Thiền Sư và Tiên Ông
Thiện Quả Đào Văn Bình
Thời tiết đã vào giữa mùa xuân. Sau khi lễ lạc, hội xuân, thăm viếng chùa của thập phương đã vãn, sư trụ trì Chùa Chùa Bổ Đà và tăng chúng mới có những giờ phút thảnh thơi.
Chùa Bổ Đà hay Bổ Đà Sơn Quán Âm Sơn Tự tọa lạc dưới chân núi Phượng Hoàng, là một trong những ngôi chùa cổ nhất tại Phủ Lạng Thương tức Bắc Giang ngày nay. Chùa xây dựng từ thời nhà Lý, được trùng tu dưới triều vua Lê Dụ Tông, tức hơn ngàn năm, còn tồn tại tới ngày nay.
Trong lúc sư trụ trì đang ngồi thung dung bên tách trà, tra cứu kinh điển thì tri khách vào bẩm báo có một thí chủ già lắm muốn diện kiến trụ trì. Là một thiền sư tu theo thiền phái Lâm Tế nhưng sư rất bình dị, không bỏ lỡ cơ hội nào để tiếp khách, nhân đó tìm hiểu cuộc sống của Phật tử mà giảng pháp độ sanh cho nên ra hiệu cho mời khách vào.
Khi khách bước vào, sư không khỏi ngạc nhiên khi thấy người đứng trước mặt là một vị dường như từ cõi khác hiện về. Nghi biểu và cách ăn mặc của khách giống như một vị tiên trăm năm với mái tóc bạc phơ, ba chòm râu uy nghi mà thanh thoát. Sư mau mắn mời khách ngồi rồi cẩn thận rót một chung trà. Khi khách đã an tọa, sư lên tiếng:
-Ngài dường như không phải là cư dân của vùng này. Xin mạn phép hỏi danh tính và cơ duyên gì khiến ngài lại tới thăm ngôi chùa đơn sơ như thế này?
Khách vuốt chòm râu bạc, nhấp một ngụm trà rồi nói:
-Cơ duyên dẫn tôi tới đây là một chuyện thật ly kỳ. Tôi đến đây không phải để vãn cảnh chùa mà để xin thầy giúp cho về một khúc mắc mà tôi không sao giải quyết được. Liệu thầy có sẵn lòng từ bi để nghe một câu chuyện kéo dài cả ngàn năm không?
Nghe khách nói thế, ngoài tâm lượng từ bi, sư vô cùng ngạc nhiên là tại sao lại có chuyện kéo dài cả ngàn năm? Phải chăng đây là một chuyện thần bí, mộng mị, hoang đường? Óc tò mò nảy sinh, sư đáp:
-A Di Đà Phật! Xin ngài cứ nói. Cửa chùa rộng mở không từ chối bất cứ ai cả.
Nghe sư nói thế, khách khẽ thở dài, rồi nói với giọng vô cùng thanh thoát như tiếng hạc trên không:
-Tôi tên Đào Quân. Cách đây gần nghìn năm, lúc đó tôi 25 tuổi, vốn là một nho sinh ở Kinh Thành. Năm đó Vua Lý Thánh Tông cho mở khoa thi đầu tiên để tuyển nhân tài ra giúp nước và tôi may mắn chiếm ngay bảng tiến sĩ và được bổ nhiệm tri phủ Lạng Thương. Tính tình tôi vốn phóng khoáng, chỉ muốn làm bạn với khách văn chương, ngao du sơn thủy, không muốn chen chân vào chốn quan trường. Sở dĩ tôi nhận ra làm quan cũng là để trả nợ bút nghiên và đền đáp công ơn thầy và phụ mẫu. Năm đó, nhân mùa xuân khí trời ấm áp, sư cụ chùa đây cho phép mở hội ngay tại khuôn viên nhà chùa. Đó cũng là dịp để Phật tử gần xa vãn cảnh và vui chơi.
Với tư cách quan tri phủ, tôi cũng ghé qua để tìm hiểu dân tình và đàm đạo cùng sự cụ. Căn hậu liêu này và chiếc bàn ghế cũ kỹ mà thầy đang ngồi đây cũng là nơi mà sư cụ tiếp tôi ngàn năm trước. Mải mê đàm đạo, hoàng hôn đến lúc nào không hay. Tôi vội vã từ biệt sư cụ, bước ra ngoài.
Giờ này hội xuân đã tan, khuôn viên chùa vắng vẻ. Bước tới cội đào là nơi buộc ngựa. Tôi vô cùng ngạc nhiên là ngay dưới gốc đào, một cô gái đang ôm mặt khóc. Qua lối phục sức, cô gái mang dáng vẻ của con nhà khuê các, phong thái đẹp thanh thoát lạ thường. Tôi ngạc nhiên hỏi:
-Tại sao cô lại khóc ở đây?
