PHÁP TỪ BI THỦY SÁM
SỐ 1910
QUYỂN THƯỢNG
Đời Đường, Ngộ Đạt soạn.
BÀI TỰA THỦY SÁM DO VUA SOẠN
Tam-muội Thủy Sám có ra từ sự việc Quốc sư Ngộ Đạt đời Đường được Tôn giả Ca-nặc-ca dùng nước Tam-muội rửa sạch oán thù nhiều đời. Tri Huyền bèn phô diễn ý chỉ của bậc Đại giác, soạn thành văn sám, tâm vì lợi ích cùng khắp cho người đời sau, phước đức ấy không thể đo lường. Tam-muội, Hán dịch là Chánh thọ, không thọ các thọ gọi là Chánh thọ. Chân tâm vắng lặng, tâm nầy bất động, điều quan trọng là giúp cho người tìm thấy chân tâm ở chính mình. Vì con người sinh ra ở đời vốn tự chẳng phải là bậc thượng trí, đâu thể vô cớ gây ra điều lầm lỗi. Hoặc do oan nghiệp đời trước nhiều, Đức Như Lai có lòng từ bi rộng lớn, mở rộng cửa sám hối, nếu thành tâm sám hối, làm lành thì tội nghiệp chứa nhóm tiêu trừ như băng tan. Ví như các thứ nước, phiền não của thân đều được rửa sạch, nương theo đó tắm gội đều được trong nhuần, đồ đựng dù bị dơ lâu ngày cũng được thanh tịnh, ngõ hầu không vượt một tấc lòng mình. Cho nên nói tâm là thần minh của thân, làm lành thì gặp điều lành, làm ác thì gặp ác, như bóng theo hình, như vang theo tiếng, nghiệm chứng nhanh chóng không sai mảy may.
Bổn văn Tam-muội Thủy Sám nầy sở dĩ lợi ích cho người là vì công đức của nó rất rộng lớn, như Tri Huyền là cao tăng mười đời mà còn phải chịu thua quả báo đời trước, huống chi là người thường. Thuở xưa, Tôn Bạch làm uế phạm tượng vàng mà phải bị trách phạt ở cõi âm, sám hối tự phơi bày lỗi mình thì họa liền tiêu diệt, pháp giúp cao xa, nghị sư không cẩn thận chốn thuyết độc. Sư xem trọng sự trách phạt, sám hối liền được khỏi, những trường hợp như thế có rất nhiều, người phàm phu tâm biết điều đó, chẳng lẽ không hổ thẹn hay sao? Chẳng phải do sám hối thì tại sao do rửa sạch đầu mối mà hướng về đường lành? Một mảy may ý nghĩ ác không nẩy sinh trong tâm thì mầm mống tai họa tiêu trừ, phước đức thêm lớn, như mưa thấm nhuần cây cỏ phát triển tốt tươi, mắt tuy không thấy nhưng ấm thọ được tươi nhuần rất nhiều, cho nên Tam-muội chỉ ở nơi tâm mình, không cần tìm ở người. Tôi bèn viết lời tựa nầy đặt ở đầu sách, đồng thời được khắc nhiễm, làm phương tiện lợi ích. Cho nên Tam-muội tràn đầy biển lớn, cùng khắp sa giới, gội rửa nhiều kiếp. Xét theo đây mà cẩn thận thú hướng.
Ngày mùng 01 tháng 07 niên hiệu Vĩnh Lịch năm thứ mười bốn.
TỰA
Thiết nghĩ ngoài những Kinh, Luật, Luận của Thánh giáo đã phiên dịch, nhiều sách vở của Hiền nhân chế tác về sau đều do nơi sự cảm ứng mà làm ra cả. Nếu riêng từng phẩm loại mà nói thì không dễ gì kể ra cho hết được. Ngay như bản văn linh thiêng nầy vì sao mà gọi là Thủy Sám, tôi xin nói rõ đến căn do.
Thuở xưa về triều vua Đường Ý Tông có một vị Quốc sư hiệu là Ngộ Đạt, tên là Tri Huyền. Lúc chưa hiển đạt, ngài thường gặp gỡ một nhà sư ở đất Kinh Sư trong ngôi chùa nọ. Nhà sư ấy mắc bệnh Ca- ma- la (bệnh cùi) ai cũng gớm, chỉ có ngài Tri Huyền là thường gần gũi hỏi han, không hề nhàm chán. Nhân khi chia tay, nhà sư vì quá cảm kích phong thái của ngài Tri Huyền mới dặn rằng: Sau nầy ông có nạn chi nên qua núi Cửu lũng tại Bành Châu đất Tây Thục tìm tôi và nhớ trên núi ấy có hai cây tùng làm dấu chỗ tôi trú ngụ.
Sau đó ngài Ngộ Đạt quốc sư đến chùa An quốc thì đức độ của ngài càng vang khắp. Vua Ý Tông thân hành đến pháp tịch nghe ngài giảng đạo. Nhân đó vua mới ban ân rất hậu cho ngài cái pháp tọa bằng gỗ trầm hương và từ đó trên đầu gối của ngài bỗng nhiên mọc mụn ghẻ tựa như mặt người, đau nhức khôn xiết! Ngài cho mời tất cả các bậc danh y, nhưng không ai chữa được. Nhân ngài nhớ lời dặn trước bèn đi vào núi mà tìm.
Trên đường đi, trời đã mờ tối, trong khoảng âm u mây bay khói tỏa mịt mù, ngài nhìn xem bốn phía, bỗng thấy dạng hai cây tùng ngài mới tin rằng lời ước hẹn xưa không sai. Ngài liền đến ngay chỗ đó, quả nhiên thấy lầu vàng điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh chói rọi khắp nơi. Trước cửa nhà sư đang đứng chờ đón ngài một cách thân mật.
Nhân ở lại đêm, ngài Ngộ Đạt mới tỏ hết tâm đau khổ của mình. Nhà sư ấy nói:
Không hề gì đâu, dưới núi nầy có một dòng suối, sáng ngày rửa mụn ghẻ ấy khỏi ngay.
Mờ sáng hôm sau một chú tiểu đồng dẫn ngài ra ngoài suối. Ngài vừa bụm nước lên rửa thì mụn ghẻ kêu lên:
Đừng rửa vội. Ông học nhiều biết rộng đã khảo cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Áng, Triều Thố chép trong bộ Tây Hán chưa?
Tôi có đọc.
Ông đã đọc rồi có lẽ nào lại không biết chuyện Viên Áng giết Triều Thố vậy. Thố bị chém ở chợ phía Đông oan ức biết dường nào. Đời đời tôi tìm cách báo thù ông, song đã mười kiếp ông làm bậc cao tăng, giới luật tinh nghiêm, nên tôi chưa tiện về báo oán được. Nay vì ông được nhà vua quá yêu chuộng nên khởi tâm danh lợi làm tổn giới đức, tôi mới báo thù được ông. Nay nhờ Tôn giả Ca-nặc-ca lấy nước pháp Tam-muội rửa oán cho tôi rồi, từ đây trở đi tôi không còn báo oán ông nữa.
Ngài Ngộ Đạt nghe qua hoảng sợ liền vội vàng bụm nước dội rửa mụn ghẻ làm nhức nhối tận xương tủy, chết giấc hồi lâu mới tỉnh. Khi tỉnh lại thì không thấy mụn ghẻ ấy nữa. Nhân đó ngài mới biết Thánh hiền ẩn tích kẻ phàm tình không thể lường được. Ngài muốn trở lên lạy tạ vị sư, nhưng ngó ngoảnh lại thì ngôi bảo điện kia đã biến mất tự bao giờ. Vì thế ngài bèn lập một cái thảo am ngay chỗ ấy và sau trở thành một ngôi chùa. Đến năm Chí Đạo triều nhà Tống mới sắc hiệu là Chí Đức Thiền Tự. Có một vị cao tăng làm bài ký sự ghi chép việc nầy rõ ràng.
Khi đó ngài Ngộ Đạt nghĩ đến mối oan trái đã bao đời nếu không gặp Thánh nhân thì do đâu khỏi được. Vì cảm niệm cái ơn tế độ lạ lùng ấy, ngài mới thuật ra pháp sám nầy để mai chiều lễ tụng, sau truyền bá khắp thiên hạ.
Ba quyển sám đây tức là bài văn của ngài làm ra lúc đó vậy.
Nghĩa chính của bài văn nầy là lấy nước Tam-muội rửa sạch nghiệp oan khiên nên mới đặt tên là Thủy Sám. Lại ngài Ngộ Đạt cũng vì cảm điềm dị ứng của đức Ca-nặc-ca nên dùng tên ấy mà đặt tên cho bộ Sám văn nầy để đáp đền thâm ân kia.
