Phụng Hoàng Sách Tấn Tập 1
(2005)

Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 

Lời Đầu

Hơn mười năm Hòa thượng hướng dẫn Tăng, Ni tu học tại Thiền viện Trúc Lâm. Những năm tháng đầu, vì chúng tôi là một nhóm hợp chủng Tăng Ni từ tứ phương qui tụ về, nên Hòa thượng phải luôn răn nhắc, quở rầy để khép chúng tôi vào khuôn khổ lục hòa. Vì vậy, những lời Hòa thượng dạy Tăng, Ni trong thời gian đó, chúng tôi góp nhặt để tựa là Phụng Hoàng Cảnh Sách.

Những năm về sau, “trâu” khá thuần thục, chúng tôi đã dần đi vào nề nếp, Hòa thượng chỉ cần có mặt để đinh ninh dặn dò chớ không cần “dây, roi”. Thời gian không còn dài, ông lái đò sau những năm trường đưa khách sang sông cần phải gác chèo ngơi nghỉ, làm cái việc “tạo kế sống lâu dài cho con cháu”, nên Người luôn ân cần sách tấn chúng tôi. Vì vậy, lời dạy trong những năm này, chúng tôi để tựa là Phụng Hoàng Sách Tấn.

Xâu suốt trong những quyển Phụng Hoàng Sách Tấn, Hòa thượng đã gợi nhắc chúng tôi biết bổn phận gìn giữ kho báu nhà mình và hướng dẫn đường đi cho người học thiền. Nhất là Người luôn mong mỏi chúng tôi phải sống đúng lục hòa, thành một đoàn thể Tăng thanh tịnh.

Giống như đàn ngỗng cùng bay về phương nam(*), Người dạy chúng tôi phải biết chia sẻ những khó khăn, những gánh nặng với người đang ở đầu con sóng, luôn tin tưởng, dìu dắt lẫn nhau cùng bước theo một nhịp tiến.

Không có bước chân nào không gây tiếng động, không có việc làm nào không kết quả. Sau những năm tháng miệt mài chăn dắt, mớm mồi cho đàn chim non, đã có không ít những chú chim trưởng thành tung cánh bay xa, thực hiện hoài bão “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”.

Ngôn từ bút mực không thể diễn tả hết tâm lão bà của Hòa thượng đối với Tăng, Ni chúng tôi, chỉ có “lòng tàn xin giữ chút lòng son” chúng con xin cung kính dâng Người. Và dù phước mỏng nghiệp dày chúng con cũng nguyện hứa gìn giữ lý tưởng tối hậu của đời Người.

Kính ghi

Mùa an cư PL. 2549 – DL. 2005

Ni chúng Thiền viện Trúc Lâm


(*) Vào mùa thu, bầy ngỗng bay về phương nam để tránh đông theo hình chữ V. Mỗi khi một con vỗ đôi cánh của mình, tạo một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau nó. Bằng cách này chúng tiết kiệm được bảy mươi mốt phần trăm sức lực so với khi chúng bay từng con.

Khi con ngỗng đầu đàn mỏi mệt nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu. Tiếng kêu của bầy ngỗng đằng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của chúng.

Cuối cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương rơi xuống, hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy cùng xuống để bảo vệ ngỗng bị thương. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng nào con bị thương có thể bay hoặc chết, khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam.

 

Thỉnh Nguyện Tăng

Ngày 13-8 Ðinh Sửu (14-9-1997)

Hôm nay tôi có một vài vấn đề nhỏ nhắc nhở trong chúng.

Hồi xưa, khi tôi giảng bài Chứng Ðạo Ca, có một câu nói rằng: “Liễu tức nghiệp chướng bản lai không, vị liễu ưng tu hoàn túc trái.” Nghĩa là người được liễu ngộ rồi thì nghiệp chướng xưa nay đều không; người chưa liễu ngộ phải đền nợ trước.

Có Thiền khách Hạo Nguyệt hỏi Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm:

– Cổ đức nói: “Liễu tức nghiệp chướng bản lai không, vị liễu ưng tu hoàn túc trái.” Vậy Tổ Sư Tử ở Ấn Ðộ đã liễu chưa mà bị vua Kế-tân chặt đầu? Tổ Huệ Khả liễu chưa mà vẫn chết trong khám?

Ðó là câu hỏi đa số người đều hoang mang nghi ngờ.

Ngài Trường Sa Cảnh Sầm trả lời rằng:

– Ðại đức chưa hiểu nghiệp chướng.

Thiền khách hỏi lại:

– Thế nào là nghiệp chướng?

– Bản lai không.

Câu nói thật là khó hiểu!

Bây giờ tôi dẫn một câu của ngài Tông Mật: “Thể của tâm mình là không, thể không mà thành sự.” Hai bên đều nói một ý, nhưng bên kia nói văn chương, bên đây nói đơn giản. Cái gì là thể không? Cái gì là thành sự? Quay lại mình sẽ biết!

Tất cả nghiệp đều từ thân, miệng, ý phát sanh. Tuy nói thân, miệng, ý nhưng chủ động là ý, ý dấy niệm rồi phát ra ngôn ngữ, hành động. Ngôn ngữ, hành động thiện là từ ý thiện; ngôn ngữ, hành động ác là từ ý ác.

Mặc dù nói tất cả các nghiệp do ý tạo, nhưng sự thật cái trực tiếp tạo nghiệp là miệng và thân. Giả sử trong ý mình muốn giết người, nhưng nếu không nói, không làm thì không giết ai hết. Như vậy thành nghiệp là do lời nói và hành động. Còn nếu chỉ trong ý niệm thì chưa thành nghiệp.

Do đó, trong Luật nói, giả sử mình có ý niệm xấu với người nữ, lý đáng phạm tội, nhưng nếu biết dừng ngay lúc ý niệm đó vừa khởi thì không có tội, vì đâu phạm tới ai. Bởi vậy, cái chủ động tạo nghiệp là ý, nhưng thành nghiệp là khẩu và thân.

Bây giờ xét kỹ, ý có thật không? Những niệm khởi lên chúng ta nhìn tường tận tung tích nó thấy có thật không? Quí vị nghĩ cái này, cái kia liên miên nhưng khi quay lại tìm thì không thấy, nó lặng mất. Nếu thể nó là thật có, tìm ắt phải thấy, phải gặp. Nhưng vì thể không thật, nên tìm lại liền mất. Tìm lại nó mất nên gọi là thể không. Thể không nhưng theo nó thì thành nghiệp, thành sự.

Vậy khi ý niệm ác vừa dấy lên, mình biết quay lại tìm để dẹp bỏ, nó liền tan hoang, không thành, không có. Nếu theo ý niệm đó thốt ra lời ác, hành động ác thì thành sự, thành sự tức tạo nghiệp. Vậy gốc của nghiệp có hay không? Thật có hay thật không?

Gốc thì xưa nay là không, nhưng ngọn thì thành sự, thành có. Cho nên người tu thiền chúng ta phải đi thẳng từ gốc. Dẹp nghiệp không phải dẹp ở thân, miệng mà dẹp ngay ở ý. Những ý niệm vừa dấy lên chúng ta phải quán chiếu cho nó tan mất, cũng giống như sương mù, có ánh nắng rọi xuống thì tự nhiên tan, không còn gì. Nếu để nó dày đặc, thành sự rồi là thành nghiệp.

Như vậy câu nói: “liễu tức nghiệp chướng bản lai không” để chỉ rằng, người liễu ngộ thì thấu suốt bản chất của nghiệp xưa nay là không, thể không thật. Còn nếu người chưa liễu, nghĩa là chưa thấu suốt thì bị nghiệp dẫn đi tạo tội, sau phải đền tội. Làm ác thì chịu ác, quả báo nhất định không sai chạy.

Trở lại hai vị Tổ Sư Tử và Tổ Huệ Khả, hai vị đó liễu rồi, thấy bản chất nghiệp là không nhưng tại sao phải đền nợ trước? Chúng ta thấy các ngài có đền nghiệp, nhưng các ngài thấy nghiệp là không có thật. Thân đã không thật thì nghiệp làm sao thật! Bởi vậy khi vua Kế-tân hỏi Tổ Sư Tử:

– Ngài nói rằng Ngài đã được không tướng, đã lìa sống chết, vậy có thể cho ta cái đầu chăng?

Tổ trả lời:

– Thân chẳng phải của ta, sá gì cái đầu.

Vua liền chặt đầu Ngài rơi xuống đất. Ðối với Tổ, cái đầu cũng là không, vậy Ngài có trả nghiệp chăng?

Ðây là một vấn đề rất thiết yếu trong nhà Phật. Nghiệp đối với người mê thì phải đền trả đầy đủ, nhưng đối với người ngộ, thấy nghiệp không thật nên không có trả. Nói không trả, người ta tưởng rằng mọi oan khiên đã tạo chắc không dính dáng gì nữa. Chúng ta đừng nghĩ rằng ngộ đạo rồi, những oan khiên thuở xưa bỗng dưng hết sạch. Không phải vậy! Chính đức Phật còn bị các nạn kim thương, mã mạch…, ngài Mục-kiền-liên cũng bị người đánh bầm dập mình mẩy mà chết.

Như vậy, dù ngộ rồi, oan khiên xưa vẫn phải trả. Tuy nhiên, người mê khi trả thì oán hờn số phận, than trời trách đất. Người ngộ biết mình còn nợ cũ phải trả cho hết, nên trả với thái độ bình thản, không hờn trách gì cả. Thân này không thật thì bao nhiêu thứ nợ có thật đâu. Nên người ngộ đạo rồi trả mà thấy như không trả. Ðó là trọng tâm.

Hiểu như vậy, trên đường tu chúng ta mới không buồn, không trách, sao có những vị Hòa thượng khi gần tịch rất thảnh thơi, ra đi một cách tự tại, mình thấy thích quá; lại có những Hòa thượng đạo hạnh rất cao, khi gần tịch bị đau đớn hành hạ; còn có người tu không cao khi ra đi lại thảnh thơi, an nhàn.

Ðiều đó nói lên những oan khiên cũ. Hiện đời tuy tu hành cao siêu nhưng oan khiên cũ còn thừa, thời gian cuối nó hành hạ. Còn những vị tu tuy không cao lắm, nhưng nợ trước không có, bây giờ tu không tạo nghiệp nữa nên ra đi thảnh thơi. Hiểu như vậy, quí vị sẽ không còn thắc mắc, nghi ngờ.

Vậy trên đường tu hành, hiện tại chúng ta nỗ lực tu, đừng gây tạo ác nghiệp, luôn cố gắng dẹp bỏ các sự nhiễm ô. Còn nghiệp quá khứ nếu còn thừa thì phải trả, nhưng đền trả với tâm biết rõ thân này huyễn hóa không thật, đã không thật thì điều gì xảy đến cũng không oán hờn, buồn tủi. Như vậy là trả mà coi như không trả. Ý nghĩa “nghiệp chướng bản lai không” mà vẫn đền nợ trước là vậy.

Tôi nhắc thêm về cái “biết”. Tánh của niệm hay ý là không. Khi mình quán chiếu lại thì ý niệm tan mất. Thể nó là không, nhưng nếu mình theo thì thành sự, tạo nghiệp sanh tử khổ đau.

Như vậy, xét cho tường tận, tại sao hiện giờ chúng ta tu mà bao nhiêu nghiệp chướng chưa sạch được? Vì vừa dấy niệm thương ai, ghét ai, mình liền theo nó. Theo nó nên thương thì nói những lời tha thiết, ghét liền nói hung dữ thù hằn, do đó tạo thành nghiệp. Còn nếu vừa dấy niệm, liền quán chiếu cho tan nát thì không tạo thành nghiệp.

Vậy, chúng ta không chỉ tu trong giờ ngồi thiền, mà phải tu trong tất cả các giờ. Vừa có một ý niệm xấu dở, chúng ta liền phủi sạch, đừng để dính mắc thì tất cả nghiệp cũng theo đó mà hết. Nếu chúng ta nuôi dưỡng tất sẽ tạo thành nghiệp. Ðừng nghĩ thể nó là không, rồi làm gì cũng không.

Tuy thể nó là không, nhưng theo thì thành sự. Nên trên phương diện tu hành, chúng ta phải luôn cần mẫn, chăm chỉ quán sát nội tâm mình, những gì xấu, dở phải ngừa đón, dẹp bỏ ngay từ buổi đầu. Nói theo từ bây giờ là bóp chết khi còn trong trứng nước, đừng để nó thành hình, thì nghiệp hiện tại chúng ta không gây. Còn nghiệp quá khứ, nhẹ chúng ta chuyển được, nếu nặng phải trả, nhưng trả mà như không trả.

Ðây là điều thiết yếu trong sự tu hành. Mong rằng tất cả chư Tăng lúc nào cũng nhớ, cũng thấy rõ như vậy. Ðừng nghĩ là mình tu, ráng tụng kinh tọa thiền đủ giờ, còn ngoài ra trong sanh hoạt bình thường không cần quán chiếu. Ngoài giờ chuyên tu ra, chúng ta vẫn theo dõi, thấy rõ từng tâm niệm của mình. Như vậy sự tu mới có kết quả nhiều, mới chóng được chín muồi, một ngày nào đó sẽ hốt nhiên cảm ngộ. Nếu không thì rất khó.

Tất cả chư Tăng đã có túc duyên được cùng sống, cùng tu hòa hợp, nên ráng nuôi dưỡng phước duyên lớn này và tu tập đến nơi đến chốn. Chớ để một lý do nào làm trở ngại sự tu của mình. Ðó là sáng suốt, thành công trên đường tu.

Ðừng bao giờ mơ ước những gì cao siêu, quá sức. Chúng ta cứ mỗi ngày nhìn kỹ, thấy rõ những niệm khởi của mình, rồi dẹp sạch thì sẽ được thanh tịnh. Mà thanh tịnh tức trở về với thể không sanh diệt chớ chẳng có gì lạ. Nếu cứ trông cậy, mơ ước những điều ở đâu bên ngoài, rốt cuộc chúng ta trở thành kẻ nô lệ, tay sai của quỉ thần.

Vậy mong toàn chúng biết quay nhìn lại mình để tu hành đạt kết quả tốt.

Ngày 13-9 Ðinh Sửu (14-10-1997)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay, tôi thấy toàn chúng rất thanh tịnh, đó là điều tốt. Chúng ta ở trong tập thể tu hành, mỗi ngày thân, khẩu, ý càng thanh tịnh. Ðây là điều tôi rất hoan hỉ. Dù sống trong thời mạt pháp nhưng chúng ta có phước duyên rất nhiều, được chung sống một nơi, cùng tu, cùng tiến, điều này hết sức quí báu.

Tuy nhiên, nhiều huynh đệ có cái nhìn không thấu đáo. Thí dụ, đang ở trong chúng yên tu lại nghĩ nên ra ngoài kiếm chỗ nhập thất. Nghĩ như vậy tưởng là tốt, tưởng mình sẽ có nhiều thời giờ tiến tu, nhưng thật tình tôi nói thẳng: Bỏ Thiền viện này để đi tìm một nơi khác yên tu, tôi không tin chắc ở yên được. Vì sao? Tôi đã kinh nghiệm qua những chướng duyên của người tu. Tôi thấy có nhiều thầy mới nhìn qua cũng không có dáng vẻ gì, nhưng khi nhập thất tu một mình, lâu lâu cũng bị nạn, nhất là nạn Ma-đăng-già. Bởi vậy, ở riêng đối với người chưa vững vàng là một cơ hội tốt để thối tâm, để mất giới luật, chớ không phải cơ hội tiến tu.

Ở đây, lâu lắm mấy huynh đệ mới tới phiên nhập thất, nhưng một ngày nhập thất là một ngày chí quyết tu hành, không có gì trở ngại. Mọi công tác huynh đệ lo hết, mình chỉ việc chuyên tu thôi. Thời gian tuy ngắn nhưng giá trị rất lớn.

Người quyết tâm tu ở trong chúng có sự bảo bọc đầy đủ. Còn ra tu riêng rời rạc, không có sự bảo bọc sẽ dễ bị vấp ngã, nhiều khi hình thức còn, mà tâm niệm tu đã mất hết. Nên tôi khuyên tất cả chúng, ai có phước duyên được nương với chúng tu hành là điều đáng mừng. Ðừng cho là duyên thường, trái lại phải thấy đó là duyên thù thắng. Phải cố gắng sao cho tâm niệm mình được bình an để yên ổn tu, dù chậm nhưng nhất định mỗi ngày mỗi tiến, chớ không lùi. Còn mình muốn cho nhanh, cho gấp, tìm nơi này nơi kia ở riêng, làm theo ý mình để được kết quả sớm, nhưng kết quả chưa nắm chắc, mà thất bại có thể đến dồn dập, bất ngờ.

Mong rằng trong chúng ý thức được sự tu hành của mình, cố gắng tự thúc liễm, tự kềm chế những quan niệm sai lầm, đừng để nó gạt. Như vậy đường tu mới được lâu dài, vững vàng, đạt kết quả tốt. Ðó là lời tôi nhắc nhở toàn chúng.

Ngày 13-10 Ðinh Sửu (12-11-1997)

Hôm nay thỉnh nguyện, toàn chúng đều được thanh tịnh, không có lỗi lầm, đó là điều rất tốt. Trên đường tu, chúng càng ngày càng được trong sạch và tinh tấn, tôi rất mừng.

Sau đây tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng. Nói là nhắc nhở nhưng sự thật tôi đặt ra một số câu hỏi cho tất cả quí vị tự nghiệm, rồi trả lời để thành một hệ thống trong buổi nói chuyện này.

Câu hỏi đầu tiên là: Tất cả chúng ta xuất gia, nhằm đạt mục đích gì?

– Chúng con xuất gia để thấy được lẽ thật và học theo mục đích của Hòa thượng là khôi phục Thiền tông Việt Nam, làm hưng thạnh Phật giáo Việt Nam nói chung, ngày sau lan rộng đến thế giới.

– Còn ai có ý kiến gì khác?

– Kính bạch Thầy, mục đích của con xuất gia là tìm sự giải thoát.

– Ðây là câu hỏi rất thông dụng, nên tôi phải đặt lại cho tất cả nhớ. Ðúng ra chúng ta phải trả lời: Mục đích của người xuất gia – chớ không riêng một cá nhân nào – đều nhằm giải thoát sanh tử. Tại sao chúng ta nhắm mục đích đó? Chính đức Phật sau khi chứng kiến cảnh già bệnh chết, Ngài xuất gia tu để giải thoát sanh tử. Ðó là mục đích của đức Phật, ngày nay chúng ta cũng nhắm theo đó thực hiện.

Như vậy, tôi nhắc lại cho dễ nhớ, mục đích chúng ta xuất gia là quyết tâm tu giải thoát sanh tử, không còn bị trở lui lại vòng lục đạo luân hồi. Ðó là căn bản, là gốc của sự tu hành, còn tới chừng nào mới thành tựu là chuyện khác.

Câu hỏi thứ hai: Cái gì dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử?

– Bạch Sư ông, nghiệp dẫn đi trong luân hồi.

– Mục đích của chúng ta là giải thoát sanh tử, nhưng bây giờ phải biết cái gì dẫn mình đi trong sanh tử để tu cho giải thoát. Chú này nói nghiệp, quí vị có đồng ý không?

– Kính bạch Thầy, vọng tưởng dẫn mình đi trong luân hồi sanh tử.

– Kính bạch Thầy, vô minh dẫn mình đi.

– Ai trả lời cũng đúng hết, nhưng nói thẳng là do nghiệp. Tại sao vậy? Bởi vì nghiệp là nhân lôi dẫn mình đi trong lục đạo luân hồi. Cho nên trong kinh dạy: Người tạo thập ác thì nghiệp ác dẫn đi vào địa ngục, người làm thập thiện thì nghiệp thiện dẫn sanh lên cõi trời. Còn giữ năm giới nghiệp dẫn sanh trở lại nhân gian.

Như vậy sở dĩ luân hồi trong lục đạo là do nghiệp dẫn. Vậy nghiệp là sức mạnh lôi kéo, dẫn mình luân hồi triền miên trong sáu đường. Ði đường này hay đường kia đều do nghiệp.

Câu hỏi thứ ba: Nghiệp từ đâu ra, theo thứ tự thì nghiệp từ đâu ra?

– Bạch Thầy, từ thân khẩu ý.

– Ờ đúng, nghiệp từ thân, khẩu, ý, đơn giản như vậy. Khi thân làm ác gọi là thân tạo nghiệp ác, làm lành là thân tạo nghiệp lành. Miệng và ý cũng như vậy. Nếu thân, khẩu, ý không tạo nghiệp thì hết luân hồi.

Như vậy, chúng ta thấy có sợi dây chuyền rõ ràng: Chúng ta đang bị trầm luân trong sanh tử luân hồi. Ngày nay, chúng ta phát nguyện tu là để giải thoát sanh tử. Muốn giải thoát thì phải biết cái gì dẫn mình đi trong sanh tử. Chúng ta đã biết rõ là do nghiệp dẫn, nghiệp này từ thân, khẩu và ý tạo ra. Nhưng trong ba cái đó, trọng tâm là ý.

Nếu ý nghĩ lành thì thân làm lành, nói lời lành. Nếu ý nghĩ dữ thì thân làm dữ, miệng nói dữ. Như vậy điều lành, điều dữ do ý mà có. Tạo nghiệp lành thì sanh cõi trời, người, a-tu-la. Tạo nghiệp dữ sanh địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Ðó gọi là lục đạo luân hồi.

Câu hỏi thứ tư: Muốn hết nghiệp chúng ta phải làm sao?

– Bạch Thầy, muốn hết nghiệp phải dừng ý nghiệp, vì nó là động lực luân hồi sanh tử.

– Ờ, muốn hết nghiệp phải dừng ý. Bởi vì ý chủ động tạo nghiệp, còn thân và miệng là cái bị động.

Bây giờ làm sao để dừng ý? Ðó chính là lý do phải tu thiền. Chúng ta ngồi lại nhìn thấy từng niệm khởi, nếu chúng ta đi theo niệm lành thì tạo nghiệp lành, đi theo niệm dữ tạo nghiệp dữ. Người tu thiền không những bỏ niệm ác, niệm dữ, ngay cả niệm thiện cũng bỏ luôn. Có lắm người thắc mắc, tu là bỏ ác làm thiện, tại sao tu thiền bỏ luôn cả ác lẫn thiện?

Nếu chúng ta bỏ ác, làm thiện thì còn nghiệp để sanh trong ba cõi lành là người, a-tu-la và cõi trời. Còn nghiệp là còn sanh. Bây giờ nếu muốn giải thoát sanh tử luân hồi là phải dứt nghiệp, dừng nghiệp. Muốn dứt nó thì phải dừng ngay động cơ chủ yếu tạo nghiệp là ý. Ý nghĩ lành chắc chắn sẽ làm lành, tạo nghiệp lành và sanh cõi lành. Ý nghĩ dữ thì tạo nghiệp dữ, sanh cõi dữ. Nay ý không nghĩ thì tạo nghiệp gì? Không nghĩ thì không còn tạo nghiệp, hết nhân tạo nghiệp. Lúc ấy thế nào?

– Bạch Thầy, được giải thoát.

– Ðây tôi nói tuần tự để quí vị thấy rõ. Thí dụ như tu Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sanh. Niệm Phật là niệm lành, chuyên trì niệm danh hiệu Phật thì khi nhắm mắt được sanh về cõi lành, cõi Cực Lạc. Như vậy còn niệm thì còn sanh. Cõi lành trong tam giới là trời, a-tu-la, người; cõi lành của Phật ở ngoài tam giới như cõi Cực Lạc… đều còn niệm, còn sanh.

Vậy, niệm là cái nhân để sanh, tùy theo niệm lành dữ, tốt xấu, niệm cao siêu hay thấp kém cạn cợt mà tạo nghiệp, tái sanh ở cảnh giới tương ưng. Chúng ta thấy rõ niệm là gốc của sanh tử, sanh nơi này nơi kia là do niệm. Do đó, còn niệm là còn sanh. Muốn hết sanh phải vô niệm, hết niệm tức vô sanh. Không còn niệm là không còn sanh tử.

Chúng ta phải thấy rõ mục tiêu mình nhắm tới và đường lối đang tu luôn phù hợp nhau. Vọng tưởng là nhân tạo nghiệp sanh tử, muốn hết sanh tử chúng ta phải dừng vọng tưởng. Nhân đã dừng thì quả sanh tử làm sao còn, thật là rõ ràng!

Bây giờ có người đặt câu hỏi: Khi hết niệm, không nghĩ thiện, nghĩ ác nữa thì còn cái gì không, hay là hết sạch? Bởi vì còn niệm là còn sanh nơi này nơi kia, giờ hết niệm, không sanh đâu hết thì chừng đó còn cái gì?

Tôi dẫn câu chuyện Lục Tổ ôm bát đi về phương nam. Ngài đi được mấy ngày thì Huệ Minh đuổi kịp. Ngài để y bát lại trên bàn thạch, bước vào lùm cây ngồi ẩn. Huệ Minh gặp được y bát mừng quá liền cầm lên, nhưng không nhấc nổi, biết đây có cái gì mầu nhiệm chớ không phải tầm thường, nên đổi ý giành y bát thành tâm cầu pháp. Huệ Minh kêu:

– Hành giả! Hành giả! Tôi tới đây không phải vì y bát mà đến để cầu pháp.

Lục Tổ trong lùm cây đi ra nói:

– Nếu ông cầu pháp thì phải dứt hết các duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ nói cho ông nghe.

Huệ Minh đứng yên lặng giây lát, Lục Tổ nói:

– Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?

Ngay đó Huệ Minh liền ngộ.

Như vậy chúng ta mới thấy, không nghĩ thiện, không nghĩ ác thì Bản lai diện mục hiện tiền chớ không phải là không ngơ. Ðó là mặt thật muôn đời của mình, là cái chưa bao giờ sanh, chưa bao giờ diệt. Nếu sống được với mặt thật đó thì không còn bị nghiệp dẫn đi sanh tử, tức là giải thoát sanh tử. Cho nên chúng ta đừng ngại buông hết niệm thiện ác rồi trở thành không ngơ.

Tôi nói cái gần nhất, như hiện giờ đang ngồi, không nghĩ thiện, nghĩ ác gì hết mà chúng ta vẫn biết. Ðó, vẫn hiện tiền chớ nào phải không biết! Cái biết không khởi niệm thì đâu có tạo nghiệp. Rõ ràng cụ thể là tất cả chúng ta sẵn có cái giải thoát mà lâu nay chúng ta quên, chỉ sống theo thân tạm bợ và niệm sanh diệt, vì vậy mà tiếp tục luân hồi. Bây giờ muốn thoát khỏi sanh tử luân hồi thì chỉ dừng hết những ý niệm lăng xăng đó để trở về với Bản lai diện mục của mình. Ðó là giải thoát sanh tử. Ðến đây là đạt được mục đích chớ chẳng có gì khác, khỏi nói sanh đi đâu hết.

Như vậy, chủ trương đường lối tu của mình, nhân và quả rõ ràng không nghi. Giải thoát sanh tử là cái quả mình mong muốn, thì nhân gây ra sanh tử phải dừng. Nhân sanh tử không còn thì quả giải thoát tự nhiên đến.

Vậy là rõ ràng đường tu đâu đó cụ thể, chớ không phải là ý niệm tưởng tượng, cũng không phải chúng ta tin suông, tin rỗng. Nó thực tế như vậy, tôi nói cho tất cả hiểu, nắm vững để tu và dạy người khác tu đừng lầm lẫn. Nhiều khi dạy cũng không biết dạy cái gì, tu không biết tu ra sao, rồi cứ lẩn quẩn là không tốt.

Hôm rồi, người ta yêu cầu tôi giảng bài thơ của ngài Quảng Nghiêm, trong đó có câu ít ai dám dịch:

Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.

“Làm trai tự có chí xông trời, đừng theo đường của Như Lai đã đi”. Nghe câu đó ai cũng giật mình. Tại sao mình tu theo Phật mà không đi đường của Phật? Vậy thì đi đường ai? Ði lối khác là theo đường tà rồi! Nhưng riêng tôi thấy câu đó hay quá, mỗi lần giảng mỗi lần thấy hay. Hôm rồi ngồi thiền, bất thần tôi nhớ lại câu này, thấy có một ý rất hay nên nói cho quí vị nghe.

Không đi theo lối mòn của đức Phật, ý này có hai: Thứ nhất là nói về sự tướng. Khi Thái tử đi tu không có ai hướng dẫn, cho nên phải tìm học với ngoại đạo. Ngài hành tới nơi tới chốn mà kết quả không đúng với mục đích Ngài nhắm nên từ giã ngoại đạo ra đi. Thời đó người ta tán thán phép tu khổ hạnh nên Ngài cũng tu khổ hạnh, nhưng vẫn không đạt được mục đích. Cuối cùng Ngài mới tọa thiền dưới cội bồ-đề và đã đạt được mục đích của Ngài nhắm là giác ngộ thành Phật.

