THIÊN TRÚC TIỂU DU KÝ
Thiện Phúc
Hình nối kết từ trang TVHS
Núi Linh Thứu
Núi Linh Thứu là một trong những ngọn núi cao bao bọc chung quanh thành Vương Xá. Linh Thứu là nơi Đức Phật đã thuyết giảng nhiều bộ kinh quan trọng trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong truyền thuyết Phật giáo, như kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kinh Đại Bát Nhã… Trước khi tới đỉnh Linh Thứu, sư Minh Thành hướng dẫn đoàn tới thăm hang đá làm hương thất của ngài A Nan và Xá Lợi Phất. Ngay sau khi qua cầu Linh Sơn, bên phải có một động đá nhỏ. Chính nơi này ngài A Nan đã thường ngồi tu tập thiền định, và phía sau động hãy còn một đường nứt lớn chạy dài từ hương thất của Đức Phật, theo truyền thuyết thì đó chính là chỗ Đức Phật đã dùng thần lực đưa tay từ phòng mình xuống đặt trên đầu ngài A Nan để trấn an ngài. Đi theo một đỗi nữa là động của ngài Xá Lợi Phất. Hang này có một mỏm đá nhô ra như hình của đầu một con rắn, chính nơi đây ngài Xá Lợi Phất thường trú ngụ để thiền định và quản chúng. Từ động của ngài Xá Lợi Phất đi theo con đường ngoằn ngoèo với những nấc thang, tới một mỏm đá hình con chim mỏ nhọn, mặt ngước lên. Có lẽ vì hình dạng này mà núi có tên là “Linh Thứu.”
(Phế tích nền hương thất của Đức Phật trên đỉnh núi Linh Thứu)
(Hòa Thượng Thích Giác Nhiên đang hướng dẫn đoàn tụng kinh
cầu an tại hương thất của Đức Phật trên đỉnh Linh Thứu)
Đi lên tới đỉnh là hương thất của Đức Phật. Hiện tại hương thất của Đức Phật chỉ còn trơ lại một nền gạch, chứ không còn tôn tượng hay bệ thờ gì cả. Gọi là hương thất vì chính nơi đây hương thơm trí tuệ của Đức Thế Tôn đã tỏa ra ngào ngạt bay đi cùng nơi khắp chốn. Hương thất này được xây trên một tảng đá lớn trên đỉnh núi. Về phía Đông Bắc của hương thất là một dòng suối, ngày nay không còn nước nữa, nhưng theo truyền thuyết Phật giáo thì đây là một con suối có nước trong và mát, thời đó vào mùa hạ Đức Phật thường hay tắm giặt tại con suối này. Từ trên đỉnh này chúng ta có thể nhìn thấy bên dưới thành Vương Xá cũng như những ruộng lúa đại mạch quanh vùng. Hòa Thượng Pháp Chủ đã nhắn nhủ Phật tử trong nỗi xúc động mãnh liệt: “Trên 25 thế kỷ về trước, Đức Phật đã từng đến đỉnh núi này để thuyết những bài pháp quan trọng như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm và Niết Bàn đã làm thay đổi cả vũ trụ nhân sinh.” Sau đó Hòa Thượng hướng dẫn đoàn tụng một thời kinh cầu an. Tại đây ngài Pháp Hiển cũng ghi lại trong Tây Vực Ký rằng khi ngài lên đến đỉnh Linh Thứu, ngài cảm thấy vô cùng đau xót vì tủi cho thân phận mình không gặp mặt Đức Thế Tôn, nhớ đến ân đức của Đức Phật nên ngài đã tụng một thời kinh Lăng Nghiêm, trong khi ngài Huyền Trang đến đây đã tụng hết một bộ kinh Pháp Hoa. Còn đoàn chúng tôi chỉ tụng được có một thời kinh cầu an và hòa bình thế giới. Đúng là sanh ra vào thời mạt pháp, phước mỏng, nghiệp nặng nên không có đủ duyên đủ phước như những bậc thầy đi trước.