Nay tôi kể rõ sự thật và nêu công của Tiên đức để cho những người lật bộ Sám văn nầy, hoặc lễ, hoặc tụng đều biết được sự tích của người xưa vì lẽ nhân quả tuy nhiều kiếp cũng không sai chạy.
Khải vận từ bi đạo tràng sám pháp.
Nhất tâm quy mạng tam thế chư Phật.
Nam-mô Quá khứ Tỳ-bà-thi Phật.
Nam-mô Thi-khí Phật.
Nam-mô Tỳ-xá-phù Phật.
Nam-mô Câu-lưu-tôn Phật.
Nam-mô Câu-na-hàm Mâu-ni Phật.
Nam-mô Ca-diếp Phật.
Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Nam-mô Đương lai Di-lặc Tôn Phật.
PHÁP TỪ BI THỦY SÁM
QUYỂN THƯỢNG
Tất cả chư Phật, vì thương xót chúng sinh, nói pháp lập đàn Thủy Sám. Chúng sinh vì nghiệp chướng nặng nề nên không một ai tránh khỏi tội lỗi. Những kẻ phàm phu bị màn vô minh che lấp, gần gũi bạn ác, phiền não loạn tâm, tánh không hiểu biết, nên cứ buông lòng tự thị, không tin tưởng mười phương chư Phật, không tin Tôn pháp, cùng các bậc Thánh tăng, bất hiếu cha mẹ, không kính nhường bà con. Tuổi trẻ phóng túng, kiêu căng ngạo mạn, đối với các vật quý báu, các thứ ca nhạc, các sắc đẹp trai gái thường sinh tâm tham luyến, ý khởi phiền não, lân la với người hư, tập tành theo bạn ác, không biết chừa đổi. Hoặc giết hại các giống sinh linh, hoặc uống rượu mê man mất hết trí tuệ, rồi thường cùng với chúng sinh tạo nghiệp phá giới. Những tội lỗi ở quá khứ, cùng tội ác ở hiện tại ngày nay chí thành xin sám hối tất cả, còn các tội lỗi về sau không dám làm nữa.
Bởi thế hôm nay chúng con dốc lòng thành kính quy y tất cả các
Đức Phật, các vị Đại Bồ-tát, Bích-chi, La-hán, Phạm-vương, Đế thích,
Trời, Rồng tám bộ chúng và tất cả Thánh chúng trong mười phương hư không thế giới cầu xin rủ lòng chứng giám. Lễ Phật và Bồ-Tát
Nam-mô Tỳ-lô-giá-na Phật.
Nam-mô Bổn Sư Thích -ca Mâu-ni Phật.
Nam-mô A-di-đà Phật. Nam-mô Di-lặc Phật.
Nam-mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật.
Nam-mô Long tự tại Vương Phật.
Nam-mô Bảo thắng Phật.
Nam-mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Ca-sa Tràng Phật.
Nam-mô Sư Tử Hống Phật.
Nam-mô Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.
Nam-mô Phổ Hiền Bồ-tát.
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát.
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát.
Nam-mô Đại Trang Nghiêm Bồ-tát.
Nam-mô Quán Tự Tại Bồ-tát.
Đảnh lễ các Đức Phật rồi, kế lại sám hối. Muốn lễ sám trước phải kính lễ Tam bảo, vì Tam bảo là bạn lành, là ruộng phước của tất cả chúng sinh. Nếu quy hướng Tam bảo thì diệt được vô lượng tội, thêm được vô lượng phước, khiến người làm đạo thoát khổ sinh tử, được vui giải thoát.
Vì vậy cho nên chúng con tên là v.v…
Quy y tất cả chư Phật trong mười phương hư không thế giới (1 lạy)
Quy y tất cả Tôn pháp trong mười phương hư không thế giới (1 lạy).
Quy y tất cả Thánh tăng trong mười phương hư không thế giới (1 lạy).
Sở dĩ ngày nay chúng con sám hối, chánh vì từ vô thỉ đến nay, còn ở địa vị phàm phu bất cứ sang hèn, tội lỗi không lường: hoặc do ba nghiệp gây nên tội lỗi, hoặc từ sáu căn khởi lên, hoặc vì nội tâm vọng tưởng, hoặc vì ngoại cảnh mê hoặc sinh lòng nhiễm trước. Như thế cho đến mười đều ác nghiệp, tám vạn bốn ngàn trần lao. Những tội lỗi ấy tuy nhiều vô lượng, nhưng không ngoài ba điều: phiền não, nghiệp chướng, quả báo. Ba ác pháp nầy, là pháp chướng ngại Thánh đạo, ngăn trở quả báo tốt đẹp trời người. Thế nên kinh gọi là ba chướng, vì vậy chư Phật, Bồ-tát dạy làm những pháp phương tiện sám hối trừ diệt. Ba chướng ấy diệt thì sáu căn, mười ác, cho đến tám vạn bốn ngàn trần lao thảy đều thanh tịnh.
Hôm nay chúng con tên là… đem hết lòng thành, vận tâm thù thắng sám hối ba chướng. [Muốn diệt ba chướng phải dùng những tâm niệm nầy: Trước phải phát bảy tâm thù thắng làm phương tiện, sau mới trừ diệt. Một là tâm tủi hổ, hai là tâm e sợ, ba là tâm chán xa, bốn là tâm Bồ-đề; năm là tâm oán thân bình đẳng; sáu là tâm nghĩ báo ân Phật; bảy là tâm quán xét tội tánh vốn không.
Thứ nhất tâm tủi hổ, là tự nghĩ ta với Đức Thích-ca đồng là phàm phu, mà Đức Thế tôn đã thành đạo đến nay trải qua số kiếp nhiều như cát bụi, chúng ta thì còn cùng nhau say đắm lục trần trôi lăn trong vòng sinh tử, chưa biết bao giờ ra khỏi. Như thế thật là đáng thẹn đáng hổ nhất trong thiên hạ.
Thứ hai tâm e sợ, đã là phàm phu thì thân, khẩu, ý nghiệp thường thuận ưng với tội lỗi. Bởi nhân duyên ấy nên sau khi chết phải đọa vào địa ngục, nạg quỷ, súc sinh chịu khổ vô cùng. Như thế thật là đáng kinh đáng sợ.
Thứ ba tâm chán xa, là chúng ta thường cùng nhau quán sát trong đường sinh tử, chỉ là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, hư giả như bọt nước nổi tan, xoay vần qua lại như bánh xe lăn; còn thêm sinh, già, bệnh, chết, tám khổ, nung nấu không dừng. Chúng ta xem xét ngay trong thân thể, từ đầu đến chân có ba mươi sáu thứ, tóc, lông, răng, móng, ghèn, nước mắt, mũi, nước miếng, gàu, mồ hôi, đại tiện, tiểu tiện, da dày, da mỏng, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ chài, mỡ nước, óc, màng, lá lách, thận tim, phổi, gan, mật, ruột, dạ dày, đàm đỏ, đàm trắng, sinh tạng, thọc tạng, thường bài tiết ra chín lỗ. Nên trong kinh nói: thân nầy là chỗ chứa, các khổ não, đầy dẫy bất tịnh, nên kẻ trí giả chẳng hề yêu mến. Trong vòng sinh tử đã có những cái xấu xa như thế, thực là đáng lo, đáng chán!
Thứ tư phát tâm Bồ-đề. Kinh nói: Nên ham muốn thân Phật, vì thân Phật tức là Pháp thân, Pháp thân ấy do vô lượng công đức trí tuệ sinh ra, do tu sáu pháp Ba-la-mật sinh ra, do từ bi, hỉ, xả sinh ra, do tu ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề sinh ra. Do những công đức trí tuệ ấy sinh ra thân Như Lai. Muốn được thân đó thì phải phát tâm Bồ-đề, cầu được Nhất thiết chủng trí, Thường Lạc, Ngã, Tịnh, chứng quả Tát bà nhã, thanh tịnh Phật độ thành tựu chúng sinh, chẳng tiếc thân mạng tài sản.
Thứ năm tâm oán thân bình đẳng, là đối với tất cả chúng sinh, mở lòng từ bi không phân biệt người với ta. Vì nếu còn thấy kẻ oán khác với người thân, tức còn có sự phân biệt. Bởi có phân biệt mới có chấp trước, bởi có chấp trước mới sinh phiền não, bởi sinh phiền não mới tạo nghiệp dữ, bởi tạo nghiệp dữ mới chịu quả báo.