Như vậy nếu đi theo đường của Phật thì có quanh co không? Chẳng lẽ chúng ta được Phật dạy rồi, khi đi tu mình lại theo ngoại đạo và tu khổ hạnh, rốt sau mới chịu ngồi thiền dưới cội bồ-đề. Như vậy là quanh co vô ích. Ðó là lối mòn của Phật đã đi. Bây giờ mình đã được chỉ thẳng còn đi quanh co chi nữa? Ðây là nói về sự.

Kế đến là lối mòn của giáo lý từng cấp bậc mà trong câu chuyện của ngài Vân Môn đã nói(*). Cái này mới thấm thía.

Bây giờ tôi lấy hình ảnh Phật dụ trong kinh Lăng Nghiêm và kinh Viên Giác. Phật nói rằng kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng. Quí vị thấy trăng mồng sáu, mồng bảy hình dáng như lưỡi liềm, mọc ở phương đông. Có người mắt sáng thấy được mặt trăng đó, muốn chỉ cho những người chung quanh cùng thấy, nói rằng: “Kìa, có mặt trăng!” Nhưng có người mắt không tỏ sáng lắm, lại nhắm hướng không được chín chắn, nhìn chẳng thấy, hỏi rằng: “Ở chỗ nào?” Lúc ấy người thấy rồi phải làm sao? Phải chỉ: “Ðây, cứ nương ngón tay tôi, nhìn thì sẽ thấy.” Người kia nương theo đúng hướng ngón tay chỉ, thấy được mặt trăng.

Ngón tay dụ cho kinh điển. Mặt trăng là mục đích giải thoát của mình. Chân lý giải thoát nằm ở chỗ mặt trăng chớ không phải ngón tay. Ta chỉ nương theo ngón tay để thấy mặt trăng, thấy được trăng là đạt mục đích tối thượng của mình.

Trong số người chung quanh đó, có người mắt sáng và định hướng rất rõ, khi hỏi mặt trăng chỗ nào, nói ở phương đông, từ chân trời lên khoảng ba sào, họ theo đó nhìn liền thấy mặt trăng. Người đó có cần ngón tay chỉ hay không?

Bây giờ chúng ta đặt lại vấn đề. Muốn giải thoát sanh tử thì vọng tưởng phải lặng, không còn nghĩ thiện ác. Bởi vậy kinh Phật dạy phải quán thân này là giả để mình không còn đắm nhiễm, cảnh cũng giả để tâm không đuổi theo, cốt cho tâm lặng không chạy, gỡ cho nó đừng dính mắc. Nhưng nếu có người biết rõ tâm rồi, họ tự dừng không dính mắc, đó là đúng mục tiêu Phật muốn chỉ.

Như trường hợp ngài Lâm Tế hỏi Tổ Hoàng Bá:

– Thế nào là đại ý Phật pháp?

Ý hỏi mục tiêu của Phật dạy, chỗ cứu kính của đạo Phật nằm chỗ nào. Ba lần hỏi, ngài Hoàng Bá ba lần đánh. Lâm Tế buồn bã từ giã ra đi, tới Ðại Ngu. Ngài Ðại Ngu chỉ hỏi:

– Hoàng Bá dạy lời gì?

Lâm Tế kể lại:

– Con ba phen hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị đánh. Chẳng biết con có lỗi hay không lỗi?

Ngài Ðại Ngu nói:

– Hoàng Bá với tâm lão bà đã vì ông chỉ chỗ tột khổ, ông lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi.

Ngay câu nói ấy Sư đại ngộ, thưa:

– Xưa nay Phật pháp của Hoàng Bá không nhiều.

Ngài Lâm Tế đại ngộ là ngộ cái gì? Thấy có lỗi, không lỗi tức thấy có hai. Nơi tâm mà còn hai là bệnh, tạo nghiệp sanh tử. Chủ yếu Phật dạy dứt cái hai đó. Nghĩ thiện nghĩ ác là hai, phải quấy là hai. Còn hai là còn vọng tưởng, nếu dừng vọng tưởng thì không có hai, ngay đó là thấy rồi.

Ngài Ðại Ngu nắm đứng lại bảo:

– Con quỉ đái dưới sàng, vừa nói có lỗi không lỗi, giờ lại nói Phật pháp Hoàng Bá không nhiều. Ngươi thấy đạo lý gì? Nói mau! nói mau!

Hết sức là đơn giản, phải không? Trường hợp này như người vừa được chỉ mặt trăng ở phương đông, nhìn lên chừng ba sào liền thấy. Trái lại chúng ta thì không thấy, phải nhờ người đưa tay chỉ, nhìn cho thật kỹ mới thấy. Hai bên khác nhau.

Ở đây ngài Lâm Tế ngộ được là do biết cái hai đó không phải đại ý Phật pháp. Ðại ý Phật pháp là dừng cái hai đó. Nên hỏi thấy cái gì, Ngài không nói. Khởi nói là thành hai, bèn thoi vào hông ngài Ðại Ngu ba thoi. Ngài Ðại Ngu nói:

– Thầy ông là Hoàng Bá, không can hệ gì đến ta.

Như vậy nào có kinh điển gì! Không phải giáo ngoại biệt truyền là gì? Mà có trái với giáo lý đâu. Giáo lý cốt để chỉ mặt trăng. Bây giờ không nương ngón tay mà ta vẫn thấy mặt trăng thì cái chủ đích nhắm đã đạt được, đâu còn cần ngón tay.

Tuy nhiên, có người thay vì nương ngón tay để thấy mặt trăng, lại cho ngón tay là mặt trăng, mình phải nói sao đây? Như vậy là mất ngón tay và mất mặt trăng luôn. Vì tưởng ngón tay là mặt trăng rồi cứ hài lòng ngón tay này là chỗ cứu kính. Ngày nay Phật giáo Việt Nam có một số người lấy ngón tay cho là mặt trăng, cứ đem kinh ra tụng rồi cho như vậy là tu. Phật dạy trong kinh để chúng ta hiểu đường lối tu chớ đâu phải dạy mình tụng suông. Vậy mà cứ đem ra tụng hoài bao nhiêu đó, làm sao thấy mặt trăng được, tụng ngàn đời cũng không thấy. Nếu mình là người ngoài cuộc, biết rõ điều đó thì có nên nói hay không? Ðồng ý như vậy hay là phải nói?

Ðó là một vấn đề tôi thấy rất khó xử. Nói ra mích lòng, còn không nói thì mình có thể chấp nhận cho Phật giáo đi xuống như vậy hay sao? Thành ra cái lối mòn mà ngài Quảng Nghiêm nói đó, là lối mòn dựa theo kinh điển. Kinh điển chỉ là Phật phương tiện giải thích để mình tu, sửa trị lần lần. Nếu chúng ta đã thấy được cái gốc rồi thì quá tốt, đâu có cần phương tiện. Hiểu vậy mới thấy Thiền tông đi thẳng vào cốt tủy của đạo Phật, trở về cái gốc chẳng hề quanh co. Vậy mà những người chưa nắm vững chỗ này, thường chê bai Thiền tông.

Kiểm điểm lại chúng ta thấy sự sai lầm của giới tu sĩ mình rất đậm, rất sâu. Muốn sửa lại cũng cay đắng lắm, không phải năm năm, mười năm mà được. Ðời tôi chắc chưa làm xong, thôi thì ký thác cho đời mấy chú. Mấy chú ráng tu cho đến nơi đến chốn, rồi sau này chỉ cho người ta thấy những cái hay cái dở. Vì tu mà không đạt đạo là do những sai lầm đó. Cho ngón tay là mặt trăng thì muôn kiếp không thấy mặt trăng, không làm sao thấy được! Ðây là lẽ thật, không có gì phải ngờ vực. Ðiều này tôi rất đau lòng. Hôm nay giải thích rõ ràng để tất cả cùng hiểu.

Ðó là phần nhắc nhở của tôi.

Ngày 13-11 Ðinh Sửu (12-12-1997)

Hôm nay có hai việc cần nhắc quí vị:

Thứ nhất là có một Phật tử cho tôi biết có hai thầy đi chợ ghé quán uống cà phê. Tôi không biết là thầy nào, hôm nay xin nhắc chung toàn chúng.

Mặc dầu trong giới luật cũng như Thanh qui, tôi không cấm uống cà phê, nhưng quí vị nếu quen uống hoặc vì bệnh muốn uống cho ấm thì chỉ nên mua về chùa, chớ không nên ngồi quán. Ðó là cái thói của thế tục, rảnh rang vô quán cà phê uống nhâm nhi rồi nói dóc với nhau cho vui. Chúng ta là người tu chớ phạm điều này. Ra ngoài uống cà phê như vậy, vô tình mình làm mất uy tín Thiền viện.

Bây giờ Phật tử Ðà Lạt biết quí thầy ở đây hết, cho nên ai đi ra ngoài, họ đều biết người đó ở Thiền viện hay ở các chùa. Mình cà rà vô quán ngồi, thiếu tư cách để cho người quí trọng, và làm mất luôn uy tín của những huynh đệ trong Thiền viện. Vì vậy từ đây về sau tuyệt đối không được ra chợ ngồi uống cà phê, dầu sớm hay muộn đều không nên. Ðó là điều tôi xin nhắc, mong quí vị nào đã lỡ thì từ đây về sau đừng tái phạm.

Thứ hai là tôi nghe có một số thầy còn nóng nảy, cãi với các cư sĩ và mấy người dân ở ngoài. Quí vị nên nhớ, dầu chuyện đúng một trăm phần trăm, mà nóng nảy lớn tiếng với người thế gian thì mình cũng bị thua thiệt rồi, vì họ nói mình sân. Tu hành mà tham, sân, si không giảm thì người ta đánh giá sự tu của mình không có kết quả. Bởi vậy quí vị nào nóng nảy phải ráng nhớ mình đã là tu sĩ, đừng tranh hơn thua với người.

Trong kinh Di Giáo, Phật dạy: “Người thế tục thọ hưởng dục lạc, chẳng phải là người hành đạo, không biết pháp ngăn ngừa, giận dữ còn có thể tha thứ. Người xuất gia học đạo, không còn thọ hưởng dục lạc mà vẫn ôm lòng giận dữ thì không thể được. Thí như trong lúc trời quang mây tạnh mà sấm chớp nổi lên là điều không thể có.”

Bởi vì chỉ khi trời chuyển mưa mới có sấm chớp. Nếu có sấm chớp lúc không chuyển mưa, đó là chuyện nghịch lý. Cũng vậy, chuyển mưa là dụ cho thế gian còn tham lam danh lợi. Vì còn tham lam mà không được toại ý nên nổi giận, cái đó còn có thể hiểu được. Còn người tu chúng ta đã dứt bỏ tham lam mà còn nổi sân là chuyện phi lý.

Bởi vậy phải chừa tật nóng nảy, dầu mình đúng một trăm phần trăm cũng phải nói nhỏ nhẹ, khuyên răn người ta, chớ không nên nổi nóng. Vì khi mình thốt ra những lời nóng giận là biểu hiện sự thô tháo, thiếu tánh cách hiền hậu, nhu hòa của người tu. Vậy tất cả quí vị khi thấy ai làm việc gì sai quấy, mình phát nổi nóng thì tránh đi chỗ khác, đừng nói, để trong lòng êm dịu rồi dùng lời nhỏ nhẹ, ôn hòa khuyên người ta. Còn đang giận mà nói ra thì tự mình đã mất uy nghi của người tu, lại bị người chê cười sân si, đó là điều không tốt.

Mong tất cả quí vị tránh được những lỗi lầm đó để cho trong chúng hoàn toàn thanh tịnh và cũng khỏi nghe tiếng nhơ xấu ở ngoài đồn đại tới tai tôi. Vậy ở trong chúng nếu có vài ba người vô tình hay cố ý làm hoen ố tập thể thì quí vị đó phải dừng lại, đừng nên tái phạm, không tốt. Ðó là lời nhắc nhở của tôi đối với toàn chúng.

Bây giờ nói về sự tu hành của chúng. Thật ra hai năm qua, chư Tăng tu hành có những bước tiến đáng mừng. Ðó là sự tiến bộ riêng rẽ của từng người, chớ không phải của toàn tập thể một lượt. Nhưng thật ra, trong năm mươi, ba mươi người mà đã được năm, bảy người tiến thì đó cũng là điều hi hữu đáng mừng.

Ngày xưa ở hội Qui Sơn một ngàn năm trăm người, nhưng kiểm lại những vị còn ghi trong sử thì chỉ có năm, mười người ngộ đạo thôi, chớ không phải một ngàn người được đến năm trăm người. Chúng ta ở đây chỉ bốn, năm mươi người, thật quá khiêm nhường, mà đã có được một số người tỉnh táo, sáng suốt hoặc một số người thấy cái chân thật, yên lòng tu hành không thối chuyển thì đó là điều rất đáng khích lệ. Sở dĩ được như vậy, không gì khác hơn là do tâm quyết liệt, liều chết tu, nhất định có kết quả. Tôi thường nói thế từ trước đến nay.

Hồi mới bắt đầu tu thiền, tôi cho đây là việc mò kim đáy biển chớ chẳng phải chuyện dễ. Chúng ta thường bị ám ảnh chỉ có những người thượng căn, thượng trí tu thiền mới được, rồi xét lại, tự thấy mình không phải là các bậc ấy, e rằng khó thấy đạo. Ðó là một mặc cảm đáng buồn. Rồi nghe nói đời mạt pháp chỉ tu Tịnh độ chớ tu Thiền không tới đâu, lại thêm một mặc cảm thứ hai. Còn mặc cảm thứ ba là các Tổ thời xưa được trực tiếp truyền thừa, thầy truyền qua trò thì tu mới dễ đạt đạo. Mình không được ai truyền, làm sao mà tu!

Mang ba mặc cảm đó tôi thấy rất khổ, không có một chút hi vọng. Nhưng vì tôi quyết tâm, liều chết tu, rõ ràng là có kết quả. Dù kết quả chưa trọn, chưa được viên mãn nhưng tôi thấy đúng như những gì tôi muốn.

Bản thân tôi ngày trước ở trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, không thầy, không bạn mà tôi cố gắng làm được. Còn bây giờ toàn chúng ở đây, trên có thầy, dưới có bạn, đồng thời hoàn cảnh rất thuận lợi, nếu tu không được quả là yếu đuối. Ðó là do thiếu sự quyết liệt. Nếu tinh thần quyết liệt thì sự tu hành có kết quả không nghi ngờ. Bằng chứng là qua các vị quyết tâm tu đã cho tôi thấy những kết quả đáng vui mừng đó.

Như vậy, mong sao quí vị đã đến đây rồi thì phải tu một cách quyết liệt, đừng để thời giờ quí báu trôi qua mất. Bởi vì hoàn cảnh tốt không thể đến hai lần. Hễ không làm được lần này thì rất khó tìm lại lần thứ hai. Như trường hợp chú B.H, mỗi lần tôi về Thường Chiếu, chú đều đến sám hối để được trở lên đây. Tôi nói: “Ði rồi khó trở lại, tôi không chấp nhận điều đó.” Vậy mà mấy lần tôi về, chú đều đắp y đến sám hối.

Vậy quí vị thấy, lỡ lầm rồi muốn trở lại không phải dễ. Ai được tới đây mà tu hành lơ là không đến đâu, một khi lui sụt rồi, muốn trở lại rất khó. Vì vậy, tôi mong rằng trong chúng từ lớn tới nhỏ, đừng nghĩ mình già hay trẻ, mỗi vị đều quyết tâm tu. Như chúng ta đọc quyển Hoa Trôi Trên Sóng Nước, thấy một người phụ nữ lớn tuổi như vậy mà nỗ lực quyết tu cũng được kết quả. Huống chi mình ở đây là nam nhi, ai cũng có ý chí mãnh liệt hết, cứ ráng tu sẽ có kết quả không nghi!

Vậy mong toàn chúng nỗ lực tu hành, bỏ qua những chuyện tầm thường. Các việc thế gian mình đã quen tập, bây giờ phải bỏ hết, làm sao vượt qua được những si mê tăm tối, vọng tưởng điên đảo, để tâm mình trong sáng, thấy được và sống được với cái chân thật. Ðây là điều cốt yếu, còn mọi chuyện thế gian chỉ là ảo tưởng, tạm bợ, sẽ tan hoại hết, không có nghĩa gì. Chỉ có cái chân thật mới cứu mình muôn đời.

Vậy tất cả phải ráng tu, đừng lơ là. Ðó là lời nhắc nhở của tôi.

Lời Hòa thượng nhắc nhở đại chúng nhân ngày vía Phật thành đạo 8-12 Đinh Sửu (5-1-1998)

Vừa rồi có một cô người Mỹ đến tập tu bên Nội viện Ni, hỏi tôi: “Thưa Thầy, quí Thầy tu hiện giờ, cái gì là khó nhất?” Giờ mấy chú trả lời coi!

– Dạ, tập khí.

– Câu này rất khó trả lời, nếu nói sân hoặc ái dục là khó thì mình phàm tục quá. Vậy cái gì khó nhất? Tôi trả lời: “Người tu chúng tôi bây giờ, nghe Phật dạy lẽ thật, mình thấy mình biết rồi, nhưng sống được với lẽ thật đó là khó nhất.” Tôi thí dụ, Phật dạy phải quán thân này là nhơ nhớp, vô thường sanh diệt, mạng sống trong hơi thở, đó là lẽ thật. Thế nhưng giả sử có ai chê mình là nhớp thì phản ứng ngay, lập tức bảo vệ nó, không hề công nhận thân mình là nhớp, là vô thường. Ðó là một cái rất khó.

Kế nữa mình biết thân này là vô thường, mà nghe ai nói mình sắp chết thì tự nhiên có một cái gì đó không an ổn. Nói lo sợ thì quá đáng, nhưng thật có cái gì đó rất bất an. Như vậy là không thấy đúng như Phật dạy. Ðó là nói về thân. Còn về tâm, Phật dạy suy nghĩ là vọng tưởng không thật, nên bỏ, rồi sẽ thấy cái chân thật hiện tiền. Bây giờ mình biết vọng tưởng nên bỏ, mà bỏ hoài không rồi, bỏ không hết, đó là cái rất khó.

Như vậy một người Mỹ cũng có cái nhìn sâu sắc về đạo chớ chẳng phải thường. Bây giờ mình giảng cho người ta nghe và giải đáp những thắc mắc của họ là cả một vấn đề. Nhất là kỳ này tôi nói chuyện với một nhóm giáo sư trong Học viện Chính trị ở thành phố Hồ Chí Minh. Nói chuyện với họ một giờ, rồi cho họ hỏi nửa giờ. Họ hỏi đủ thứ, dài lắm. Nên tôi thấy lời của Mã Tổ nói về người muốn làm Phật sự thật là chí lý.

Mã Tổ bảo ngài Tây Ðường Trí Tạng:

– Sao con chẳng xem kinh?

Ngài Trí Tạng nói:

– Trong đó có gì khác mà phải xem.

– Tuy như vậy nhưng về sau muốn vì người con cần phải xem.

Vì lợi ích cho người nên phải xem Tạng kinh. Ðừng nghĩ mình hiểu như vậy là đủ tu rồi. Thật ra, khi ra ngoài người ta ít hỏi thẳng chỗ chân thật mà thường hỏi lời Phật Tổ dạy trong kinh, luận, mình không biết thì nguy lắm. Khi có người hỏi một điều gì, mình nói không biết ở kinh nào là nghe không ổn rồi.

Cho nên muốn tu đến nơi đến chốn chúng ta phải nỗ lực, còn muốn làm lợi ích cho người thì phải cần cù nghiên cứu cho kỹ. Nhất là quí vị sắp đi làm Phật sự, khi rảnh nên đọc lại mấy bộ A-hàm, bởi vì mấy cái đó dễ nói chuyện nhất. Giả sử có ai thỉnh thuyết pháp thì trích các bài kinh trong A-hàm nói về vô thường, hay dẫn mấy câu chuyện ngắn ngắn, gọi là những bài thuyết pháp bỏ túi.

Vậy, một là phải thuộc A-hàm, hai là Pháp Cú. Cố gắng thuộc lòng một số bài, ai hỏi liền đọc lên, giảng rộng ra, đó là tiện lợi. Còn nếu mình không nhớ gì hết thì làm sao linh động nói chuyện cho họ nghe? Ra ngoài Bắc, phần nhiều người lớn tuổi chưa biết nhiều về Phật pháp, nói cao họ đâu hiểu, nói Chân tâm, Phật tánh họ làm sao hiểu. Do đó, chỉ giảng những ý thông thường. Trong A-hàm, Phật dạy rất thiết thực, kinh Pháp Cú cũng vậy, nắm cho vững rồi nói. Còn các bộ kinh Ðại thừa: Kim Cang, Lăng Nghiêm…, họ nghe không tới nổi.

Bởi vậy tôi dạy mấy chú cũng theo thứ tự. Các bộ A-hàm phải cho mấy chú học quen. Nắm vững A-hàm rồi đến Pháp Cú, xong mới lên mấy kinh cao. Ðâu phải mấy chú núp ở đây hoài, cũng có ngày xách gói đi làm Phật sự. Khi ra ngoài dốt quá cũng kẹt, nghe thưa hỏi lúng túng lắm, nên lúc rảnh phải tra cứu. Ở đây có thư viện, kinh sách cũng tạm đủ. Ông K.N có mua thêm kinh sách cho mấy chú nghiên cứu. Mình biết cái gốc rồi, phần ngọn cũng cần nắm cho vững.

Sở dĩ khi ra giảng tôi không sợ là vì tôi đã coi kỹ Ðại tạng. Nói đúng ra, trừ phần Luật và Mật tông, tôi ít đọc, còn các phần khác tôi đều đọc hết, nhất là Tạng kinh. Ðọc để biết qua, người ta hỏi là mình biết ở đâu liền. Dù không nhớ hết nhưng ý chính mình cũng nắm được để giải thích cho người ta hiểu.

Thật ra, khi đi giảng dạy, thiên hạ hỏi đủ thứ, thấp có, cao có. Bao năm nay tôi giải đáp cho mọi người được, do nhờ trước đã từng coi qua Ðại tạng kinh. Cho nên làm Phật sự nhu cầu rộng, không cho mình khu biệt. Như Hòa thượng T.H nói, nếu theo chỗ thấy biết của nhà Thiền mà dạy người thì giảng đường cỏ mọc ba thước! Chỉ có cách làm quán tạp hóa như ngài Ngưỡng Sơn thì được: Từ phân chuột đến vàng ròng đều có đủ. Nếu chỉ vàng ròng không e chẳng xong. Nghèo quá không có tiền mà nói vàng ròng làm sao mua? Hiểu cho tới nơi, sau này mấy chú mới có lợi.

Lúc đầu tôi biết mấy chú nghĩ rằng tôi mâu thuẫn, vừa bắt tu lại vừa khuyến khích học. Nếu học thì sự tu bị trì trệ. Nhưng hoàn cảnh thực tế không cho phép mình chỉ đi một chiều. Theo một chiều sau này chúng ta sẽ lúng túng, sẽ bị chê “cô lậu quả văn”, nghĩa là kiến thức hẹp hòi, quê mùa ít hiểu biết. Thật ra việc tu đòi hỏi mình phải tu cho sáng, nhận chân được lẽ thật, nhưng làm Phật sự thì phải thông suốt giáo lý.

Lâu nay tôi rất dè dặt, ít cho mấy chú xuất đầu lộ diện là vì sao? – Vì tập khí. Thơ kệ của ai trình thì tôi đọc, mà không nói tên người đó, vì nghe đọc thì thánh quá, những gì trong lúc tỉnh sáng viết, hoặc nói đều rất hay, nhưng rồi thời gian sau tập khí chen vào liền hết hay.

Bởi vậy mình chưa tới đất thật, không sống luôn luôn với cái thật, nên có khi rất sáng, rất tỉnh táo, cũng có những lúc hơi hôn ám một chút liền lộ nguyên hình cũ, trái với những gì mình nói hay lúc trước, nên người ta sẽ hiểu lầm: “À, tu ngộ đạo rồi vẫn còn xấu, vẫn còn nóng giận…” Do đó, tôi thường giấu tên người trình, e rằng người khác không biết rồi cho mấy chú lầm lộn chưa sáng đạo tưởng đã sáng. Thật ra, tập khí thầm kín không biết đâu mà lường.

Khi nói về Thập lực của Phật, tôi thấy có “tri vĩnh đoạn tập khí trí lực”. Tới thành Phật mới vĩnh đoạn tập khí, còn mình đây là tạm đoạn chớ chưa vĩnh đoạn. Cái thô thì vượt qua được, còn cái tế vẫn thầm thầm ẩn khuất trong đó, gặp duyên hiện ra lúc nào không hay.

Vậy nên tôi nhắc hoài, mấy ông Giảng sư nói thao thao bất tuyệt, nhưng gặp duyên cũng nổi sóng đùng đùng. Phật dạy nhớ được, hiểu được nhưng sống được mới quí. Mấy chú cố gắng tu, sáng được chỗ chân thật của mình, đó cũng là bước tiến vượt bậc rồi, nhưng bỏ tập khí là cả một vấn đề dài đằng đẵng. Mấy chú lâu lâu ai chọc có giận không?

– Dạ, có. Thưa Thầy cho tụi con ở đây tu luôn!

– Tập khí khi nào có cơ hội mới hiện ra, lúc ấy mới biết mình thua hay thắng. Ở đây hoài đâu có ai chọc, biết tập khí ra sao! Chính khi ra đối đầu, gặp việc mới thấy tập khí của mình, coi cái gì còn cái gì hết, rất là đặc biệt. Tôi kinh nghiệm thấy rõ, mình hiểu được, nói được mà gặp duyên không thắng được là chuyện rất thường. Do đó vừa làm Phật sự phải vừa tu.

Tu có định lực mới thắng được ngoại cảnh và làm chủ tập khí. Ðồng thời phải coi thêm kinh, luận. Ðược như vậy, ngày sau mấy chú ra làm Phật sự sẽ không lúng túng, mới giúp ích cho nhiều người.

Ngày 13-12 Đinh Sửu (10-1-1998)

Ðáng lẽ hôm nay tôi nói về sự tu hành để nhắc nhở chúng, nhưng có một sự việc xảy ra không vui nên tôi chủ yếu nhắc riêng điều này.

Biết rằng trong chúng qua một năm nay có nhiều tin đáng vui mừng đối với tôi, nhưng cuối năm lại có một chuyện không vui xảy ra. Trong việc này tôi tự thấy mình có hai khuyết điểm lớn. Một là tôi chọn người không kỹ, cho nên bây giờ mới có cái tệ như thế này. Hai là sự tin tưởng của tôi quá lớn, tôi không bao giờ tin có những chuyện như thế xảy ra. Vậy mà bây giờ vẫn xảy ra, đó là điều ngoài sức tưởng tượng của tôi.

Trước đây tôi từng nói với tất cả chúng, ngày xưa khi tôi ở các Phật học đường, tu hành chung trong tập thể, sự sống thường sai biệt. Người nào được Thầy Tổ khá giả ủng hộ thì có tiền bạc rộng rãi. Tại Phật học đường Nam Việt tôi theo học hồi đó, mỗi tháng phải đóng hai trăm tiền cơm. Ngoài ra, giấy mực, sách vở, kể cả quần áo đều tự túc chớ nhà trường không thể giúp mình. Phần tôi được ưu tiên miễn phí, vì thầy tôi là Hòa thượng Viện trưởng làm Ðốc giáo tức Hiệu trưởng của trường.

Như vậy mỗi người muốn tới Phật học đường phải chịu chi phí rất nặng. Vừa đóng tiền cơm, vừa lo tiền sách vở, giấy mực v.v… Vì thế ai có cha mẹ hoặc Thầy Tổ khá giả thì sống tương đối sung túc. Ngược lại ai không được giúp đỡ, thật là thiếu thốn chật vật. Vì tình trạng chênh lệch đó nên trong Phật học đường hay Phật học viện thỉnh thoảng xảy ra những vụ ăn cắp. Mỗi lần xảy ra như vậy tôi thấy nhục nhã vô cùng. Bởi vì người cư sĩ ở ngoài chỉ giữ năm giới, mà giới không ăn trộm họ giữ thật nghiêm chỉnh, thanh tịnh. Còn mình tu, giữ từ mười giới tới hai trăm năm mươi giới, trong đó giới trộm cắp thuộc về trọng giới mà không giữ được thì có đáng buồn không? Ðó là đứng về mặt giới luật.

Ở đây tôi đã tổ chức làm sao cốt tránh tệ hại trên, người này dư người kia thiếu dễ sanh ra cái nạn ăn trộm, ăn cắp. Cho nên tôi muốn thực hiện cho được tinh thần lục hòa, vì vậy ở đây không ai được quyền giữ tiền. Chỉ có Thủ bổn chi ra cho Tri sự mua sắm đồ đạc hoặc trả tiền nhân công và cho Tri khố đi chợ. Như vậy trong đây chỉ có hai người xài tiền là Tri sự và Tri khố, còn Thủ bổn thì giữ tiền. Ngoài ra trong chúng không ai có xu con nào.

