NHỮNG LÁ THƯ TỊNH ĐỘ
(Trích đọc những Lá Thư của Đại Sư Ấn Quang)
Thư Gởi Cư Sĩ Lâm Chi Phần Ở Thái Thuận
Diễn Đọc: Tạng Thư Phật Học

 

Thư gởi cư sĩ Lâm Chi Phần ở Thái Thuận

(thư thứ nhất)

Lý Cương[1] là một tác gia thông đạt, ông ta đem kinh Dịch đối chiếu với Hoa Nghiêm để bàn luận, bảo chúng hoàn toàn phù hợp nhau. Ông ta là bậc thiện tri thức không cự tuyệt người đến học, dẫn người vào chỗ thù thắng, mở rộng tầm hiểu biết. Như Mạnh Tử do thấy vua Tề bất nhẫn trước cái chết của một con trâu; suy lòng trắc ẩn ấy, biết vua có thể bảo bọc dân, làm vua thiên hạ, chứ không phải là do yêu thương xuông một con trâu mà hòng làm vua thiên hạ. Đấy là dẫn dụ, chứ không phải là luận khít khao; phàm đọc văn tự của cổ nhân quý ở chỗ lãnh hội được ý. Nếu không chỉ là nhai bã hèm mà thôi!

Ôi! Hoa Nghiêm là pháp tự chứng của Như Lai; tất cả các Độ, các địa vị đều là sự thật, đều có thể biểu thị pháp. Tứ Quả Thanh Văn tuy dự pháp hội, còn như câm điếc, nhân thiên thuộc địa vị phàm phu há thấy biết được ư? Dẫu có thiên long bát bộ [tham dự pháp hội] nhưng đều là những bậc đã đích thân chứng được Pháp Thân, nhằm thượng cầu hạ hóa lợi ích hữu tình, nên đặc biệt hiện thân tám bộ đó thôi, chứ không phải là phàm phu nghiệp báo thật sự vậy! Còn kinh Dịch lập ra những hình tượng hư giả để đoán định cát hung, thuận thiên lý để hướng dẫn tình cảm con người, là thường pháp để trị thế, không phải là đại đạo xuất thế, là nghi tắc, tiêu chuẩn luân thường, chứ không phải là chuẩn mực của Phật đạo. Nhưng với người thông đạt Phật pháp, không pháp gì, chuyện gì chẳng phải là đạo. Nói dọc, nói ngang, nào có dấu vết? Nếu chẳng thể hiểu rõ triệt để tự tâm, cũng bắt chước nói theo như gã thầy thuốc dốt chưa biết chẩn mạch đã bắt chước róc xương. Lông vũ yếu ớt, đậu trên cành còn khó đã toan bay cao, chẳng khiến cho cả mình lẫn người cùng mất mạng là chuyện hiếm lắm!

Nay tôi dùng thí dụ để nói rõ: Kinh Dịch gọi cha mẹ là “nghiêm quân”, cổ nhân cũng gọi ấp lệnh[2] là Quân, há có phải cha mẹ, ấp lệnh bằng vai phải lứa với thánh thiên tử, chẳng có cao – thấp hay chăng? Lại như gọi một bọt nước là biển, nêu một hạt bụi là cõi đất; biết bọt nước và hạt bụi là chút phần của biển và đất thì được, chứ nói bọt nước và biển cùng sâu rộng như biển cả, cùng rộng dầy như cõi đất thì chẳng được. Một tia nắng qua kẽ hở chính là mặt trời chiếu trời, soi đất; mảnh trời nhìn qua ống hẹp cũng là cõi trời không ngằn, không mé; nhưng phải ra khỏi cửa ngắm mặt trời, bỏ ống hẹp để ngửa trông bầu trời. Há có nên nói ngoài kẽ hở không có mặt trời, ngoài ống chẳng có bầu trời hay chăng?