Thứ sáu tâm nghĩ báo ân Phật. Đức Như Lai từ vô lượng kiếp đã vì chúng ta mà bỏ cả đầu, mắt, tủy, não, tay chân, xương thịt, quốc thành, vợ con, voi ngựa, bảy báu, tu hành khổ hạnh. Ơn ấy đức ấy thật khó báo đền. Vì vậy kinh nói: Giả sử đầu đội vai mang, trải qua số kiếp như hằng hà sa, cũng khó đền đáp ơn Phật. Chúng ta muốn đền đáp công ơn của Đức Như
Lai, trong đời nầy phải dũng mãnh, tinh tiến gắng chịu khổ nhọc, không tiếc thân mạng gầy dựng Tam bảo, hoằng dương giáo 6 pháp Đại thừa, hóa độ chúng sinh, đồng vào ngôi Chánh giác.
Thứ bảy tâm quán xét tội tánh không thật, là tội không tự tánh, do nhân duyên sinh, do điên đảo thành, đã do nhân duyên sinh thì cũng do nhân duyên diệt. Nhân duyên sinh tội tức là gần gũi bạn ác, gây nghiệp vô cùng. Nhân duyên diệt tội tức là ngày nay tịnh tâm sám hối. Thế nên kinh dạy: Tội tánh không phải ở trong, không phải ở ngoài, không ở chặng giữa. Nên biết tội tánh vốn không.
Khởi bảy thứ tâm như trên ấy rồi, lại duyên tưởng đến mười phương chư Phật, cùng các Hiền Thánh, cung kính chắp tay phơi bày tâm can tỏ lòng cầu khẩn hổ thẹn sám hối. sám hối như thế, tội nào không diệt, phước nào không sinh. Nếu không hết lòng sám hối, cứ lần lữa biếng nhác, tình tự buông lung thì chỉ khổ nhọc cho mình, chứ không ích lợi gì cả. Vả lại mạng người vô thường như quay bó đuốc. Khi hơi thở ra không trở lại thì thân nầy đồng như tro đất, khổ báo trong ba đường chánh mình phải chịu, không thể nhờ tiền tài, của báu để lo cầu thoát khỏi, ở mãi trong cảnh mịt mù không có kỳ hạn ân xá, riêng mình chịu khổ, không ai thay thế.
Đừng cho rằng trong đời nầy ta không gây tội mà không tha thiết cầu sám hối, vì trong kinh nói: Kẻ phàm phu mỗi khi động chân cất bước là đã có tội. Lại trong những đời quá khứ đã gây nên nhiều điều ác nghiệp, không thể kể xiết, nó thường theo dõi như bóng theo hình. Nếu không sám hối thì tội ác càng ngày càng sâu. Nên biết rằng nếu che giấu tội lỗi mình, thì Phật còn không dung cho, tỏ bày để sám hối thì ngài Tịnh Danh kính chuộng. Bởi thế nên biết chúng sinh bị chìm đắm mãi trong bể khổ cũng do thói hay che giấu tội lỗi. Vì vậy ngày nay chúng con xin phát lộ sám hối, không dám che giấu.
Ba chướng: Một là phiền não, hai là nghiệp chướng, ba là quả báo. Ba thứ chướng nầy làm nhân cho nhau, như do phiền não mới sinh ác nghiệp, do ác nghiệp mà phải chịu khổ báo. Vì thế ngày nay chúng con xin hết lòng sám hối.
Thứ nhất sám hối các nghiệp chướng phiền não, vì những phiền não ấy đều do ý gây ra. Và khi ý nghiệp phát khởi, thì thân nghiệp, khẩu nghiệp theo đó phát động. Ý nghiệp có tham lam, có giận dữ, có ngu muội. Bởi ngu muội mới sinh tà kiến mà gây lắm việc ác. Vì vậy kinh nói: Ba nghiệp tham, sân, si làm cho chúng sinh đọa lạc trong ba đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu khổ vô cùng. Nếu được làm người cũng phải chịu những quả báo ác phiền não như: nghèo nàn, túng thiếu, côi cút, lại thêm tánh nết hung hăng, càn bướng, ngu độn, không biết phải quấy.
Ý nghiệp đã gây nhiều ác quả như thế, nên ngày nay chúng con dốc lòng đem hết thân mạng nương về chư Phật, cầu xin sám hối.
Những phiền não ấy, chư Phật, Bồ-tát, các bậc Thánh, đã thấu tỏ chân lý, đủ mọi điều quở trách. Gọi phiền não nầy là oan gia, vì phiền não làm dứt mất tuệ căn, tuệ mạng của chúng sinh; cũng gọi phiền não nầy là giặc cướp, vì cướp mất các pháp lành của chúng sinh; cũng gọi phiền não nầy là cái thác chảy mạnh, vì lôi cuốn chúng sinh vào bể khổ sinh tử; cũng gọi phiền não nầy là xiềng xích, vì ràng buộc chúng sinh trong ngục sinh tử không khi nào ra khỏi, cứ phải quanh quẩn mãi trong sáu nẻo bốn loài, gây nghiệp ác vô cùng, chịu quả khổ không ngớt. Thế mới biết những họa hoạn ấy đều do phiền não mà ra. Cho nên ngày nay vận tâm tăng thượng cầu xin sám hối.
Từ vô thỉ đến nay, chúng con hoặc chịu quả báo trong sáu đường, có tâm thức, thường ôm mối ngu hoặc đầy dẫy tâm can, hoặc nhân nơi mầm ba độc tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi ba lậu hoặc tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi ba thứ khổ tạo nên tất cả tội, hoặc duyên nơi ba loại điên đảo tạo ra tất cả tội, hoặc tham đắm trong ba cõi (tam hữu) tạo nên tất cả tội. Những tội như thế vô lượng vô biên não loạn tất cả bốn loài chúng sinh trong sáu đường. Ngày nay hổ thẹn đều xin sám hối.
Lại nữa chúng con từ vô thỉ cho đến ngày nay, hoặc nhân nơi bốn trụ tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi bốn lưu tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi bốn thủ tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi bốn chấp tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi bốn duyên tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi bốn đại tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi bốn món kết phược tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi bốn tham tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi bốn loài sinh tạo nên tất cả tội.
Những tội như thế vô lượng vô biên, não loạn tất cả chúng sinh trong sáu đường. Ngày nay hổ thẹn, đều xin sám hối.
Lại nữa, chúng con từ vô thỉ đến nay, hoặc nhân nơi năm trụ địa tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi năm triền cái tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi năm loại xan tham tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi năm thứ thiên kiến tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi năm tâm tạo nên tất cả tội. Những phiền não như thế vô lượng vô biên, não loạn tất cả chúng sinh trong sáu đường, ngày nay tỏ bày cầu xin sám hối.
Lại nữa chúng con từ vô thỉ đến nay, hoặc nhân nơi sáu căn tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi sáu thức tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi sáu tưởng tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi sáu thọ tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi sáu hành tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi sáu ái tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi sáu nghi tạo nên tất cả tội. Những phiền não như thế vô lượng vô biên, não loạn tất cả chúng sinh trong sáu đường, ngày nay hổ thẹn tỏ bày, cầu xin sám hối.
Lại nữa chúng con từ vô thỉ đến nay, hoặc nhân nơi bảy món lậu hoặc tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi bảy loại kết sử tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi tám món đảo tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi tám thứ cấu uế tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi tám loại khổ tạo nên tất cả tội. Những phiền não như thế vô lượng vô biên, não loạn tất cả chúng sinh trong sáu đường ngày nay tỏ bày, cầu xin sám hối.
Lại nữa chúng con từ vô thỉ đến nay, hoặc nhân nơi chín não tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi chín kết tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi chín duyên tạo nên tất cả tội; hoặc nhân nơi mười phiền não tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi mười triền cái tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi mười một biến sử tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi mười hai nhập tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi mười sáu tri kiến tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi mười tám giới tạo nên tất cả tội, hoặc nhân hai mươi lăm ngã tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi sáu mươi hai kiến tạo nên tất cả tội, hoặc nhân nơi chín mươi tám sử, một trăm tám phiền não của kiến hoặc, tư hoặc, đêm ngày bập bùng mở cửa hữu lậu gây nên tất cả tội, não loạn Thánh hiền và bốn loài chúng sinh, đầy dẫy ba cõi tràn khắp sáu đường không còn chỗ trốn lánh. Ngày nay hết lòng cầu khẩn, hướng về mười phương chư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng, hổ thẹn giải bày đều xin sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối tất cả phiền não ba độc, chúng con nguyện đời đời kiếp kiếp được ba thứ trí tuệ, ba món sáng tỏ, diệt được ba khổ đầy đủ ba nguyện. Lại nguyện nhờ công đức đã sám hối tất cả phiền não vì bốn món thức… chúng con… đời đời kiếp kiếp được mở rộng bốn tâm bình đẳng, lập bốn tín nghiệp diệt bốn đường ác, được bốn vô úy. Nguyện nhờ công đức đã sám hối tất cả phiền não vì năm món triền cái… chúng con… đời đời kiếp kiếp, qua khỏi được năm đường, dựng được năm căn, năm thứ tịnh nhãn thành tựu năm phần Pháp thân. Lại nguyện, nhờ công đức đã sám hối tất cả phiền não của sáu thọ… chúng con… đời đời kiếp kiếp được đầy đủ sáu món thần thông, sáu pháp Bala-mật. Không bị sáu trần mê hoặc, thường làm được sáu diệu hạnh. Lại nguyện nhờ công đức sám hối tất cả phiền não vì bảy lậu, tám cấu, chín kết, mười triền… chúng con… đời đời kiếp kiếp được ngồi trên hoa Thất tịnh được tắm nước Bát giải, đủ trí Cửu đoạn, thành tựu hạnh Thập địa.