Tất cả nhu cầu trong chúng, ai thiếu cái gì thì Ban Quản chúng cho cái ấy, không để thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các nhu cầu cần thiết. Như vậy ở đây ai cũng như ai, sống một cách bình đẳng, đầy đủ tiện nghi không thiếu thốn. Không có gì đòi hỏi mình cần phải có tiền hết. Vậy thì lý do gì lại đi ăn cắp tiền? Thật không thể hiểu nổi!

Thiền viện này là lý tưởng tối hậu của đời tôi, nên bao nhiêu công sức, tâm huyết tôi dồn hết vào đây để lo cho chư Tăng tu học. Vậy mà có người vào đây còn ăn cắp nữa thì không thể tưởng tượng được! Ðó là sự thất vọng lớn lao của tôi! Mình đem hết tâm lực lo mọi mặt, mà bây giờ có người làm những việc như vậy, thì còn đạo lý gì! Như vậy công mình làm thật là công dã tràng. Ðó là điều tôi rất buồn.

Bởi vậy, người nào làm việc này thật là không tu hành chút nào. Dù mang hình thức người tu nhưng thật tình không tu. Như vậy để cho quí vị biết, trong chỗ đông đảo, nơi tôi chủ trương tu hành chân chánh, mà vẫn có một người tu hành không ra gì, nói thẳng ra là không tu hành gì hết, đang lẫn lộn ở đây. Một con sâu trong rổ rau, mình phải bắt nó ra thì ăn rau mới ngon. Nếu còn con sâu trong đó, cả rổ rau sẽ bị ảnh hưởng không tốt.

Vậy nên toàn chúng lưu tâm kỹ, coi có người nào giả bộ vào tu để phá chúng như vậy, ráng phát hiện để loại ra. Còn không thì tôi cũng nguyện Tam Bảo gia hộ, làm sao cho những kẻ tà đó rời khỏi chỗ này sớm chừng nào tốt chừng nấy.

Vừa rồi tôi về Thường Chiếu, được nghe kể lại mấy đứa cháu của tôi có phiền trách rằng: Tôi xây chùa bạc tỷ, trong khi tụi nó nghèo thiếu, tôi không bao giờ giúp. Nghe vậy, một buổi chiều tôi gọi lại nói cho tụi nó hiểu: “Thầy là người tu, tất cả tiền bạc là của Tam Bảo chớ không phải của riêng cá nhân. Của Tam Bảo mà người tu lấy để xài riêng, hoặc cho con cháu thì đó là tội đọa địa ngục.”

Quí vị còn nhớ câu chuyện Thiền sư Tông Diễn nuôi mẹ không?

Khi Sư mới mười hai tuổi, một hôm mẹ đi chợ, dặn Sư ở nhà nấu canh cua. Nhưng vì thương xót mấy con cua nên Ngài đem ra ao đổ hết. Trưa về, ăn cơm, mẹ hỏi món canh, Sư thật tình thưa lại mọi việc. Bà giận quá xách roi đánh. Sư sợ hãi bỏ nhà chạy mất, sau vào chùa tu hành.

Hơn ba mươi năm sau Sư trở thành vị Trụ trì, về quê thăm mẹ, được biết mẹ đang bán nước trà tại một quán nhỏ bên đường. Sư vào quán hỏi han chuyện trước, biết đúng là mẹ mình. Sư hỏi bà có muốn ở chùa không. Trước còn ngần ngại, sau bà lão bằng lòng.

Sư về chùa họp chúng, bàn chuyện đem bà lão bán nước trà về nuôi, đại chúng đều hoan hỉ. Sư cho người đi đón bà lão về rồi cất am tranh cạnh chùa cho bà ở. Mỗi ngày Ngài phân công cho bà quét sân, nhổ cỏ, đến bữa ăn cơm chùa. Ngài luôn luôn nhắc nhở bà tu hành.

Một thời gian sau bà bệnh, Sư có việc đi xa nên dặn chúng: Nếu ở nhà bà lão có mất thì để bà trong áo quan, đừng đậy nắp, chờ Sư về. Ðúng như dự đoán, Sư đi được ít hôm bà lão mất, Tăng chúng làm theo lời dặn. Khi Sư về, đến bên áo quan nhìn mặt bà lần cuối rồi đậy nắp lại. Ngài nói to: “Như lời Phật dạy, một người tu hành ngộ đạo, cha mẹ sanh thiên. Nếu lời ấy đúng xin cho quan tài bay lên để chứng minh.” Sư cầm tích trượng gõ vào quan tài ba cái, quan tài từ từ bay lên hư không rồi hạ xuống. Tới lúc đó mọi người mới biết bà lão là mẹ của Sư.

Tuy Sư có nuôi mẹ bằng tiền chùa, nhưng vẫn cắt đặt công việc cho bà làm tùy theo sức khỏe của bà và luôn khuyên nhắc tu hành. Ðồng thời Sư không hề tiết lộ cho bà biết mình là con, để tránh tâm niệm ỷ lại.

Qua đó chúng ta thấy người xưa làm việc gì rất là dè dặt, chẳng những sợ tội cho mình mà còn sợ tội cho những người thân của mình, nên không dám nhận cái lợi nhỏ để bị cái hại to. Chúng ta bây giờ cũng nên noi gương người xưa, sống cho hợp đạo lý.

Bởi vậy tôi nói rõ với mấy đứa cháu, tôi không có đồng tiền nào riêng hết. Tất cả tiền của người ta cúng, dù trực tiếp cho tôi vẫn là của Tam Bảo chớ không phải của riêng. Vì là của Tam Bảo nên tôi không có quyền cho. Nếu lấy cho, tôi sẽ đọa địa ngục và những người được tôi cho cũng sẽ đọa địa ngục, vì họ có tu hành gì đâu mà xài phí của Tam Bảo.

Như vậy cần thấy rõ một điều rất quan trọng là nếu mình lợi dụng của Tam Bảo để đem về nuôi gia đình, nuôi con cháu thì đó là nhân đọa địa ngục. Mình đọa, con cháu cũng đọa chớ không cứu giúp được gì. Bởi vậy ai có tâm như vậy là tâm đọa địa ngục, lại còn làm lây đến những người thân của mình nữa, không phải là chuyện tốt lành. Vì nếu chỉ nghĩ tới điều tạm bợ trước mắt là có tiền, còn mai kia ra sao không cần biết thì thật là nông nổi khờ dại.

Người biết tu rồi phải thấy xa, của Tam Bảo mà đem nuôi người thế gian là cái nhân đọa địa ngục, chớ không phải thường. Ðức Phật đã dạy như vậy. Cho nên những người tu chân chánh lúc nào cũng sợ tội, luôn làm sao cho mình và thân quyến tu được. Ðời này thà chịu khổ chút ít mà đời sau được an lành, tự tại giải thoát. Người tu mà không tránh điều tội lỗi là đi tìm chỗ đọa chớ không phải tìm đường tu. Thà là ở đời lo kiếm tiền, do bàn tay, sức lực của mình làm ra đem giúp gia đình thì hợp lý. Còn ở trong chùa mà lấy của chùa cho gia đình là trái với đạo lý.

Ðó là tôi nhắc cho toàn chúng hiểu rõ ý nghĩa của việc đem tiền Tam Bảo về nuôi gia đình, hay những người thân. Ðó là tội lỗi lớn chớ không phải nhỏ. Nói cho tất cả hiểu, để đừng lầm rằng đem tiền chùa về nuôi gia đình là tốt, đừng bao giờ nghĩ lầm như vậy.

Sở dĩ trong đời tu của tôi, hô lên là có người ủng hộ, chỉ vì tôi không nghĩ đến riêng mình, mà thường lo cho đạo, cho chúng, nhờ vậy mọi việc tôi muốn làm đều làm được không khó khăn. Vậy, có phước là do quyết tâm tu và hết lòng phục vụ đạo, chớ không phải từ sự gian tham của nhà chùa mà được.

Còn một điểm nữa là trong chúng đây, dường như cứ nghĩ mình chỉ lo việc lớn, lo tu hành cho đắc đạo, lo làm những việc to mà coi thường những cái nhỏ. Vừa rồi tôi được nghe báo cáo rằng ở trong chúng, khi quí vị tắm xong không dọn sạch nhà tắm, đi vệ sinh rồi không đóng cửa để gió đập. Quí vị nên cẩn thận từ những việc nhỏ mới thành tựu được việc lớn. Vì nếu việc nhỏ không làm tròn thì việc lớn chỉ nói chơi chớ không thể làm được. Cho nên trong chúng phải nghiêm trang, tề chỉnh, trật tự, vệ sinh.

Ðó là những điều tôi nhắc nhở. Mong toàn chúng cố gắng thực hành.

Ngày 13-1 Mậu Dần (9-2-1998)

Hôm nay tôi có một vài vấn đề nhỏ nhắc nhở trong chúng. Tất cả việc làm của chúng ta bao giờ cũng là tương đối, được mặt này thì có mặt khác không được. Như vậy phần được đáng cho chúng ta mừng và tin tưởng năm mươi phần trăm, tất sẽ có điều ngược lại mất mát hoặc đáng buồn cũng tới ba mươi phần trăm. Ðó là lẽ thật chúng ta kinh nghiệm trong năm qua.

Những mất mát đó đã xảy ra không những ở Thiền viện Trúc Lâm mà còn ở các Thiền viện khác nữa. Nếu tôi là người không có chút ít đạo lực vững vàng thì chắc cũng rối đầu lắm. Nhưng nhờ sức tu hành tôi cứ bình tĩnh để mọi việc trôi qua nhẹ nhàng, không đến nỗi có tác động mạnh.

Thông thường, sự tu hành chúng ta càng tiến, càng cao thì trở ngại càng lớn. Chúng ta phải nắm cho vững điều đó, trên đường tu mới không bị thối chuyển, nếu không hiểu sẽ thấy bối rối. Như vừa rồi, tôi thấy không có gì đáng để có người phải rời chúng, tìm cách ở riêng. Chẳng qua là có cái gì đó thúc đẩy, xúi giục rồi tự mình thấy bất an nên đi theo vọng tưởng. Ðó là mình đã thua, đã thất bại.

Những sự việc xảy ra trong năm rồi lớn có nhỏ có, hoặc lộ ra ngoài, hoặc âm thầm ở trong, đều là chướng ngại đối với người yếu. Còn đối với người quyết tâm tu, đó lại là cơ hội giúp ta thấy rõ những gì làm ngăn trở sự tu hành của mình, để rồi vươn lên, đừng mắc kẹt, không thua nó nữa. Ðó là tôi nói kết quả năm qua, tốt xấu đều có. Những gì gọi là ngăn trở rồi cũng chuyển hướng bình thường trở lại.

Giờ đây tôi nói cho tất cả quí vị biết, chúng ta nhìn cho thật kỹ sự truyền bá, sự tu hành, cũng như ảnh hưởng của mình đối với Phật tử, quí vị thấy một năm qua chúng ta gây được lòng tin cho Phật tử gần xa rất nhiều. Ngay trong Thiền viện chúng ta, sự tu hành tiến bộ của huynh đệ cũng đáng kể. Phật tử tới lui với chúng ta ngày càng đông thêm.

Như vậy Phật sự của mình đang trên đà phát triển mạnh và nhanh mà tuổi tôi thì càng ngày càng lụn, cũng như ngọn đèn sắp tàn sắp tắt. Vậy trách nhiệm duy trì đà tiến này là của ai? Không phải của tôi nữa – tôi còn ngày nào mừng ngày đó – mà là của những vị lớn, như Ðắc Pháp, Nhật Quang v.v… Quí vị thấy những vị đó có thể thế tôi được không? E rằng tôi ra đi thì quí vị đó chắc cũng sớm theo chân tôi. Người nào cũng là bệnh nhân hết, không ai mạnh khỏe, cũng không ai có sức chịu đựng như tôi.

Như vậy, những vị đệ tử lớn không thay tôi được, ai sẽ thay tôi đây? Vậy là những người hiện có mặt sẽ thay thế tôi để duy trì Phật sự lớn lao này. Ðây là tôi nói xa, chưa biết ngày nào tôi từ giã ra đi. Nhưng bây giờ quí vị phải ý thức rõ trọng trách của mình. Trọng trách đó không phải là vô cớ từ đâu chất lên vai mình, mà do mình đã tự nguyện, đã quyết tâm gánh vác để đem chánh pháp truyền bá khắp xứ sở, chẳng những ở xứ sở mình mà ở các nơi khác nữa.

Vậy nên quí vị tự mình phải nhận lấy trọng trách, rồi cố gắng duy trì, phát triển, chớ không thể ỷ lại nơi tôi được. Vì sức khỏe của tôi cũng có chừng mực, ngày nào không còn khỏe thì tôi nghỉ việc, khi đó những người có mặt ở đây từ lớn tới nhỏ, mỗi người phải thấy trọng trách của mình.

Ngày xưa, trước năm 1970, tôi thấy rõ ở Việt Nam chỉ có thiền ngoại đạo, thí dụ như thiền xuất hồn, thiền của hội Pháp Hoa ở ngoài Nha Trang… chớ chưa có một đường lối tu thiền rõ ràng, nhất là Bắc tông không có một chủ trương tu thiền cụ thể nào hết. Chỉ có thiền Nguyên thủy của các chùa Nam tông còn khá rõ nét.

Từ năm 1970 mãi đến bây giờ là hai mươi bảy năm, tôi cố gắng gầy dựng, phát triển, coi như đó là một chủ trương của cá nhân tôi. Quí vị thử kiểm lại, đầu tiên tại Chân Không chỉ có mười người, rồi từ từ biến thiên, từ một Thiền viện Chân Không rất đơn sơ, lần lần đến các Chiếu, lên tới đây. Bây giờ nhìn trở lại Chân Không và các Chiếu, quí vị thấy Thiền viện nào cũng qui mô, đông đảo.

Như vậy từ con số không mà tôi cố gắng gầy dựng, duy trì, phát triển cho tới ngày nay được rỡ ràng như vậy, chẳng những trong nước mà cả ngoài nước. Chẳng những tại đây mà cả ngoài Trung, ngoài Bắc người ta cũng biết. Vậy từ đây về sau là trách nhiệm của quí vị có mặt ở đây. Nhất là những người lớn, những người đã có niềm tin chắc chắn rồi, phải có bổn phận tự nhận lấy trách nhiệm, kế thừa và tiếp nối. Ðừng để một ngọn đèn vừa cháy sáng phải tắt liền. Không thể nào tôi tịch rồi, mọi việc theo tôi mà tiêu mất. Như vậy thật là đáng buồn!

Chúng ta thấy chư Tổ ngày xưa, như Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa, chỉ mình Ngài chịu cực khổ và khó khăn, tìm được một đệ tử là Tổ Huệ Khả, rồi từ đó truyền nối mãi cho đến ngày nay. Trên một ngàn năm rồi vẫn còn có những người tiếp nối. Nay tại Việt Nam chúng ta, chẳng lẽ tôi gầy dựng được dòng Thiền, rồi sau tôi liền tắt ngấm?

Cho nên tất cả quí vị ở đây và những người chưa lãnh trách nhiệm đều phải ý thức rõ ràng rằng: Chúng ta cần nối tiếp ngọn đèn Tổ cho được sáng rực chớ không nên để lu mờ. Vì vậy mỗi người phải có ý thức cụ thể, dù khó hay dễ, dù vui hay buồn, trong công tác Phật sự mình phải một lòng một dạ, chết sống cũng làm cho tròn. Giữ cho được những gì người đi trước đã làm, thì mai sau Phật giáo Việt Nam mới có cơ hội sáng sủa hơn, tốt đẹp hơn.

Nếu một vị nào đó vì lẽ buồn phiền, bực bội muốn rút lui, rồi ai cũng có thái độ như vậy, thì mai kia tôi tịch rồi không biết sẽ ra sao, trách nhiệm đó ai chịu? Vì vậy nên hôm nay, với những kinh nghiệm năm cũ, tôi nhắc cho tất cả chư Tăng có mặt ở đây, mỗi người phải ý thức việc làm của mình. Quí vị phải làm sao tự thắp sáng ngọn đuốc, ngọn đèn của Phật Tổ, rồi phải mồi, phải truyền cho những người xung quanh mình cùng sáng, không để tắt mất.

Cần có nguyện lực mạnh, quyết tâm dũng mãnh để làm tròn sứ mạng của mình. Ðến ngày nào hết duyên ra đi thì người khác tiếp tục duy trì. Ðó là trách nhiệm chung chớ không của riêng ai.

Thật tình Phật sự này không phải Thầy Tổ tôi giao, cũng không phải Phật bắt tôi làm. Nhưng tôi có mặt trên đời, có mặt trong đạo, tôi cảm thấy phải làm sao cho đời được tốt, cho đạo được phát triển dài lâu. Tâm nguyện của tôi là đem Phật pháp soi sáng thế gian, để những người mê lầm trong cuộc đời này thấy ánh sáng của đạo mà bớt khổ đau. Như vậy chúng ta làm lợi cho đạo mà cũng ích cho đời. Còn nếu mình cứ lôi thôi, hoặc sống cầu an thì Phật pháp ngày mai không biết sẽ ra sao.

Vậy mong trong chúng mỗi vị ý thức được bổn phận của mình mà nỗ lực tu và cố gắng duy trì, phát triển đạo đức, sao cho ngày càng thấm nhuần trong tất cả người dân Việt Nam nói riêng và tất cả chúng sanh nói chung. Ðó là sự mong mỏi của tôi, cũng là lời nhắc nhở đầu năm.

Ngày 13-3 Mậu Dần (9-4-1998)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay, trong chúng chỉ có một lỗi nhỏ, đó là điều rất tốt. Trong những năm gần đây, chư Tăng từ con số năm mươi dần dần đông hơn. Trên đường tu, mỗi năm rõ ràng thấy mỗi tiến, đó là điều rất đáng mừng. Nhưng tôi thường hay nói với toàn chúng, tất cả chúng ta đối với lý đạo có thể dễ thâm nhập, dễ hiểu nhưng đến khi ứng dụng lại khó. Mà khó nhất là tập khí nhiều đời.

Ai đi tu cũng có ý chí liều chết cố gắng tu hành để đạt đạo. Mỗi người ở đây, không ai không có quyết tâm đó. Nhưng lúc tu chúng ta thấy thỉnh thoảng cũng có xảy ra những chuyện vui buồn, hoặc một hai khi sân hận. Những điều đó đáng lý phải dẹp hết không còn. Nhưng thật sự, tu là một việc, còn tập khí vẫn sống, vẫn ẩn trong tiềm thức của mình, gặp duyên bất giác nó phát ra. Nếu chúng ta chưa đủ đạo lực thì không kềm chế nổi.

Do đó, thỉnh thoảng trong chúng cũng xảy ra những điều sai phạm. Nhưng tôi nghĩ, ai cũng quyết tâm thì tất cả những sai phạm đó từ từ sẽ tiêu giảm. Tập khí tuy lâu đời lâu kiếp, không phải chỉ trong đời này, nhưng nó cũng là thứ không thật. Bởi nó không thật, nên chúng ta quyết tâm tu, nó sẽ tiêu mòn dần.

Cho nên tất cả chư Tăng đừng bao giờ có mặc cảm sao mình quá nhiều vọng tưởng, nhiều thói xấu dở. Không nên mặc cảm điều đó. Chỉ nên hổ thẹn là có dở xấu mà không biết sửa, không biết chừa. Ðó mới là đáng tội, đáng trách. Chúng ta đều đang tu, không ai là Thánh. Ðã không phải Thánh thì không có ai hoàn toàn tốt, thỉnh thoảng cũng có một hai điều sai quấy. Thí dụ, trong lục hòa có “khẩu hòa vô tránh”, mà mình vẫn bị lỗi lời tiếng tranh cãi. Hoặc “ý hòa đồng duyệt”, nghĩa là ý hòa để cùng vui với nhau, mà thỉnh thoảng ý cũng có chống đối.

Ðối với những điều đó, tôi thường nói: Trong cuộc sống này không ai giống hệt ai. Mỗi người đều có tập khí riêng, do đời này hoặc những đời về trước tập nhiễm. Do đó, khi sống chung với nhau có những điều bất như ý, chúng ta phải khéo điều hòa. Một là xả phần chấp của mình để điều hòa với huynh đệ. Hai là biết rõ mình đang tiến tới chỗ chân thật cứu kính, thì những tập khí, những bất hòa chỉ là việc trẻ con không đáng phải bận tâm. Phải luôn luôn làm chủ, bỏ qua hết, vượt qua các thói quen cũ.

Nếu tu mà vẫn còn cố chấp những ý niệm riêng tư, cho đó là đúng, là chân lý, rồi sanh ra bất đồng với huynh đệ thì không hay. Bởi vì chúng ta biết rõ những thói quen đó là thói trần tục, phàm phu, phải buông xả hết mới tiến được.

Ðó là đối với những thói quen bình thường, với tập khí nhiều đời còn phải cẩn trọng hơn. Thật tình chúng ta ai cũng có những huân tập nhiều đời nhiều kiếp về trước, hoặc hay hoặc dở. Có những điều chúng ta chưa bao giờ dám nghĩ đến mà bất thần vẫn xảy ra.

Thí dụ như chư Tăng luôn cố giữ giới thanh tịnh, nhưng đôi khi vẫn mộng thấy những chuyện lôi thôi, thấy những cảnh không tốt mà mình không làm chủ được. Hoặc trong giấc mộng còn những thói cũ trái đạo lý sống trở lại mà mình vẫn theo. Ðó là tập khí nhiều đời còn thừa, còn sót, nên bây giờ tuy không nghĩ tưởng mà nó vẫn hiện ra.

Lại có những tập khí đến trong lúc sanh hoạt ban ngày. Thí dụ như người nào đó trước là tướng, là quan quyền quen thói nóng nảy la lối. Bây giờ tu rồi, nghiêm chỉnh nhu nhuyến, nhưng bất thần có một điều gì không vừa ý xảy ra thì tật nóng nảy, la lối cũ cũng trỗi dậy, kềm chế không kịp. Biết vậy rồi, chúng ta thông cảm với nhau, xây dựng cho nhau, đừng vì chỗ bất giác của họ mà cố chấp, gièm pha, không hay.

Tôi nhắc lại một lần nữa, lúc Phật đương thời, ngài Ca-diếp là một vị tu hành hết sức miên mật, đức Phật thường tán thán Ngài là vị tu khổ hạnh bậc nhất, và đôi ba lần xác nhận: Ta được cái gì thì Ca-diếp được cái ấy, ta biết cái gì thì Ca-diếp cũng biết cái ấy. Như vậy là Phật tán thán ngài Ca-diếp có cái nhìn, cái biết đồng với Phật.

Thế mà một hôm, khi thần Càn-thát-bà đánh đàn cúng dường Phật quá hay, bất giác ngài Ca-diếp đứng dậy nhảy múa theo. Thử hỏi một tu sĩ nghiêm trang khổ hạnh mà có hành động như vậy, quí vị chấp nhận được không? Thế nên lúc ấy đại chúng thắc mắc hỏi Phật:

– Ngài Ca-diếp tu hành rất nghiêm chỉnh, tại sao nghe nhạc lại đứng dậy múa?

Ðức Phật đáp rằng:

– Trước kia Ca-diếp đã nhiều đời làm nhạc công, nên bây giờ tập khí cũ còn, nghe nhạc quá hay thì tự phát ra như vậy.

Ngài Ca-diếp còn không làm chủ được tập khí của mình thì chúng ta có bảo đảm làm chủ được không? Ðó là điều rất đáng sợ! Nên tôi thường nói với chư Tăng, dù ai có tu hành khá, đạo lý thâm sâu, cũng đừng bao giờ bảo rằng mình thắng được tất cả tập khí. Trái lại luôn luôn phải dè dặt, đi đâu làm gì cũng phải cẩn thận, đừng tưởng mình sạch hết, đó là lầm. Ðến lúc tập khí nổi dậy, dù có ăn năn hối cải cũng đã muộn màng.

Tôi hay nói rằng tập khí của mỗi người thật đáng sợ chớ không phải thường. Vì nó ẩn tàng ở đâu mình không hiểu, mỗi khi gặp cảnh duyên lại bất chợt phát ra, mình không làm chủ được, thật là nguy hiểm! Cho nên tất cả chư Tăng phải tự cảnh tỉnh, luôn luôn dè dặt, đừng khinh suất. Khinh suất là cơ hội để tập khí bất giácxuất hiện, lúc ấy hối hận không kịp.

Tôi là người có trách nhiệm hướng dẫn Tăng Ni, nhìn lại tập khí tôi phải giật mình. Nhiều điều tôi nghĩ không bao giờ xảy ra mà vẫn xảy ra như thường, thật đáng sợ! Nên tôi khuyên tất cả ráng tu chân chánh, thành tâm sám hối mỗi đêm cho bao nhiêu tập khí cũ chóng sạch, được trong sáng thanh tịnh, để đời tu của mình đừng có gì bất trắc xảy ra khiến phải sơ suất, có lỗi với đạo.

Vì vậy, trong huynh đệ nếu thỉnh thoảng có người nào bất thần lộ ra những điều dở xấu của họ thì chúng ta cũng thông cảm. Ðó là tập khí nhiều đời chưa tiêu hết được. Vào đây rồi không ai còn muốn tranh hơn tranh thua, hoặc tham lam, nóng giận gì nữa, chỉ là do bất chợt phát ra. Chúng ta hiểu rồi nhắc nhở, khuyến khích nhau tu, còn hơn là ngồi trách cứ, không bao giờ hết cái dở được. Tập khí chỉ hết khi nào cố gắng tu, nó sẽ tiêu mòn dần.

Tôi thấy rất rõ, chư Tăng cũng như chư Ni, có nhiều người bình thường thấy rất dễ thương, dễ dạy, nhưng khi gặp duyên gì đó, tập khí nổi dậy không làm chủ được, nên có những lỗi mình không thể lường trước được. Do đó chư Tăng, một là nên lấy đây làm kinh nghiệm bản thân để tự dè dặt, luôn luôn miên mật làm chủ, đừng thả lỏng. Hai là khi có huynh đệ nào tập khí nổi dậy chưa thắng kịp, mình cũng thông cảm tha thứ cho nhau. Như vậy trên đường tu mới có thể bền lâu, vững vàng và tất cả chúng ta mỗi ngày mỗi tiến lên một cách vững chắc, nếu còn cố chấp với nhau sẽ không tránh khỏi những chuyện lôi thôi.

Hơn nữa, tập khí người ta thì mình thấy, còn tập khí của mình lại không hay biết. Bởi không tự thấy mà chỉ thấy người rồi phê phán đủ thứ, quên bẵng tập khí của chính mình. Ðó là chỗ sơ suất làm cho tập khí cũ sống dậy lâu dài.

Bởi vậy, thỉnh nguyện hằng tháng là để mỗi vị tự kiểm tra lại mình có những xấu dở gì để tự ra trình bày sám hối. Nói cách khác là phát lồ sám hối giữa đại chúng để tiêu mòn nghiệp chướng. Nếu ai không tự thấy lỗi mình thì nhờ huynh đệ có thấy chỉ cho để sám hối. Như vậy là chu toàn nhất, bởi vì không ai là người hoàn toàn tốt đẹp, thỉnh thoảng cũng có chen một hai cái xấu dở theo thói quen cũ.

Vậy nên trong buổi thỉnh nguyện, chúng ta phải tha thiết, chân thành nói lên lòng cầu mong sửa đổi tất cả lỗi lầm. Như vậy trên đường tu sẽ được tiến mãi. Ðó là lời nhắc cho toàn chúng nhớ để cố gắng ứng dụng.

Ngày 13-4 Mậu Dần (8-5-1998)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay toàn chúng chỉ vài người có lỗi nhỏ, đó là điều rất tốt.

Hôm nay, tôi nhắc nhở một điều thường xảy ra trong chúng. Thông thường, người thế gian vì lòng tham danh lợi, tài sắc, ngũ dục, tham mà không được nên nổi sân, cái đó còn hợp lý. Còn trong giới tu sĩ chúng ta không tham như người thế gian, mà lâu lâu nổi sân là sao? Cái đó có phải là điều phi lý không? Danh lợi tài sắc không mến tiếc, thì cá nhân mình có ai nói nặng nói nhẹ, mình có giận không? Sở dĩ giận là vì bản ngã, sợ mất uy tín, mất danh dự. Ở đây không có danh thì có cái gì để giận?

Hiện nay ở trong chúng, tôi thấy có một số người cũng hay nóng nảy, điều đó không tốt, trái với mục đích mình nhắm. Chúng ta đi tu là để tiêu diệt tham sân si, phá sạch bản ngã, mà có ai nói đụng tới liền nổi sân đùng đùng lên, như vậy là bản ngã y nguyên. Bản ngã còn thì lòng hiếu danh vẫn còn.