Cổ nhân gọi Nho là Đạo, đa phần nói như thế. Nếu bảo nói như thế là thật, ắt có lẽ thánh thiên tử và ấp lệnh cùng tôn quý như nhau, biển cả, cõi đất cùng bọt nước, hạt bụi sâu rộng, rộng dầy như nhau hay sao? Mặt trời nơi kẽ hở và bầu trời trong ống cùng mặt trời, bầu trời rộng lớn không ngằn mé cùng trọn khắp như nhau hay sao? Ấy là lời luận bàn tệ hại của những kẻ nhà quê vùng Tề Đông[3], chẳng phải là pháp ngôn của bậc minh tâm kiến tánh. Các hạ nên tự trì giới niệm Phật, lấy sự tu trì của Nho gia làm thường pháp, lấy sự tu trì của Phật giáo làm gia hạnh. Bàn sâu vào lý ắt mất mấy năm, muốn học Phật, Tổ, trước hết phải noi theo thánh hiền. Nếu chính mình thực hiện còn có tỳ vết, trái nghịch luân thường thì đáng gọi là tội nhân danh giáo, sao xứng là đệ tử Phật?

Phật giáo tuy là pháp xuất thế, nhưng gặp vua nói đến Nhân, gặp bầy tôi nói Trung, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, do cạn mà vào sâu, học cái thấp thỏi nhưng đạt được điều cao cả. Hãy đọc kỹ An Sĩ Toàn Thư, ắt biết được đại khái. Phàm phu sửa lỗi hướng thiện và tu Tịnh nghiệp chỉ quý nơi chân thành, kỵ nhất hư giả, chẳng được phô trương cái danh hành thiện tu hành bề ngoài, bên trong ôm lòng bất trung, không khoan dung. Cừ Bá Ngọc lúc năm mươi tuổi biết bốn mươi chín năm trước là sai. Có như thế mới mong thành thánh, thành hiền, học Phật, học Tổ là công thần danh giáo, làm con đích thật của Như Lai. Vì thế, chẳng phải do kẻ Tăng, người tục cùng quẫn hay thông đạt mà luận vậy.

Điều Bất Huệ mong mỏi nơi các hạ cũng chính là điều mong mỏi nơi hết thảy những người thân quen, có vậy mới khỏi bõ công một phen đến Phổ Đà triều bái Đại Sĩ, gặp gỡ Bất Huệ, như thế chính là nghe Phật thừa vậy. 

(thư thứ hai)

Phật pháp đến nay suy tàn quá đỗi. Chúng sanh mờ mịt như kẻ mù không ai dẫn đường. Dẫu có một hai thiện tri thức khai thị, nhưng do nghiệp sâu chướng nặng, chánh trí chẳng khai, tuy nghe chánh pháp, chẳng sanh tin tưởng. Dẫu sanh tin tưởng cũng vẫn là phù phiếm, như say, như mộng, trọn chẳng có định kiến. Vừa gặp tà ma, ngoại đạo bèn như nhặng bu theo mùi thối, như thiêu thân đâm đầu vào lửa. Kiến bu, chim tụ, xúm xít muôn ngàn. Vì thế năm đầu niên hiệu Quang Tự (1875), ở Quan Đông[4] có tà phái gọi là Hỗn Nguyên[5], mỗi năm người quy y hơn mười vạn người, đến năm Quang Tự mười một, mười hai, do thói tệ đã bộc lộ, người ta thường ghét thấy. Trong vòng một năm, [kẻ theo tà phái ấy vẫn] còn được mấy vạn.

Gần đây có kẻ xuất gia là con cái ma, toan muốn được đại danh lợi; ba mươi năm trước gã đã cắt xén ngữ lục của cổ nhân hòng lập ngôn, thay đầu đổi mặt, bảo là ngữ lục của chính mình. Nhưng gã ma con ấy một là không thông Tông, hai là chẳng thông Giáo, ba là không học vấn, sợ người khác nói mình không học vấn, làm sao có thể nói được như thế, bèn đặc biệt dùng rất nhiều chữ sai cho giống thật[6], khiến người khác bảo hắn đúng là đại triệt đại ngộ, thuận miệng nói ra, từ ngữ lẫn lý lẽ cao siêu, mầu nhiệm! Chuyện không thích đáng nhất là do gã chưa từng đọc sách, chẳng thông hiểu nghĩa chữ nên bợ nguyên xi Vạn Pháp Quy Tâm Lục, Lục Tổ Đàn Kinh, thi kệ của Hàn Sơn chỉ đổi dăm ba chữ mà thôi. Tất cả câu chữ đều như thế, bèn lưu truyền gần xa, nhưng cũng không quyến dụ được nhiều!