Lại nguyện, nhờ công đức sám hối tất cả phiền não vì mười một biến sử, mười hai nhập, mười tám giới… chúng con… đời đời kiếp kiếp được hiểu mười một món Không, tâm thường nương những món Không ấy, tự tại chuyển nói mười hai hành pháp luân, đầy đủ mười tám pháp bất cộng vô lượng công đức đều viên mãn.
Phát nguyện xong, chí tâm kính lễ chư Phật:
Nam-mô Tỳ-lô-giá-na Phật.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Nam-mô Di-lặc Phật.
Nam-mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật.
Nam-mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Bảo Thắng Phật.
Nam-mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Ca-sa Tràng Phật.
Nam-mô Sư Tử Hống Phật.
Nam-mô Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.
Nam-mô Phổ Hiền Bồ-tát.
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát.
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát
Nam-mô Đại Trang Nghiêm Bồ-tát.
Nam-mô Quán Tự Tại Bồ-tát.
Đảnh lễ chư Phật rồi, kế lại sám hối.
Phép sám hối chánh là sửa đổi sự lỗi lầm đã qua, diệt ác làm lành. Người đời ai không lỗi, như bậc hữu học lỡ mất chánh niệm còn bị phiền não nổi lên, bậc La-hán có lúc kết tập phát khởi cũng còn phạm phải những nghiệp thân, khẩu, ý, huống kẻ phàm phu sao khỏi tội lỗi. Những người có trí biết trước liền ăn năn sửa lỗi, còn kẻ ngu si giấu giếm, nên tội thêm tràn đầy, chất chứa lâu ngày không biết khi nào tỏ ngộ. Nếu biết hổ thẹn giãi bày sám hối, không những diệt được tội lỗi, còn thêm vô lượng công đức, gây dựng quả vị. Niết Bàn vi diệu của Như Lai. Muốn thực hành phép sám hối, trước hết, thân phải nghiêm trang tề chỉnh, chiêm ngưỡng tôn tượng, tâm phải khởi ý cung kính, theo phép quán tưởng, hết lòng cầu khẩn, lắng tâm suy nghĩ hai điều: Thứ nhất phải nghĩ thân mạng khó giữ thường còn, một khi tan nát không biết bao giờ được lại, nếu không gặp chư Phật cùng các bậc Hiền Thánh, lại gặp phải bạn ác, tạo thêm nhiều tội nghiệp, sẽ bị đọa lạc chốn hiểm hang sâu. Thứ hai, phải tự nghĩ ngày nay, ta tuy gặp chánh pháp của Như Lai, lại không biết vì Phật pháp nối dõi giống Thánh, tẩy sạch ba nghiệp thân, khẩu, ý, để cư xử theo thiện pháp, lại riêng làm việc ác, cố ý che đậy, nói người khác không biết, kẻ kia không thấy, giấu kín trong lòng ngang nhiên không hổ thẹn. Như thế thật là một điều hết sức ngu hoặc trong thiên hạ.
Mười phương chư Phật, chư Đại Bồ-tát cùng các vị thiện thần, lúc nào lại không dùng Thiên nhãn thanh tịnh mà soi thấy hết những tội ác của chúng ta gây tạo.
Vả lại các thần linh ở chốn u minh ghi chép tội phước không sai một mảy may nào. Nói đến những người đã làm nên tội lỗi, sau khi chết rồi bị ngục tốt đầu trâu thâu bắt thần hồn đem nạp trước mặt Diêm Vương để tra xét điều phải trái. Bấy giờ tất cả kẻ oán cừu đang làm chứng nói: Ngươi trước kia mổ ta, giết ta, nấu, hầm, rang, nướng ta… hoặc nói: Trước kia ngươi cướp bóc lấy hết tiền bạc ta, ly gián quyến thuộc ta, ngày nay ta mới có dịp ở trước ngươi làm chứng cớ rõ ràng, đâu còn giấu giếm chỉ đành cam chịu những tội lỗi trước.
Trong kinh nói rõ: Ở địa ngục không bao giờ xử oan. Người nào ngày thường gây những tội gì, tuy đã quên mất, nhưng đến khi chết rồi tất cả hình tướng ấy do các nghiệp ác độc tạo nên từ trước đều hiện ra, nói: Xưa kia ngươi ở bên ta tạo những tội ác như thế, nay làm sao giấu giếm được?. Lúc đó tội nhân không còn chỗ nào che đậy. Ngay lúc ấy Diêm Vương nghiến răng quở trách rồi cho vào địa ngục, trải vô lượng kiếp chẳng hòng thoát khỏi. Việc đó chẳng phải xa lạ mà cũng không quan hệ gì với người, chánh tự mình tạo tự mình phải chịu, dù chí thân như cha con, một khi quả báo đối đầu, cũng không thay thế cho nhau được.
Vậy nay chúng ta cùng được làm thân người khỏe mạnh không bệnh tật, nên gắng sức tu hành tranh đua cùng thọ mạng, khi đại nạn xảy đến, hối hận không kịp. Bởi thế, chúng con dốc lòng, cầu xin sám hối.
Từ vô thỉ đến nay, chúng con bị vô minh che khuất tâm trí, do phiền não tạo các nghiệp ác trong ba đời. Hoặc say đắm dục lạc sinh ra phiền não ham muốn, hoặc giận dữ bực tức sinh ra phiền não hãm hại, hoặc tâm trí tối tâm sinh ra phiền não không hiểu rõ, hoặc ngã mạn tự cao sinh ra phiền não ngạo nghễ, hoặc nghi ngờ chánh đạo sinh ra phiền não do dự, hoặc bác không nhân không quả sinh ra phiền não tà kiến, hoặc không biết thân cảnh do nhân duyên giả hợp, sinh ra phiền não chấp ngã, hoặc mê lầm trong ba đời sinh ra phiền não chấp thường chấp đoạn, hoặc gần gũi tà pháp sinh ra phiền não kiến thủ, hoặc theo lầm thầy tà sinh ra phiền não giới thủ, do đến cho tất cả bốn món chấp thành ra phiền não chấp trước sai lầm…. Ngày nay chí thành, đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay bởi có tánh bo bo lận tiếc, sinh ra phiền não keo bẩn bởi không thâu nhiếp sáu căn sinh ra phiền não buông lung, bởi để tâm làm những việc xấu xa ác độc sinh ra phiền não bất nhẫn, bởi biếng nhác trễ nải sinh ra phiền não không siêng năng bởi hay ngờ vực lo nghĩ bông lông, sinh ra phiền não giác quán, bởi xúc cảnh mê hoặc, sinh ra phiền não không hiểu biết, bởi theo tám thói xấu ở đời, sinh ra phiền não nhân ngã, bởi dối trá, khen trước mặt, chê sau lưng sinh ra phiền não tâm không ngay thẳng, bởi thô cứng khó dạy sinh ra phiền não không điều hòa, bởi dễ giận khó vui, sinh ra phiền não uất hận, bởi hay ghen ghét đâm thọc sinh ra phiền não hung dữ, bởi hung bạo độc hại, sinh ra phiền não thâm độc, bởi trái với Thánh đạo sinh ra phiền não chấp tướng, bởi không biết pháp Tứ đế, Khổ, Tập, Diệt, Đạo, sinh ra phiền não điên đảo, bởi cứ theo chiều sinh tử, không diệt được mười hai nhân duyên sinh ra phiền não luân chuyển, cho đến do vô minh trụ địa, từ vô thỉ khởi ra hằng sa phiền não, khởi tứ trụ địa, gây thành khổ quả trong ba cõi. Khổ quả phiền não vô lượng vô biên, não loạn Hiền Thánh, bốn loài chúng sinh trong sáu nẻo. Ngày nay giải bày trước mười phương chư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng, đều xin sám hối.