Vì vậy, tôi mong tất cả chư Tăng từ lớn đến nhỏ phải sống cho hợp đạo lý. Nhất là những khi huynh đệ xúc chạm chút ít đến bản ngã của mình thì nên nghĩ: Tu rồi bản ngã là vô nghĩa không đáng. Không nên tôn trọng bản ngã rồi sanh chống đối nhau, vô tình trong giới tu sĩ chúng ta cũng còn hơn thua phải quấy, đó là điều không tốt. Quí vị đã xả bỏ tất cả mà còn duy trì bản ngã, điều này làm mình tu không tiến và đạo đức bị tổn giảm.

Cho nên mong rằng chư Tăng phải thấy rõ điều đó, đừng vì chút lời qua tiếng lại hoặc những câu nói vô tình của người mà sanh sân hận, không tốt. Hoặc giả có một hai việc làm của người khác lỡ trái ý mình, nổi nóng la om sòm cũng là điều không nên có, vì tất cả việc đó đều là hiện tượng của bản ngã còn được coi trọng quá, chưa hề tiêu giảm. Ðạo Phật là đạo vô ngã, nghĩa là “cái ta” không có thật. Nó không có chủ thể thì có gì đâu mà phải bênh vực, phải bảo vệ quá đáng cho trái với đạo lý.

Cho nên tôi nhắc nhở tất cả chư Tăng ráng giữ lòng mình ôn hòa, nhu thuận để cuộc sống được vui tươi, đừng xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Bởi vì những điều xảy ra lúc nóng giận đó, mọi người xung quanh đều nhìn thấy, nhất là nếu có cư sĩ, họ sẽ đánh giá tập thể chúng ta không tốt đẹp.

Nóng giận là chuyện phàm phu, mà ở trong đây tu hành vẫn còn như vậy thì không hơn phàm phu bao nhiêu. Do đó quí vị phải dè dặt. Nếu lỡ nóng giận thì phải khéo né tránh, đừng để sanh ra đụng chạm, rất dở, rất tội lỗi. Ðó là lời nhắc nhở của tôi hôm nay.

Ngày 13-5 Mậu Dần (7-6-1998)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay toàn chúng đều có tinh thần tự giác, ra giữa chúng sám hối lỗi lầm của mình. Ðó là đức tánh rất tốt, còn vị nào chưa thấy được lỗi, nhờ huynh đệ chỉ để sửa cũng tốt, như vậy tinh thần thỉnh nguyện mới đầy đủ ý nghĩa. Tự giác là tinh thần cao thượng, tự mình biết nhận lỗi, sửa đổi những xấu dở thành tốt đẹp.

Chúng ta còn là phàm phu, không ai tránh khỏi lỗi lầm. Khi sống chung với nhau cũng phải làm những công việc lặt vặt, có làm là có va chạm. Vì khi làm có kẻ giỏi người dở, kẻ mạnh người yếu, người siêng kẻ lười, không giống nhau nên rồi cũng có những sai biệt. Từ sai biệt sanh ra bực bội, rồi có những chuyện bất đồng. Mà chúng ta đã là người tu rồi thì bất đồng nào cũng phải hóa giải, đừng để gây chia rẽ, bất an hoặc buồn phiền. Ðiều đó không tốt, gây trở ngại cho sự tu. Ðó là tôi nhắc nhở toàn chúng tinh thần thỉnh nguyện và sống trong tập thể phải nhớ như vậy.

Giờ tôi nhắc thêm trên mặt giới luật, đây nói cho Tỳ-kheo mà Sa-di cũng nên biết để sau này tập cho được như vậy. Trong giới Tỳ-kheo khi nói về pháp Tứ y, trong đó có nhắc chúng ta bốn điều mà Tỳ-kheo phải thực hiện cho được.

1- Bị người mắng không được mắng lại.

2- Ai giận mình không được giận lại.

3- Bị giễu cợt không giễu cợt lại.

4- Bị đánh không đánh lại.

Ðó là bốn điều mà ai thọ giới Tỳ-kheo cũng phải giữ. Bây giờ tôi giải thích cho quí vị thấy tại sao bị mắng không được mắng lại. Chúng ta sống trên thế gian này, ngoài tập thể tu hành của mình còn bao nhiêu người thế gian rất phức tạp, kẻ thì quí trọng đạo đức, người lại khinh thường đạo đức, kẻ gian manh, người lương thiện, không ai giống ai.

Ở trong chỗ phức tạp như vậy, thông thường người có đạo đức thấy người tu thì mến, kẻ không đạo đức thấy người tu sẽ không ưa. Không ưa thì khi thấy cái gì làm họ thiệt thòi đôi phần, họ dễ dàng mắng chửi. Nếu họ là người phàm tục mắng chửi mình, mình mắng chửi lại thì có khác họ không? Người ta không tu mắng chửi mình, mình đã tu mà mắng chửi lại tức hai bên cùng là phàm phu tục tử hết, không có ai là người đạo đức thật.

Bởi vậy Phật mới dạy chúng ta dù có bị mắng chửi cũng không nên mắng chửi lại, như vậy mới rõ ràng ai là người đạo đức, ai là người vô đạo đức. Nếu bên này mắng qua bên kia mắng lại, thì hai người như nhau, đều không có đạo đức.

Ðó là ý nghĩa rất quan trọng đối với người tu, nhất là hàng Tỳ-kheo không thể nào quên được điều đó. Nếu quên thì mình giống hệt người thế gian.

Thứ hai, bị người giận không được giận lại. Tại sao người ta giận mình mà mình không có quyền giận họ? Vì họ là người chưa hiểu đạo, chưa biết tu nên cái gì không vừa ý liền giận. Họ luôn cho là mình đúng, nói rằng việc đó đáng giận… Nhưng với người tu chúng ta, mỗi lần giận bị thiệt hại lớn lao trên đường tu. Vì giận dễ thốt ra lời không lành, giận sẽ có những hành động không tốt, làm thương tổn đạo đức của mình. Ðó là bên ngoài, còn bên trong khi giận người ta thì lòng mình bất an, rối rắm không thể nào ngồi thiền tu định được, vừa trở ngại sự tu, vừa hạ thấp giá trị đạo đức của mình nữa. Cho nên khi người ta giận mình Phật cấm mình giận lại là vậy.

Thứ ba, người ta giễu cợt mình, mình không được giễu cợt lại. Vì người đời hay đùa cợt khi thấy ai có cái gì lạ. Thí dụ họ thấy mình tu liền nói “thầy chùa nấu canh chua”, là sao? Có phải giễu cợt không? Nếu mình giễu cợt lại thì đều là những người nói tào lao tầm bậy. Cho nên thế gian họ giễu cợt mình, mà mình vẫn trầm tĩnh, an nhiên thì sự giễu cợt đó thành vô nghĩa. Nếu mình tìm những lời để cợt lại họ, hay nói cho họ bực tức thì đó là trái đạo lý, mất tánh cách điềm đạm bình tĩnh của người tu. Vì vậy mà Phật không cho giễu cợt lại.

Thứ tư, người ta đánh mình, mình không được đánh lại. Ðiều này quí vị thấy rất khó phải không? Tại sao rất khó? Ðánh tức là xúc phạm đến cơ thể này, thì phản ứng tự nhiên là nó chống trả lại. Nhưng với người tu, lúc nào cũng làm chủ mình, nên những sự vô lễ nếu có tác hại đến thân mình, ta nên lặng lẽ tránh, để giữ cho đúng thái độ người tu. Nếu một ông thầy mặc áo tràng vàng, áo tràng nâu ra đường gặp người nào đó đang bực mình đến đánh, lúc đó mình đánh lộn với họ thì thế gian sẽ đánh giá làm sao? Mình là người tu hay là không tu? Vì vậy trước những kẻ hung hăng chúng ta nên né tránh, đừng để xảy ra chuyện đánh đập lẫn nhau. Làm như vậy trái đạo lý, thiên hạ sẽ chê cười là mình không có đạo đức.

Phật đặt bốn điều này ở bên cạnh các giới trọng mà người xuất gia phải thọ phải giữ. Trong chúng cần hiểu rõ những điều này để sống sao cho đúng, cho tròn với những gì đã hứa trước Phật, nguyện trước chư Tăng khi mình thọ giới. Những điều quan trọng đó mà không giữ thì làm giảm giá trị của người tu.

Trong kinh Phật dạy mình phải như đất, dù họ có xoi xỉa, có tiểu trên đất, đất cũng không giận, nhưng thường mình có giận không? Mình bị xoi xỉa một chút thì chịu không nổi. Phật lại dụ chúng ta như nước, nước đem lại mát mẻ cho người, nước còn bị người ta sử dụng để tắm, giặt đồ nhơ uế, mà nước cũng không buồn không giận, người tu cũng phải như vậy.

Do đó tất cả chúng ta tu phải chấp nhận những gì người ta đem tới, dù không tốt mình vẫn giữ được tinh thần đạo lý, vẫn im lặng chấp nhận mà tâm không ô nhiễm thì mới tốt, mới là đạo đức thật. Ðừng tỏ ra mình khôn lanh, rồi chống đối người này, cự lộn người kia, đó là dở. Cái khôn lanh đó là thế tục chớ không phải đạo đức.

Ở đây đạo đức là chúng ta ẩn nhẫn, chịu đựng hết những điều xấu dở mà lòng không thù giận, không phiền não. Ðó mới thật là đạo đức. Còn nếu thù giận thì đạo đức suy giảm, đưa đến mất hết giá trị của người tu. Vì vậy hôm nay tôi mong tất cả chư Tăng đều có tinh thần ẩn nhẫn cao đối với những việc không như ý, đừng nên có tâm phiền não, dấy động làm mất giá trị người tu, người đạo đức.

***

(*) Một hôm Thiền sư Vân Môn thượng đường, đưa cây gậy lên bảo chúng: “Phàm phu gọi nó là thật, Nhị thừa phân tích nó là không, Duyên giác gọi nó là huyễn có, Bồ-tát thì đương thể tức không, Thiền gia thì thấy cây gậy gọi là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến.” (Thiền Sư Trung Hoa tập II, HT. Thích Thanh Từ soạn dịch)

 

Thỉnh Nguyện Ni

Ngày 28-10 Ðinh Sửu (27-11-1997)

Vừa rồi, có đoàn bác sĩ lên đây khám bệnh, khuyên những vị có bệnh, phải đi trị cho được mạnh khỏe. Tuy là trong chúng không ai xin đi nhưng trong lòng chưa an, bây giờ Thầy nói cho tụi con rõ.

Kỳ trước Thầy về Thường Chiếu, chiều qua Linh Chiếu chơi, ngồi nói chuyện với một số Phật tử, có bác sĩ H. tới xem mạch Thầy, cho biết mạch nhảy nhanh và khuyên Thầy nên nghỉ ngơi, đừng làm gì nữa. Nhưng hôm sau Thầy có buổi giảng, rồi kế tiếp phải đi Trà Ôn. Như vậy, nếu nhát gan sợ bệnh thì mọi việc phải đình. Nghe bác sĩ khuyên Thầy chỉ cười thôi và việc của Thầy, Thầy cứ làm. Chủ nhật Thầy giảng rồi sáng thứ hai đi Trà Ôn, về tới nay khỏe luôn.

Thông thường, khi bác sĩ thấy có gì không ổn, họ báo cho mình biết, đó là bổn phận của người thầy thuốc. Nhưng chúng ta, một người tu đừng nên quá yếu đuối, thấy gì cần làm thì làm, dù cho chết cũng làm. Cứ nghe nói có bệnh rồi phát hoảng, buông xuôi hết mọi việc thì suốt đời không làm được gì, không tu tiến được. Tụi con kiểm lại coi ở trong chúng này có ai không bệnh? Người này bệnh tim đi trị ba tháng, người kia bệnh phổi đi trị ba tháng, rồi người nọ bệnh gì đó cũng đi trị ba tháng. Như vậy Thiền viện này chỉ lo đi trị bệnh thôi!

Kế đến là vấn đề ăn uống. Sự thật bác sĩ nêu lên điều kiện cho mình sống tốt lành trong sung túc chớ không phải tốt lành trong thiếu thốn. Nếu sung túc thì người giàu theo mới nổi chớ người nghèo không ai làm nổi. Tụi con kiểm lại, nếu mình bồi bổ cho thật đầy đủ, tốt lành thì phải là nhà tư bản. Ví dụ bác sĩ bảo mỗi ngày uống một ly sữa, làm sao có đủ để uống.

Tất cả tụi con nên nhớ sự tu của mình cần có đạo lực và ý chí. Ðạo lực thật mạnh và ý chí cho vững thì cái gì cũng lướt qua hết. Nếu tu lơ là, yếu đuối sẽ thấy đủ thứ trở ngại. Như Thầy, người ta cho nhiều loại thuốc và bác sĩ cũng quen nhiều, mà Thầy đâu có đi khám bệnh. Lâu lâu họ tới khám giùm, không thì thôi.

Thầy nghĩ ai cũng có bệnh, nhưng nếu biết thì bệnh lại giúp cho sự tu của mình. Thông thường, người ta nói bệnh là trở ngại. Ðó là trường hợp tinh thần yếu, bệnh rồi buồn lo, ngồi thiền, tụng kinh không được, ngày càng lui sụt. Ngược lại, người có đạo lực, khi cơ thể bệnh càng thấy rõ cái thân bại hoại, không ý nghĩa gì hết. Chính vì nhìn như vậy nên mắt trí tuệ được sáng, không còn chấp ngã. Nếu chấp ngã nặng thì tu không tiến.

Khi bệnh, tụi con thấy thân này không ra gì, như đồ bỏ, tụi con sẽ tiến nhiều. Thấy thân bại hoại, bệnh hoạn khổ sở, mình không còn quyến luyến thân, dễ tiến tới chỗ giải thoát sanh tử. Nếu thấy thân quan trọng sẽ sanh yêu quí, vì trọng thân là ái thân, đến lúc mất thân này liền tìm chụp thân khác để trở lại. Còn thấy thân này là vô thường bại hoại, đau khổ nên không còn quyến luyến nó, khi nhắm mắt được tự tại, buông nó dễ dàng. Ðó là nhân giải thoát sanh tử.

Bác sĩ lên thăm bệnh là rất tốt. Những gì bác sĩ nhắc nhở, mình làm được cái gì thì làm, như bảo tập thể dục mình làm được, vì cái đó nằm trong tầm tay mình. Những điều quá tầm tay thì cười thôi, coi nó không quan trọng.

Khi Thầy ra Bắc, lên núi Yên Tử, thấy có những người già bảy, tám mươi tuổi mà leo lên đỉnh núi được. Mấy bà già đó gầy ốm, xem chừng như ở quê, đâu có điều kiện sung túc. Như vậy không phải sung túc là sống dai, thiếu thốn thì chết yểu. Người biết sống điều độ hoặc người lao động vừa chừng sẽ khỏe mạnh sống dai. Ðừng chăm chút thân này quá, cứ sợ nó thiếu chất này, chất kia rồi cứ lo bồi dưỡng hoài, thành ra lo ăn mà không lo tu.

Vậy toàn chúng nên nhớ, mình là người tu có điều kiện sống của người tu, muốn làm gì đều ở trong cái chừng mực của mình, đừng vượt ra ngoài hoàn cảnh hiện tại. Ðây là lời nhắc nhở của Thầy.

Ngày 28-12 Ðinh Sửu (25-1-1998)

Hôm nay Thầy nhắc sự tối thiết yếu của việc tu hành, điều này tụi con đã thuộc lòng, không đứa nào không biết. Ðó là lòng từ bi.

Trong đạo Phật có hai điểm then chốt là trí tuệ và từ bi. Tụi con tu, nếu trí tuệ viên mãn mà không có lòng từ bi viên mãn thì không thể thành Phật được. Ðức Phật là tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Giác tha là từ bi, nghĩa là làm cho mọi người được giác ngộ. Muốn thành Phật phải đủ hai điều: Tự mình giác ngộ tròn đầy và giáo hóa cho mọi người đều được giác ngộ.

Vậy, giác ngộ tròn đầy là phần của mình, giáo hóa cho mọi người được giác ngộ như mình là tâm từ bi. Một tu sĩ Phật giáo không thể nào chỉ có một phần giác ngộ cho mình, mà còn phải giác ngộ cho người. Ðó là điều không thể thiếu đối với người tu. Muốn giác ngộ cho người thì phải đầy đủ lòng từ bi. Tại sao vậy? Vì nếu không thương người thì mình không chịu khó dạy dỗ, khuyên răn nhắc nhở để họ ra khỏi chỗ mê lầm tăm tối, trở thành sáng suốt được.

Nhưng gần đây Thầy thấy giới tu sĩ có lỗi rất lớn là giác cho người thế tục thì nhiều, mà giác cho huynh đệ thì ít. Ðối với huynh đệ xử sự không được từ bi, còn với người thế gian lại rất từ bi. Tu sĩ nào cũng nói mình luôn luôn có lòng từ bi, cứu độ tất cả chúng sanh để họ được giác ngộ. Thế nhưng lại không có lòng từ bi, dìu dắt huynh đệ qua khỏi biển mê tới bờ giác. Nếu lòng từ bi của mình chỉ bủa rộng ra ngoài, mà quên mất những người gần gũi thì thật đáng trách. Như thấy gia cảnh nào hoạn nạn, hoặc đang lạc trong mê lầm… thì mình thương xót lắm, còn huynh đệ có hoạn nạn hay mê mờ, mình lại ít xót thương, nhất là huynh đệ cùng ở chung. Ðó là điều rất thiếu sót.

Ðức Phật dạy Từ bi quán là trước hết phải khởi tâm từ bi thương xót những người thân của mình, như cha mẹ, anh em. Nếu mình được vui thì chan rải cho họ niềm vui như mình. Kế đến là bà con dòng họ, mình đem tình thương bủa khắp cho họ. Cái gì mình vui đều chia sớt cho người đó được vui, đây là chặng thứ hai. Chặng thứ ba, quán tất cả những người ở gần mình, khởi lòng thương họ không sót một người nào, đem tất cả sự an vui của mình chia sớt cho họ. Rồi đến người sơ, là người mình chưa quen biết cũng chan rải san sớt những an vui cho họ. Cuối cùng, đối với những người oán thù, cũng thương họ như người thân, có cái gì lợi lạc đều đem chia sớt. Ðiểm khởi đầu là người thân, từ từ tới người thù, mình quán được vậy là thành công Từ bi quán.

Như thế, khởi đầu là ở gần, dần dần ra xa. Nhưng một số người tu chúng ta lại nhìn ra xa, không quán ở gần. Nhiều khi huynh đệ nằm gần bên đau đớn khổ sở, mình vẫn tỉnh bơ, nhưng nghe dưới xóm có người nào khổ thì xót lắm, nhiều khi khóc nữa. Như vậy có thật sự từ bi không?

Ðối với những người sống chung, cùng tu học với mình, thì phải thương họ như thương mình, đó là lòng từ bi. Có gì vui thì chia sớt, lúc họ khổ mình an ủi, làm sao cho người chung quanh được vui là mình vui, họ khổ cũng như mình khổ. Ðừng nên nghĩ đó là nghiệp họ, không liên hệ gì với mình. Phải thương huynh đệ như chính bản thân, mới thật là từ bi. Tụi con được vậy chưa?

Người tu nếu thiếu lòng từ bi thì không xứng đáng là đệ tử của Phật. Nói là đệ tử Phật thì phải có lòng thương giống như Phật. Chúng ta thường nói rất hay mà chưa thực hiện được, đó là điều Thầy muốn nhấn mạnh. Thầy chỉ mong tụi con thực hành cho được lòng từ bi đúng nghĩa của nó. Ở đây chỉ có năm mươi người, với ai tụi con cũng thấy là người chí thân chí thiết của mình. Một người khổ là cả chúng khổ, một người vui toàn chúng đều vui, thân với tất cả chớ không phải thương mến cá nhân.

Thân với một người mà sơ với mọi người là ái không phải từ bi. Tình thương vì người là từ bi, đạo đức, còn tình thương ích kỷ là ái, là lỗi lầm, làm chướng đạo. Tụi con nên mở rộng lòng từ bi nhưng không có quyền nuôi dưỡng tâm ái. Nếu còn ái nhiễm là đi ngược lại lời Phật dạy.

Tu là mở rộng lòng từ bi thương tất cả chúng sanh, mà trước hết là thương những người sống gần với ta. Chết, sống, khổ đau, đói khát đều chung chịu. Nếu toàn chúng ở đây thấy huynh đệ khổ vui, chia sẻ cũng như bản thân mình thì trong chúng này có gì phiền não không? Chắc là không!

Chúng ta thường thấy người và mình riêng biệt, cho nên họ khổ mình không quan tâm, khi họ vui mình ganh tỵ. Như vậy là lòng từ bi ngày càng khép chặt. Tụi con cần phải thể hiện lòng từ bi, chớ không chỉ giảng nói từ bi. Làm sao tụi con đối với nhau như ruột rà chớ không coi như người xa lạ, vì tụi con là huynh đệ đồng tu, đồng chí hướng, đồng thờ đức Phật làm thầy.

Ðã mang dòng họ Thích là con của đức Phật, tức phải đầy đủ trí tuệ và từ bi. Hai cái đó thiếu một là chưa xứng đáng con của Phật, chưa phải là Thích nữ. Như vậy tụi con phải tập mở sáng con mắt trí tuệ, mở rộng lòng từ bi. Muốn vậy, phải ngay ở đây, trong huynh đệ mình thực hiện được điều đó, sống chung vui chung khổ, thương giúp nhau tu hành. Nếu huynh đệ ở gần, cùng tu cùng sống với mình năm mười năm mà không thương nhau, chỉ thương mến người ngoài thì e nhiều khi là vì danh vì lợi, chớ không phải từ bi thật.

Ngày nay, còn ở trong chúng, tụi con không thực hiện được lòng từ thì khi ra làm Phật sự chưa chắc có lòng từ bi. Có khi miệng nói từ bi mà trong lòng tham danh tham lợi. Mục đích người xuất gia là truyền đạo cứu khổ chúng sanh, rốt cuộc mình làm chúng sanh khổ, đó là sai lầm của chúng ta. Nếu ngay trong chúng tụi con thật tình có lòng từ bi thì khi ra khỏi đây, ở nơi nào tụi con cũng đều thực hiện được lòng từ bi đó. Nếu ở một vùng một xóm thì thương hết một vùng một xóm. Nếu ở một tỉnh tụi con thương hết một tỉnh. Ðó là thực hiện lòng từ bi.

Ngày xưa, Thầy tuyên bố với mọi người rằng: “Thầy là kẻ nợ của Tăng Ni.” Nghĩa là sao? Thầy là kẻ thiếu nợ nên ai đòi Thầy phải trả. Nhưng Thầy lại nói thêm một câu là: “ai biết đòi Thầy trả trước, ai chưa đòi thì thôi”, vì nhiều chủ nợ quá, trả một lượt không hết. Nếu ai biết đòi thì trả trước, ai không khéo đòi trả sau. Không những Thầy là kẻ nợ của đệ tử mà còn là kẻ nợ tất cả Tăng Ni. Nhìn lại Thiền viện mình, tụi con là đệ tử Thầy hay cũng có đệ tử quí thầy khác. Dù đệ tử thầy khác mà biết đòi, Thầy cũng trả luôn chớ không riêng là đệ tử, đó là tâm nguyện của Thầy.

Nhưng sau này thấy từ bi như vậy vẫn còn hạn hẹp quá, Thầy mới nói lại: “Thầy là kẻ nợ của tất cả chúng sanh.” Như mỗi chiều Thầy đem bánh mì cho mấy con chó ăn, có phải Thầy là kẻ nợ của nó không? Tại sao Thầy phải cực như vậy? Vì Thầy thấy người nào, sanh vật nào chung quanh Thầy đều thương. Không phải con chó Pha Lê ở gần Thầy mới thương, thằng Ly Si ở xa lại hay cắn người Thầy cũng thương. Như Tiểu Hỷ ở gần Thầy thương, mà Tí To hay cắn Tiểu Hỷ Thầy vẫn thương.

Như vậy tụi con mới thấy từ bi là thương tất cả. Không nên đóng khung nơi một người một vật mà phải mở rộng lòng ra. Ai cũng có lòng từ bi tràn trề như vậy thì tâm ái sẽ dứt. Con người thường sẵn có tình cảm, nếu thương bằng tâm từ bi là tình thương bình đẳng tốt đẹp, còn thương bằng tâm ái là thương hạn hẹp rồi đi tới ích kỷ xấu xa.

Người xuất gia phải có tình thương, đó là từ bi. Nếu chỉ có trí tuệ thì khô lắm, người ta sẽ cảm thấy khó gần mình. Nói lý vô thường người ta đâu có hiểu, phải làm sao cảm thông được nỗi khổ của họ, để cùng chia sớt thì mới có thể dìu dắt họ được. Ðừng nên gặp người đang khổ đau, khóc lóc hoặc buồn phiền, mình nói: “ôi, cuộc đời vô thường mà, có gì đâu”, rồi không thèm cảm thông với họ.

Do đó, trong nhà Phật nói: Có trí tuệ không có từ bi là trí tuệ khô, gọi là “càn tuệ”. Còn nếu có từ bi mà không có trí tuệ là si, là từ bi ngu. Nên chúng ta học Phật phải có trí tuệ và từ bi. Nhờ có trí tuệ, mình thương tất cả chớ không thương một hai cá nhân. Như vậy tụi con chuyển tình cảm thương yêu riêng lẻ thành tâm từ bi bủa khắp, đó là khéo tu. Nếu tụi con không chuyển được, cứ đóng khung ở một hai người là không khéo tu, không từ bi.

Bởi vậy tụi con nên thương tất cả, ai có gì khổ tụi con cảm thông giúp đỡ hoặc an ủi khuyên lơn. Ðối với huynh đệ trong chúng, người nào cũng như người nào, thấy ai buồn mình chia sẻ. Nhờ sự cảm thông đó, họ cũng vơi bớt nỗi buồn.

Vậy tụi con khéo tập làm sao mỗi đứa đều có tâm từ bi thật sự từ ngay trong chúng. Từ bi thật sự chớ không phải giả dối ngoài miệng. Tụi con phải chia sớt với nhau những buồn vui, khó khổ để đem lại an lạc cho nhau. Như vậy tụi con sẽ thấy ở đây là Cực Lạc. Nếu tụi con ích kỷ hẹp hòi thì ở đây là Ta-bà. Biết thể hiện lòng từ bi, tuy chưa về Cực Lạc mà tụi con sống trong Cực Lạc. Ở trong chúng, nếu ai cũng vui tươi hòa hợp, biết thương yêu giúp đỡ chớ không làm phiền hà nhau thì sẽ sống an lành. Từ an lành tụi con tu dễ tiến. Còn nếu mình có ác kiến với người này, chống đối người nọ, tụi con chỉ làm rối nhau, mình không tu được mà người gần mình cũng không tu được.

Như vậy lòng từ là thiết yếu. Tất cả tụi con đừng nên hẹp hòi, phải mở rộng lòng thương hết huynh đệ, rồi ngày mai sẽ thương tất cả chúng sanh. Nếu ngày nay trong huynh đệ không thương nhau mà nói thương chúng sanh thì Thầy không tin nổi điều đó. Tụi con phải thực tế, đừng nói gì xa xôi. Ðó là điều thiết thực cuối năm Thầy nhắc nhở, mong tất cả cố gắng thực hiện cho được.

Ngày 28-1 Mậu Dần (24-2-1998)

Hôm nay Thầy có ít lời nhắc chúng, nói để cho chúng có kinh nghiệm, nhất là những người lớn. Gần đây, theo kinh nghiệm riêng của Thầy trong Phật sự, Thầy thấy rõ ràng người ra làm Phật sự thường có những ảo tưởng:

– Ảo tưởng thứ nhất, nghĩ rằng tập thể của mình lúc nào cũng hoàn toàn trong trắng.

– Ảo tưởng thứ hai, nghĩ rằng làm Phật sự chín chắn lúc nào cũng được mọi việc như ý.

Ðó là hai ảo tưởng tụi con phải nhớ để rút kinh nghiệm, sau ra làm Phật sự không thấy khó chịu.

Thứ nhất, ảo tưởng tập thể của mình lúc nào cũng đẹp, nhất là cho rằng toàn chúng lúc nào cũng sống đúng lục hòa. Tại sao chúng khó hòa được? Tụi con nhớ lại xem, thân của mình do tứ đại hòa hợp, nhưng thật sự có hòa hợp không? Nước không ưa lửa, đất không ưa gió, nước lửa đất gió đối chọi nhau, nên chúng ta phải tìm đủ cách để điều hòa. Nếu nó không chọi nhau thì mình đâu có bệnh, mà thật ra lúc nào cái bệnh cũng chực sẵn một bên. Ðó là do nước với lửa không hòa, đất với gió không hòa. Nên người tu thật ra thời giờ lo cho đời, cho đạo không bằng thời giờ lo cho mình. Phải lo cho đất nước gió lửa trong thân trước, rồi mới lo việc đời việc đạo được.

Như vậy bản thân mình là bất hòa. Sở dĩ chúng ta còn ngồi yên, được tỉnh táo sáng suốt như thế này là mình phải theo dõi điều hòa luôn luôn, nếu không khéo điều hòa, ít bữa sẽ ngã bệnh liền. Thí dụ như miệng thích ăn ngon một bữa, nhưng ăn quá thì sau đó sanh bệnh. Hoặc gặp trường hợp nóng quá, lạnh quá thì cũng bệnh.