Theo truyền thống Phật giáo thì cũng chính tại nơi đây trong một pháp hội, ngài Ca Diếp đã nhận sự truyền thừa từ Đức Phật. Theo truyền thuyết Phật giáo thì trong chúng hội này, Đức Phật đã không thuyết một lời nào mà chỉ đưa lên một cành hoa. Cả chúng hội đều ngơ ngác nhìn nhau, duy chỉ có Ngài Ca Diếp nhìn Phật mỉm cười. Cái cười của một người đại đệ tử giác ngộ. Từ đó ngài Đại Ca Diếp được Phật trao truyền nối tiếp dòng truyền thừa Chánh Pháp. Chúng ta sanh ra vào thời không có Phật, nên chỉ biết đến đây thành kính đảnh lễ các thánh tích một thời đã ghi lại dấu vết của Ngài.”Bên này đỉnh Linh Thứu chúng ta có thể nhìn thấy tháp Hòa Bình bên kia, cũng như toàn cảnh của thành Vương Xá bên dưới. Sau đó vào buổi trưa, đoàn xuống núi để tiếp tục thăm viếng Trúc Lâm Tịnh Xá. Gần tới chân núi Linh Thứu, sư Minh Thành chỉ cho đoàn tảng đá Mardukushi, mà theo truyền thuyết Phật giáo, thì chính Đề Bà Đạt Đa đã lăn nó từ trên núi cao xuống để hãm hại Đức Phật.
Trên đường đi đến núi Linh Thứu, phía bên trái hãy còn lại phế tích của những bức tường. Theo truyền thuyết thì đây là khu vườn xoài của một danh y thời Đức Phật, tên Kỳ Bà, đã từng là ngự y của vua Tần Bà Sa La và A Xà Thế. Ông đã theo gương vua Tần Bà Sa La, cúng khu vườn xoài của mình cho Đức Phật, và Đức Phật cũng đã nhiều lần ghé lại nơi này.
Tưởng cũng nên nhắc lại một chút về vua Tần Bà Sa La. Tần Ba Sa La là một vị quân vương Phật tử rất ngoan đạo, ngài đã thường xuyên viếng thăm, đảnh lễ và cúng dường phẩm vật lên Đức Phật và Tăng đoàn. Ngoài ra, nhà vua cũng trì giữ bát quan trai giới rất nghiêm nhặt. Việc vua Tần Bà Sa La quy-y Phật đã khiến cho rất nhiều người trong hoàng tộc thời đó quyết định quy-y theo. Người gần gũi ông nhất là hoàng hậu Vi Đề Hy, em ruột vua Ba Tư Nặc, cũng quy-y với Phật. Mặc dù ở ngai vị hoàng đế của một nước lớn, lúc nào vua Tần Bà Sa La cũng kính ngưỡng Đức Phật không sai khác. Mỗi lần lên núi Linh Thứu thăm Phật, khi lên gần đến hương thất của Đức Phật, nhà vua ra lệnh cho đoàn tùy tùng dừng lại, chỉ một mình mình đích thân lên đảnh lễ Phật. Để tiện việc đi lại cho Đức Phật trên núi Linh Thứu, nhà vua đã cho làm một con đường từ dưới chân lên đến đỉnh Linh Thứu. Con đường này ngày nay hãy còn và đã được người Nhật tu sữa lại rất thuận tiện. Con đường nguyên thủy rộng chứng 1.5 mét, toàn bộ chiều dài khoảng 1.5 cây số. Bên dưới chân núi có một tảng đá mà theo truyền thuyết chính là nơi Đề Bà Đạt Đa đã lăn đá hại Phật. Lưng chừng triền núi có một tấm bảng ghi lại sự kiện vua Tần Bà Sa La xuống kiệu, đi bộ lên đỉnh đảnh lễ Đức Phật. Tấm bảng thứ hai đánh dấu chỗ vua Tần Bà Sa La bỏ lại đoàn tùy tùng, một mình vào đảnh lễ Đức Phật. Tuy nhiên, vì nghiệp báo tiền khiên mà về sau này nhà vua bị chính đông cung thái tử A Xà Thế hạ ngục cho đến chết. Về sau này, khi Đức Phật đã nhập diệt, thì chính A Xà Thế cũng quay về với đạo Phật và trở thành một quân vương Phật tử tích cực yểm trợ cho 500 vị A La Hán trong lần kết tập kinh điển lần đầu tiên trong động Thất Diệp, tại thành Vương Xá.