Nguyện nhờ công đức đã sám hối những phiền não tham, sân, si do ý nghiệp khởi ra, đời đời kiếp kiếp bẻ tràng kiêu mạn, khô nước ái dục, tắt lửa sân hận, phá tối ngu si, nhổ gốc nghi hoặc, xé lưới tà kiến, biết rõ ba cõi như ngục tù, bốn đại như rắn độc, năm ấm như kẻ thù, sáu nhập rỗng không, dối trá thân thiện, siêng tu tám Thánh đạo, dứt nguồn vô minh, nhắm thẳng Niết-bàn không hề dừng nghỉ, luôn luôn để tâm làm theo ba mươi bảy Phẩm trợ đạo, cùng mười pháp Ba-la-mật thường được hiện tiền.
Sám hối phát nguyện rồi, hết lòng tin tưởng kính lễ Thường trụ Tam bảo.
PHÁP TỪ BI THỦY SÁM
QUYỂN TRUNG
Tất cả chư Phật vì thương xót chúng sinh mới nói pháp Đạo Tràng Thủy Sám. Ngày nay chúng con xin kính lễ chư Phật.
Nam-mô Tỳ-lô-giá-na Phật.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Nam-mô A-di-đà Phật. Nam-mô Di-lặc Phật.
Nam-mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật.
Nam-mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Bảo Thắng Phật.
Nam-mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Ca-sa Tràng Phật.
Nam-mô Sư Tử Hống Phật.
Nam-mô Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.
Nam-mô Phổ Hiền Bồ-tát.
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát.
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát.
Nam-mô Đại Trang Nghiêm Bồ-tát.
Nam-mô Quán Tự Tại Bồ-tát.
Đảnh lễ chư Phật rồi, kế lại sám hối. Đến nay thân tâm chúng con được yên tịnh, trong không bị phiền não dối gạt, ngoài không bị chướng nạn ngăn trở, chánh là lúc sinh thiện diệt ác, lại phải thực hành bốn món quán hạnh, để làm phương tiện dứt tội. Bốn món quán hạnh là:
1) Quan sát nhân duyên.
2) Quan sát quả báo.
3) Quan sát thân mình.
4) Quan sát thân Như Lai.
Thứ nhất quan sát nhân duyên: biết mình có tội, do vô minh suy nghĩ xằng bậy, không sức chánh quán, không biết tội lỗi, xa lìa bạn tốt, xa lìa chư Phật, Bồ-tát, theo dỗi đường ma lối hiểm, như cá nuốt câu không biết tai họa, như tằm làm kén tự ràng buộc mình, như con thiêu thân đâm đầu vào lửa tự thiêu đốt mình, do nhân duyên ấy không thể giải thoát.
Thứ hai, quan sát quả báo: vì những ác nghiệp nên phải luân chuyển mãi trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) chịu quả khổ vô cùng, chìm đắm trong đêm dài, biển lớn, bị lũ quỷ La-sát phiền não ăn thịt, sự sinh tử sau nầy mênh mang không bờ bến. Dù cho phước báo được làm đến bậc Chuyển luân Thánh vương, thống trị cả bốn châu thiên hạ, bay đi tự tại, đầy đủ bảy loại châu báu, sau khi chết cũng không khỏi đường ác, dù được hưởng quả báo trên cõi Tứ không thiên, cao nhất trong ba cõi nhưng đến khi phước báo hết rồi, còn phải trở lại làm trùng trong yếm trâu, huống chi những kẻ không phước đức gì lại giải đãi không siêng năng sám hối. Thế chẳng khác chi ôm đá gieo mình xuống vực sâu, khó mong ra khỏi.
Thứ ba quan sát thân ta: tuy có chánh nhân giác tánh, nhưng bị phiền não hắc ám che lấp, không có sức liễu nhân, thành ra bản tánh vốn sáng suốt kia, không tỏ rõ được. Ngày nay cần phải phát tâm thù thắng phá tan màn vô minh, dẹp hết chướng ngại điên đảo, diệt trừ nguyên nhân hư ngụy của sinh tử, làm sáng tỏ trí tuệ sáng suốt của Như Lai, gây dựng quả Niết bàn vô thượng.
Thứ tư, quan sát thân Như Lai: vô vi tịch chiếu, xa bốn cấu bặt trăm lỗi, đầy đủ các đức trạm nhiên thường trú, dù phương tiện vào diệt độ, nhưng lòng từ bi cứu vớt chúng sinh không hề tạm nghỉ.
Khởi tâm quan sát như thế, tức là bến lành để diệt trừ tội lỗi, là hạnh cốt yếu để trừ nghiệp chướng. Vì vậy ngày nay chí thành cầu xin sám hối. Lại từ vô thỉ đến nay, chúng con nuôi thêm phiền não, ngày càng sâu dày, càng nảy nở, che đậy Tuệ nhãn không thấy được lẽ chân thật hư ngụy, dứt trừ mọi việc lành không cho nối tiếp nhau, khởi phiền não làm trở ngại không được thấy Phật, không nghe chánh pháp, không gặp Thánh Tăng, khởi phiền não làm trở ngại không thấy được nghiệp lành, nghiệp dữ trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai và pháp xuất ly, khởi phiền não làm trở ngại không được địa vị tôn quý ở cõi trời, cõi người; khởi phiền não làm trở ngại không được sinh vào cõi Sắc, cõi Vô sắc để hưởng phước báo yên vui thiền định; khởi phiền não làm trở ngại không được phép thần thông tự tại, bay, đi, ẩn, hiện đến khắp các cõi Phật trong mười phương để nghe pháp, khởi phiền não làm trở ngại không học được phép quán đếm hơi thở để tâm khỏi tán loạn, phép quán về bất tịnh để ngăn ngừa tâm ham muốn, phép quán về nhân duyên để dứt bỏ tâm si mê, khởi phiền não làm trở ngại không học được phép Noãn, Đảnh, Nhẫn, Đệ nhất, bảy phép phương tiện; khởi phiền não làm trở ngại, không học được những phép Từ, Bi, Hỉ, Xả, Văn, Tư, Tu, khởi phiền não làm trở ngại sự hiểu biết về quán hạnh của ba món không, bình đẳng, trung đạo, khởi phiền não làm trở ngại không học những Phẩm trợ đạo, Niệm xứ, Chánh cần, căn lực và Như ý túc, khởi phiền não làm trở ngại không học tám chánh đạo chỉ rõ về phần tướng; khởi phiền não làm trở ngại sự học bảy Giác chi không chỉ về hình tướng, khởi phiền não làm trở ngại không học đạo tám Giải thoát chín Không định; khởi phiền não làm trở ngại sự học các pháp mười Trí, tam Tammuội, khởi phiền não làm trở ngại sự học những phép ba Minh, sáu thông bốn Vô ngại, khởi phiền não làm trở ngại sự học những phép sáu Độ, bốn Đẳng, tâm khởi phiền não làm trở ngại sự học bốn nhiếp pháp để giáo hóa khắp chúng sinh, khởi phiền não làm trở ngại sự học bốn hoằng thệ, của Đại thừa tâm, khởi phiền não làm trở ngại sự học những phép Thập minh; Thập hạnh; khởi phiền não làm trở ngại sự học phép Thập hồi hướng; Thập nguyện; khởi phiền não làm trở ngại sự học minh giải của các ngôi Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa; khởi phiền não làm trở ngại sự học những điều tri kiến của các ngôi Ngũ địa, Lục địa, Thất địa; khởi phiền não làm trở ngại sự học phép song chiếu của các ngôi Bát địa, Cửu địa, Thập địa; khởi phiền não làm trở ngại sự học những hạnh tu trong trăm vạn a tăng kỳ kiếp.
Những chướng ngại sự tu hành ấy vô lượng vô biên, ngày nay chúng con hết lòng thành khẩn hướng lên mười phương chư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng, hết sức hổ thẹn cầu xin sám hối, nguyện đều dứt sạch.
Nguyện nhờ công đức sám hối tất cả các phiền não làm trở ngại sự tu hành, chúng con được thọ sinh tự tại, khắp nơi khắp chốn muốn ở được ở không bị nghiệp cảm chất chứa xoay chuyển, lại còn dùng phép thần thông như ý, trong khoảnh khắc đã dạo khắp mười phương, vừa trang nghiêm thanh tịnh các cõi Phật, vừa nhiếp hóa tất cả chúng sinh. Những cảnh giới thiền định rất cao thâm, cùng những sự thấy biết của chư Phật, chúng con nguyện hiểu thấu một cách vô ngại, tâm thường bao quát tất cả các pháp, tự tại diễn nói không bị nhiễm trước, được tâm
tự tại, khiến những phiền não ngu dốt, kết tập lâu đời đều được dứt hẳn, không còn tiếp nối, để chứng được đạo Thánh vô lậu sáng chói như mặt trời.