Thân mình là một hợp thể gồm các thứ đối địch. Thế thì nhiều cái hợp thể đối địch đó làm sao hòa lại được, phải không? Ðương nhiên là trong đó luôn luôn có sự đối kháng nhau.

Lúc trước có người hỏi Thầy: Nước với lửa, hai cái không hòa nhau, phải làm sao? Thầy trả lời rằng: Tuy nước với lửa không hòa nhau, nhưng nếu mình khéo sử dụng thì có cơm ăn. Nhờ cái này lạnh cái kia nóng, hợp lại nấu chín nồi cơm.

Qua câu chuyện đó, tụi con mới thấy, cuộc sống ở giữa thế gian này là khéo điều hòa. Ðừng đòi hỏi mọi người hòa với nhau hoàn toàn. Chuyện đó không có. Nhưng cái khéo của người lớn là phải điều hòa mấy thứ đối chọi nhau đó. Ðừng tưởng rằng những người hợp tác với mình, cùng tu với mình đều chung một ý tưởng. Không có điều đó đâu, luôn luôn có những cái đối địch. Nếu người có trách nhiệm khéo điều được, đó là hữu dụng, nếu không điều được trở thành vô dụng.

Như tụi con thấy, bản thân mình lúc nào cũng phải điều hòa. Khéo điều hòa thì ít bệnh, không khéo điều liền sanh bệnh. Trong tập thể cũng vậy, người lớn nhìn thấy chỗ ưu khuyết của mỗi người rồi điều lại cho hòa hợp, không thì hỏng. Như vậy, cuộc sống giữa đời này là cuộc sống điều hòa chớ không phải mọi thứ đều an ổn theo ý mình, như mình muốn nói một thì ai cũng nói một, nói hai ai cũng nói hai. Không phải vậy! Luôn luôn có sự chống đối. Ðó là điều tụi con phải rút kinh nghiệm.

Ngay trong huynh đệ, tụi con cũng phải tế nhị để điều hòa nhau cho được tốt đẹp. Mai kia lớn lên ra làm Phật sự cũng vậy, tụi con đừng tưởng rằng ai hợp tác với mình cũng hợp tình hợp ý hết. Ðừng bao giờ nghĩ như vậy! Phải sẵn sàng đón nhận những cái đối nghịch, rồi vận dụng khả năng khéo điều để đi tới hòa hợp nhau.

Ảo tưởng thứ hai là mong mọi việc làm đều được như ý. Tụi con nghĩ, trên thế gian này mọi việc đều như ý được không? Tụi con làm việc nhỏ sẽ có trở ngại nhỏ, làm việc lớn có trở ngại lớn. Không bao giờ mọi việc đề ra đều được trọn vẹn như ý.

Bây giờ Thầy kể kinh nghiệm của Thầy. Từ hồi ở Chân Không cho đến nay, có lúc Thầy gặp hoàn cảnh rất khó khăn, nếu không kiên trì thì Thầy giải tán chúng cho khỏe. Nhưng Thầy không giải tán chúng mà còn cho xuất gia thêm. Có những người xuất gia mà Thầy không dám bảo đảm có tu trọn đời được không. Phải gan, phải liều chấp nhận cái khó mới làm được việc cho đạo.

Việc làm của Thầy là việc làm trong chỗ liều lĩnh chớ không phải thuận duyên, như T.T lúc xuất gia là quí thầy làm liều. Rồi đến Chân Không đang ở êm ấm phải đi xuống Thường Chiếu. Như vậy có phải là một sự thiệt thòi bất như ý không? Người ta tốn khá nhiều nước mắt trong chuyến đi đó, phải không?

Không phải cái gì cũng được như ý mình. Nhưng gặp hoàn cảnh nào Thầy cũng chấp nhận. Nhờ xuống Thường Chiếu sớm nên bây giờ Thường Chiếu được tốt đẹp. Thời gian ở Thường Chiếu, Thầy bị bệnh liên miên, đó cũng là điều bất như ý. Khi lên Ðà Lạt, thấy đất đai tốt Thầy muốn xin, nhưng sáu bảy năm sau mới được chấp thuận. Rồi phải tốn hao bao nhiêu mồ hôi nước mắt trong đó nữa.

Như vậy tụi con mới thấy rằng muốn làm việc gì mình cũng phải chịu đựng rất nhiều điều bất như ý. Ðừng tưởng cái gì mình muốn đều được người ta hưởng ứng theo. Nghĩ như vậy là ảo tưởng, không có lẽ thật. Bởi vì thế gian này là đối địch, bản thân mình đối địch, nội tâm đối địch. Thiện ác cũng đối địch nhau, lâu lâu niệm ác lên, niệm thiện liền la rầy, làm cho trong lòng luôn ray rứt, bất an.

Như vậy, nội tâm mâu thuẫn, rồi bản thân mâu thuẫn, thì làm sao xã hội không mâu thuẫn? Người nào làm việc lớn đều phải có sức chịu đựng, biết khéo điều hòa. Ðó là sức mạnh làm được việc. Ðừng mơ tưởng đi ra rồi nói gì người ta tin nấy. Ðừng có ảo tưởng như vậy! Biết đâu năm bảy năm nữa tụi con ra gánh vác việc này việc kia, nếu nuôi ảo tưởng đó là nguy.

Cho nên phải thấy rõ tất cả những gì mình làm đều sẵn sàng có những trở ngại chống đối. Trở ngại chống đối là lẽ thường. Hiểu chắc chắn như vậy, khi bắt đầu làm việc không ngạc nhiên khi gặp những trở ngại. Chúng ta sẽ không buồn phiền than khóc khi thấy mình làm việc lành việc phải mà bị cản ngăn. Ðó là những kinh nghiệm thực tế ngay trong bản thân và trong tập thể của mình.

Như vậy, tụi con phải biết trong một tập thể, dù vài người hay trăm người sống chung với nhau, làm sao không có những điều trái nghịch? Với số chúng năm mươi như ở đây, nhất định cũng có những điều chống trái với nhau. Nhưng sở dĩ tụi con ngồi yên tu được là nhờ khéo điều hòa, không phải tự nhiên mà được như vậy.

Bây giờ người ta cho Thầy phục hồi Chân Không, đó cũng là được như ý rồi. Chân Không không mất, Thường Chiếu mở rộng, lại có thêm Trúc Lâm nữa. Tuy nhiên, cho phục hồi đó đâu phải tự nhiên được liền, cũng cay đắng nhọc nhằn biết bao nhiêu! Như vậy, mình phải gan lì chịu đựng, khéo điều hòa rồi mọi việc mới thành tựu. Nếu ai không hiểu được như vậy thì một lần thất bại sanh ra chán nản, rồi đi đến chỗ buông xuôi.

Vậy tụi con ráng liệu trước, mai kia mỗi đứa đi mỗi nơi làm Phật sự, chừng đó Thầy không nhớ để nhắc lại.

Ngày 28-2 Mậu Dần (26-3-1998)

Hôm nay thỉnh nguyện, trong chúng những vị có lỗi nhỏ vẫn tha thiết sám hối cho ba nghiệp được thanh tịnh. Ðó là điều tốt, biết tự giác, cố gắng để tu hành. Ngoài ra, đa số không có lỗi lầm. Mong rằng tụi con cố gắng tu hành mỗi ngày mỗi tiến. Những lỗi đã phạm nhất định phải chừa.

Thầy nói một số giáo lý căn bản để nhắc cho toàn chúng hiểu. Nhiều khi chúng ta học đạo mà không hiểu rõ chánh pháp của Phật, nói ra có những chỗ sai lệch, người ta chê cười. Ðây là chuyện hết sức tế nhị. Như nói về luân hồi, nghiệp báo, nhân quả, nhiều người cho rằng đời này mình làm ác thì đời sau chịu tội, đời này mình làm việc lành, đời sau sẽ hưởng quả lành. Ðó là lỗi lầm mà không hay.

Ðức Phật dạy rằng: Nếu nói đời này mình làm, đời sau thọ nhận, đó là chấp thường; còn đời này mình làm không dính dáng đến đời sau là chấp đoạn. Chúng sanh bị mắc kẹt ở hai bên thường và đoạn. Tụi con có hiểu nổi ý đó không? Ðây là điều đa số lầm lẫn. Tại sao vậy? Vì trong nhà Phật dạy, chúng ta tạo nghiệp đời này, đời sau sanh ra chịu quả báo, nhưng chịu quả báo bằng cách nào?

Những người ngoại đạo hỏi Phật: Ðạo Phật không thừa nhận có linh hồn, nếu vậy, đời này mình tạo nghiệp lành hay dữ, khi chết rồi đời sau ai ra đời để chịu nghiệp lành dữ đó? Người tu chúng ta nếu chưa nắm vững giáo lý nhà Phật cũng sẽ nghĩ là có linh hồn. Ðạo Phật không chấp nhận như vậy.

Bây giờ Thầy giải thích điều đó trước. Tại sao đạo Phật không chấp nhận có linh hồn? Vì linh hồn trùng lặp với cái ngã, bên Ấn Ðộ giáo gọi là thần ngã, nhân gian gọi là linh hồn. Thí dụ, một người tên A chết đi rồi sanh lại qua đời sau, tên khác nhưng cũng linh hồn A đó. Ðây là lối chấp thường của ngoại đạo. Nên tụi con phải biết cho thật rõ điều này, nếu không chúng ta sẽ bị lẫn lộn vì hiểu nghĩa nghiệp báo của nhà Phật một cách lờ mờ.

Phật bảo rằng không có linh hồn, vì linh hồn là một cái nguyên vẹn, từ bé đến già là một, rồi đời này qua đời sau cũng là một. Ðó là chấp thường. Theo đạo Phật, chúng ta có thần thức hay nghiệp thức chớ không phải linh hồn.

Thức là cái biết, cái phân biệt, là dòng chuyển biến. Sau này dùng chữ nghiệp thức rõ nghĩa hơn. Nghiệp thức là do cái thức mình tạo nghiệp, rồi nghiệp là động lực đẩy thức đi thọ sanh, cho nên nó là một dòng chuyển biến.

Trong đạo Phật gọi cái biết phân biệt của mình là thức, không gọi là linh hồn, vì linh hồn thì không sanh diệt, không đổi thay, còn cái biết của thức là một dòng sanh diệt, nhỏ biết khác, lần lần lớn lên học hành biết khác, thay đổi cho tới già. Thức luôn chuyển biến, không dừng ở một chặng nào hết. Vì cái biết của thức đi theo nghiệp, nên tạo nghiệp lành thì cái biết chuyển theo nghiệp lành, tạo nghiệp ác cái biết chuyển theo nghiệp ác. Thí dụ, ngày xưa còn nhỏ, chơi với mấy đứa bạn dữ, cái biết của mình theo thói dữ, lớn lên gặp những bạn hiền, thì cái biết lần lần chuyển qua hiền. Ðó là một dòng chuyển biến chớ không phải là một cái nguyên vẹn thủy chung.

Như vậy, nghiệp thức là cái thức chuyển biến theo nghiệp. Tạo nghiệp tốt xấu, lành dữ thì cái thức liền chuyển biến theo. Còn nếu là linh hồn nguyên vẹn thì tại sao hồi nhỏ xấu, giờ tốt? Hoặc hồi nhỏ tốt, giờ xấu? Nói con người cả đời không thay đổi, trước sau như một thì không có lẽ thật. Trái lại, nghiệp thức là cái chuyển biến, khi chúng ta tạo ra điều lành, dữ thì nghiệp đó sẽ đưa đẩy cái thức của mình đi tới chỗ lành hoặc dữ để thọ sanh.

Ngoại đạo liền đặt câu hỏi rằng: Nếu nghiệp thức chuyển biến thì cái thọ sanh của đời sau có gì liên hệ với đời trước? Ðó là cái chấp thứ hai: chấp đoạn. Quan niệm đời trước và đời sau dứt điểm, không hề dính dáng với nhau là chấp đoạn.

Ðức Phật trả lời: Ðời này mình tạo thiện ác, đời sau nghiệp thiện ác đó đưa đẩy cái thức của mình tới chỗ tốt xấu tùy theo nghiệp lành hoặc dữ. Nó có sự liên hệ nhưng không phải là một. Liên hệ trong cái chuyển biến, chớ không phải liên hệ trước sau là một. Tuy chuyển biến mà không mất.

Ðức Phật cho thí dụ: Ở Ấn Ðộ có tục tảo hôn, gả cưới sớm. Nghĩa là con cái ba, bốn tuổi cha mẹ đã đính hôn cho. Như có hai gia đình sống gần nhau, cả hai bà vợ cùng mang thai. Hai bên hứa hẹn nếu sau này một người sanh trai, một người sanh gái sẽ kết sui gia với nhau. Ðến khi con được tám tuổi, hai nhà làm lễ đính hôn cho hai trẻ. Như vậy coi như con gái này là dâu của gia đình kia, còn con trai bên kia là rể của gia đình này. Một thời gian sau, gia đình bên nam làm ăn thất bại, phải dời đi xa. Cô bé tám tuổi đó, lần lần lớn lên tới mười tám tuổi mà bên nam không trở về thăm hỏi gì hết. Nên khi có người đi hỏi cô gái đó, cha mẹ liền gả. Nghe tin này, bên đàng trai trở về kiện với quan tòa, thưa gia đình mới này cướp dâu của họ, yêu cầu quan tòa xét xử. Trước mặt quan tòa, bên đàng trai cũ nói rằng:

– Cô gái này tôi đã làm lễ đính hôn cho con trai tôi lúc tám tuổi rồi, bây giờ bên đây cưới cô, đó là cướp dâu của tôi.

Bên kia cãi lại:

– Cô dâu trước của ông là cô bé tám tuổi, còn ngày nay tôi cưới cô này mười tám tuổi. Cô tám tuổi lúc trước là trẻ con, thân bé nhỏ, tâm hồn trẻ thơ. Còn tôi cưới cô này mười tám tuổi, đâu có liên hệ gì. Tôi không cưới cô bé tám tuổi của ông.

Như vậy ông quan tòa phải xử làm sao? Bởi vì cô bé tám tuổi và người con gái mười tám tuổi hình dáng, tâm tư, mọi thứ đều khác. Khác hết nhưng là một hay hai? Tách rời cô bé tám tuổi thì không có cô gái mười tám tuổi, mà xác định cô bé tám tuổi là cô gái mười tám tuổi cũng không được, vì hai bên đều khác. Nếu đem ra cân ký thì hai bên khác biết bao! Ðó là nói thể xác, còn tâm hồn cũng vậy, lúc tám tuổi và lúc mười tám tuổi không giống nhau nữa. Vậy thì dường như là khác hết mà không rời cái xưa cũ, phải không?

Do đó kết luận, nghiệp thức là nghiệp đưa đẩy dòng thức đi thọ sanh, tuy rằng đời này đời sau là một dòng chuyển biến nhưng không mất cái gốc ban đầu. Gốc nghiệp ban đầu thiện hay ác đều có chuyển biến nên nói nó là linh hồn nguyên vẹn thì không được. Hiểu như vậy mới thấy giáo lý nhà Phật rất tế nhị, đặc biệt.

Phật lại nói thêm thí dụ thứ hai. Ví như mùa khô trời nắng, có một đám ruộng lúa chín khô. Ban đêm có người cầm cây đuốc đi ngang qua, bất thần một tàn đuốc rớt xuống phát cháy. Từ một đốm cháy nhỏ lan dần hết cả ruộng lúa. Chủ ruộng hay được do người cầm đuốc làm rớt tàn trên ruộng của ông ta nên đi kiện, đòi bắt đền.

Ðứng trước quan, bị hạch hỏi người cầm đuốc nói:

– Thưa có! Tôi đi đường có làm rớt một tàn đuốc bằng ngón tay trên ruộng của ông này, vậy tôi xin đền khoảng lúa bằng ngón tay. Còn lửa cháy cả đám ruộng không phải của tôi làm.

Ông ta nói vậy, theo tụi con phải xử làm sao? Tuy tàn lửa rớt bằng ngón tay, nhưng từ nhân nhỏ này làm cháy lan ra cả đám ruộng. Dù cho sau này đám cháy lớn có lan rộng bao nhiêu vẫn không rời đốm lửa ban đầu. Như vậy, tàn lửa bằng ngón tay và lửa cháy trên cả đám ruộng đó, tuy hai mà một. Nói tàn đuốc nhỏ xíu và cả đám cháy mênh mông là một sao được, nhưng nói khác được không? Ðó là lý nhà Phật, không phải một cũng không phải khác, tức là lý trung đạo.

Thấy rõ như vậy mới hiểu được lý luân hồi của đạo Phật, không bị mắc kẹt. Nếu nói đời này có linh hồn, chết đi qua đời sau cũng linh hồn đó, vậy tại sao linh hồn là khôn ngoan sáng suốt, lại có người lựa chỗ xấu mà đi? Như thế động lực nào dẫn mình đi luân hồi? Thật ra chính nghiệp của mỗi người là động lực thúc đẩy đi tới chỗ thọ sanh, qua đời khác thọ thân khác. Tất cả đều chuyển biến, nhưng gốc cũ không mất. Cho nên trong Duy thức học nói hằng mà chuyển. Thức thứ tám hằnglà thường hằng trong chuyển biến, chớ không phải thường hằng trong cái nguyên vẹn. Bởi nghĩ lầm là nguyên vẹn nên rơi vào thuyết linh hồn, hay thần ngã của Ấn Ðộ giáo.

Ðây là phần giáo lý căn bản trong sự chuyển biến luân hồi từ đời này qua đời khác. Nếu không hiểu rõ thì mắc kẹt, nói một hồi giống như ngoại đạo chấp nhận linh hồn, mình làm rồi chịu đủ, không thể thay đổi. Như vậy là kẹt ở một, đó là bệnh lớn. Cho nên học Phật tụi con phải nghiệm thật kỹ, hiểu cho tới nơi tới chốn, còn hiểu lơ mơ dễ bị lạc.

Hôm nay Thầy nhắc cho tất cả nhớ để tránh hai lỗi đoạn và thường. Hiểu rõ rồi mới thấy giáo lý nhà Phật rất thâm sâu, vi diệu. Tụi con nên nghiền ngẫm lại để thấy cái hay của đạo Phật.

Ngày 28-3 Mậu Dần (24-4-1998)

Trong buổi thỉnh nguyện, những vị nào có lỗi tự thấy ra phát lồ sám hối, còn những vị không có lỗi ngồi tại chỗ yêu cầu chúng chỉ lỗi cho. Ðó là tinh thần rất cao. Trong đây, số có lỗi rất ít, chỉ một vài vị có lỗi nhỏ thôi, như vậy mới thấy sự tu hành của toàn chúng mỗi ngày có những bước tiến đáng mừng. Giờ đây Thầy có ít lời nhắc nhở.

Tất cả tụi con đi tu, nhất là vào Thiền viện, nếu kiểm lại thấy mỗi người ở mỗi nơi khác nhau, cha mẹ khác, tập quán sai biệt. Vào đây bắt tụi con phải sống theo lục hòa, chuyện đó đương nhiên không phải dễ. Bởi vì dù con trong một nhà, anh em ruột thịt, có khi cũng không đồng ý với nhau, còn cãi vã hoặc sanh sự lớn nữa. Huống là tụi con khác cha khác mẹ, khác tất cả mà cùng về đây học thì sự hòa hợp rất khó. Nhưng sở dĩ tụi con hòa hợp được là bởi những lý do sau. Thầy nhắc cho tụi con nhớ để ứng dụng tu.

Lý do thứ nhất: Tất cả tụi con đều chung một lý tưởng giải thoát và cùng thờ một đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Như vậy Phật là bậc thầy dẫn đường cho tất cả chúng ta đi đến giải thoát sanh tử. Phật là vị cha lành, là đấng Thế Tôn chung cho tất cả, không riêng của người nào, nên chúng ta cùng thờ, cùng tu theo giáo lý giải thoát của Ngài.

Ðó là điều thiết yếu cho tất cả tụi con khéo dung hòa để cùng chung sống tu hành, đạt đến giải thoát sanh tử, vốn là lý tưởng tối cao của mình. Vì cùng hướng tới lý tưởng tối cao đó nên những gì nhỏ nhặt, không quan trọng, không đáng kể phải dẹp qua để yên tu.

Tụi con phải nhớ, khi huynh đệ hay người xung quanh mình làm điều gì không vừa lòng, hơi bực bội thì liền buông xả, không nên chứa chấp, nuôi dưỡng. Nuôi dưỡng phiền não là trái hẳn lý tưởng giải thoát. Vì còn phiền não thì làm sao giải thoát sanh tử được.

Lý do thứ hai: Tất cả tụi con đều là người phát tâm tu để tự độ và độ tha, tức là cứu mình và cứu người. Ðừng nên nghĩ tu cho riêng mình thôi, không cần cứu độ ai. Khi nghĩ đến làm lợi ích cho chúng sanh, tụi con phải nhớ đó là một việc lớn. Việc lớn ấy không thể nào cá nhân làm được. Nên ngay bây giờ cho đến sau này, tất cả tụi con phải đoàn kết với nhau để cùng làm Phật sự, hướng dẫn những người xung quanh biết sống đạo đức và có lý tưởng giải thoát giống như mình. Ðó là mục đích tụi con phải thực hiện.

Ðộ người giải thoát những đau khổ hiện tại là việc lớn chớ không phải nhỏ. Mà việc lớn nếu đã quyết tâm thực hiện cho được thì phải quên đi chuyện nhỏ. Hơn thua nhau một vài lời nói là việc lớn hay nhỏ? Ðó là việc con nít không đáng một xu con, vậy mà nhiều khi hơn thua với nhau rồi sanh ra bực bội, cãi vã, có khi dẫn đến chuyện lớn.

Vậy tụi con phải sáng suốt, lúc nào cũng nhớ: Việc nhỏ không đáng để bận tâm. Dù cho ai có nói cao hay nói gác hơn mình một vài lời, cũng nên thấy đó là chuyện tầm thường, không có gì quan trọng. Chúng ta phải làm sao tu được, ngay trong đời này tỉnh giác hoàn toàn, để rồi đánh thức những người khác cũng tỉnh như mình, không bị sáu trần trói buộc. Ðó là sự tu hành chân chánh, mau chóng giải thoát sanh tử.

Nếu tụi con vì những chuyện nhỏ mà hơn thua, hay cố chấp những sai lầm do bất giác của huynh đệ, là những người cùng chung lý tưởng với mình, thì tự thân phải chịu thiệt, không làm nên việc lớn được. Trách nhiệm của tụi con là mai kia phải làm thế nào để cho những người xung quanh có cơ hội hiểu được Phật pháp, tu hành, tiến lên giải thoát sanh tử. Không phải mình là người ăn nhờ xã hội, sống tu được bao nhiêu hay bấy nhiêu, còn ai khổ mặc ai không quan tâm tới. Chúng ta tu theo đạo Phật, Phật dạy phải tự giác rồi giác tha, tự độ rồi độ tha, không phải chỉ độ mình mà không độ người.

Vậy nên tụi con phải cố gắng, muốn làm việc lớn mai sau thì bây giờ phải bỏ đi những điều nhỏ nhặt. Tụi con thấy ngoài đời, trong gia đình vợ chồng, anh em có những lúc giận, đánh chửi nhau nhưng rồi cũng bỏ qua cho nhau. Huống chi tụi con ở đây không có chuyện gì tàn tệ, chỉ do vài lời nói, cử chỉ của những người xung quanh không hợp với ý mình, rồi nổi lên phiền não, đều là việc nhỏ, sao chẳng buông xả cho nhẹ lòng?

Như vậy, tụi con phải nhớ trách nhiệm lớn lao của mình là tự giác giác tha. Phải cố gắng thực hiện cho được thì mới xứng đáng là đệ tử Phật, là người đi trước cầm đuốc dẫn đường cho kẻ đi sau. Nếu không làm được như vậy, tụi con đã trái với sở nguyện, cũng không đúng với tinh thần cao cả của người xuất gia.

Lý do thứ ba, tụi con phải tập tâm hỉ xả tha thứ. Như Thầy đã nói, mỗi đứa tụi con đều khác nhau về nề nếp gia đình, phong tục tập quán của địa phương, cá tánh mỗi người…, ngày nay sống chung với nhau thì những cái riêng tư đó phải khéo hòa hợp. Ðừng cố chấp mấy cái tật xấu của nhau rồi đâm ra bực bội phiền não, trái lại phải luôn tha thứ, thông cảm vì những xấu dở đó là do tập khí cũ của huynh đệ chớ không phải họ muốn như vậy.

Như ở đây có những đứa tu rất cẩn thận, miên mật mà động tới là nổi sân, là vì tuy họ tha thiết, cố gắng tu nhưng tập khí chưa bỏ hết được. Bây giờ mình thương, tha thứ, bỏ qua những điều dở, đồng thời khuyến khích cái hay để cho họ tiến. Ðừng vì lẽ nghe người ta tu hay và miên mật, lâu lâu lỡ có làm điều gì trái đạo lý rồi tụi con bắt lỗi, cho rằng họ không tu hành gì, còn nhiều thứ dở. Nói như vậy là tụi con chưa biết tập khí nhiều đời của mỗi người. Cho nên phải tập tha thứ những sai lầm, xấu dở, sơ sót của huynh đệ để mọi người yên lòng, vui vẻ, quí kính nhau cùng tu. Tụi con đừng nên cố chấp hẹp hòi. Sống trong tập thể, người nào cố chấp nhiều sẽ phiền não nhiều và dễ bị thối thất trên đường tu.

Trong kinh có kể: Thuở xưa Tổ Ca-diếp tu rất miên mật. Trong số các đệ tử của Phật, ngài Ca-diếp là khổ hạnh bậc nhất, đạo lý rất thâm sâu. Phật đã nhiều lần tán thán giữa đại chúng: “Ta được Tam minh thì Ca-diếp cũng được Tam minh, ta có Lục thông Ca-diếp cũng có Lục thông v.v…” Một hôm Vua thần Càn-thát-bà đánh đàn cúng dường Phật, sông núi đất đai đều vang tiếng đàn, bỗng dưng ngài Ca-diếp đứng dậy múa. Trong chúng lúc ấy ngạc nhiên hỏi Phật, tại sao ngài Ca-diếp tu hành nghiêm chỉnh như vậy mà nghe tiếng đàn lại đứng dậy múa, Phật nói rằng: Ca-diếp nhiều đời về trước đã từng làm nhạc công, cho nên bây giờ nghe tiếng đàn đó không làm chủ được.

Nếu chúng ta thấy Ngài múa rồi đánh giá Ngài tu hành không ra gì thì không đúng, vì đó là tập khí nhiều đời. Hiểu chỗ này rồi, tụi con đối với huynh đệ dễ cảm thông, tha thứ nhau hơn, trong cuộc sống sẽ vui vẻ hòa thuận. Nếu tụi con không hiểu liền thắc mắc tại sao người đó ham tu, học giỏi… mà lại còn những cái dở này. Thật ra đâu có ai muốn dở, nhưng vì tập khí cũ còn. Biết vậy nên thương chớ đừng giận, trách. Ngược lại, tụi con cố chấp thì sự tu hành sẽ bị trở ngại.

Thầy mong tất cả tụi con luôn nhớ ba điều Thầy nhắc. Thứ nhất, nhớ mình tu là vì lý tưởng giải thoát sanh tử, cùng thờ chung một đức Phật làm thầy, nên phải thương yêu, giúp đỡ nhau để sự tu hành được tiến. Thứ hai là phải nhớ tất cả tụi con không ai giống ai, nhưng đều quyết tâm tự lợi, lợi tha nên cùng hòa hợp, chung lo gánh vác Phật sự, không phiền hà buồn trách gì nhau, ráng cùng lo việc lớn, bỏ đi việc nhỏ. Thứ ba là ai cũng quyết tâm tu tốt, nhưng do tập khí nhiều đời vẫn còn nên không tránh khỏi lỗi lầm. Biết vậy rồi mình thương cảm, hỉ xả tha thứ cho nhau. Nhờ đó trên đường tu tụi con được an ổn, tiến bộ mà huynh đệ cũng được an ổn. Nếu tụi con cố chấp thì tự mình lui sụt và những người xung quanh thêm phiền não.

Ðó là điều Thầy nhắc cho tất cả tụi con nhớ để tu.

Ngày 28-5 Mậu Dần (22-6-1998)

Hôm nay thỉnh nguyện, quí vị thấy lỗi ra sám hối cho bao nhiêu nghiệp chướng được tiêu trừ, đó là một điều tốt. Kế đây, Thầy có ít lời nhắc nhở toàn chúng.