Những Hình Ảnh Khác Tại Núi Kỳ Xà Quật-Linh Thứu Sơn
(Đường lên Tháp Hòa Bình trên núi Kỳ Xà Quật)
(Cable lên núi Kỳ Xà Quật-Linh Thứu)
(Từ trên cable nhìn xuống dưới khu thung lũng Kỳ Xà Quật)
(HT hướng dẫn đoàn đi nhiễu tháp Hòa Bình)
(Đoàn chuẩn bị tụng kinh cầu an-tháp Hòa Bình-Kỳ Xà Quật)
(Từ bên đỉnh Kỳ Xà Quật ngó qua núi Linh Thứu)
(HT Thích Giác Nhiên và Thiện Tâm đang đi qua Linh Thứu)
(Thiền thất của ngài Xá Lợi Phất-Linh Thứu)
(
(Thiền thất của ngài A Nan-Linh Thứu Sơn)
(Nền nhà tưởng niệm Ngài Huyền Trang trên núi Linh Thứu)
(Bảng ghi chỗ Đề Bà Đạt Đa lăn đá hại Phật-Linh Thứu)
Trúc Lâm Tịnh Xá
(Cổng Tịnh Xá Trúc Lâm-Thành Vương Xá)
(Quang cảnh bên trong khu phế tích của Trúc Lâm Tịnh Xá năm 2005)
Phế Tích Na Lan Đà
(Phế tích trường Đại Học Na-Lan-Đà -Ruins of Nalanda University )
(Chánh Điện trong Tu Viện Nalanda—Main Temple)
(Bia tưởng niệm trong khu phế tích Na Lan Đà)
Ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Từ thành Vương Xá đi về phía Bắc độ 30 lý là Tăng già lam Na Lan Đà. Theo truyền thuyết thì về phía Nam của tu viện này là một cái hồ nước. Nơi đó có một con rồng tên Na Lan Đà. Người ta đã xây một ngôi chùa bên bờ hồ và lấy tên con rồng đặt cho tên của tự viện. Nhưng thật ra thời Đức Như Lai còn là một vị Bồ Tát, Ngài đã từng làm vua trong một quốc gia lớn, thủ đô của quốc gia ấy là Na Lan Đà. Chỗ này ngày xưa là một vườn xoài, mà 500 vị thương gia đã mua đến mười triệu tiền vàng để cúng lên Bồ Tát. Sau khi Bồ Tát nhập diệt, một vị vua thời xa xưa của nơi này tên là Sakraditya đã cho xây dựng một ngôi già lam. Tuy nhiên, sau khi khởi công, ông đã vô tình làm bị thương một con rắn chúa. Lúc đó một nhà tiên tri Ni Kiền tử đã tiên đoán rằng 1.000 năm sau đó, nơi này sẽ là một địa điểm phát triển cùng cực. Những hàng Tăng sinh tại đây sẽ thành đạt vẻ vang, tuy nhiên, vì lời thề của con rắn chúa mà máu của nhiều người sẽ đổ ra tại đây.” Theo ký sự của Ngài Huyền Trang thì Na Lan Đà đã có tầm quan trọng ngay từ trước và ngay sau thời Đức Phật. Tuy nhiên, sau khi Vương Xá không còn là thủ đô của xứ Ma Kiệt Đà nữa thì Na Lan Đà đã từ từ đi vào quên lãng. Rồi đến thế kỷ thứ 12 thì lời tiên tri ấy đã xảy ra y như những gì đã xảy ra cho tu viện Na Lan Đà về sau này. Theo truyền thuyết Phật giáo thì vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, khi chưa có ngôi trường đại học Na Lan Đà, vua A Dục đã về đây và cho xây dựng một ngôi chùa và ngôi đền thờ ngài Xá Lợi Phất. Nhưng cho đến ngày nay, chưa có chứng tích nào xác nhận tu viện Na Lan Đà có trước thời đại Gupta, tức là vào thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch. Nhưng trở về lịch sử Phật giáo thì ngài Long Thọ có liên hệ tới tu viện Na Lan Đà lại sanh ra vào thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch, như vậy có lẽ vào thời của ngài Long Thọ, Na Lan Đà đã có nhưng chưa được xây dựng và phát triển một cách quy mô như về sau thế kỷ thứ 5. Lúc ngài Huyền Trang đến Na Lan