Cô gái lau nước mắt nói:
-Thưa người quân tử. Em vốn là con của một trang chủ ở cách đây một con sông. Thấy chùa mở hội xuân, em trốn nhà đi chơi. Mải vui chơi em làm rớt mất cái túi cho nên không còn tiền thuê người cáng và tiền qua đò. Xin quân tử rủ lòng thương giúp em qua đêm, em nguyện sẽ đền ơn.
Nghe cô gái nói thế. Nhìn vóc dáng, trang phục và cách ăn nói, tôi không nghĩ cô thuộc loại gái làng chơi, ca kỹ tìm cách lường gạt. Đối với tôi, một vị quan tri phủ của vùng này thì kẻ nào dám lường gạt, cho nên tôi thương tình nói:
-Giờ này cũng đã xế chiều. Nếu cô không ngại thì ngồi trên lưng ngựa, tôi sẽ đưa cô về nhà, ngày mai tính.
Nghe nói thế, cô gái nhanh nhẹn leo lên mình ngựa, tự nhiên ôm lấy lưng tôi và hai người phóng đi. Khi về tới nhà, tôi để cô gái ngủ ở phòng bên cạnh công đường. Sáng hôm sau, trong lúc ăn sáng, cô gái mỉm cười, vẻ tinh nghịch, nói:
-Chắc người quân tử ngạc nhiên lắm hả? Thú thực, em đây không phải là người phàm mà là tiên của Cõi Bồng Lai. Em dàn dựng câu chuyện mất tiền như vậy để có cơ hội gần người quân tử.
Được biết người quân tử văn chương lỗi lạc, tâm hồn thanh cao. thoát tục cho nên Tiên Ông sai em xuống trần để mời người quân tử, nếu thích thì ghé chơi cho biết.
Bạch thầy, lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng Cõi Tiên là cõi mơ ước của con người, dễ mấy ai diễm phúc được lên đó, cho nên tôi nhận lời. Thấy tôi đồng ý, cô gái nắm lấy tay tôi rồi như một thần lực, hai người bay bổng lên không trung và lao vút đi như hai cánh chim. Tôi sợ hãi nhắm nghiền đôi mắt cho đến khi mở mắt ra thì thấy mình đang đứng ở một nơi đúng là nước nhược non bồng, cảnh trí đẹp lạ thường. Khi vừa mới hoàn hồn, thì từ trong lầu vàng, một tiên ông bước ra, vái chào tôi rồi nói:
-Chốn Bồng Lai hân hoan đón chào một tân khách.
Tôi vội vàng đáp lễ và vẫn còn ngạc nhiên đứng chờ. Rất tự nhiên, tiên ông nắm lấy tay tôi và hai người tiến vào một căn lầu mà nơi đây đã có vài vị tiên ngồi ở đó cùng với một số tiên nữ đứng hầu. Tất cả các vị tiên đều đứng lên vái chào tôi và cùng nói, “Vạn hạnh! Vạn hạnh!”
Sau khi chủ khách đã an tọa. Vị chủ tiên đứng dậy nói:
-Quý nhân đây là một văn nhân, một vị quan lỗi lạc và tâm hồn thanh cao khác thường ở dưới trần gian. Tôi có cho cô Giáng Tiên mời quý nhân lên đây chơi cho biết.
Rồi quay qua tôi, vị chủ tiên nói:
-Nếu quý nhân thích thú với nơi này thì ở chơi ít ngày. Cõi Bồng Lai này thiết lập cách đây hơn mười ngàn năm. Tùy theo mức tu hành và giới hạnh, mỗi người sẽ có một tuổi thọ nhất định. Tất các các vị đây đều có tuổi thọ năm nghìn năm. Còn như quý nhân là vì mới nhập nếu ở lại tuổi thọ sẽ là một nghìn năm.
Kể lể tới đây, Đào Quân nói như trút cả tấm lòng:
-Thầy thấy đó, ở chốn trần gian này, sống được bảy mươi năm đã là hy hữu. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó nếu làm quan thì – được lòng dân thì mất lòng vua, được lòng vua thì mất lòng dân. Rồi thì trăm quan ở triều đình dòm ngó. Rồi khi lấy vợ lấy chồng bao trách nhiệm, bao phiền toái. Cuộc đời tưởng là được nhưng cuối cùng chẳng được gì cả. Tỉnh dậy như giấc mộng hoàng lương. Nếu ở lại đây tuổi thọ sẽ là ngàn năm, chẳng lo lắng gì cả thì so với trần thế đúng là chỗ mong cầu khao khát của con người. Nghĩ như thế cho nên tôi quyết định ở lại.