Tất cả tụi con, nhất là những người đã thọ giới Tỳ-kheo phải nhớ pháp Tứ y đức Phật dạy Tỳ-kheo tăng hay Tỳ-kheo ni… Bây giờ Thầy nhắc cho toàn chúng, kể cả Thức-xoa và Sa-di-ni cũng phải nhớ thực hành thì mới đúng với tinh thần người xuất gia. Bốn điều đó là:

  1. Bị người mắng, không được mắng lại.
  2. Ai giận mình, không được giận lại.
  3. Bị giễu cợt, không được giễu cợt lại.
  4. Bị đánh, không được đánh lại.

Trong bốn điều này tụi con thực hiện được chưa? Ðó là pháp căn bản của một Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo ni. Nếu thực hiện được bốn điều đó thì tụi con có gì bất hòa nữa không? Giả sử khi bị ai mắng mình bỏ qua không mắng lại, thì có gì cãi vã. Ai giận, mình cũng không giận lại thì đâu có phiền hà. Tới người đánh mình, mình không đánh lại mới đúng tinh thần người xuất gia tu đạo giải thoát.

Bởi vậy tụi con tu là phải thực hiện cho được những gì đã hứa trước Phật Tổ và những vị truyền giới cho mình. Nếu mình thực hiện được là lợi ích lớn, còn thực hiện không được thì trên đường tu sẽ bị trở ngại. Do đó hiện tại tất cả tụi con, giả sử có người mắng mình, mình không mắng lại. Nhưng người ngoài mắng có thể nhịn nổi, còn huynh đệ mắng nhịn nổi hay không? Tại sao nhịn được với người ngoài lại không nhịn được trong nhà? Tụi con xét lại xem sao? Như vậy là mình tu với người ngoài mà không tu với huynh đệ, không tu với người đồng đạo!

Tất cả tụi con phải nhớ bốn điều này, đó là căn bản cho tất cả người tu. Dầu cho huynh đệ hay người ngoài có lỡ lớn tiếng la mắng mình, hãy xem đó là chuyện không quan trọng, bỏ qua cho tâm được thanh tịnh, cho đức hạnh mình đầy đủ. Bỏ qua không có nghĩa là thiệt thòi. Người biết tu là biết nhường nhịn, tha thứ. Còn người giành hơn từng tiếng nói, từng ý kiến là người chưa biết tu.

Ðã là người tu, thì bao nhiêu điều trái ý, xúc phạm mình đều bỏ qua, tha thứ hết. Vậy mới đúng tinh thần của người tu. Nếu mình cố chấp, phản đối hay trả thù lại thì không phải tâm tu. Tụi con từ lớn tới nhỏ phải nhớ những điều này. Sống đúng với đạo lý như vậy, mới xứng đáng với những gì mình đã hứa trước Phật, hứa với các vị truyền giới cho mình. Ðó là điều thiết yếu hôm nay Thầy muốn nhắc cho tất cả tụi con nhớ.

Ðến chuyện thứ hai, như Thầy từng nói với tụi con là ai nghe tới Thiền viện Trúc Lâm, nơi chuyên tu của chư Tăng Ni, họ đều có tâm trông đợi kết quả tu hành của tụi con. Vừa rồi Thầy được cái thư, có Phật tử hỏi Thầy: “Thưa Thầy, năm nay Thầy đã trên bảy mươi rồi, mà số người tu theo Thầy ở các Thiền viện đã được bao nhiêu người có kết quả tốt, Thầy báo tin cho tụi con mừng. Xin Thầy báo tin trên báo Giác Ngộ.”

Tụi con nghĩ sao? Họ không nghĩ riêng cá nhân họ mừng thôi, mà muốn cho mọi người cùng mừng. Như vậy tụi con thấy trách nhiệm của mình nặng hay nhẹ? Tụi con tu ở đây có bao nhiêu tấm lòng trông đợi bên ngoài? Tuổi Thầy nay đã bảy lăm rồi, chuyện chết sống đâu có lường được. Nếu Thầy nhắm mắt, tụi con còn lửng thửng lơ thơ thì ai sẽ nối tiếp công tác lớn lao của Thầy đang làm? Lúc Thầy giảng ở Hà Nội, có người đứng lên hỏi:

– Thưa Thầy, năm nay Thầy già rồi, dưới Thầy có bao nhiêu người đủ khả năng thay thế?

Thầy trả lời theo ngôn ngữ miền Bắc cho họ vui vui một chút. Thầy nói:

– Dưới Thầy cả thảy hơn năm trăm Tăng Ni. Thầy không hi vọng người nào cũng xứng đáng thay thế Thầy. Nhưng Thầy nghĩ trong năm trăm người đó, cứ một trăm người sẽ có hai mươi người tu có kết quả. Như vậy trong số năm trăm Tăng Ni sẽ có một trăm người sau này thay Thầy làm Phật sự. Mất một người mà được một trăm thì lời hay lỗ? Nói theo tiếng miền Bắc là Thầy lãi, chớ không có thiệt!

Ở dưới nghe Thầy nói, họ cười. Người Phật tử bên ngoài nghe mình thành lập một nơi chuyên tu, họ rất mừng, hết lòng trông đợi. Như tụi con thấy, hiện tại có một mình Thầy là người đứng ra thành lập bao nhiêu Thiền viện, nếu lúc Thầy tịch lại không có người xứng đáng để tiếp tục gánh vác sự nghiệp lớn lao này thì uổng công khó của Thầy. Mọi người lo Thầy bày ra rồi không có ai giữ gìn tiếp nối, nên họ băn khoăn hỏi Thầy như vậy.

Thầy đã dồn hết tâm lực lo cho tụi con, là những người sẽ thay Thầy mai kia. Khi Thầy theo Phật, tụi con sẽ tiếp nối để dòng thiền này càng mở mang, bền vững, chớ không phải chỉ ngang đây thôi. Vì vậy, tất cả tụi con phải nỗ lực tu hành, đừng nên chần chừ mất hết thời gian quí báu của mình, sau hối tiếc cũng không được.

Sau này, tụi con đều có trách nhiệm lo chỗ này chỗ kia, chớ không phải thong dong tự tại mãi như ở trong này. Vì vậy, ngày nay tụi con đem hết nhiệt huyết của mình tu cho có kết quả tốt, để mai kia ra làm Phật sự không bị thất bại. Nếu lúc này tu lơ mơ, tới chừng ra làm Phật sự, đa đoan công việc rồi tu hành không được, tụi con sẽ bị thiệt thòi nhiều. Vậy mong tất cả tụi con cố gắng.

Ðến điều thứ ba. Tất cả tụi con, ai cũng phải quí trọng việc tu hành, nhất là trong mùa nhập thất bốn mươi chín ngày hoặc ba tháng, phải dồn hết tâm lực trong sự tu. Mặc dầu khi ở ngoài công việc Thiền viện không nhiều, nhưng vẫn phải lăng xăng lo lắng nên tâm tu của mình yếu. Do đó thời gian nhập thất là thời gian quyết liệt.

Khi vào thất rồi mọi việc bên ngoài đều buông hết, để tâm lực dồn cả vào sự tu. Nếu trong khi nhập thất mà có người đem các việc vui buồn ở ngoài vô kể, thì đó là không thương người nhập thất, không quí kỳ nhập thất. Thời gian nhập thất rất hiếm hoi, khó kiếm, nên tụi con phải kính trọng người nhập thất. Bên ngoài có chuyện gì hay dở, mình cứ để yên đó, chừng nào người nhập thất ra rồi, có gì cần thiết sẽ cho biết sau.

Khi ở ngoài làm việc bận rộn, lợi dụng thời gian nhập thất để quyết tâm tu. Vậy mà trong lúc nhập thất, lại bị chuyện này chuyện kia dồn vô nữa, đó là bị phá chớ không được tu. Như vậy là thiệt thòi. Ðó là do tâm không tốt của tụi con, không biết hộ những người tu. Tụi con nhớ trong oai nghi có dạy, nếu một vị Tăng hay Ni ở gần đơn đang ngồi thiền hay niệm Phật, mình đi ngang phải nhẹ nhàng, đừng làm động, trở ngại sự tu của người ta. Phải quí kính việc tu của người khác, nếu xem thường là tội lỗi lớn.

Cho nên tụi con, từ lớn đến nhỏ phải nhớ, không nên đem những việc bên ngoài nói với người nhập thất. Năm rồi Thầy thấy có người biên thư vô thất, vậy là không tốt, không đúng với đạo lý. Người ta đang tu mà mình làm trở ngại, đó là phá hoại người tu, tội rất nặng chớ không phải nhẹ. Nên từ đây về sau cấm tuyệt tụi con, ai nhập thất, dù cho bên ngoài có những chuyện vui buồn tụi con cũng bỏ qua. Ðem cơm chỉ đem cơm, hoặc nói đạo lý chớ đừng bao giờ đem chuyện hay dở bên ngoài nói cho người nhập thất biết. Ðó là điều không tốt.

Thời gian nhập thất chỉ có bốn mươi chín ngày, mà lâu lắm mới được một lần. Ðó là thời gian quí báu, đừng để người nhập thất bị thiệt thòi. Toàn chúng ở ngoài phải giúp đỡ người trong thất tiến tu cho có kết quả để đáp lại tấm lòng khát khao trông đợi của mọi người.

Hôm nay nhân ngày thỉnh nguyện, Thầy nhắc nhở chúng ba điều. Tụi con nhớ để thực hành.

 

Thuốc Đắng

Trong chúng có những vị có trách nhiệm dài ngày thường bận rộn là Hương đăng, Tri khách, Thư ký và chuyên viên máy móc. Còn Tri sự tôi biết là nhiều việc rồi, nhưng chỉ làm một thời gian rồi thay đổi. Nay tôi có vài điều nhắc nhở.

Thứ nhất là Hương đăng, ngày nào số khách tới chùa mình cũng khá cao, Hương đăng là bộ mặt đầu tiên Phật tử tới lui gặp gỡ. Vì vậy quí vị ráng giữ tâm mình cho được trong sạch đối với khách, cũng như đối với bản thân. Dù điều gì xảy đến mình vẫn vững vàng, sáng suốt. Ngôn ngữ phải nhẹ nhàng, đừng có vẻ cộc cằn, khiến người ta cười Thiền viện có những vị Tăng không đủ tư cách. Hai là khi nào mình cũng nên vui vẻ, để trong lúc họ lễ Phật, mình đánh chuông, họ cảm tấm lòng tốt của mình ủng hộ tinh thần cho họ.

Kế đó Tri khách cũng là bộ mặt của Thiền viện. Tri khách là người trực tiếp nói chuyện với khách tứ phương đến thăm viếng. Nếu Tri khách hay, khéo, thì Thiền viện mình được tiếng tốt, Tri khách vụng về hoặc có những đối xử không khéo thì Thiền viện mang tiếng xấu. Cho nên Tri khách rất là quan trọng.

Vấn đề tôi đặt ra ở đây là dù có đa đoan công việc bao nhiêu đi nữa, mỗi người cũng phải ráng tu. Vì tu là trọng tâm, là bề sâu của mình. Nếu mình làm được chuyện bên ngoài mà thiếu phần tu, tức là thiếu bề thâm hậu, thì mai kia không có đủ tư cách để lãnh đạo chúng hoặc hướng dẫn Phật tử. Làm sao mà mỗi Tri khách đều có thì giờ tu và tu được miên mật, nghĩa là ngoài giờ tiếp khách ra, giờ tu vẫn không thiếu. Ðồng thời Tri khách nên để tâm nghiên cứu thêm.

Ðời tu chúng ta không phải chỉ là giảng đạo mà còn phải hành đạo, không phải chỉ dạy Phật tử hiểu Phật pháp mà còn là ông thầy dẫn đường họ đi nữa, nên rất là khó. Bởi vậy mình phải đi trước họ. Nhiều khi nghe mình nói, họ thấy hay quá, nhưng đến chừng thực hành, họ thấy mình chưa tới đâu, sẽ mất lòng tin. Cho nên quí vị Tri khách phải ráng tu hành ngày càng thâm hậu. Không nên để mất thời giờ lo những chuyện bên ngoài nhiều quá, chuyện tu hành sẽ bị suy giảm, không tròn bổn phận.

Kế đó là Thư ký, một trách nhiệm hết sức nặng của Thiền viện. Mọi việc đều phải chạy lo giải quyết cho ổn, nên công chuyện rất nhiều. Gần đây tôi thấy Thư ký đi nhiều quá, chuyện này, chuyện nọ. Ði nhiều tự nhiên sự tu phải bị suy giảm, nên tôi cũng hơi nóng ruột. Tôi muốn việc nào quan trọng thì đi, còn không quan trọng lắm nên giảm từ từ, đừng sanh việc nhiều quá, để công tác của mình vừa phải, mới có thời giờ tu. Thật ra ở đây hai ba năm mà sự tu hành không tiến được bao nhiêu cũng uổng. Tuy rằng có được lợi tha nhưng phần tự lợi thiếu, đó cũng là thiệt thòi. Vậy nên Thư ký ráng rút bớt những gì không quan trọng lắm, chỉ đi làm trong giới hạn đặc biệt của mình.

Ðến ông chuyên viên, sao thấy ông cứ xách xe chạy hoài, thêm đứa học trò của ông cũng làm hoài, chiều không thấy ngồi thiền. Tôi thấy như vậy là thiệt thòi đó. Làm sao vừa được việc cho chúng, vừa có thời giờ tu cho mình, hai cái đó cân xứng mới tốt. Nếu được việc cho chúng mà sự tu của mình không được, thì cũng thiệt thòi. Lâu dần, đâm ra nản lòng, bực bội, thấy mình tu không tiến, rồi tính chuyện đi đây đi kia. Ai làm nhiều, biết là có phước, nhưng lâu lâu nhìn lại thấy mình tu không bằng huynh đệ, tự nhiên thối tâm rồi có những tư tưởng lung tung.

Vì vậy, cho nên T.H làm việc cho chúng đừng làm quá nhu cầu. Tôi thấy T.H cũng có óc sáng kiến, mai chế máy này mốt chế máy kia. Tuy trong chúng nhờ vậy mà được tiện nghi, nhưng chế được cũng thích rồi muốn làm riết, thì giờ tu không có nữa. Lâu ngày kiểm lại thấy mình thua huynh đệ e sẽ buồn.

Tôi khuyên mấy chú chỉ làm trong giới hạn những nhu cầu thiết yếu thôi, còn những gì không quan trọng, mình bớt lại, đừng có lo quá. Mình muốn lo cho Thiền viện đủ hết mọi nhu cầu, mọi vật dụng, nhưng riết rồi mình mất hết thì giờ tu lại đâm ra buồn. Vì vậy phải hạn chế lại, sự tu hành mới được yên ổn.

Ðó là tôi nhắc chung mấy vị có trách nhiệm nặng, cố gắng làm sao thu gọn, đừng để sự tu hành bị bê trễ.

***

Mọi lần Trung Thu ở dưới Thường Chiếu tôi cho ăn buổi tối, có Tăng, Ni, Phật tử chung vui. Nhưng ở đây tôi đã tuyên bố mình không ăn phi thời, mà ăn Trung Thu phải ăn bánh chớ chẳng lẽ uống nước trà không. Ăn bánh tất nhiên là phi thời rồi. Chúng ta phạm giới ăn phi thời thì trái với Thanh qui. Hơn nữa, đây cũng không phải là lễ chánh trong đạo. Tôi nghĩ Phật tử thương mình, muốn cho mình nếm vị bánh Trung Thu, thôi thì trưa mười bốn hoặc rằm, chúng ăn bánh Trung Thu lấy thảo. Chúng ta nhớ Trung Thu một chút vậy thôi, khỏi tổ chức lễ. Bởi vì tổ chức lễ, sau này thành thói quen, cứ ăn chiều hoài không tốt.

Ở đây, phần giới luật qui định không nhiều, chúng ta phải nghiêm chỉnh, giữ cho được mười giới, tôi đã quyết chí vậy rồi. Làm sao khi Phật tử đọc bản Thanh qui, người ta nhìn thấy đúng là chư Tăng ở đây giữ Thanh qui không sai sót. Nếu Thanh qui viết một đàng, mình sống một ngả, người ta thấy sẽ cười. Họ sẽ nói mình làm lấy lệ chớ không phải thực chất. Toàn chúng phải hiểu điều đó. Vậy ăn Trung Thu ở quá đường chớ không tổ chức Trung Thu riêng.

Nếu ăn Trung Thu rồi nghe tôi nói chuyện này kia, thì Tăng Ni phải họp chung, mà điều này thật tình tôi đã sợ. Ở đây Tăng Ni không xa mấy, nếu cứ gặp gỡ hoài e thành cái bệnh. Bệnh này cũng trầm trọng lắm, cho nên tôi dè dặt. Nhiều nhất là một tháng chỉ có hai buổi học chung. Ðó là bất đắc dĩ thôi, chớ tôi cũng không muốn tới lui qua lại nhiều. Mình phải luôn luôn dè dặt để cho sự tu hành không bị trở ngại.

***

Những vị có công tác cần ra ngoài phải sắp xếp lại. Như ông Tri khố, đừng có mỗi ngày mỗi đi, làm sao để cách một ngày đi chợ một lần, ngày đi ngày nghỉ. Nghỉ đó ở nhà để tu, giữ cho đạo lực mình đừng bị suy thoái, chớ đi hoài cũng kẹt. Còn ông Thư ký thì phần hộp thư ở bưu điện giao cho Tri khố, lâu lâu đi chợ lấy thư luôn.

Còn một điều này nữa, sao hai ông Hương đăng cho cô hồn ăn gạo sống? Thường các chùa người ta nấu cháo với muối. Thôi chịu khó kiếm cái nồi nhỏ nhỏ nấu cháo. Cúng cô hồn thì cháo với muối chớ không cúng gạo sống. Bởi vì trong bài kệ mình quán “thất liệp biến thập phương” là bảy hột cơm, hột cháo, biến khắp mười phương, còn gạo làm sao biến?

Vậy mấy chú chịu khó cho ăn chu đáo một chút, mới đúng ý nghĩa của nó, chớ mình đơn giản quá người ta không hưởng được, lòng từ bi của mình không trọn vẹn.

– Thưa Thầy, hay là mình cúng cơm có chế nước.

– Ờ, cũng được. Nghĩa là làm sao cho đúng pháp, chớ trong phần cúng cô hồn thí thực đều là cơm cháo chớ không có gạo.

***

K.T trong mấy tháng qua vì tai nạn nên không sanh hoạt theo chúng, mà được huynh đệ trong chúng chăm sóc lo lắng giùm. Hôm nay đã khỏe, ra chúng sám hối. Tôi nghĩ rằng trên đường tu, K.T, và gần nhất là ông K.Ð, có những tai nạn bất thần, ngoài ý muốn của tất cả. Nhưng tôi nghĩ, đó cũng là nghiệp quá khứ còn thừa, khi mình tu nó có thể đến bất chợt lúc nào.

Từ đây về sau, khi K.T khỏe rồi, phải biết trong đời hiện tại mình không gây nghiệp ác nhiều, nhưng do nghiệp quá khứ còn thừa nên ngày nay quyết chí tu, tai nạn có thể xảy ra bất thần, không lường trước được. Nhớ vậy mỗi ngày mỗi đêm tha thiết sám hối cho tất cả nghiệp quá khứ được tiêu trừ để trên đường tu không còn chướng ngại nữa.

***

Tôi xin nhắc lại cho toàn chúng biết, hiện giờ trong chùa mình có người đi ra ngoài điện thoại riêng. Nếu trong chúng ai có chuyện gì cần gấp phải liên lạc với ai đó thì xin Quản chúng để gọi điện, không nên xuống trạm điện thoại. Xuống dưới kia có hai lỗi:

Lỗi thứ nhất là tại sao trong chùa có điện thoại mà lại đi gọi nơi công cộng, người ta nghĩ chắc thầy này có chuyện gì riêng tư, không dám gọi điện thoại chung. Ðó là lỗi làm người ta nghĩ mình có điều gian dối mới không giữ đúng tinh thần chung trong chùa.

Thứ hai là trong Thiền viện không cho giữ tiền riêng, mà điện thoại công cộng thì phải trả tiền, hỏi tiền đâu ra để trả? Không có tiền trả mà gọi, nghĩa là muốn xin gọi không, xin như vậy người ta cũng phiền. Dầu họ có cho mình gọi không tiền đi nữa, họ cũng không vui, ép bụng người ta. Người ta muốn tìm chút ít lợi để nuôi gia đình mà mình lại làm như vậy là không tốt.

Vậy nên yêu cầu toàn chúng từ đây về sau, nếu ai có chuyện gì cần phải gọi điện, cứ xuống trình với Quản chúng rồi gọi bằng điện thoại của chùa, không nên đi xuống trạm điện thoại. Nếu xuống dưới kia thì coi như phạm một điều luật. Luật này mới, hồi trước chưa có điện thoại nên chưa có điều luật đó.

Từ đây tôi nhắc cho tất cả không nên làm như vậy. Thứ nhất là người bên ngoài nghi, rồi trong chúng cũng nghi. Thứ hai là làm phiền người có điện thoại, người ta nể mình không lấy tiền, mà không lấy tiền thì họ thiệt thòi. Ðó là hai vấn đề không bao giờ nên có. Vậy trong chúng nhớ dè dặt, đừng làm điều đó.

***

Quanh hồ Tĩnh Tâm tôi thấy mấy chú gần đây đi ngao du nhiều quá. Lúc trước chính tôi sáng nào cũng đi quanh hồ, có khi xuống tới cổng ba rồi trở lên, đủ cho chân tôi mạnh, nhưng sau này tôi cũng đầu hàng. Sáng Phật tử đi, dân chúng đi, chiều họ cũng đi, nên tôi loanh quanh ở đây rồi qua nội viện Ni thôi, chớ không đi ra ngoại viện được. Mình đi, gặp Phật tử không chào hỏi cũng kỳ, chào hỏi nói qua nói lại nhiều quá không tốt.

Vì vậy, tôi nghĩ mấy chú nên dè dặt. Trong này mình đi lên đi xuống ba vòng cũng tốt rồi, lội chi ra ngoài cho cực, gặp nhiều người quá cũng hơi phiền. Hôm nào chiều mát không có người mới nên đi, đi một vòng cho nó thoáng. Còn hôm nào có người thì thôi, cứ ở trong nội viện, đi tới đi lui trong này được rồi. Miễn sao mình có vận động là tốt, đâu cần phải đi ra ngoài mới tốt. Mình tránh bớt duyên, đừng nên tiếp xúc nhiều.

Người ta nói tôi giữ mấy chú còn hơn giữ con gái nữa. Tôi cũng biết tâm chúng sanh kỳ cục. Không biết cái nghiệp chướng gì với mấy ông thầy, mà mấy ông thầy dễ bị người ta thương lắm. Cho nên tôi sợ mấy chú đi lảng vảng bên ngoài, rồi có cô nào cắc cớ chọc ghẹo thì về ngồi thiền hết thanh tịnh. Tôi không muốn cho mấy chú ra ngoài kia là vì vậy, dè dặt vẫn hơn, giữ cho thanh tịnh. Ở trong này giữ gìn cho đạo lực được vững.

Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật có dạy: “Nếu có cái thứ hai nặng bằng ái dục thì thế gian không ai tu được.” May mà chỉ có một cái nên người ta còn ráng tu được. Như vậy Phật đánh giá ái dục nặng nhất. Do đó tôi muốn mấy chú tránh duyên, để mai kia tuổi lớn, đạo lực vững, lúc đó mình gặp duyên cũng không bị chướng ngại. Nay trong lúc tuổi trẻ, gặp cái duyên người ta trêu ghẹo, dễ sanh chuyện lôi thôi, mà lôi thôi thì tâm hồn hết trong lắng, sự tu thối chuyển. Vì vậy phải dè dặt, đừng tin mình quá, tới chừng ngã cái đùng hối hận không kịp.

Do đó tôi khuyên mấy chú đừng nên đi chơi chiều khi thấy người ta còn lảng vảng ngoài hồ. Chừng nào không thấy bóng người thì cho đi, còn có bóng người thì đi trong này giùm, đừng đi ra ngoài. Mấy chú đi lơ chơ, lỡ họ lén chụp chung hình rồi đồn đại lôi thôi, mệt cho Thiền viện mình. Vậy nên ráng dè dặt, đừng vì một hai cái vui nho nhỏ mà làm mất uy tín của mình không tốt.

– Bạch Thầy, gần đây Thầy có cho sửa bên đồi Thanh Lương. Vậy chiều có cho chúng qua chơi không?

– Hôm rày tôi cũng có thấy một số quí Tăng của mình đi ra đồi Thanh Lương chơi. Lâu lâu mới cho mấy chú đi xuống dưới chơi một lần, chớ đi riết rồi ngao du xa quá không ai kiểm soát nổi. Tôi chỉ cho vào buổi chiều không có khách thì được đi quanh hồ Tĩnh Tâm cho dãn chân. Nếu muốn đi xa hơn một chút nữa thì cho qua hai băng ghế chỗ đầu đường xuống đồi Thanh Lương. Ngồi ở đó nhìn hồ một chút là được rồi, đừng đi lang thang xa quá. Biết đâu có cọp rình ở dưới, lỡ có gì ai biết mà bênh vực. Nên phải dè dặt, không được đi xa.

Mấy chú đừng tưởng chung quanh mình lúc nào cũng thuận duyên. Có những chuyện bất thường đôi khi mình không lường trước được. Như năm kia ở Thường Chiếu, chư Tăng nhập thất giữa trưa mà có cô ghé vô đó. Thành ra có nhiều cái mình không lường trước được, nên phải cẩn thận, có gì mang tiếng không tốt.

Vì vậy chỉ khi nào không có khách, nhớ nghe, không có khách mới đi quanh hồ Tĩnh Tâm. Nhiều lắm là bước xuống đầu đường đồi Thanh Lương, hóng mát một chút rồi vô chớ không đi xa. Ði xa không ai kiểm soát được. Tôi giữ như vậy để tránh những chuyện bất thường xảy ra, gây tai tiếng không tốt cho tập thể.

***

Trong chúng ở đây cũng còn một ít người thắc mắc chưa rõ chủ trương của Thiền viện. Sư ông nói đủ sức nuôi tụi con, chuyện đó không nghi ngờ, Sư ông vẫn giữ lời hứa. Tuy nhiên mỗi ngày chúng phải ra lao động buổi sáng, để người ta thấy là mình có làm việc, không phải người ăn bám xã hội hay chỉ sống nương nhờ. Người ta sẽ thấy các Thiền viện cũng có khả năng tự lo liệu phần nào.

Thứ hai là lao động cho có sức khỏe. Hôm trước có mấy dì phước vào nội viện tham quan, người ta hỏi thời khóa ở đây, Sư ông cho họ biết ở đây lao động buổi sáng ba tiếng đồng hồ, còn buổi chiều, tối và khuya ngồi tu. Họ rất tán thán, vì biết ở xứ Ðà Lạt mà không lao động dễ bệnh hoạn lắm. Cho nên, ở đây ai cũng phải lao động. Trời lạnh nếu không lao động thì không tiết mồ hôi ra, những chất phế thải trong người không thải ra được, dễ sanh bệnh hoạn.

Mỗi buổi sáng, tụi con lao động ngoài nắng cho cơ thể mạnh khỏe. Lợi dụng ba tiếng đồng hồ hoạt động ngoài trời mình làm gì đó để có chút lương thực dùng hoặc có chút hoa trái đem bán, như vậy mới tốt. Nếu mình làm không ra gì hết hoặc chỉ làm cầm chừng lấy có thì không kết quả gì mà sức khỏe cũng không tốt. Phải làm việc sốt sắng mới ra mồ hôi.

Sự sắp đặt của Sư ông là muốn giữ gìn cho tụi con ở yên tu, không bị phiền hà khách khứa và là bảo vệ sức khỏe tụi con được lâu dài. Tụi con nên hiểu rõ ý đó. Trong bản nội qui, Sư ông đã qui định là Tăng Ni hoạt động ba tiếng đồng hồ mỗi ngày. Dù tụi con có cơm ăn nhưng cũng phải làm. Ở ngoài đời có những người giàu mà vẫn phải làm, đâu dám ngồi ăn không. Tụi con ở đây là trong đạo, lại còn trẻ phải nên lao động, vừa để có chút ít phương tiện cho mình, vừa tránh bệnh hoạn, cũng là để cho Thiền viện trang nghiêm sạch sẽ. Tụi con đừng nghĩ Sư ông nuôi tụi con được rồi tụi con làm chút chút chơi thôi, từ đó trong chúng lơ là bỏ qua những bổn phận của mình, có hại chung cho Thiền viện.

Tụi con nghĩ như nhà tụi con ở cũng phải lau chùi, làm cỏ rác chung quanh. Ở đây nếu không làm gì, riết thành rừng luôn. Cho nên mình sống thì phải làm, như nấu ăn phải có củi, chớ không làm đâu có được. Tụi con phải hiểu cho tường tận, đừng nên làm gì hoặc nói gì gây thương tổn cho người và tạo sự hiểu lầm, điều đó không tốt. Ðó là điều thứ nhất Sư ông căn dặn tụi con.