Đà thì ngài Giới Hiền đang làm viện trưởng. Khi đó thì Na Lan Đà đã là một viện đại học lớn vào bậc nhất Ấn Độ thời đó. Vào thời Gupta, khoảng thế kỷ thứ 5 thì trọng tâm của Na Lan Đà là giáo lý Trung Quán của ngài Long Thọ, nhưng đến thế kỷ thứ 8 thì Na Lan Đà lại chú trọng về Mật giáo nhiều hơn vì vị viện trường thời đó là ngài Abhayakaragupta, cũng là viện trưởng của chùa Vikramashila. Đến thế kỷ thứ 11, Naropa, sơ tổ của trường phái Karmapa bên Tây Tạng cũng là viện trưởng tu viện Na Lan Đà. Nói tóm lại, trước thế kỷ thứ 12, Na Lan Đà gắn liền với sự hưng thịnh của Phật giáo, nên đến thế kỷ thứ 13, sự triệt tiêu Na Lan Đà của đạo quân Hồi giáo đã đồng thời đưa đến sự biến mất của Phật giáo trên xứ sở này, mà người cầm đầu cuộc tàn sát này chính là vị vua Hồi giáo ở vùng Trung Đông tên Mohammed Bakhtiyar Khilzi. Ngày nay, tuy đã hoang tàn đổ nát, nhưng phế tích Na Lan Đà trông thật bi tráng và hùng vĩ, vì nơi đây còn lưu lại nhiều nhất những nền tháp hay những nền gạch vụn trong một khu đất trên 14 mẫu tây này. Ôi! Còn đâu nữa thời hoàng kim của Phật giáo ngay trên cái nôi đã sản sanh ra nó! Hiện nay người ta xây dựng một vòng rào chắc chắn để bảo vệ cho khu phế tích quan trọng này. Bước vào bên trong, ngay giữa đường là một tấm bảng lớn, ghi rõ khu khảo cổ Na Lan Đà. Một con đường rải đá rất tươm tất, hai bên trồng những hàng cây xanh mát. Bên trong là những nền phế tháp, dù nay chỉ còn là một đống gạch vụn, nhưng vẫn còn phảng phất nét uy nghi đồ xộ một thời. Nền gạch của ngôi phế tháp cao nhất còn lại tại đây cao khoảng 20 mét.
Sau khi thăm viếng phế tích Na Lan Đà, một số anh em trong đoàn chúng tôi vội vã đi ra cổng và ghé tạt qua thăm trường Đại Học Na Lan Đà mới, được xây dựng vào năm 1948, cách khu phế tích Na Lan Đà không xa lắm. Trường Đại Học Na Lan Đà phân cách với khu phế tích Na Lan Đà bởi hồ sen Indra. Kỳ thật đây chỉ là một viện nghiên cứu ngữ học Pali và Phật học cho các sinh viên từ khắp nơi trên thế giới. Tuy trường không có quy mô lớn như tu viện Na Lan Đà cũ, ngược lại nó chỉ được dựng lên cho có hình thức và mang tên cũ của tu viện Na Lan Đà mà thôi, nhưng chính nơi đây đã đào tạo ra một số danh Tăng Việt Nam thời cận đại như các ngài Minh Châu, Huyền Vi, Thiện Châu, vân vân.
Những Hình Ảnh Khác Tại Khu Tu Viện Na Lan Đà
(Đường vào khu phế tích Na Lan Đà)
(Bên trong khuôn viên phế tích Na Lan Đà)
(Ngôi tháp lớn trong phế tích Na Lan Đà)
(Khu tháp bị tàn phá trong Na Lan Đà)
(Những nền tháp trong khu Na Lan Đà)
(Khu Tịnh Xá Na Lan Đà)
(Phế tháp lớn còn lại trong khu Na Lan Đà)
Nhà Tưởng Niệm Ngài Huyền Trang
Trên đường trở về Bồ Đề Đạo Tràng, đoàn ghé lại thăm Nhà tưởng niệm Ngài Huyền Trang (Hsuan-Tsang’s Memorial House). Cách khu Na Lan Đà cũ khoảng một cây số, người Trung Hoa đã cho xây lên một ngôi đền để tưởng niệm ngài Huyền Trang, với một đại sảnh có kiến trúc theo kiểu Trung Hoa. Tuy nhiên, vì không ai chăm sóc, nên nơi đây cũng trở nên điêu tàn hoang vắng.