Thưa thầy, cõi tiên là cõi khác với cõi người. Ở đây chẳng phải lo lắng tới cái ăn, cái mặc. Ngày ngày tiêu dao, dạo chơi núi non hùng vĩ, nghe đủ loài chim quý tấu lên những khúc nhạc, bầy tiên nữ ca múa điệu Nghê Thường, tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng vi vu của gió thổi qua những hàng tùng, hàng bách, hàng thông reo làm tâm hồn người lâng lâng. Rồi thì “Khi chén rượu, khi cuộc cờ. Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên”. Rồi cùng với những vị tiên khác bàn luận thế sự. Thế nhưng thầy ơi!
Đào Quân dừng lại một chút để nén xúc động rồi kể tiếp:
-Một ngàn năm tuổi thọ đối với loài người tưởng chừng như vô tận. Thế nhưng chìm đắm trong giấc mơ vô tận đó, thời gian nó lặng lẽ qua đi như một mũi tên. Một trăm năm, hai trăm năm, năm trăm năm và chín trăm năm chợt đến giống như một chớp mắt. Trong phút giây tỉnh mộng, tính số thời gian ở cõi tiên, tôi chợt giật mình khi biết rằng chỉ còn năm năm nữa là mạng số hết và tôi sẽ chết như phàm nhân ở thế gian này. Chính đó là nguyên do tôi tới đây gặp thầy và mong thầy giúp tôi giải tỏa được mối lo ấy. Liệu pháp Phật có giúp tôi được gì không?
Nghe câu chuyện thật lạ lùng, khẽ nhắm đôi mắt, hít vào thật sâu rồi thở ra thật nhẹ nhàng, sư nói:
-Xin mời ngài cùng tôi lên chánh điện.
Khi tới chánh điện, sư bảo Đào Quân cứ ngồi yên và sư đem Tâm Kinh Bát Nhã ra tụng. Tụng xong sư nói:
-Pháp Phật khác với pháp Tiên. Pháp Tiên coi con người hay cái ngã thật có và tìm cách tu luyện để trường thọ hầu an hưởng cuộc sống. Còn pháp Phật không coi con người hay cái ngã thật có. Con người của ngài và tôi đây do Ngũ Uẩn giả hợp mà thành. Sở dĩ chúng ta có ảo tưởng rằng “Cái tôi có thật” là vì có cảnh ở chung quanh. Nếu cảnh không có thì cái tôi không có. Khi cái tôi không có thì không có sinh nên không có diệt tức không có cái gọi là Sinh-Già-Bệnh-Chết. Đó là lời Phật dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh mà ngài vừa nghe. Nó là thần chú kỳ diệu giúp chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi. Dù có lên tới cõi Tiên với tuổi thọ vài ngàn năm, dù ở cõi Trời với tuổi thọ vài triệu năm thì vẫn có lúc phải hoại diệt đó là Luật Vô Thường. Ngài muốn giải tỏa được khúc mắc đó thì phải liễu ngộ được được lý Vô Thường. Nhưng liễu ngộ rồi vẫn phải tu thiền định để tâm an trụ và không còn luyến mến tất cả những gì chung quanh. Và khi tạm gọi là “chết” thì chỉ là lìa bỏ xác thân giả tạm này chứ thần thức thì không hoại diệt. Nếu có duyên thì vãng sinh lên cõi Tịnh Độ. Nếu cao hơn sẽ đắc quả A La Hàn, Bích Chi Phật, Bồ Tát và vĩnh viễn không còn rớt vào vòng sinh tử luân hồi nữa.
Nghe sư nói thế, là người trí tuệ linh mẫn, Đào Quân ngộ ra ngay, quyết không trở về Bồng Lai Tiên Cảnh nữa và xin sư cho lưu trú tại chùa để xuất gia và tu tập thiền định. Và sư trụ trì đồng ý.
Sau đó sư cấp cho Đào Quân một căn lều nhỏ ở phía sau. Ngày chỉ ăn một bữa, không tiếp xúc với ai và chuyên tu thiền định.
Vì sư giữ kín chuyện này cho nên không ai biết rằng có một vị tiên năm nay tuổi đã gần ngàn năm, xuất gia và tu tập thiền định tại chùa. Họ chỉ tưởng đó là một bô lão bán thế xuất gia để an hưởng tuổi già mà thôi.
Năm năm sau, Đào Quân viên tịch và nhục thân được hỏa táng, tro cốt được trụ trì để trong một tháp nhỏ trong khuôn viên. Đó là một giai thoại thật lạ lùng khi một tiên ông từ bỏ cõi tiên, tu hành theo Phật để mong thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Người kể Thiện Quả Đào Văn Bình