Gần đây, gã lại khoe đắc “diệu pháp” khiến cho thiện nam, tín nữ bắt chước nhau quy y, lại bảo muốn đắc diệu pháp nào ắt sẽ được như thế. Do gã ma con ấy thoạt đầu vờ xưng ngộ đạo, người ta chưa quy phục. Gần đây, hắn bèn dối xưng đắc đạo, nên xa gần tranh nhau theo về, tự nói: “Pháp của ta nói khiến người dễ đắc đạo!” Vì thế cả một vùng như cuồng, cùng nhau sùng phụng. Dối xưng đắc đạo thì phải có sự thật người ta mới chịu tin; vì thế, hắn phóng túng không e dè, thuận miệng nói càn, thường bảo cùng người: “Ta có thể nhập định siêu độ cho vong hồn được sanh lên trời, hoặc sanh về Tịnh Độ! Có thể biết hết thảy người đã mất sanh lên trên trời hoặc sanh trong nhân gian và ba ác đạo. Lại biết người này thượng phẩm vãng sanh Tây Phương, người kia trung phẩm vãng sanh, người nọ sanh vào hạ phẩm”. Do vậy, chẳng những ngu phu, ngu phụ cố nhiên ngả theo chiều gió, ngay cả những bậc sĩ đại phu không thông Phật lý cũng tưởng hắn thật sự đắc đạo, bèn quy y tin thờ.

Chuyện như vậy nay thấy nhiều lắm. Dẫu có người trí chê là cuồng vọng, nhưng vì tà thuyết đó đã ăn sâu vào lòng người nên chẳng ai tin [lời bậc trí giả]. Từ xưa, cao tăng hoặc Phật tái lai hoặc Bồ Tát thị hiện đều giữ phận phàm phu, trọn chẳng nói ta là Phật, ta là Bồ Tát. Vì thế, kinh Lăng Nghiêm nói: “Sau khi ta diệt độ, truyền cho các Bồ Tát và A La Hán ứng thân sanh trong thời Mạt Pháp, hiện đủ mọi hình, độ những kẻ đang luân chuyển, trọn chẳng được tự nói mình thật là Bồ Tát, thật là A La Hán, tiết lộ mật nhân của Phật, dễ dãi nói cùng kẻ chưa học. Chỉ trừ khi mạng chung, ngầm để lại dặn dò”.

Như Trí Giả đại sư thật sự là hóa thân của Phật Thích Ca, đến lúc lâm chung, có người hỏi đến địa vị chứng nhập, bèn đáp: “Nếu ta không lãnh chúng, ắt tịnh sáu căn. Do tổn mình lợi người nên chỉ dự vào Ngũ Phẩm”, tức là vẫn còn thuộc địa vị phàm phu. Ngũ Phẩm chính là địa vị Quán Hạnh trong Viên Giáo, sở ngộ ngang với Phật, đã khuất phục trọn vẹn Ngũ Trụ Phiền Não, nhưng chưa thể đoạn Kiến Hoặc. Ngài Trí Giả lúc lâm chung còn chẳng hiển Bổn, ý muốn cho hàng hậu học dốc chí tu hành tinh ròng, chẳng đến nỗi được chút ít đã cho là đủ, cũng như chẳng lấy phàm lạm thánh vậy! Nay lũ ma kia bịp xằng đắc đạo chính là hoại loạn Phật pháp, là kẻ đại vọng ngữ lầm lạc chúng sanh. Cái tội đại vọng ngữ ấy thậm chí còn nặng gấp trăm ngàn lần tội Ngũ Nghịch, Thập Ác! Thầy đó, trò đó sẽ vĩnh viễn đọa trong địa ngục A Tỳ trải Phật sát vi trần kiếp số [7] luôn chịu cực khổ còn chưa được xuất ly. Sao lại khổ vì danh lợi hư phù một lúc, cam chịu hình phạt thảm khốc bao kiếp? Danh lợi mê hoặc người đến nỗi như thế ấy!

Gã ma con kia bảo pháp hắn đã nói khiến người dễ đắc đạo tức là hiểu cái tâm sanh diệt là thường trụ, tưởng “không làm thiện, không đoạn ác” là bất sanh bất diệt, bác không nhân quả, sụp hầm tà kiến. Đấy chính thực tế của chuyện gã ma con chèo kéo đồ chúng, khiến họ [lầm tưởng] đều đã đắc đạo. Vì thế, có kẻ thường ngày trì trai niệm Phật, vừa thân cận bọn chúng liền không trì trai, không niệm Phật nữa! Kỳ dư, hết thảy những chuyện cải ác hướng thiện, biết nhân hiểu quả, vun đức trồng phước v.v… thảy đều bỏ hết.