Nhà Ngục Giam Vua Bình Sa Vương
(Phế tích ngục giam vua Bình Sa Vương)
(Nền ngục nơi A Xà Thế giam vua cha Bình Sa Vương trong
thành Vương Xá—Bimbisara’s Jail in Rajgir)
(Từ ngục giam vua Bimbisara ngó qua núi Linh Thứu)
Bên trên suối nước nóng là động Thất Diệp (Pippala), nằm về phía Tây Nam của Trúc Lâm Tịnh Xá, trên đỉnh Baibhara có một động đá, đó là động Thất Diệp. Có một hành lang nhân tạo và một bức tường được xây bằng những tảng đá chồng lên nhau, nhưng không có chất dính ô dước hay hồ. Theo lịch sử Phật giáo của cả hai trường phái Đại Thừa và Nguyên Thủy, thì động Thất Diệp chính là nơi ngài Ca Diếp triệu tập 500 vị A La Hán tới trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế. Về sau vua A Dục cho xây tháp và trụ đá để đánh dấu nơi này.
Gần bên động Thất Diệp là nền nhà cũ của ngài Đại Ca Diếp, nơi Đức Phật thường ghé lại thăm ngài. Tuy nhiên, vì thời gian quá eo hẹp nên đoàn chúng tôi không thể ghé lại thăm suối nước này và những nơi khác được.
Ao Rắn Tại Bồ Đề Đạo Tràng
Tờ mờ sáng ngày 3 tháng 12 năm 2005, Hòa Thượng hướng dẫn đoàn đi thăm Ao Rắn. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khi Đức Phật ngồi thiền tại Bồ Đề Đạo Tràng đến cuối tuần lễ thứ năm, bỗng trời nổi cơn mưa thật lớn và thật lâu, ngay lúc ấy có một con rắn lớn từ trong rừng đến nơi, phùng mang ra che mưa cho Ngài. Hiện nay dưới Ao Rắn người ta nuôi thật nhiều cá và nước trong ao có mùi thật khó chịu. Quanh Bồ Đề Đạo Tràng hãy còn nhiều di tích khác, tuy nhiên, trung tâm điểm tại đây vẫn là ngôi Đại Bảo Tháp với hàng ngàn Phật tử từ khắp nơi đến chiêm bái và tu tập mỗi ngày. Đa phần người ta lễ bái theo kiểu “ngũ thể đầu địa,” nghĩa là năm phần của thân thể là đầu, hai cùi chỏ và hai đầu gối đều chạm đất khi lễ lạy. Riêng những người Tây Tạng thì họ lạy theo kiểu nằm dài sát đất. Ngày nay những hình tượng Phật và Bồ Tát quanh Đại Tháp đều có những đường nét theo kiểu Tây Tạng vì chúng được trùng tu sau này bởi những người Tây Tạng đến tỵ nạn sau khi Trung Quốc xâm chiếm đất nước này vào năm 1959. Trong các tượng thì tượng Quan Âm Như Ý, nằm bên phải Đại Tháp, là được nhiều người chiêm bái và lễ lạy nhất.
Ngôi Làng Phật Giáo còn Sót Lại Tại Bồ Đề Đạo Tràng
Sau đó, Hòa Thượng và chư Tăng Ni sinh hướng dẫn đoàn chúng tôi đi thăm viếng và ủy lạo cho một ngôi làng Phật giáo gần khu chùa Việt Nam. Thật là hy hữu, trong một xứ toàn là Ấn giáo lại còn sót lại một ngôi làng Phật giáo. Tại đây chúng tôi được dân làng tiếp đón rất trọng thể. Được biết đã có nhiều đoàn hành hương trước đây ghé lại viếng thăm và ủy lạo cho ngôi làng Phật giáo này.
