhưng không Nguyện thì Hạnh chẳng thành. Nguyện thì phải tương ứng với bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, phải tương ứng với từng nguyện một. Đấy là đại nguyện vậy. Tín – Hạnh – Nguyện ba điều, như ba chân của cái đảnh, chẳng thể thiếu một. Nay vong linh nên biết: Một niệm hiện tiền vốn tự viên mãn, thường hằng. Tín – Hạnh – Nguyện: Nguyên là chính mình vốn sẵn đủ. Tánh đức như thế, nay chỉ là quang minh của bổn tánh tỏ lộ mà thôi.
12. Tán Phật:
Bạch xong, cử tán
A Di Đà Phật,
Vô thượng y vương,
Thân vàng vòi vọi phóng hào quang,
Biển khổ thả thuyền từ,
Cõi sen chín phẩm,
Cùng nguyện về Tây Phương
Nam mô Liên Trì Hội Bồ Tát Ma Ha Tát.
Niệm ba lần xong, thời Phật sự thứ nhất viên mãn, đại chúng ra khỏi chỗ ngồi.