Phát nguyện rồi xin đem cả thân mạng kính lễ chư Phật.
Nam-mô Tỳ-lô-giá-na Phật
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật
Nam-mô A-di-đà Phật
Nam-mô Di-lặc Phật
Nam-mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật
Nam-mô Long Tự Tại Vương Phật
Nam-mô Bảo Thắng Phật
Nam-mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật
Nam-mô Ca-sa Tràng Phật
Nam-mô Sư Tử Hống Phật
Nam-mô Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát
Nam-mô Phổ Hiền Bồ-tát
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát
Nam-mô Đại Trang Nghiêm Bồ-tát
Nam-mô Quán Tự Tại Tại Bồ-tát
Đảnh lễ chư Phật rồi, kế đến sám hối.
Chúng con v.v… đã lược sám hối những phiền não chướng, giờ xin theo thứ lớp sám hối những nghiệp chướng. Nghiệp lực tô bồi các nẻo, bất cứ chỗ nào cũng bị đắm nhiễm, không chịu suy nghĩ để mong cầu giải thoát, bởi vậy nên quả báo trong sáu đường không đồng nhau, hình thể mỗi loài một khác. Thế mới biết đó do nghiệp lực gây ra. Trong mười lực của Phật, nghiệp lực sâu thẳm hơn hết.
Kẻ phàm phu phần nhiều hay sinh lòng nghi hoặc. Vì thấy ở đời người làm lành lại gặp nhiều trắc trở, kẻ làm ác mà được mọi sự an hòa, mới cho rằng việc lành dữ không có phân minh, người chấp như thế bởi không đạt thấu lý sâu xa nghiệp báo. Kinh nói có ba thứ nghiệp báo: Một là hiện báo, hai là sinh báo, ba là hậu báo. [Hiện báo tức là trong đời nầy làm việc thiện ác thì ngay thân nầy chịu quả báo. Sinh báo tức là trong đời nầy làm việc thiện ác, qua đời sau mới chịu quả báo. Hậu báo tức là trong vô lượng kiếp về quá khứ đã làm việc thiện ác, đến đời nầy hoặc vô lượng kiếp về sau mới chịu quả báo.
Còn người bây giờ làm ác mà gặp may mắn bởi do những nghiệp lành sinh báo, hậu báo đã thuần thọc trong kiếp quá khứ, nên mới hưởng quả tốt đẹp. Như thế không phải trong đời nầy làm ác mà được quả báo tốt. Những người bây giờ làm lành lại bị khổ sở, do những nghiệp ác sinh báo, hậu báo đã thuần thọc trong kiếp quá khứ, nên những mầm thiện ngày nay sức yếu không thể ngăn dẹp những nghiệp ác ấy, nên phải chịu quả khổ.
Đâu phải trong đời nầy làm lành mà chịu ác báo. Lại thấy trong đời những kẻ làm lành, được người ngợi khen kính trọng, nên biết ngày sau ắt được hưởng quả vui sướng. Chúng ta về quá khứ đã có những nghiệp ác như thế, nên chư Phật Bồ-tát dạy phải gần gũi bạn lành, cùng làm phép sám hối. Gặp được bậc Thiện tri thức là điều lợi lớn cho sự tu hành đắc đạo. Vì thế ngày nay chúng con xin chí thành quy y Phật.
Lại từ vô thỉ đến nay, chúng con chất chứa nghiệp ác nhiều như cát sông Hằng, gây tội lỗi đầy cả đại địa, hết bỏ thân nầy lại thọ thân khác, không hay không biết, hoặc phạm tội ngũ nghịch sâu dầy, trói buộc nặng nề gây nên tội Vô gián, hoặc gây nên tội Xiển-đề tạo thành nghiệp bỏ mất căn lành, khinh chê lời Phật dạy tạo thành nghiệp báng bổ kinh điển Đại thừa, phá diệt Tam bảo tạo thành nghiệp hủy hoại chánh pháp, không tin tội phước tạo thành nghiệp thập ác, hiểu lầm chân lý làm trái chánh pháp tạo thành nghiệp si mê, bất hiếu cha mẹ tạo thành nghiệp ngang trái, khinh mạn sư trưởng tạo thành nghiệp không kính lễ, thất tín bạn bè tạo thành nghiệp bất nghĩa, phạm tội tứ trọng bát trọng tạo thành nghiệp làm trở ngại Thánh đạo, hủy phạm năm điều răn cấm thành nghiệp phá giới bát quan trai, phạm ngũ thiên thất tụ, thành nghiệp nhiều phạm giới, phạm giới Ưubà-tắc tạo thành nghiệp khinh trọng cấu, hoặc gây ra nghiệp thọ giới Bồtát mà không được thanh tịnh, như thuyết tu hành, hoặc gây ra nghiệp trước khi thọ giới, sau khi thọ giới làm nhiễm ô phạm hạnh. Mỗi tháng không ăn chay sáu ngày thành nghiệp giải đãi, mỗi năm không ăn chay luôn ba tháng thành nghiệp tu không thường, không giữ gìn ba ngàn uy nghi thành nghiệp không đúng giới pháp, không giữ gìn tám vạn luật nghi thành nghiệp vi tế tội, hoặc gây ra nghiệp không tu thân giới, tâm tuệ, hoặc gây nên nghiệp tám, ngày vượng xuân thu tạo các tội lỗi, hoặc gây nên nghiệp làm mười sáu món ác luật nghi hoặc gây nên nghiệp đối với chúng sinh không lòng thương xót, gây nên nghiệp không lân mẫn không cứu giúp, ôm lòng đố kỵ thành ra nghiệp không cứu độ mọi loài, còn có chỗ oán thân thành ra nghiệp không bình đẳng, say đắm năm dục thành ra nghiệp không nhàm lìa, hoặc vì cơm áo, vườn rừng, ao hồ, thành ra nghiệp phóng đãng, dâm dật, hoặc vì tuổi trẻ phóng túng dục tình tạo các tội lỗi, hoặc tạo nghiệp lành hữu lậu để hồi hướng cầu sinh trong ba cõi tạo thành nghiệp ngăn ngại pháp xuất thế.
Những tội lỗi ấy vô lượng vô biên, ngày nay chúng con hướng về mười phương chư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng xin giải bày sám hối.
Nhờ phước lành sám hối các tội lỗi vô minh, ác nghiệp dứt sạch, được sinh phước lành, nguyện chúng con đời đời kiếp kiếp diệt được tội ngũ nghịch, trừ hoặc nghiệp xiển-đề. Tất cả nghiệp ác vừa nặng vừa nhẹ, từ nay trở đi cho đến khi thành Phật thề không dám phạm. Chúng con nguyện thường chăm lo tu tập những thiện pháp xuất thế thanh tịnh, chuyên trì giới luật tinh nghiêm, giữ gìn uy nghi như người qua biển mến tiếc phao nổi. Những pháp sáu Độ, bốn Đẳng tâm (từ, bi, hỷ, xả), thường nêu trước cả muôn hạnh, những phẩm Giới, Định, Tuệ càng thêm sáng tỏ, mau thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười Lực, bốn Vô úy, ba niệm đại bi, diệu trí thường lạc, tám món tự tại của Đức Như Lai. Chúng con… nguyện quy y chư Phật, xin rủ lòng từ bi hộ niệm.
Trước chúng con đã sám hối chung cả các nghiệp, nay lại xin theo thứ lớp sám hối riêng từng tội một. Những tội lỗi ấy hoặc chung (tội do ba nghiệp gây ra) hoặc riêng (tội do một trong sáu căn gây ra) hoặc to (tội do thân gây ra), hoặc nhỏ (tội do ý gây ra), hoặc nhẹ (tội do vô tâm gây ra), hoặc nặng (tội do sự cố ý gây ra), hoặc nói (thứ tội ai cũng biết) hoặc không nói (tội do một mình mình làm, một mình mình biết), có từng phẩm loại chúng con nguyện đều dứt hết. sám hối riêng từng tội. Trước sám hối ba nghiệp của thân, sau sám hối bốn nghiệp của miệng, còn lại những nghiệp chướng khác, lần lượt xin cúi đầu sám hối tất cả.