Ðiều thứ hai, như trong bản Thanh qui Sư ông dạy tụi con sống lục hòa, trong đó có khẩu hòa vô tránhnghĩa là lời nói phải dịu dàng, không tranh cãi, không được lớn tiếng la rầy huống là xỉ xỏ với nhau, cả thân và khẩu không hòa là phạm Thanh qui. Tụi con là người quyết tu thì những tập khí, những thói quen xấu phải bỏ, nếu còn giữ là trái với nội qui Sư ông đã nêu ra. Muốn tu phải sống đúng theo lời Phật dạy và theo luật Phật chế, nếu không chỉ là tu suông, là vô nghĩa. Biết sửa những điều sai quấy mới là tu.

***

Nếu ở trong chúng mà cứ lo cho gia đình hoài làm sao tu, nên trong Thanh qui phần đầu có ghi phải dứt khoát đời ra đời đạo ra đạo. Ở đời phải lo chuyện hiếu thảo cho cha mẹ, cha mẹ bệnh hoạn phải nuôi nấng cho đến hết bệnh. Còn con nay đã đi tu thì dành phần đó cho người tại gia, nếu tới lui nuôi nấng thì tu hành sao được. Phải có thái độ dứt khoát, cha mẹ bệnh về thăm trong một thời gian nhất định rồi trở lên, chớ không phải cha mẹ bệnh rồi về nuôi ở một hai tháng. Người nào cũng vậy thì sự tu hành sẽ bê trễ, không thể tiến. Bởi vậy ở đây tụi con phải có thái độ dứt khoát, việc gì ra việc ấy.

Nếu ở đời, hiếu thảo là lo phụng dưỡng cha mẹ, thì ở đây trong đạo, hiếu thảo là lấy sự tu hành đạt đạo để cứu độ cho cha mẹ chớ không phải lo nuôi dưỡng. Nuôi dưỡng dành phần cho người tại gia. Phải có thái độ dứt khoát, làm bổn phận con cái hay bổn phận đệ tử trong giai đoạn nào đó thôi, chớ ở luôn bên cạnh bỏ cả sự tu hành là không được.

***

Sân gốc từ si, mà si là do chấp ngã chớ không có gì khác. Tất cả chúng ta đều thấy mình là quan trọng, nên ai xúc phạm tới mình dễ nổi sân, đó là chấp ngã về thân. Còn về tâm thì cứ cho ý nghĩ mình là đúng, rồi ai làm trái quan niệm, trái ý liền nổi sân, đó là chấp ngã về tâm. Hai thứ chấp ngã đó nếu tụi con xả được thì trên đường tu không còn sân nữa, tụi con mới có trí tuệ. Có trí tuệ mới thấy cái ngã này không đáng gì, hư dối, không thật. Thấy ngã không thật là có trí tuệ, xả được chấp thân tâm một cách dễ dàng không khó, nếu tụi con còn kẹt nơi chấp ngã thì cái sân không xả được.

Thứ hai là tụi con hay có bệnh thị phi. Ở trong chúng với nhau đa số có bệnh nhìn người khác, nên thấy người này dở người kia hay mà quên cái dở của mình đi. Khi thấy người ta dở mình hay nói, rồi mích lòng buồn phiền nhau. Bệnh này khá trầm trọng, tụi con phải dè dặt.

Chính Lục Tổ có nói: “Nếu thấy lỗi người thì lỗi mình trước mắt.” Ðừng nên thấy cái dở của người ta, cũng đừng nghĩ mình không nói là phụ họa cái dở của người. Nếu nhắc được thì nhắc, không được thì bỏ qua, đừng nên nói qua nói lại với người này người kia không hay, từ việc nhỏ thành việc lớn không tốt. Bệnh của con người là thường thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình, bởi vì con mắt ngó ra nên thấy ở ngoài, không thấy ở trong. Cho nên tụi con mới thấy rất hợp lý là khi ngồi thiền mắt mình nhìn xuống, để thấy lại mình chớ không thấy bên ngoài.

Tất cả tụi con chưa ai là Phật, là A-la-hán, nên có những sơ sót, lỗi lầm, mình thông cảm và bỏ qua. Nếu thấy ai có gì dở, mình có khả năng giúp và khuyên để người ta bỏ, đó là một cái hay, nếu không thể khuyên được thì bỏ qua, lo việc mình tốt hơn. Ðừng ngó qua ngó lại chẳng những không lợi cho bản thân mình lại dễ sanh ra phiền não, hoặc sanh ác tâm với người khác.

Do đó tụi con nên khéo tu, phải thấy lỗi mình trước. Nếu thấy lỗi người thì khuyên rồi bỏ, đừng ôm ấp. Ðược như vậy sự tu mới tiến bộ, chớ tụi con nhìn qua ngó lại hoài cả ngày tu làm sao mà tiến, trở lại gây phiền não cho nhau, đó là điều rất dở. Vậy tụi con dè dặt, thường nhìn lại mình, đừng thấy lỗi người. Mong tụi con cố gắng.

***

Nếu ý nghiệp mạnh, nó rong ruổi nơi này nơi kia làm tâm xao xuyến nhiều, thân sẽ theo đó bị ảnh hưởng. Cho nên khi bắt chân lên tọa thiền, phải khẳng định trong lòng giờ này là giờ chết, chết từ thân cho đến tâm, đừng chạy theo nó. Nếu ý mình chết thì tâm vọng tưởng dừng, tức là tu thành công.

Trong sự tu hành có gì lạ phải trình cho Thầy biết để hướng dẫn. Ðừng nên nói những sự bất thường hoặc cái gì lạ khiến những người xung quanh nói mình khoe, không hay.

Tu làm sao sáu căn đừng nhiễm sáu trần, nếu nhiễm thì nghiệp sanh tử từ đó mà ra. Theo thời khóa tu của Thiền viện, đêm nào tụi con cũng phải sám hối nhắc đi nhắc lại lỗi của sáu căn, không để buông lung. Nhắc là để tụi con nhớ mà hành trì, còn nếu tụng rồi không nhớ, không ứng dụng thì tụng đó không kết quả. Vậy khi quì đọc lời sám hối sáu căn, tụi con phải lưu tâm, phải chú ý để nhớ điều đó mình có phạm hay không. Nếu không thì mừng, còn có phải sửa chữa, đó là biết tu. Như vậy mới có kết quả, chớ tụi con cứ tụng cho hết bài là không được.

***

Tụi con từ lỗi lớn đến lỗi nhỏ đều phải dè dặt đừng phạm, vì sau này còn làm Phật sự, lúc đó không có Thầy, tụi con phải làm cho xứng đáng, lợi mình lợi đạo. Chớ tụi con đạo thì hiểu mà hành động, tư cách còn sai sót, sau này làm giảm giá trị của người làm Phật sự, làm lợi ích cho chúng sanh.

Tụi con thấy ở đây khó hơn các nơi khác, những lỗi nhỏ đều phải rầy, nhắc, vì tụi con ở đây năm bảy năm rồi sẽ lãnh trách nhiệm nào đó làm Phật sự. Thầy muốn khi tụi con ra làm Phật sự, đứa nào cũng xứng đáng, không bị người ta khinh chê. Vì vậy, Thầy chủ trương thật khó để kềm chế. Ðối với đạo lý, tụi con có thể hiểu, thấm nhuần được, nhưng tập khí nhiều đời của mỗi đứa không thể một sớm một chiều mà hết. Nếu để tự do thì những tập khí đó không chừa bỏ được, sau này trở ngại trên con đường làm Phật sự. Vậy nên tụi con được gọt giũa thật kỹ, để khi ra gánh vác Phật sự, làm được tròn và tốt.

Ðến đây, tụi con không những học giáo lý để hiểu và tu, mà còn phải sửa những tập khí nhỏ. Tuy những lỗi nhỏ không quan trọng lắm, nhưng cũng làm suy giảm uy tín, tụi con sẽ không được người ta quí trọng. Nếu tụi con muốn sống tự do thoải mái, thì mai kia sẽ bị chướng ngại nhiều, sẽ bị phê phán nhiều.

Tụi con phải cố gắng nhiếp tâm mình, cố gắng dè dặt thân, khẩu, ý, gìn giữ cho nghiêm chỉnh đừng để sai sót. Ðó là điều mọi người sẽ nhìn thấy trước hơn cái tụi con hiểu đạo. Hiểu đạo, nằm thầm kín trong nội tâm mình, còn lời nói, hành động bên ngoài ai cũng thấy được. Vậy nên mình phải dè dặt, cẩn thận để xứng đáng là một người ở Trúc Lâm. Nếu tụi con từ tâm niệm, trí tuệ, hành động đều tốt, đều xứng đáng, đó là niềm vui của Thầy.

***

Ở đây Thầy chủ trương lục hòa, nhưng kiểm lại thấy tụi con chưa thực hành được. Trong lục hòa có hai cái dễ là thân hòa và khẩu hòa, còn ý hòa khó hơn. Vậy mà khẩu hòa còn phạm, huynh đệ còn cãi lẫy nhau. Trong Thanh qui Thầy cho tụi con bàn luận đạo lý, nhưng lời nói phải nhẹ nhàng tao nhã, chớ lớn tiếng cãi rầy là phạm lỗi khẩu bất hòa.

Nếu Phật tử ở xa đến, họ biết được trong Thanh qui Thầy chủ trương tụi con sống lục hòa, nay thấy hoặc nghe tụi con cãi nhau, người ta sẽ đánh giá rằng ở đây Thầy đặt ra những điều luật, những qui chế, mà chúng không làm được, thì Thiền viện không còn ý nghĩa, không có giá trị. Mình nói mà không làm được thì đó là nói suông, nói rỗng. Vậy tụi con phải khéo dè dặt, có gì cần bàn cũng hòa nhã, nhỏ nhẹ, không được lớn tiếng cãi rầy. Lớn tiếng không những làm cho nội tâm mình sân hận, mà còn làm cho người chung quanh cười mình chưa thuần thục.

Tụi con mỗi đứa giữ một chút thì hay, chớ mỗi đứa phạm một chút chung lại thành dở. Nên tất cả phải cố gắng kềm chế, gìn giữ mình. Vẫn biết tụi con còn đang tu nên nhiều lỗi lầm, nhưng nếu lỡ có lỗi lầm thì phải chừa bỏ, như vậy mới tu tiến. Ðừng nghĩ mình tu mà còn lỗi lầm là xấu hổ, tủi thân. Mình có lỗi, nay bị rầy và được nhắc nhở là đáng mừng. Tụi con nhớ rồi chừa bỏ, như vậy sẽ trở thành người hay. Nếu không biết sửa, không chịu bỏ, tụi con sẽ dở hoài. Rốt cuộc ở năm, mười năm mà không tiến bộ bao nhiêu.

***

Khi xuất gia tụi con phát nguyện rất mạnh, quyết tu một đời này cho xong tất cả những nghiệp chướng để tu hành mau đạt đạo. Tụi con nguyện như vậy mà khi gặp chuyện nhỏ, vượt qua không nổi, làm trở ngại việc lớn. Như chuyện rầy nhắc đó chỉ cần một chút khéo nhìn, khéo uyển chuyển sắp xếp cách nào đó làm cho nó hay hơn, thì mỗi lần nhắc là mỗi lần tiến. Nếu mỗi lần nhắc là mỗi lần buồn, sau này ai dám nhắc nữa, sẽ trở thành dở.

Tụi con lớn tuổi rồi, lớn tuổi tu thì có nhận thức và nhận định kỹ, trên đường tu không bị thối chuyển. Nhưng cũng có dở là lớn tuổi đi tu thì cái ngã hơi lớn, nên động tới là buồn nhiều, buồn lâu. Chớ mấy đứa nhỏ bị rầy buồn chút thôi, không có nhớ lâu. Tụi con hơi lớn nên ngã cũng to theo, vì vậy phải ráng tu. Tất cả những nghiệp chướng có là do mình cố chấp. Nếu có chỗ dở, được nhắc được chỉ liền hoan hỉ chuyển đổi, thì sẽ trở thành người hay, người tốt. Còn tụi con cố chấp, mỗi lần rầy là mỗi lần buồn khóc tủi thân, giả sử như bị rầy năm lần bảy lượt liền thối Bồ-đề tâm, đường tu không tiến được.

Ngày trước các vị Thiền sư chẳng những bị rầy, mà còn bị mắng chửi nữa, nhưng các ngài thấy ở đó có thể tiến đạo được thì dù khó mấy vẫn vui, vẫn hoan hỉ, để cầu được cái cao siêu hơn. Ðâu phải vì một hai cái nhỏ mà sanh buồn phiền, tự ái rồi thối Bồ-đề tâm.

Khi nào bị rầy, bị nhắc tụi con xét kỹ lại có phải mình dở hay không? Nếu mình dở thì cố gắng tập hay hơn, chớ đừng nghĩ sao cứ bị rầy hoài, sanh ra buồn nản. Chính cái buồn nản đưa đến thối tâm. Ðược rầy phải mừng, vì biết thêm chỗ khuyết của mình, cố gắng sửa để vươn lên. Như vậy tụi con sẽ tiến và hay hơn. Làm sao càng ngày bản ngã tụi con càng mòn đi, thấp xuống thì mai kia ra làm Phật sự mới dễ dàng. Chớ tụi con không dẹp bản ngã, sau ra làm Phật sự trở ngại còn nhiều hơn nữa.

Vậy mỗi đứa phải ý thức rõ, bị rầy không phải là xấu, là dở. Nếu phá trai phạm giới, hay cố chấp mới là xấu, còn được nhắc là cơ hội tốt để mình vươn lên. Nhớ như vậy tụi con sẽ không có gì buồn hết.

***

Lâu nay Sư ông chủ trương Thiền viện Trúc Lâm là chỗ để những Tăng Ni có thiện chí tu quyết tử trên đường đạo tụ tập về cùng tu. Ðã là quyết tâm thì tất cả những cái khó trong cuộc sống cũng như trong sự tu đều phải vượt qua hết, lấy sự tu làm trên, không được coi thường. Vậy mà ở đây thời gian qua có một người chúng tới phiên nhập thất lại không thèm nhập. Sư ông ngạc nhiên vô cùng. Ðó là điều sai thật là sai.

Ở đây tụi con lâu lắm qua mấy năm mới tới phiên, nhập thất là chuyện hiếm có hi hữu mà lại từ chối. Vậy là đối với sự tu hành không quan tâm, không coi trọng. Nếu không trọng sự tu hành thì tụi con không đi đúng đường lối ở đây rồi. Ở đây đặt sự tu lên trên hết, còn làm việc cho chúng là phụ. Tụi con lo làm việc cho chúng mà không chịu tu, điều đó không chấp nhận được. Nếu con thích tu thì ở đây tu, còn không thích thì về các Thiền viện hoặc các chùa để lo những chuyện khác. Ở đây mà không chịu nhập thất tu là trái hẳn với chủ trương và đường lối của Sư ông rồi.

Sư ông không muốn tụi con về đây để làm cho Thiền viện đẹp và chùa có tiếng, mà cốt yếu là lo cho tụi con tu. Ở đây có thời gian chuyên tu để tăng trưởng đạo lực, vậy mà bỏ phiên nhập thất nghĩa là sao? Dở sẽ càng dở thêm chớ không thể nào tu tiến được.

Ở đây mà tu lơ là thì uổng đi lòng trông đợi của Sư ông. Sư ông muốn tụi con tu hay, tu tốt, để mai kia thành người xứng đáng ra lãnh đạo dạy dỗ cho người. Sư ông không mong tụi con ở đây làm công quả rồi nuôi cái dở hoài. Tụi con nhất định phải tu tiến, tu mạnh chớ không tu lôi thôi. Ai ở đây mà tu lôi thôi, Sư ông không chấp nhận.

Vậy con xét kỹ lại, nếu quyết tử tu thì ở lại, còn nếu muốn tu vừa phải để gieo nhân đời sau thì cứ về dưới tu từ từ. Tới phiên nhập thất, ai nấy đều hồ hởi vui mừng, riêng con lại không chịu nhập thất, trái hẳn đường lối ở đây. Sư ông nói để con biết được đường lối Sư ông tổ chức, chớ không phải ghét bỏ gì mà bảo con đi. Con xét lòng mình, nếu quyết tâm chết sống thì ở đây tu.

***

Tụi con ai cũng thấy và nhận được đạo lý, nếu thật thấm nhuần thì những tập khí nhiều đời cũng mòn mỏng dần. Nhưng vì tập khí quá sâu dày mà đạo lực chưa theo kịp, nên không tránh khỏi những khi bất giác không làm chủ được, sanh ra những chuyện không tốt, làm cho Thầy không vui. Tụi con biết đó là lỗi ra sám hối, Thầy cũng thông cảm.

Thầy thường nói, dạy cho người tu là dạy người ta biết được những gì dở xấu đang còn tích lũy, đồng thời chỉ cách để dẹp sạch, bỏ hết. Tụi con vì tập khí làm cho Thầy không vui, nay biết đó là lỗi, xin sám hối để chừa, từ đây về sau càng ngày càng tiến bộ hơn, thấy rõ chánh pháp và sống đúng chánh pháp, đem lại sự an ổn cho mình và cho mọi người. Ðược như thế là Thầy mừng.

Thấy lỗi và biết sửa là rất tốt, còn thấy mà không chịu sửa là xấu. Nay thấy được điều dở, tụi con phải chừa không để tiếp tục. Nếu nói tu là không có lỗi, chuyện đó quá đáng, vì ai cũng là Phàm tăng Phàm ni, không sao tránh khỏi những sơ suất. Thầy mong những sai sót của tụi con trong năm qua, không bao giờ tái diễn. Ðược như vậy là chỗ tiến bộ của tụi con và là niềm vui của Thầy.

 

Câu Chuyện Buổi Chiều

Thầy thương tất cả tụi con cũng như thương hết mọi người. Lý do gì Thầy thương?

Nếu chúng ta thương người vì người đó đói thì người no mình không thương, thương người nghèo thì người giàu không thương, thương người tật nguyền thì người lành lặn không thương. Nói tóm lại, nếu chúng ta thương người trong một phạm vi nào đó thì lãnh vực ngược lại mình không thương. Như vậy tình thương đó bình đẳng chưa? Nếu thương người nghèo khổ, người quan quyền không thương, tức là không bình đẳng. Bây giờ phải làm sao giống tình thương của Phật mới là bình đẳng.

Thầy thương tất cả tụi con cũng như mọi người, vì ai cũng có kho báu mà quên. Có kho báu mà quên để phải đi ăn mày đều là người đáng thương, dù cho đó là ông Tổng thống hay người cùng đinh. Cho nên Thầy hết lòng nhắc nhở ngày này qua tháng nọ, chừng nào họ nhận được kho báu mới thôi. Tụi con có còn là cùng tử không?

– Dạ, còn.

Bởi vậy nên Thầy nói hoài chưa thôi. Có kho báu mà không nhận, không biết, để làm kẻ ăn mày đi xin đầu này đầu nọ, sao không thương được! Vì vậy tình thương của Phật và Bồ-tát là tình thương bình đẳng, không nói người này khổ mới thương, kẻ kia sướng không thương. Ai có kho báu mà quên không biết nhận đều thương cả. Nếu họ không có thì giả sử có thương cũng không biết làm sao. Còn họ có kho báu thật sự, mình thấy biết rõ ràng mà không chỉ cho họ nhận, đâu có đành lòng! Tất cả tụi con có là người đáng thương không? Chừng nào tụi con giàu cười ha hả, chừng đó Thầy hết thương, Thầy lo cho người khác.

Sau này tụi con tập thương như vậy mới là bình đẳng, bởi vì ai cũng có kho báu mà không chịu nhận, lang thang chạy đầu này góc kia. Người đời thấy danh lợi tưởng là quí, giả sử ngồi chức to, ít bữa người ta đẩy xuống liền khổ, đâu có gì bền vững? Ở địa vị cao được đãi đằng liên miên, ăn nhiều quá cũng bệnh. Những thứ tạm bợ tưởng là vui, còn kho báu lại bỏ quên không biết, để rồi suốt đời lang thang. Ðó là những người đáng thương, dầu ở địa vị nào cũng là người đáng thương. Chừng nào nhận ra được mình có kho báu mới thật an ổn. Như vậy tụi con là bần cùng hay phú gia tương lai?

– Dạ, là con ông trưởng giả mà còn đi lang thang!

Bỏ nhà đi là bần cùng rồi. Con ông trưởng giả thì phải biết trở về nhà để lãnh sự nghiệp. Nên trong kinh Pháp Hoa nói Khai Thị Ngộ Nhập: Khai là vạch ra.Thị là chỉ cho thấy mỗi người đều có sẵn kho báu. Nhận ra kho báu là ngộ. Nắm được của báu trong tay là nhập.

Bây giờ tụi con tới đâu rồi? Thầy phải nói hoài là để chỉ cho biết, chừng nào tụi con thấy được Thầy mới an lòng. Khi nhận được rồi, kho báu là của tụi con, tha hồ tiêu dùng.

Như vậy, trọng tâm của đức Phật là chỉ cho chúng sanh giác ngộ. Giác ngộ là nhận ra kho báu nhà mình, còn mê là có của mà quên. Vì mê nên làm cùng tử lang thang đi ăn mày, khi nhận được kho báu rồi, có đầy đủ tất cả, đó là Bồ-tát. Chúng sanh ai cũng có mà không nhận, nếu biết nhận liền được sung sướng. Tụi con ở đây mấy năm nay khai thị có ngộ chưa? Ngộ tức là thấy rõ mình có kho báu. Thầy không học thuốc mà là thầy thuốc. Những người mù Thầy cho thuốc được sáng mắt. Mình có kho báu sờ sờ trước mắt, ngay dưới gót chân mà không thấy, có phải mù không?

– Dạ, mù.

Trong kinh A-hàm, Phật giảng cho các vị ngoại đạo và cư sĩ, họ nghe rồi sáng ra và trình Phật là họ giống như người mù được sáng mắt. Như vậy mới thấy thuốc Phật hay. Chúng ta sẵn có mà không biết, biết các thứ khác mà không biết được cái thật mình. Ðang là người mù, được chỉ cho thấy thành sáng, vậy thuốc đó hay không?

Thế gian có thuốc hay nhất cũng chỉ giúp cho con người sống trăm tuổi, còn thuốc của Phật Tổ, Thầy chỉ cho tụi con uống thì sống hoài không chết, như vậy hay cỡ nào? Sống trăm tuổi làm sao sánh với cái không có thời gian, vô lượng vô biên. Cho nên, tu quí ở chỗ tìm ra cái sẵn có của mình mà lâu nay bỏ quên. Ðược cái đó rồi tụi con giàu vô số, là trưởng giả, là người sáng mắt, là người sống dai nhất trên đời.

***

– Ðố tụi con, chúng ta tu có phải là ích kỷ không?

Ích kỷ có hai mặt. Một là chỉ biết có mình, lo cho mình, muốn hưởng được mọi thứ nên những gì bên ngoài đều gom về mình, không nghĩ tới người khác, đó là tầm thường, ích kỷ. Còn chúng ta tu ích kỷ là không làm lợi gì cho ai, chỉ đem hết tâm tư, nghị lực để phản quan, phăng tìm cho ra cái gì là thật mình. Như vậy, hiện tại thì dường như ích kỷ, nhưng sau khi nhận được cái chân thật rồi sẽ làm lợi ích cho tất cả mọi người.

***

– Ðịnh nghĩa ma là cái gì?

Trong nhà Phật nói những gì làm trở ngại, khó khăn, làm thối tâm tu của mình gọi là ma. Tham ái có làm mình thối tâm không? Tán loạn có làm thối tâm không? Tất cả những cái đó gọi là ma, khi chúng ta bị mấy con ma đó quấy nhiễu thì trở ngại sự tu.

***

Bây giờ Thầy kể chuyện xây cất chùa Lân cho tụi con nghe. Hôm trước có một bản vẽ mô hình chánh điện cất theo lối chữ Ðinh, cột rất nhiều, phía sau là nhà Tổ. Tổng thể chùa hình chữ Quốc nên tối om. Thầy không chịu, nhưng bản vẽ đó Sở Văn hóa đã ký rồi nên bây giờ mình phải họp để bàn lại.

Tụi con phải hiểu tinh thần chùa Thiền tông, chùa Tịnh độ và chùa Mật tông khác nhau thế nào. Chùa Thiền phải rộng rãi, bên trong sáng, ở giữa thờ đức Phật cầm cành hoa sen, gọi là “niêm hoa vi tiếu”. Thờ một đức Phật thôi, nếu có thờ thêm thì bên trái là ngài Văn-thù, bên phải ngài Phổ Hiền, là hai vị Bồ-tát tượng trưng cho trí tuệ và hạnh nguyện. Ðó là tinh thần của nhà thiền.

Còn chùa Tịnh độ thờ đức Phật Thích-ca hoặc Phật Di-đà, một bên là Bồ-tát Quan Âm, một bên là Bồ-tát Ðại Thế Chí. Ðức Quan Âm tượng trưng lòng từ bi, Bồ-tát Ðại Thế Chí là ý chí mạnh mẽ. Vì đức Phật Di-đà từ cõi tịnh đi xuống cõi uế trược để độ chúng sanh nên phải có tình thương và ý chí. Có nơi thờ Tam Tôn: Ở giữa là Phật Thích-ca, bên trái Phật Di-lặc, bên phải Phật Di-đà, gọi là ba đức Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.

Chùa Mật tông thờ Phật rất nhiều, đủ các vị thần, chùa cũng phải âm u. Tại sao vậy? Vì theo tinh thần Mật tông Phật có tánh cách linh thiêng, huyền bí, nên phải tạo khung cảnh ảo huyền để tăng trưởng lòng tin. Mỗi câu chú là một vị thần hộ chú. Người tới chùa Mật thường để cầu nguyện chư Phật, chư Thần hộ trì, ban phước. Vì vậy khi cất chùa phải biết tông phái để thiết kế thích hợp.

Nhưng gần đây, từ thế kỷ mười tám, các chùa miền Bắc, miền Trung và trong Nam đều chịu ảnh hưởng của Nhị Khóa Hiệp Giải. Hai thời khóa tụng soạn theo pháp tu của đời nhà Thanh, Trung Quốc. Nhà Thanh thuộc bộ tộc Nữ Chân, sau lấn chiếm và thống nhất toàn lãnh thổ Trung Quốc, họ nương vào Lạt Ma giáo để thực hiện tinh thần kiến quốc, chánh sách thống trị Mông Cổ và Tây Tạng. Vì vậy thời này Mật tông thạnh hành. Hai thời khóa tụng: Tối tụng kinh Di-đà, khuya tụng chú Lăng Nghiêm, hoặc Ðại Bi, Thập chú. Trong buổi tụng kinh Di-đà có chú Vãng sanh, còn cầu siêu tụng thêm chú Ðại Bi. Như vậy nghi lễ hai thời khóa tụng, hai phần ba là Mật, chỉ một phần ba là Tịnh. Cho nên chùa ở ngoài Bắc rất nhiều nhưng âm u.

Còn bên Nguyên thủy, chùa chỉ thờ một Phật Thích-ca vì Nguyên thủy cũng tu thiền. Ðó là nói tinh thần các tông phái để tụi con biết, mai kia ra cất chùa thiết kế cho hợp lý.

***

Thầy nghĩ người tu chúng ta đừng có lo đói thiếu, đừng nên mưu tính gì hết, cứ thật thà tu thì mọi việc đều tốt. Chỉ khi mình không thật tu thì Tam Bảo không gia hộ.

Hôm trước có mấy đứa học sinh chết đuối dưới hồ Tuyền Lâm. Trong đó có Linh Thơ về nhập mẹ nó, mẹ nó đi coi bói cho là ma quỉ dựa, nhưng nó nói: “Mẹ không chịu nghe lời con, con ở chùa khỏe lắm, nhưng con đi xa thì phải xin phép hộ pháp, bây giờ mẹ đi lung tung làm sao con theo bảo vệ mẹ được?” Cho nên với con mắt phàm chúng ta không thể thấy hết, chỉ thấy trong giới hạn mà thôi. Tụi con tu đàng hoàng thì hộ pháp luôn ủng hộ, đừng có phóng tâm bậy bạ mà long thiên hộ pháp quở mình. Các ngài ở gần nên thấy tâm mình. Ráng tinh tấn tu, đừng có tâm lăng xăng, lộn xộn. Quyết chí tu thì mọi việc đều tốt.

***

Tụi con thấy thân này là cái gì, chỉ là một đống xương ráp lại, rồi đắp vô một mớ thịt, mỡ, máu…, ở ngoài bao một lớp da. Như vậy gọi là thân. Bây giờ cái mặt đẹp đó xẻo một lớp da thì còn đẹp nữa không? Không có gì đẹp hết, vậy mà nói mặt cô này đẹp quá, mặt cô kia xấu quá, lóc một lớp da rồi thì ai cũng như ai.

Thân này mai mốt tắt thở đem ra ngoài đào đất chôn, cỡ chừng ba bữa hôi rình có ai dám đến gần không? Vậy thật ở chỗ nào? Còn khỏe mạnh chạy giỡn vui đùa, ai đụng một chút đã nổi nóng, chết rồi thì sao? Bởi vậy cuộc đời là tạm bợ, thế gian không biết, giành giật tự làm khổ, tất cả đau khổ đều từ gốc mê. Cho nên trong nhà Phật nói tất cả nghiệp chướng lôi kéo mình trong đường khổ, không gì bằng mê. Vì vậy người tu Phật phải giác, giác thì hết mê, hết mê là hết đi trong đường khổ.