Chúng chỉ dạy người ta khán một câu thoại đầu, nhưng thật ra chẳng biết khán như thế nào, thế nào là thoại đầu? Bèn đem những lời đối ứng căn cơ của cổ nhân bảo người khác y văn giải nghĩa, suy lường, dò đoán. Như những câu “con chó không có Phật tánh, cây bách trước sân, que cứt khô, ba cân gai, cái áo vải nặng bảy cân” v.v… thảy đều bóc trần từng chữ để giảng nghĩa, cho là tu tham Thiền, là thấu triệt công án. Vừa mới ngồi yên được một chút và có thể giải nghĩa dựa theo văn tự, bèn ấn chứng: “Người này túc căn sâu dầy, người kia hiện đang tu hành tinh thuần, nên dụng công chưa lâu đã thấu triệt”. Chuyện tham Thiền nói dễ dàng sao? Cổ nhân như ngài Triệu Châu Thẩm thiền sư, xuất gia từ nhỏ, đến lúc ngoài tám mươi vẫn còn hành cước[8]. Vì thế có bài tụng rằng:

Triệu Châu bát thập do hành cước,

Chỉ vị tâm đầu vị tiêu nhiên.

(Triệu Châu tám chục còn hành cước,

Do bởi trong tâm chửa rỗng rang)

Ngài Trường Khánh ngồi rách bảy cái bồ đoàn rồi mới khai ngộ; ngài Dũng Tuyền đến năm bốn mươi vẫn còn nhọc nhằn, Tuyết Phong ba lần lên gặp ngài Đầu Tử, chín lượt lên Động Sơn. Những vị đại tổ sư đại triệt đại ngộ còn khó khăn như thế. Bọn ma con kia vừa mới nghe ma thuyết đều khai ngộ ngay, những vị tổ sư vừa nói ấy có xách giày cho chúng cũng chẳng đáng hay sao?

Phải biết tổ sư ngộ là từ mê đến ngộ, hễ ngộ rồi sẽ ngộ vĩnh viễn, còn cái “ngộ” của bọn ma là do mê bèn lầm, hễ lầm rồi bèn vĩnh viễn lầm. Tuy đồng âm với Ngộ[9], nhưng sự thật trái nghịch với Ngộ. Do bọn ma kia từ lúc mới phát tâm, một là không giới hạnh, hai là không có chánh trí, ba là chẳng biết thoại đầu là phương tiện để đánh động, tham thấu tự tâm, cứ tưởng dựa theo văn nghĩa suy đoán chính là tham [thoại đầu]. “Tham Thiền” kiểu đó thì người thông minh trong thế gian sẽ đều là bậc đại triệt đại ngộ hết.

Như kẻ chẳng biết ma-ni bảo châu thấy mắt cá, quý trọng cất đi, khoe khoang cùng người: “Tôi đã có được châu ấy”. Mọi người cũng chẳng biết thế nào là châu, thế nào là mắt cá, bèn xúm xít tìm cầu, ai nấy đều được châu ấy. Từ đó, phát đại thệ nguyện khiến cho khắp đồng bào nghèo khổ đều được châu ấy. Một mai gặp được khách thương người Hồ[10], muốn đổi châu lấy nhiều vàng. Khách thương người Hồ ném đi, mắng rằng: “Sao lại đem mắt cá làm bẩn mắt ta?” mới biết mình đã phí sạch tâm cơ, chỉ đành hổ thẹn muốn chết mà thôi!

Nhưng thói thường con người buông lung thì dễ, câu thúc thì khó. Dạy trì trai niệm Phật bèn cảm thấy miệng ăn mất ngon, thân tâm thường khổ sở, nhọc nhằn. Gã ma kia bảo chỉ cần giữ cái tâm tốt, cần gì phải ăn chay? Ngươi vốn là Phật, cần gì phải niệm Phật? Do vậy, thật là hợp với cái tánh lười nhác, biếng trễ của mình, chẳng muốn bó buộc, mặc tình phóng túng như tù được lệnh tha, vui mừng khôn xiết! Nếu hỏi đến duyên do, bèn nói:

– Đạt Ma từ trời Tây sang đây, không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật. Ngươi chỉ khán một câu thoại đầu ắt thấy được tánh. Thấy được tánh rồi liền gọi là thành Phật. Đã thành Phật rồi, hết thảy đều không: không nhân, không quả, không tu, không chứng, một pháp chẳng lập, gọi là chân giải thoát. Ai dạy người trì trai niệm Phật, cải ác tu thiện, sợ nhân quả, vun bồi phước đức, đều là chẳng biết trong Tự Tánh không pháp nào chẳng đủ, cũng như không thể lập được một pháp nào. Ngươi chấp trước pháp tướng, chẳng chịu lìa bỏ. Bỏ gốc đuổi theo ngọn, không dây mà tự buộc. Người như thế gọi là Tiểu Thừa. Sao có thể coi là thiện tri thức để thân cận được ư? Phải biết những pháp Như Lai nói về nhân quả, tu chứng v.v… đều là lấy lá vàng giả làm vàng để dỗ trẻ nín khóc; bọn họ lại chấp là thật, vậy là trí bọn họ có khác gì trẻ nít đâu! Nếu là đại trượng phu, Phật còn chẳng thể được, há còn có những pháp nhân quả, tu chứng v.v… Nếu lập một mảy trần, sẽ chẳng phải là Phật pháp. Ông chỉ tự biết mình đã là Phật thì dù cho ăn thịt, uống rượu, trộm cắp, hành dâm, không pháp nào chẳng phải là Phật pháp! Trên thiên đường, dưới địa ngục, áo trời, thức ăn trời, vạc dầu, lò than, có cảnh nào chẳng phải là Phật cảnh? Tự ta chính là Di Đà, ngay nơi đây chính là Cực Lạc; há nên khuấy động cái tâm vọng tưởng nghiệp thức, quang quác cái miệng do cha mẹ sanh ra để cả đời niệm Phật suốt ngày, chịu nhiều oan uổng ư? Cầu đến lúc lâm chung vãng sanh Tây Phương, bỏ mình cầu nơi người, bỏ nhà lang thang, há chẳng phải là tri kiến điên đảo, tu tập lầm loạn hay sao?

Các thứ ma thuyết đại để là như thế. Nay thử luận xem:

– Nếu “chỉ cần tâm tốt cần gì phải trì trai” thì giết thân mạng chúng sanh để sướng cái miệng là hảo tâm hay không hảo tâm? Vả nữa, khi binh kiếp, giặc đến giết người cũng nên coi đó là hảo tâm. Ví như lúc ngươi bị nó giết bèn sẽ cảm ơn hay oán hận vậy? Ngươi vốn là Phật, chẳng chịu niệm đức Phật nào khác, sao lại chịu giết chúng sanh để ăn? Những chúng sanh ấy chẳng phải đều là cha mẹ quá khứ, chư Phật vị lai hay sao? Như vậy, tâm tánh của ngươi vốn đã là Phật, nhưng hành vi của ngươi vốn là chúng sanh, sao chưa đắc bảo là đắc, đem phàm xen lộn thánh, coi niệm đức Phật khác là nhục, coi sát sanh là vinh hiển như vậy?

Đạt Ma từ trời Tây qua, không lập văn tự là vì muốn cho con người chứng ngộ triệt để bản thể, chẳng chú trọng đọc tụng ngôn ngữ xuông. Nếu khế nhập bổn thể thì văn tự chính là bản thể, chính là tướng giải thoát. Suốt ngày đọc tụng, y giáo tu hành, rốt ráo chẳng có được tướng văn tự. Như các bậc đại lão Vĩnh Minh Diên Thọ, Thủ Sơn Niệm, Thê Hiền Thực, Dục Vương Vi v.v… đều suốt đời đọc tụng, há các Ngài đều không biết ý chỉ “chẳng lập văn tự” hay sao? Chỉ do ngươi hiểu lầm ý nghĩa “bất lập” là phế bỏ, bèn nói hết thảy kinh điển Tiểu, Đại Thừa, vô lượng pháp môn do Như Lai đã nói đều là dùng lá vàng giả làm vàng để phỉnh phờ trẻ nhỏ. Nếu như vậy, Ca Diếp, A Nan, Mã Minh, Long Thọ, Vĩnh Minh, Thủ Sơn v.v… đều là những gã chơi với lá vàng. Ngươi đã cho là họ đều sai sao còn truyền thừa pháp của họ, bảo mình là Thiền Tông. Nếu họ đúng thì “Thiền Tông” của nhà ngươi chẳng phải là Thiền Tông của họ! Ngươi chỉ mạo danh họ, là ác tặc phá hoại pháp của họ mà thôi!