Ba nghiệp của thân, thứ nhất là nghiệp giết hại, như kinh đã nói: Dung thứ kẻ khác như dung thứ mình, chớ giết chớ đánh. Vì loài cầm thú cũng biết bảo tồn thân mạng sợ chết như mình. Nếu tìm xét kỹ thì các chúng sinh từ vô thỉ đến nay, hoặc đã là cha mẹ, hoặc đã là bà con quyến thuộc, nhưng bởi nhân duyên nghiệp báo, nên phải luân hồi sáu nẻo, ra vào đường sinh tử, thay hình đổi dạng không còn nhận biết lẫn nhau. Nay chúng ta nhẫn tâm giết hại ăn thịt, như thế rất tổn hại lòng Từ Bi. Vì thế Phật dạy: Giả sử được ăn các món rau quả còn tưởng như trong đời đói khát phải ăn thịt con, huống là ăn cá thịt. Phật lại dạy: Vì lợi giết chúng sinh, lấy tiền mua thịt cá, cả hai đều là ác nghiệp, sau chết đọa vào địa ngục rên siết. Vì thế nên biết giết hại loài vật và lấy thịt ăn, tội sâu như sông biển, nặng như gò núi. Song từ vô thỉ đến nay, chúng con vì không được gặp bạn lành nên mới tạo những nghiệp ấy. Kinh dạy: Tội giết hại thường làm chúng sinh đọa vào địa ngục, ngã quỷ để chịu khổ báo. Nếu đầu thai trong loài súc sinh phải chịu làm thân hùm, beo, chó sói, bồ cắt, hoặc làm thân rắn độc, rết độc, ôm lòng hiểm ác, hoặc làm thân hươu nai, thỏ, beo, luôn luôn sợ hãi. Nếu được làm người, mắc phải hai thứ quả báo: một là nhiều bệnh, hai là chết yểu.
Sự giết hại loài vật ăn thịt, đã gây biết bao ác báo như thế, ngày nay chúng con chí thành cầu xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, khi có tâm thức nầy, thường ôm lòng thâm độc, không dạ xót thương, hoặc vì tham lam mà giết, hoặc vì giận dữ si mê khinh mạn mà giết, hoặc dùng phương tiện độc ác mà giết, hoặc thề giết, nguyền giết, dùng phù chú giết v.v… hoặc phá hồ tháo nước, thiêu đốt núi rừng, săn bắn chài lưới, hoặc nhân khi gió phóng lửa, hoặc thả chim săn, chó săn làm não hại tất cả mọi loài. Những tội như thế ngày nay chúng con đều xin sám hối. Hoặc dùng cạm bẫy hầm hố, câu liêm kích, cung nỏ bắn giết những loài chim bay, thú chạy, hoặc dùng lưới rập, thả câu để đơm bắt những loài dưới nước làm cho tất cả những giống ở nước: cá, ba ba, trạch, dọp, ốc, tôm, hến… ở mặt đất, ở trên không chẳng còn chỗ nào trốn núp; hoặc nuôi gà, heo, trâu, dê, chó, ngỗng, vịt để tự mình giết ăn, hoặc mượn người làm thịt, khiến tiếng kêu thương của chúng chưa dứt mà lông cánh đã rơi rụng, mai vẩy đã tan nát, đầu một nơi thân một ngả, xương thịt tiêu tan, lột, xé, mổ, cắt, đốt, thui nấu, nướng đau đớn biết dường nào.
Than ôi! Ỷ sức mạnh giết hại loài vô tội ăn thịt, chỉ sướng miệng một lúc, được chút vị ngon, bất quá vì ba tấc lưỡi mà phải mang lấy tội báo kiếp kiếp đời đời. Những tội ác như thế, ngày nay chúng con xin chí thành sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay hoặc khởi binh đánh nhau, giao tranh nơi biên trường, hai bên giáp mặt, giết hại lẫn nhau, hoặc tự mình giết, hoặc sai người giết, hoặc nghe ai giết sinh tâm vui mừng, hoặc tập làm nghề mổ heo, bò, đi làm thịt mướn, xẻ nấu thân mạng loài vật, gây nhiều việc bất nhẫn, hoặc giận dữ khoa mác múa dao, hoặc chém, hoặc đâm, hoặc xô xuống hầm hố, hoặc nhận chìm dưới nước, hoặc lấp hang phá ổ, hoặc lấy đất đá ngăn lấp, hoặc dùng xe, ngựa lăn cán dày đạp tất cả chúng sinh. Những tội như thế vô lượng vô biên, ngày nay chúng con đều xin giãi bày sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay: hoặc phá thai, đạp trứng, dùng trùng độc, thuốc độc giết hại chúng sinh, hoặc khai khẩn đất cát, trồng cấy vườn ruộng, nuôi tằm, ươm kén, giết hại càng nhiều, hoặc đập đuổi ruồi muỗi, nhằn cắn chí rận, hoặc đốt rác dơ bẩn, khai tháo ngòi rãnh giết hại loài vật, hoặc ăn trái cây, dùng thóc gạo, rau dưa, phải giết càn chúng sinh; hoặc đốt củi thắp đèn đuốc, thiêu chết các loài côn trùng hoặc lấy tương dấm không khuấy động trên mặt, hoặc đổ nước sôi làm chết sâu kiến, cho đến những khi đi, đứng, nằm, ngồi cũng thường giết hại chúng sinh nhỏ nhít bay trên không bám dưới đất. Bởi phàm phu tâm thức tối tăm không hay biết mới phạm phải các tội, ngày nay đều xin giải bày sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, đối với chúng sinh, hoặc dùng roi, gậy, gông, xiềng, hoặc dùng kìm kẹp tra khảo, đánh vật thoi đạp, lấy dây trói buộc giam cùm, tuyệt hẳn cơm nước, dùng những cách độc ác làm khổ não chúng sinh, ngày nay chí thành hướng về mười phương chư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng, cầu xin sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối những tội giết hại ấy, chúng con đời đời kiếp kiếp được thân hình bền chắc như kim cương, sống lâu vô cùng, xa lìa oán ghét, không còn nghĩ đến những việc giết hại. Đối với chúng sinh coi như con một. Nếu thấy bị tai nạn nguy cấp thì trước tùy phương tiện giải cứu, không lẫn tiếc thân mạng, rồi sau mới đem chánh pháp nhiệm mầu nói cho, khiến chúng sinh thấy hình thấy bóng đều được an vui, nghe tên nghe tiếng liền hết sợ hãi. Vì thế ngày nay, chúng con xin cúi đầu quy y theo Phật.
Nam-mô Tỳ-lô-giá-na Phật.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Nam-mô A-di-đà Phật. Nam-mô Di-lặc Phật.
Nam-mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật.
Nam-mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Bảo Thắng Phật.
Nam-mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Ca-sa Tràng Phật.
Nam-mô Sư Tử Hống Phật.
Nam-mô Văn-thù-sư-lợi Bồ-Tát.
Nam-mô Phổ Hiền Bồ-Tát.
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-Tát.
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-Tát.
Nam-mô Đại Trang Nghiêm Bồ-Tát.
Nam-mô Quán Tự Tại Bồ-Tát.
Đảnh lễ chư Phật rồi, kế đến sám hối nghiệp trộm cướp. Trong kinh nói: Vật của người khác thì người đó giữ. Dù một lá rau, cọng cỏ mà họ không cho cũng không được lấy, huống chi trộm cướp. Nhưng vì chúng sinh chỉ thấy lợi trước mắt nên lấy một cách trái đạo, đến nỗi sau nầy phải chịu tai ương. Bởi vậy kinh nói: Tội trộm cướp làm chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngã quỷ, chịu vô cùng. Nếu đầu thai trong đường súc sinh, phải chịu làm thân trâu, ngựa, la, lừa, lạc đà v.v… đem thân máu thịt của mình trả nợ kiếp trước cho người. Nếu được làm người, phải chịu làm thân tôi mọi kẻ khác, áo không đủ che thân, cơm ăn không đủ bữa, bần cùng khốn khổ, lẽ sống của con người hầu như không còn gì nữa.