Mỗi lần Sư ông giảng đều nói tới nói lui, nhắc nhở hoài, vậy mà vẫn xưa sao nay vậy, không có bỏ gì hết phải không?

– Dạ, có bỏ chút chút.

– Bỏ chút chút gì mà con chó nhỏ chết còn khóc!

– Thưa Thầy đó là bất giác, trong bất giác mình chưa làm chủ nên quên.

– Tụi con thấy, khi mình hiểu được lẽ thật của đạo rồi thì mới sống đúng tinh thần tu, nghĩa là đi ngược dòng thế gian, phải không? Người ta nói quấy mà mình vẫn cười thì mới là đi ngược dòng. Còn người ta nói quấy, mình tức lên đùng đùng thì ngược cái gì? Bởi vì nói quấy nói phải là hai cái không thật. Biết rõ như vậy liền thôi. Còn như người ta nói phải mình vui, nói quấy bèn giận, vậy là tụi con có thấy lẽ thật không? Tu là đi con đường giải thoát khác với thế gian. Cho nên Phật pháp rất khó đối với người thế gian. Làm cái gì ra tiền, làm cái gì được phước nhiều, hoặc ủng hộ họ làm ăn phát tài thì dễ. Còn nói thẳng lẽ thật khó trăm phần. Vậy mà tụi con vẫn hiểu được, Thầy nói mấy năm nay, nghe hoài không ngán cũng giỏi.

– Thưa Thầy hành mới khó, hiểu thì cũng tạm tạm.

Tụi con thấy Thầy vui vẻ, ít quạu quọ là tại sao? Hơn thua phải quấy là trò đùa nên cái gì cũng cho qua hết. Nếu không vậy thì lúc này cái trán Thầy nhăn mấy nếp rồi. Ðủ thứ chuyện phải lo, phải sắp đặt, nhưng tới đâu thì làm tới đó. Ở thế gian, trong một gia đình lo năm bảy người là hết hơi hết sức rồi. Còn Thầy lo Thiền viện bên đây, Thiền viện bên kia, cử người đi không biết làm có tốt không. Nhưng thôi cứ cử đi, khôn nhờ dại chịu, hơi đâu lo!

Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử từ hôm khởi công tới nay tốn cũng nhiều nhưng Thầy cứ mặc, làm sao thì làm. Thầy cứ ngồi ở đây. Chớ người ta như vậy là chạy ngược chạy xuôi lo lắng. Hôm trước có một Phật tử hỏi Thầy sở phí cất ở ngoài đó bao nhiêu, Thầy nói phỏng chừng hai tỷ. Nhưng bây giờ bản vẽ tính là sáu tỷ. Tiền bươi đâu ra? Tiền đó không ai có trách nhiệm hết, chỉ mình Thầy có trách nhiệm thôi.

Những khi đi giảng, Thầy đâu có hề than thiếu tiền, cứ giảng bình thường. Vậy mà vẫn có tiền cất chùa, đó là cái đặc biệt. Người hay lo thì bóp đầu bóp trán mà lo, chạy sao cho có đủ. Còn Thầy, kể cả ra nước ngoài, Thầy đâu có nói “Tôi đang xây Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, ai có khả năng đóng góp thì phụ tôi”. Chưa bao giờ Thầy kêu gọi, giảng cứ giảng, cứ thật thà cho nên Tam Bảo gia hộ.

Tụi con thấy ở đây Thầy có tính làm gì ra tiền không? Có trồng cây bán chút ít nhưng không đủ cho tụi con ăn nước tương nữa. Mà sao có tiền nuôi hoài không thiếu mới ngộ. Vậy mới thấy có phước, cứ quyết chí tu và thật tâm lo cho đạo là không sợ thiếu.

Nhiều khi đi ra nước ngoài, bộ đồ Thầy mặc còn tốt quá chừng, cái áo ấm cũng không tệ, vậy mà Phật tử cứ chạy đi sắm, hối may gấp trong một ngày cho rồi, cái này không vừa may cái khác. Phải chi Thầy rách rưới thì nói tội nghiệp, lo sắm cho Thầy. Chưa từng than gì hết mà người ta lo như vậy, thấy tội! Bởi vậy Thầy nói Thầy là ăn mày chúa.

Phước không thể lường trước được, không thể tính toán làm cái này cái kia mà được. Tự mình tu, làm lợi ích cho nhiều người thì có phước. Cũng như có người đặt câu hỏi, bãi đậu xe ở đây không thâu tiền, mướn mấy người nhân công, rồi nhà vệ sinh, các thứ… tiền ở đâu ra, không có ai trả lời được. Mỗi tháng tối thiểu ba nhân công làm dưới đó, lấy tiền đâu ra trả lương đây? Lại còn tiền lặt vặt, mà sao tháng nào cũng đủ hết, cũng no ấm hoài, không nghe Thầy than.

Bởi vậy người đời họ không hiểu nổi. Cứ chân thật mà tu, đừng tính toán. Nhiều người nghĩ mình phải ra làm kinh tế tự túc, nhưng khi làm tự túc thì kẹt trong việc làm, cũng phải tính toán lợi hại. Còn ở đây không có tự túc, không tính lợi hại. Không tính mới có thời giờ tu, còn ra lo tự túc hết giờ tu. Hiểu như vậy mới biết tại sao Thầy chủ trương chỉ tự túc phần nào thôi.

Tụi con tu làm sao ngày nào tháng nào cũng tu đều đều, đừng bỏ phế, tự sống với chính mình, ngày một tiến bộ hơn, bớt tham, sân, si. Ðó mới là thành công của mình, chớ không phải làm ra nhiều tiền là thành công. Người tu của mình bây giờ hay đặt nặng việc làm ra nhiều tiền. Không riêng ở đây, mà mấy Thiền viện dưới kia Thầy cũng chủ trương chỉ trồng cây trồng rau. Nội tiền xăng dầu để chạy máy tưới, rồi phân bón, rốt cuộc đâu cũng vào đó, không thấm đâu hết. Bởi vậy người tu mà tính toán làm ăn khó lắm.

Thầy bảo đảm với mấy Thiền viện dưới đó là chỗ nào hết gạo cho Thầy hay. Thầy chỉ lo gạo còn các thứ khác chỗ đó tự lo. Nhưng Thầy thấy ít có viện nào thiếu gạo. Ở đây gần hai trăm, Thường Chiếu gần hai trăm, Viên Chiếu một trăm, rồi Linh Chiếu, Phổ Chiếu, Huệ Chiếu cũng đông, vậy mà không hụt. Thế mới biết tu hành là cái gốc để Phật tử cảm thông mà ủng hộ. Như vậy, mình ngồi yên tu mới có phước đức, còn chạy ngược chạy xuôi lo cho có tiền thì tu không được. Tu không được tức phước không có. Cứ lo làm hoài, là tu không tiến chút nào. Vậy tụi con mới hiểu làm sao cho phước nhiều.

Ở đây có nhiều đứa lo tính toán, sau có chùa có thất làm tự túc để tu. Tính như vậy nhưng càng tự túc càng trói buộc. Thí dụ tụi con buôn bán cái gì đó để kiếm lời, bán đắt quá thì làm hoài, làm hoài không có giờ tu. Thấy như lương thiện, nhưng không lợi cho đường tu. Thầy thường nói, ai nghĩ tự túc để sống tu là trái với bản ý của Phật.

Ðức Phật chủ trương đi khất thực để gieo duyên với chúng sanh. Nếu hồi xưa Phật dạy chúng ta làm rẫy làm ruộng để tự túc thì bây giờ mình làm là phải. Nhưng Phật bảo phải đi khất thực. Mà khất thực giờ nào? – Giờ cơm trưa. Mười một giờ người ta ăn thì chừng mười giờ đi khất thực. Người ta không chuẩn bị trước phần ăn, nhưng khi Phật tới thì họ chia sớt bớt. Mình thấy hơi bất nhẫn nhưng chính đó là phước lớn của người thí chủ: chia phần ăn chớ không phải sắp đặt trước.

Ði khất thực là gieo duyên, người ta sớt cơm cho mình ăn để sống mà tu. Mình lãnh thọ của họ nên phải tìm cách độ họ, đời này chưa được thì đời sau. Vậy thì mới có duyên với nhau. Nếu nay người tu tự lo làm, tiền mình mình ăn thì có duyên với ai đâu. Nếu có duyên là có với mấy người thương mại thôi, phải không?

Như vậy, đức Phật dạy mình nhận của thí chủ ăn rồi tu. Vì nhận là thiếu nợ nên phải ráng tu cho xứng đáng. Thứ hai nữa là mình nhận nợ của họ đời này chưa trả thì đời sau sẽ trả. Nhờ gặp Phật pháp họ sẽ trở thành người hiểu đạo lý. Ðó mới gọi là có duyên với chúng sanh. Thầy nợ ngập đầu nên bây giờ chúng hội mới đông thế này, chớ không có nợ chắc là không đông vậy đâu. Thôi, nói nhiều khô cổ, trả nón đây, Thầy về.

***

Nếu biết tâm không thật, thân không thật thì có ai chê mình xấu, chỉ bình thản bỏ đi, hoặc khi mình nghĩ thế này người kia nghĩ khác, chỉ tự bảo: “ừ, giả dối”, rồi thôi, không giận hờn gì. Sống cả ngày cười hoài. Vậy mới là tu, mới là sống được với đạo. Nếu mười người có mười góc để đứng, không ai hợp với ai hết thì sống không có hòa. Không hòa gọi là Tăng được chăng? Tụi con tuy là Ni nhưng cũng là Tăng, là hòa hợp chúng.

Vì vậy, hiểu rồi mình bỏ qua hết những việc không ra gì, không quan trọng để cùng sống hòa vui tu tập, sao cho giờ phút nào cũng là giờ phút tỉnh giác, không mê. Mê vì lầm thân giả dối, mê vì lầm tâm hư ảo, đó là phương trời trầm luân sanh tử. Tụi con tu theo đạo giải thoát, mỗi khi đắp y đọc bài kệ gì? Ðắp lá y vào mình thì phải tu đúng theo hạnh giải thoát, mà hạnh giải thoát không cho phép mình theo đuổi một tư tưởng nào hết. Mọi tư tưởng đều lặng, đều sạch mới là giải thoát sanh tử. Chỉ một tâm thanh tịnh mới là giải thoát sanh tử.

Ði trên con đường giải thoát, chúng ta đừng đeo mang buồn giận, tham sân si, những thứ đó là trầm luân. Ai muốn giải thoát phải tu hành đàng hoàng chớ không nên chần chừ lôi thôi. Ðến khi ngã bệnh nằm xuống không trốn tránh đâu được. Chúng ta tu vì giải thoát sanh tử. Muốn giải thoát sanh tử thì tất cả tham, sân, si, buồn, thương, giận, ghét phải xả. Còn đeo mang một cái nào trong đó tức còn trầm luân.

Mong ba tháng an cư này, chư Ni ở Thiền viện Trúc Lâm và những người nhập hạ ở tư thất ráng tu hành cho thanh tịnh, đừng ôm ấp buồn, thương, giận, ghét, tham, sân, si, được vậy đời tu của mình rất xứng đáng. Nếu đeo mang những thứ đó là uổng đi một đời tu. Ðây là lời nhắc nhở và mong mỏi của Thầy.

***

Hôm nay Thầy nhắc lại câu chuyện “Niêm hoa vi tiếu”. Một hôm, đức Phật lên tòa mà không giảng nói gì cả. Ngài chỉ cầm cành hoa sen đưa lên, miệng hơi mỉm cười, rồi đưa mắt nhìn khắp. Nhìn cả chúng thấy không có gì lạ. Ðến ngài Ca-diếp nhìn lại Phật mỉm cười. Ngay đó Phật mới nói rằng: Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm… nay giao phó cho ngươi.

Tụi con thấy, chỗ then chốt cuối cùng đức Phật tìm ra sau bao nhiêu năm khổ sở, nay nói thẳng trong chúng lại không ai biết. Cũng như bây giờ đối với mấy người mới tập tu, mình nói có tánh Phật, họ không tin, phải nói tu là làm lành, lánh dữ, tạo phước… họ mới hiểu. Ðức Phật thấy chỗ tột cùng rất gần gũi, thực tế, nhưng bây giờ nói sao cho người ta biết đây! Không thể nói được cái đó, buộc lòng phải nể tình chư thiên mà dùng phương tiện. Do đó Ngài mới dạy nhiều pháp. Các pháp thảy là phương tiện, nhưng cuối cùng đều trở về chỗ vắng lặng. Tâm an nhiên tịch tĩnh tức là không còn niệm khởi, là nhất tâm. Nhất tâm là vô tâm, vô tâm là không còn niệm nào hết. Tất cả pháp Phật dạy đều đi tới chỗ cuối cùng đó.

Ði theo lối phương tiện thì phải đủ bao nhiêu công hạnh, nên Bồ-tát phải đủ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, xa lơ xa lắc. Còn đằng này đi thẳng, ngay đó nhớ là trở về giác, còn mê tức chạy theo tình thức, tạo nghiệp luân hồi. Nhớ trở về Tánh giác thì niệm không còn. Mà niệm không còn thì cái gì dẫn mình đi trong sanh tử.

Trong bài Tín Tâm Minh, Tam Tổ cũng nói: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm” tức tín tâm không có hai, còn hai là đối đãi mất tín tâm. Còn Lục Tổ thì dạy “không nghĩ thiện, không nghĩ ác”. Vừa dấy niệm thiện ác là đi trong luân hồi. Ðơn giản vậy đó mà sâu xa vô cùng. Khi thấy được chỗ này rồi thì sống trong cái thật, bởi vì không ai là không có tánh biết, phải không?

Người thế gian có sống tức có cái biết, mà không bao giờ biết cái như thật của mình, chỉ biết theo cái bóng sanh diệt của họ. Do theo bóng sanh diệt nên hằng ngày tạo nghiệp luân hồi. Như vậy có đáng thương không? Mà thương họ bằng thương ai? Thương họ bằng thương mình, sao cũng ngu xuẩn bao nhiêu đời, phải không? Cái thật của mình đang có lại không chịu nhìn nhận.

Tụi con nghĩ xem có ai ngu hơn là nhìn gương mà cứ nhớ bóng, không biết đến gương. Vậy mà hầu hết mọi người nhìn gương chỉ nhớ bóng. Soi gương coi có gì ở trong đó, bóng này bóng nọ bóng kia chớ không thấy gương đang trong trẻo như thế nào. Chúng ta đang sống mà quên mình. Quên mình là mê, là đi trong luân hồi sanh tử.

Do đó phải tỉnh táo, áp dụng ngồi thiền. Tuy ngồi thiền là còn kềm, còn cố gắng, nhưng nhờ vậy các thứ lăng xăng lặng hết. Lúc ấy tụi con mới nhận được cái thật. Mới thấy chuyện tu của mình không có gì là huyền bí thần thông cả, chỉ là đừng lầm mê cái hư giả, buông cái hư giả để trở lại chân thật, đó là gốc giải thoát sanh tử. Còn niệm thì tụi con không bao giờ giải thoát sanh tử.

Thường chúng ta hay nói làm lành là tốt. Ngày mai tụi con học kinh Kim Cang mới thấy dù làm lành bao nhiêu đi nữa cũng không bằng trì bốn câu kệ trong kinh. Ðó là để đánh tan cái chấp lầm cho cảnh là thật và vọng tưởng là thật. Biết những thứ đó chỉ là tướng giả tạm sanh diệt bên ngoài, là cái bóng không thật để mình sống với cái chân thật. Ðây mới là trên hết, là cứu kính tột cùng.

Thấy và hiểu được như vậy tụi con sẽ nắm vững đường tu. Nếu không hiểu vậy thì đối với đường tu tụi con còn mơ màng. Hổm rày có mơ màng không? Thôi bữa nay nhắc bao nhiêu đó để tụi con nắm vững chủ trương, đường lối của mình.

***

Cuộc sống ở đây tụi con thấy như lợt lạt, không có tình cảm, nhưng chính cái lợt lạt đó mới tu được. Tu mà nặng tình cảm quá không giải thoát được đâu! Tụi con muốn giải thoát hay luân hồi? Có muốn trở lại để rồi cũng là cha mẹ, là anh em nữa không? Hay muốn một phen đi không lại, cố tu đắc đạo để độ cha mẹ?

Tu có hiếu là phải độ được cha mẹ, đừng lầm luyến thương cha mẹ là có hiếu, là tốt. Hiếu có hai phần: Ở thế gian, hiếu với cha mẹ là lo phần vật chất, giúp đỡ cha mẹ, nhưng khi chết có cứu được cha mẹ không? Còn người tu chúng ta có hiếu với cha mẹ là ráng tu, nhờ tu mà mình cứu cha mẹ ra khỏi trầm luân. Ðó mới là điều quan trọng. Tụi con đứa nào khờ cứ tưởng về thăm là có hiếu, nhưng thật ra tu được mới có hiếu. Về thăm mà mình tu không ra chi thì cũng không ích lợi gì cho cha mẹ. Tụi con hiểu được điều này chưa?

(Hòa thượng nhìn một cô mới đến tập tu, hỏi:)

– Còn con, ba mẹ không gởi vào tu mà thích quá tự vô hả?

– Dạ thưa Sư ông, ba con cho tu, nhưng ba con không có can đảm đi gởi.

– Ba má cho tu thì con ráng tu để sau này về độ ba má.

(Hòa thượng nhìn quanh rồi nói:)

– Mấy đứa tu lâu, tu kỹ nhớ nhắc cho mấy đứa mới sau này, chớ Sư ông già rồi không nhắc hoài được. Ở đây đứa nào tu lâu, tu kỹ giơ tay coi? Không có ai dám giơ tay? Vậy là tu lơ mơ sao?

– Thưa Thầy tu lơ mơ thì không dám lơ mơ, nhưng tu kỹ e không dám nhận mình tu kỹ.

– Thật ra nếu tụi con khéo tu, hiểu Phật pháp rồi, tụi con mới thấy giá trị của người tu là phi thường, chớ không như người ta tưởng. Ðố tụi con biết phi thường chỗ nào? Nói đúng là giỏi! À, điều thiên hạ bóp đầu, bóp trán khổ sở thì mình lại cười, phải không? Việc thiên hạ rên rỉ mình vẫn thản nhiên, chuyện thiên hạ khóc lóc, kêu trời kêu đất mình cũng tự tại. Ðó là phi thường, tụi con làm được cái đó không? Phải ráng làm cho được.

***

Thường người ta cứ nghĩ khi cùng huynh đệ luận bàn đạo lý hay nói chuyện, vui cười lúc đó mới vui, phải không? Còn khi ngồi một mình thì vui hay buồn?

– Dạ, không vui cũng không buồn.

– Có người ngồi một mình thấy sao mặt mày âu sầu quá. Thật ra, người biết tu càng tu càng vui. Có người thì vui với người, không người vui với mình. Tự tại vậy đó, cái vui này mới thật. Còn đợi ai chọc ghẹo mới vui, không có ai lại buồn, đó không phải là cái vui thật. Nhiều khi người ta hỏi tụi con tu làm sao, tụi con không biết trả lời. Bây giờ nói nghe coi cô giáo, tu khó hay dễ?

– Dạ, con tu cũng bình thường.

– Bình thường mà ai chọc tức có giận không?

– Thưa Thầy, mới nghe nói thì nổi giận liền nhưng sau bớt đi đôi chút.

– Ờ! Vậy là có giận. Chừng nào người ta nói trái ý mà vẫn cười mới thật là bình thường nghe, chừng đó mới là thứ thật. Nói trái ý mà đỏ mặt liền chưa phải thứ thật, nghe chưa mấy cô sắp đi ngoại quốc! Người ta nghe nói mình làm Trụ trì, bèn thử tìm cách nói vài ba câu, mình liền nổi sân lên là kỳ lắm.

***

Hồi Thầy ra ngoài Bắc năm 1991, đi các chùa để nghiên cứu lịch sử chư Tổ, một buổi chiều Thầy xuống đò qua sông, xe còn ở bên kia, Thầy qua trước. Con sông có bờ đê cao, có mấy đứa chăn bò, tụi nó thấy quí Thầy liền chạy lại hỏi chuyện. Nghe quí Thầy trả lời, nó nói: “Mấy Thầy ở trong Nam hả? Trong Nam nói chuyện nghe được đó!” Hồi xưa Thầy nghĩ tiếng miền Nam nghe quê mùa quá, nhưng sao bây giờ đi đâu nói người ta cũng chịu. Tiếng miền Trung tụi con nói hơi khó nghe một chút, nên khi đi giảng phải tập nói pha pha một chút cho người ta dễ nghe.

Làm sao từ đây về sau, những đứa đi giảng ở gần, lâu lâu Thầy được tin người ta nói quí cô giảng nghe được, giảng đạo lý tốt, đó là Thầy yên được một mối. Còn mấy đứa đi xa, lâu lâu có thư gởi về nói quí cô làm Phật sự tốt, là Thầy yên lòng. Trái lại nếu lâu lâu nghe gọi điện thoại về mắng vốn thì Thầy mệt lắm. Cho một người đi đâu là có trách nhiệm nặng. Tụi con được đi giảng riêng là có phước đó. Ði với Thầy khổ lắm, biết tại sao khổ không? Vì ai cũng đòi Thầy giảng hết, không chịu nghe tụi con.

Kỳ này Thầy đi ngoài Trung, tính đi sáu ngày: Xuống Phan Rang một bữa, ra Nha Trang hai ngày, Quảng Nam hai ngày, và một ngày về. Nhưng bây giờ Ðà Nẵng mời giảng một buổi nữa nên ở thêm một ngày, vậy là đi sáu ngày, về một ngày là bảy. Nợ thì phải trả biết làm sao!

– Thưa Thầy, Thầy không đi máy bay?

– Thôi, máy bay làm chi!

– Thưa Thầy, chuyến ra Thầy đi xe, khi về có chuyến bay Thầy đi thẳng về Ðà Lạt cho đỡ mệt.

– Thôi, chờ máy bay hết hơi con ơi! Ðâu phải mình muốn đi giờ nào là có liền.

– Thưa Thầy, ở ngoài đó mua vé sẵn cho Thầy về.

– Không đâu, mình về đúng giờ bay của nó mới được. Ðâu phải hô đi là đi như xe hơi.

– Thưa Thầy, đường xa Thầy đi nhọc dữ lắm.

– Thì cùng khổ với nhau, chớ chẳng lẽ khi đi cả một xe mà lúc về có mình Thầy đi máy bay.

– Nhưng Thầy làm việc nhiều và Thầy lớn tuổi.

– Có sao đâu!

– Mấy người kia đâu có giảng, đâu lớn tuổi như Thầy.

– Không có sao!

– Ði xe về cực lắm thưa Thầy, lúc Thầy đi ra, có nghỉ từng chặng để giảng, còn đi về không ghé đâu cả, đi máy bay là hợp lý nhất đó, thưa Thầy.

– Thầy thấy đi xe là hợp lý nhất.

– Thầy đi xe ai cũng xót xa hết.

– Xót cái gì?

– Thầy đi xe cực.

– Hồi xưa cưỡi ngựa thì sao? Bây giờ đi xe than cực. Hồi xưa ông bà mình nói câu “lên xe xuống ngựa”. Bây giờ lên xe sướng quá rồi lại còn chê nữa. Ðòi hỏi quá!

– Thầy nói tụi con hết ý kiến luôn.

– Thầy có cho vài đứa tụi con đi theo không thưa Thầy?

– Không. Ở ngoài đó người ta sắp đặt tử tế lắm rồi, đi theo làm chi nữa.

– Thưa Thầy, Sư bà chùa con quí Thầy lắm, thế nào Sư bà con cũng thỉnh Thầy.

– Còn tùy. Chương trình ở ngoài đó sắp đặt, họ dự định mời Thầy giảng tại Giáo hội Tỉnh, rồi đi thăm ít chùa. Nay lại có ông Nguyễn Kính yêu cầu Thầy nói chuyện với giới trí thức một bữa, Thầy phải ở lại qua ngày sau. Ông nói là người tu ngoài đó phần nhiều biết Tịnh độ, Mật tông mà chưa biết Thiền là gì hết.

– Thưa Thầy, Thầy ra đó Tăng, Ni, Phật tử mừng lắm.

– Thầy đi đây là tạo cái duyên cho mấy đứa con sau này về làm việc. Giờ Thầy đi ra giảng trước cho họ hiểu về thiền, khi tụi con về sẵn có cái đà. Việc Thầy làm đây là để lo cho mấy đứa. Ở đâu Thầy cũng đi trước, sau này ai đi ra làm Phật sự cũng đỡ nhọc nhằn vì Thầy đã mở đường cho rồi.

***

Tỉnh hội ở Ðà Nẵng mời Thầy giảng chớ Hội An thì chưa. Họ mời giảng về tu thiền, nhưng Thiền tông khó nói, giảng sao cho người ta hiểu được, ứng dụng tu được không phải là dễ. Tụi con có nghe đủ mấy cuộn băng Thầy giảng ở nước ngoài không? Ở Úc chưa nghe à?

– Thưa Thầy mấy bữa này tụi con nghe Khóa Hư Lục, vì mấy đứa nhỏ lúc trước chưa được học.

– Lúc qua bên Thiền tự Tuệ Căn ở Úc, có mấy người đem máy móc lại xin Thầy trả lời những câu hỏi của Phật tử bên Mỹ, Canada và Úc. Họ hỏi trực tiếp và Thầy trả lời trực tiếp trên mạng. Nghe nói Từ Chơn đang ở bên Mỹ, tình cờ cũng nghe được, nó mừng quá chừng. Mấy ông Úc hỏi, có người thông dịch lại, Thầy trả lời tiếng Việt, sau đó họ dịch ra và phát đi, xứ này xứ nọ đều nghe được.

Tụi con thấy Thầy đang giảng được, làm Phật sự được, vậy mà Thầy tuyên bố nghỉ, tụi con có tiếc không?

– Dạ, tiếc.

– Ðược nghỉ là mừng. Tại sao mừng? Vì người tu chúng ta có khi trên lý thuyết nắm vững nhưng thực hành chưa tới. Mình nói lý thuyết hay mà thực hành chưa tới thì khi gặp việc rồi cũng phiền não như ai. Cho nên trách nhiệm của người tu không giản đơn. Cái gì mình nói được thì phải làm được, chịu không?

– Dạ, chịu.

– Chớ còn lên giảng thì nói thao thao bất tuyệt, lúc xuống nổi sân đùng đùng, cái công giảng hồi nãy đổ sông đổ biển hết rồi phải không? Cho nên những điều gì mình dạy người ta phải vượt qua, khi xảy đến với chính mình cũng phải tự tại mới được. Còn một cái khó nữa là khi mình đã thấy thân tạm bợ, cuộc sống hư dối không thật thì lúc sắp nhắm mắt, mình phải cười.

Bởi vậy trách nhiệm của người giảng dạy thấy như khó mà dễ, còn ứng dụng tu hành cho được để minh chứng lời nói của mình là thật, là mình đã làm được, việc này mới khó. Thầy phải làm cho được điều đó. Giả sử người ta chửi Thầy, Thầy không giận rồi đó, nhưng tới lúc ra đi Thầy có tự tại chưa? Cho nên Thầy phải có thời gian ngồi lại, tỉnh táo, khỏe khoắn, lúc nhắm mắt ra đi mới làm chủ được. Mừng cho Thầy chớ sao lại trách.

Giả sử tụi con có một vị Thầy nói rất hay, ai cũng quí trọng, nhưng đến lúc gần tịch lại mê man không biết gì, tụi con có buồn không? Bởi vậy điều đó rất khó. Thầy chủ trương làm việc gì phải tròn việc đó, không phải làm chỉ để làm, hoặc tự mãn với việc làm của mình. Làm thầy như vậy không đúng nghĩa là thầy. Làm thầy mà bình thường nói nghe hay lắm, gặp việc lại luýnh quýnh sợ sệt đủ thứ, thầy đó bỏ đi phải không?

Tụi con tu được kha khá chưa? Người ta lúc bình thường nói nghe hay lắm, lý này lý nọ dường như thông suốt, nhưng khi gặp việc vẫn y nguyên, ai sao mình vậy. Ðó không phải là người tu mà chỉ là người lý giải thôi. Tụi con thấy khó không? Khó nhưng phải làm được. Bắt đầu làm thầy đi dạy, đi giảng, làm Trụ trì là phải chuẩn bị cho vững, gặp việc phải nghiêm chỉnh đàng hoàng để người ta thấy mình xứng đáng. Ở đây chưa ai làm thầy nhưng khi đi ra tụi con được người ta xem là thầy rồi, đâu có còn cô này cô nọ nữa. Làm thầy mà không xứng đáng thì rất uổng!

Pages: 1 2