Hơn nữa, ngươi chấp trước vứt bỏ văn tự mới là “không lập văn tự” thì Lục Tổ nói: “Chỉ một câu ‘chẳng lập’ ấy đã là văn tự, huống gì còn có tám chữ chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật!” Mười sáu chữ ấy của tổ Đạt Ma từ trời Tây qua là văn tự hay không phải là văn tự? Lại nữa, hết thảy đều không, không nhân, không quả, không tu, không chứng, một pháp chẳng lập gọi là chân giải thoát, thế sao lại lập phá trai, báng Phật? Sao chẳng chịu để cho các pháp nương vào ác, phế thiện, mê muội nhân quả, chiết phước tổn đức v.v… đều không? Thượng trí biết Không càng tăng tấn đức, hạ ngu biết Không bèn bỏ thiện. Ngàn trăm năm trước, Phật, Tổ sớm đã vì ngươi phán định, ngăn ngừa.

Ngươi gièm báng người khác chấp vào thiện pháp là “bỏ gốc theo ngọn, là không dây tự trói, là Tiểu Thừa”, còn ngươi chấp vào ác pháp, chẳng chịu vứt bỏ, đời này sẽ chịu phép nước, chết đi đọa mãi trong A Tỳ, ấy có phải là bỏ ngọn theo gốc, ấy có phải là trói mà không trói, ấy có phải là Đại Thừa hay chăng? Ngươi nói: “Đại trượng phu Phật còn chẳng thể được, huống hồ có nhân quả tu chứng. Nếu lập một mảy trần thì không phải là Phật pháp; cho nên Phật, nhân quả, tu chứng đều là mảy trần, đều chẳng được lập”, nhưng ăn thịt, uống rượu, trộm cắp, hành dâm, há chẳng phải là mảy trần đều lập được hay sao?

Lại hỏi: Cái tâm ăn thịt, uống rượu, trộm cắp, hành dâm là tâm Phật hay tâm chúng sanh? Nếu bảo là tâm Phật, há Phật giữ cái tâm ấy ư? Làm những chuyện ấy ư? Nếu bảo là tâm chúng sanh thì há có còn là vượt ngoài nhân quả, có còn chẳng phải là trần, có còn là Phật pháp nữa hay chăng? Địa ngục vẫn là cảnh Phật, ngay nơi đây chính là Tây Phương thì khổ cũng chẳng chán, vui cũng chẳng cầu, không lấy, không bỏ, quên ghét, quên yêu, sao lại tham cầu danh lợi đời này, hư vọng mong chết đi để lại tiếng tốt? Xén trộm lời cổ nhân, thay đầu đổi mặt, cho là ngữ lục của chính mình, chưa đắc bảo là đắc, chưa chứng bảo đã chứng, đem phàm xen lộn thánh, dối xưng tri thức, dạy nhiều nam nữ thiện tâm đọa hầm tà kiến, chôn mất huệ mạng, từ đây đọa mãi trong ác đạo, muốn thoát ra không có cách nào! Xét đến bổn nhân của gã ma con ấy chẳng qua là muốn được danh lợi hư phù, mong người khác gọi mình là bậc đại thiện tri thức mà thôi. Biết rõ hậu báo thì tình trạng đau đớn thê thảm dẫu hết sạch trúc[11] khó chép hết được nổi, chẳng đáng buồn sao?

Ông đã phát tâm niệm Phật, nên dựa theo những gì đã nói trong kinh luận Tịnh Độ mà tu. Những lời gã ma con nói chỉ là ăn cắp từ lời lẽ của các tổ sư Tông Môn, do bản thân gã hiểu lầm ý nhà Thiền, nên gã nói gì cũng đều dường như là đúng nhưng thật ra là sai, thật sự trái nghịch đạo lý nhà Thiền, thật sự là kẻ oán của Phật pháp. Nếu bị hắn dụ, theo bè đảng hắn sẽ khó tránh khỏi vì hảo tâm mà chuốc lấy quả ác, trọn chẳng thể thân cận gã ma con ấy! Nên khăng khăng giữ lấy quy củ của liệt tổ Tịnh tông đã thành lập, trì trai niệm Phật, cải ác hướng thiện, biết nhân hiểu quả, vun phước trồng đức, để mong đời này tiêu trừ nghiệp chướng, lâm chung chánh niệm vãng sanh mới hòng khỏi uổng một đời này, đích thân làm đệ tử Như Lai! Phải biết một pháp Thiền Tông gọi là “giáo ngoại biệt truyền” (truyền riêng ngoài giáo), phàm những gì đề xướng đều là “ý tại ngôn ngoại”, ngàn lời vạn lẽ đều nhằm chỉ về Pháp Thân Lý Thể chẳng dính dáng gì đến nhân quả, tu chứng, phàm, thánh, chúng sanh, Phật, để con người trước hết ngộ được Thể này, rồi mới bắt đầu tu nhân, chứng quả, siêu phàm nhập thánh, tức là chúng sanh thành Phật đạo về mặt Sự.