(HT thăm viếng ngôi làng PG-Bodhgaya)
(Quang cảnh đoàn đang viếng thăm một ngôi làng
Phật giáo gần Bồ Đề Đạo Tràng)
(3/12/05 HT chứng minh lễ quy-y-Bodhgaya)
(Phật tử mới quy-y tại Bodhgaya 3/12/05)
(Làng Phật giáo nghèo nàn gần Bodhgaya)
(Những nhà tương đối khá giả trong làng PG gần Bodhgaya)
(Đường vào làng chỉ là đồng khô cỏ cháy mà thôi)
(Đời sống dưới rặng Tuyết Sơn của những người thuộc giai cấp
Thủ đà la tại Ấn Độ)
(Sự khác biệt giữa bốn giai cấp tại Ấn Độ là như thế ấy
Thủ đà la sống trong những khu nhà đất tồi tàn bên cạnh
những khu nhà sang trọng của giai cấp Kshatriya)
(Miền quê Ấn Độ hãy còn rất nhiều khu phế tích
đang khai quật bên cạnh nhà dân )
(Thăm làng Phật giáo gần Bồ Đề Đạo Tràng)
(Khu vực phụ cận Bodhgaya)
Viện Bảo Tàng Bodhgaya-Bodhgaya Museum
Trưa ngày 3 tháng 12 năm 2005, chúng tôi tự do thăm viếng khu lân cận của Bồ Đề Đạo Tràng. Một số anh em trong đoàn như anh chị Thiện Tài và Thiện Minh ở Canada thì viếng thăm 7 nơi mà Đức Phật đã trải qua trong bảy tuần lễ sau khi Ngài giác ngộ, còn tôi và một số anh em khác quyết định viếng thăm Viện Bảo Tàng Bồ Đề Đạo Tràng. Từ ngoài đường đi vào Đại Tháp, Viện Bảo Tàng nằm bên tay phải cùng một bên với ngôi chùa Thái Lan và ở về phía Tây Đại Tháp khoảng non 1 cây số. Tại đây có rất nhiều tượng Phật cổ đại cũng như rất nhiều loại pháp khí khác do các nhà khảo cổ khai quật từ những thế kỷ 17, 18, 19, và 20 quanh khu vực Bồ Đề Đạo Tràng. Nhìn những tượng mất đầu hay mất tay, mất chưn làm tôi liên tưởng đến chuyến viếng thăm đảo Pulau Bidong thuộc Mã Lai Á vào tháng 3 năm 2005, tại chùa Từ Bi trên đảo này, tượng Phật lớn nhỏ, trong ngoài đều bị chặt đứt đầu. Người hướng dẫn trong viện Bảo Tàng tại đây cho biết đa số những tượng Phật và Bồ Tát khai quật được trong vùng đều bị mất đầu hay mất tay chân, vì đó là vết tích của những cuộc chiến xâm lược và tàn phá của đạo quân Hồi Giáo vào những thế kỷ thứ 11, 12, và 13. Đa số niên đại nghệ thuật chạm trổ và điêu khắc trên các tượng này đều vào khoảng đầu Tây Lịch.
Viếng Bồ Đề Đạo Tràng Lần Sau Cùng
Sau khi viếng Làng Phật Giáo trở về, đoàn được tự do tu tập hoặc đi mua sắm quà lưu niệm tùy ý. Ngày hôm đó, chúng tôi rảo quanh khắp các sạp lớn nhỏ quanh vùng Bodhgaya, người mua chuỗi, kẻ mua tượng Phật hay các Phật cụ khác làm quà kỷ niệm cho người thân. Đêm hôm đó là đêm cuối cùng chúng tôi lưu lại Bodhgaya mà không thể ở lại trong Tháp vì sáng sớm ngày mai lúc 4:30 giờ sáng chúng tôi phải rời Bodhgaya để đi Tỳ Xá Ly. Một cảm giác lưu luyến lạ lùng khó tả lâng lâng trong mỗi chúng tôi. Chúng tôi qua tháp, rồi trở về khách sạn, rồi lại trở qua tháp… Chúng tôi cứ đi đi về về như vậy cho đến khi Đại Tháp đóng cửa mà một số anh em chúng tôi vẫn còn lưu luyến đứng bên ngoài nhìn vào những ánh đèn lung linh bên trong tháp với những lời kinh tiếng kệ trầm bổng làm cho lòng chúng tôi như se thắt một nỗi niềm khó tả.