***

Thế nhưng những lời ứng với căn cơ gọi là “cơ phong”, hoặc gọi là “chuyển ngữ” ấy đều là muốn cho người ta tham thấu tự hiểu, nên không có nghĩa lý gì. Nếu hiểu được thì là may mắn lớn. Nếu không hiểu thì lấy câu nói ấy làm bổn mạng nguyên thần, quên ăn bỏ ngủ, suốt ngày thâu đêm như một người chống lại vạn người, chẳng dám có chút gián đoạn, phóng túng. Một năm chẳng ngộ bèn tham hai năm, mười năm chẳng ngộ bèn tham hai mươi năm. Một đời chẳng ngộ bèn đời đời tham. Nếu quả thật dốc trọn thâm tâm này mà tham cứu câu ấy, quyết chẳng có lẽ nào không ngộ! Ngộ rồi, bèn gọi là “ngộ đạo”, vẫn phải trải qua các cảnh duyên để rèn giũa tập khí, ngõ hầu phiền hoặc hết sạch mới gọi là chứng đạo. Gã ma con kia tưởng lầm là ngộ, ngộ của hắn xét về toàn thể là ngộ nhận, nói chi đến chứng, nhưng chẳng biết hổ thẹn, chẳng sợ nhân quả, đến nỗi vô lượng nam nữ hảo tâm bị gã dụ dỗ cùng đoạn thiện căn. Ông dốc lòng tin vào lời này sẽ chẳng bị gã đó hãm hại. Hãy nhớ lấy, nhớ lấy!

[1] Lý Cương, tự Bá Kỷ, người xứ Thiệu Vũ, ra làm quan dưới thời Tống Huy Tông. Trong thời Tĩnh Khang, ông thuộc phe chủ chiến nên bị giáng chức. Khi Cao Tông nối ngôi, ông được triệu ra làm tể tướng. Lý Cương rất tin Phật pháp, đặc biệt hâm mộ kinh Hoa Nghiêm. Ông mất năm Thiệu Hưng thứ 10 (1126), thọ 58 tuổi. Trong cuốn Dịch Dữ Hoa Nghiêm Đối Luận (So sánh kinh Dịch và kinh Hoa Nghiêm), ông viết: “Dịch lập ra hình tượng để diễn đạt ý, kinh Hoa Nghiêm mượn sự để biểu thị pháp. Lý vốn không hai. Thế gian và xuất thế gian cũng không hai đạo. Vì sao vậy? Thiên địa vạn vật, hữu tình không gì chẳng nhiếp!”

[2] Ấp lệnh: người đứng đầu một ấp.

[3] Nguyên văn “Tề Đông dã nhân chi bỉ luận”. Tề Đông Dã Nhân là một thành ngữ, hàm nghĩa những lời đồn đãi không có bằng chứng, toàn là ngoa truyền. Tương truyền, người vùng Tề Đông thường nói những lời không đúng sự thật, thích đồn thổi.

[4] Quan Đông: vùng đất ở phía Đông ngoài Sơn Hải Quan, nay thuộc vùng Đông Tam Tỉnh, tức đất Mãn Châu khi xưa.

[5] Hỗn Nguyên Môn là một thứ tà giáo thời Minh Thanh, vốn là một chi phái của Bạch Liên Giáo. Giáo phái này còn có tên là Hồng Dương Giáo, Nguyên Thuần Giáo, do Hàn Thái Hồ ở Khúc Châu, tỉnh Trực Lệ sáng lập. Giáo này phát triển rầm rộ tại vùng Đông Bắc Trung Hoa. Hàn Thái Hồ sanh năm Long Khánh thứ 4 (1570). Năm Vạn Lịch 16 (1588), ông ta đến núi Thái Hổ ở Lâm Thành thuộc tỉnh Trực Lệ tu hành. Sau ba năm tự xưng đắc đạo sáng lập Hồng Dương Giáo, tôn giáo tổ La Thanh của Vô Vi Giáo làm tổ sư, tự xưng mình chính là hậu thân của La Thanh, mô phỏng bộ La Tổ Ngũ Bộ Kinh để soạn ra Hồng Dương Thán Thế Chân Kinh, tạo thành Ngũ Đại Bộ Kinh của giáo phái mình. Rồi trộm lấy những thần chú, Phật hiệu nhà Phật, sửa chữa, cắt xén tạo thành bộ Tỏa Thích Hỗn Nguyên Vô Thượng Đại Đạo Huyền Diệu Chân Kinh gồm 5 bộ khác nhau, gọi là Tiểu Ngũ Bộ. Năm Vạn Lịch 23, ông ta đến Bắc Kinh truyền giáo. Lúc ấy, triều đình nhà Minh rất sùng bái thuật đồng cốt, họ Hàn bèn kết giao với tổng thái giám. Do vậy, được triều đình phong tặng danh hiệu Hộ Pháp, phong thưởng tước vị. Năm Vạn Lịch 26 (1598), Hàn Thái Hồ chết, chỉ mới 29 tuổi. Giáo đồ nhân đó thêu dệt rất nhiều chuyện để thần bí hóa họ Hàn. Vị thần được giáo phái này tôn sùng nhất là Hỗn Nguyên Lão Tổ (còn gọi là Vô Sanh Lão Mẫu), tất cả các kinh sách của đạo này đều bắt đầu bằng Hỗn Nguyên, Hồng Dương hay Hoằng Dương. Giáo nghĩa chủ yếu của họ là thế giới sắp tận thế, ai tu theo Hồng Dương Giáo sẽ được cứu độ. Vào những ngày đản sanh của Phật, Quán Âm, Địa Tạng, và sáng tồ của đạo hoặc các dịp ma chay, giáo đồ tụ tập cử hành tế lễ, tuyên niệm những bài kinh Hoằng Dương Khổ Công Ngộ Đạo Kinh, Hỗn Nguyên Hồng Dương Lâm Phàm Phiêu Cao Kinh, Hộ Quốc Hựu Dân Phục Ma Bảo Quyển, Thái Sơn Đông Nhạc Thập Vương Bảo Quyển v.v… Các hình thức trị bệnh bằng bùa chú, ban thánh thủy, thánh dược cũng rất thạnh hành. Trong thời vua Gia Khánh, giáo phái này giao tranh khốc liệt với Thiên Lý Giáo nên bị nhà Thanh đàn áp, nên suy yếu dần. Hỗn Nguyên Môn mạnh mẽ trở lại vào thời Quang Tự rồi lại bị suy yếu. Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc liệt giáo phái này vào danh sách những tà giáo. Đến nay, ở Trung Hoa Đại Lục vẫn còn một hai nhóm theo giáo phái này.

[6] Ý nói: Cố ý dùng những chữ không đúng chỗ, không thích hợp để làm ra vẻ như đang thuận miệng giảng nói, chứ không phải là do biên soạn ra nên từ ngữ không được trau chuốt, gãy gọn.

[7] Phật sát vi trần kiếp số: Tức số lượng nhiều như số tất cả hạt vi trần trong một cõi Phật.

[8] Hành cước: Thiền khách đi tham học khắp với các bậc tôn túc đã chứng ngộ trong tùng lâm thiên hạ.

[9] Ngộ 悟 (bộ Tâm) là giác ngộ, còn Ngộ 誤 (bộ Ngôn) là lầm lẫn, mê lầm. Ngộ của bọn ma chính là Ngộ (lầm lẫn).

[10] Nguyên văn “Cổ Hồ” là những lái buôn người Hồ. Xưa những người từ Tây Vực, Tân Cương thường vào Trung Hoa buôn bán, người Trung Hoa nhất loạt gọi họ là người Hồ.

[11] Thời cổ dùng thẻ tre làm giấy ghi chép, nên thường có thành ngữ “khánh trúc nan thư kỳ tội” (hết sạch trúc khó chép hết nổi tội)