Sự trộm cướp đã có khổ báo như thế, ngày nay chúng con chí thành cầu xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, chúng con hoặc trộm tiền tài, bảo vật kẻ khác, hoặc cầm dao cưỡng đoạt, hoặc tự mình xông đến bức người lấy của, hoặc ỷ quyền nương vào thế lực, dùng kèm to kẹp lớn ép chế oan người lương thiện, hoặc thâu tiền đút lót của bọn gian, đánh khảo người ngay buộc cho là tà vạy, vì những nguyên nhân ấy khiến họ sa vào lưới pháp luật, hoặc ăn tiền của kẻ dưới để dung túng họ làm bậy, hoặc lấy của công làm lợi riêng, lấy của riêng làm việc công, làm tổn hại người kia để đem lợi cho người nầy, làm tổn hại người nầy để đem lợi cho người kia, lấy bớt của kẻ khác để làm lợi cho mình, miệng hay nói bố thí mà tâm thì bỏn sẻn, ăn cắp thuế ruộng thuế chợ, trốn thuế đò ải, bớt của công để dùng vào việc riêng, giấu sưu dịch để sai làm việc mình. Những tội như thế ngày nay đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, hoặc những vật của Phật, Pháp, Tăng không cho mà lấy, hoặc vật thuộc về kinh tượng hoặc vật dùng để cất chùa xây tháp, hoặc vật dùng để cúng dường Thường trụ Tăng hay chư Tăng tại chùa, hoặc trộm cướp lấy lầm, cậy thế không trả lại, hoặc tự mình vay mượn, hoặc cho người khác vay mượn, hoặc đổi chác vay mượn mà quên sót, hoặc đem của Tam bảo dùng không phải chỗ, tiêu pha lãng phí, hoặc lấy những vật như thóc, gạo, củi, rác, muối, đậu, tương, dấm, rau dưa, hoa, quả, tiền, vải, tre, gỗ, lụa là, phan lọng, hương hoa, Dù đèn, tùy ý tự mình lấy dùng hay cho người khác dùng, hoặc trích hoa quả cúng Phật, hay dùng đồ vật chúng Tăng, hoặc lấy của Tam bảo làm của riêng mình. Những tội như thế vô lượng vô biên, ngày nay chúng con hổ thẹn đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, hoặc chỗ bạn bè qua lại sư tăng đồng học hay cha mẹ anh em, bà con quyến thuộc cùng ở chung nhau mà trăm món cần dùng lừa dối gạt gẫm nhau, hoặc đối xóm giềng gần gũi dời rào, xê tường, xâm lấn đất nhà người khác, đổi mốc, thay nêu, cướp giựt tiền của, bao chiếm ruộng vườn, mượn tiếng việc công để làm lợi riêng, sang đoạt hàng quán rẫy bái của người. Những tội như thế, ngày nay đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, hoặc đánh phá thành ấp, đốt làng phá dậu (hàng rào) buôn bán lương dân, dụ dỗ tôi tớ của người, hoặc áp chế oan những kẻ vô tội, hoặc bị đâm chém máu rơi thịt nát, thân bị đày ải, gia sản tan nát, cốt nhục chia lìa, mỗi người một cõi, sống chết cách tuyệt. Những tội như thế vô lượng vô biên, ngày nay đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, buôn bán hàng hóa, lập quán đổi chác đồ vật, dùng cân non, đấu nhỏ, giảm bớt thước tấc, xén lấn phân thù, lường gạt từng ly, đem của xấu đổi của tốt, đem thứ ngắn đổi thứ dài, giả dối trăm chiều để mong cầu chút lợi. Những tội như thế, ngày nay chúng con đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, hoặc khoét vách đào tường, chận đường cướp đoạt, hoặc trốn nợ, xén bớt tài lợi, hoặc phụ tình trái hẹn, ngoài mặt lừa dối, trong lòng mưu toan, hoặc cướp giựt trái đạo, đồ vật của quỷ thần, cầm thú, chúng sinh, hoặc mượn cớ coi quẻ coi tướng để gạt lấy tài sản của người, như thế cho đến đem lợi cầu lợi, cầu một cách vô đạo, cầu một cách tham lam, không biết chán, không biết đủ. Những tội như thế vô lượng vô biên, không thể nói hết, ngày nay chúng con chí thành, hướng về mười phương chư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng đều xin sám hối.
Nguyện do công đức sám hối những tội trộm cướp ấy, chúng con đời đời kiếp kiếp được ngọc như ý thường xuất sinh bảy món trân bảo, y phục cực đẹp, đồ ăn đủ vị, đủ các thứ thuốc men, tùy ý muốn vật chi tức có liền vật ấy, lại nguyện cho tất cả chúng sinh không ai còn tưởng đến sự trộm cướp, ít ham muốn, biết vừa đủ, không đắm nhiễm, thường vui lòng bố thí, thực hành đạo cứu tế, bỏ đầu, mắt, tủy, não như đã bỏ đờm dãi, để mong thành tựu Bố thí ba-la-mật.
Kế đến chúng con… xin sám hối tội tham ái. Trong kinh nói: Chỉ vì tham dục nên bị giam hãm trong ngục si mê, chìm đắm trong vòng sinh tử, không biết lối ra. Chúng sinh vì say đắm năm dục, nên từ xưa tới nay bị lưu chuyển mãi trong đường sinh tử. Giá cứ lấy xương tất cả chúng sinh trong muôn ngàn kiếp chất đống lại thì bằng núi Tỳ Phú la ở thành Vương xá, sữa mẹ cho bú nhiều như nước bốn biển, máu huyết trong mình chảy ra còn hơn thế nữa, nước mắt cha mẹ, anh em, bà con quyến thuộc thương khóc khi lâm chung cũng nhiều như nước bốn biển. Vì thế nên nói: còn tham ái thì còn sinh tử, hết tham ái thì sinh tử diệt. Thế mới biết tham ái là gốc sinh tử, trong kinh nói: Tội dâm dục hay khiến chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, chịu khổ vô cùng. Nếu ở trong loài súc sinh phải làm chim bồ câu, chim sẻ, chim uyên ương. Nếu sinh trong loài ngoài thì gặp phải vợ (hay chồng) phụ bạc, bà con toàn với những người trái ý. Sự dâm dục có quả báo xấu xa như thế, nên ngày nay chúng con chí thành cầu xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, chúng con hoặc quyến rũ thê thiếp chiếm đoạt vợ con của người, hoặc làm ô nhục ni cô, phá phạm hạnh người khác, bức hiếp một cách vô đạo, đem tâm bất chánh xem ngó lẳng lơ, nói cười bỡn cợt, hoặc điếm nhục thanh danh gia tộc của người, hoặc làm nhơ tiếng tốt của người, hoặc làm hạnh bất tịnh với năm hạng người bán nam bán nữ. Những tội như thế thật vô lượng vô biên, ngày nay chúng con, đều xin chí thành sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối những tội dâm dục ấy, đời đời kiếp kiếp được tự nhiên hóa sinh, không do bào thai, được thanh khiết sáng sủa, tướng mạo quang minh, sáu căn tỏ rõ, thông minh lanh lợi, hiểu rõ ân ái là cùm xích bó buộc, xét kỹ sáu trần là trò huyễn hóa, mà quyết định xa lìa cảnh năm dục, cả đến trong giấc mộng cũng không nghĩ điều bất chánh, những điều mê hoặc ở trong ở ngoài, không thể động tâm.
Sám hối phát nguyện rồi, chúng con xin đem hết thân mạng kính lễ Tam bảo.
Chúng con trước đã sám hối ba nghiệp ác của thân, nay xin theo thứ lớp sám hối bốn nghiệp của miệng.
Trong kinh nói: Những tội nghiệp do miệng gây ra, thường làm chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngã quỷ chịu khổ vô cùng. Nếu đầu thai vào loài súc sinh phải làm thân chim cú, chim mèo, tiếng kêu đáng ghét.
Nếu được sinh vào loài người thì hơi miệng hôi thối, nói không ai tin, còn trong bà con quyến thuộc thường xảy bất hòa, đánh lộn cãi lẫn. Nghiệp của miệng đã có những ác quả như thế, nên ngày nay chúng con chí thành quy y Tam bảo, cầu xin sám hối.
Chúng con… từ vô thỉ đến nay, vì nghiệp ác khẩu nên phải ở trong bốn nẻo, sáu loài, tạo nhiều tội lỗi, nói năng thô tháo, lời lẽ hung bạo ngang tàng, không biết tôn ty, đối với kẻ thân người sơ, kẻ sang người hèn, hơi trái ý mình, đã nổi giận hờn la mắng. Mắng nhiếc hủy nhục nhiều điều hèn hạ xấu xa, ác độc, không chừa điều chi, khiến cho người khác ôm hận suốt đời không quên, gây họa kết thù chẳng bao giờ dứt, lại còn oán thán trời đất, trách móc quỷ thần, chê bai các bậc Thánh hiền, vu oan điếm nhục người lương thiện. Những tội nghiệp do ác khẩu gây ra như thế thật vô lượng vô biên, ngày nay chúng con điều xin chí thành sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, vì nghiệp nói dối, tạo ra bao nhiêu tội lỗi: trong ý mong cầu danh dự, lợi dưỡng giấu giếm tình thực, dối trá đủ điều, trong tâm mê muội, ngoài mặt dạn dày, chuyện có nói không, chuyện không nói có, thấy nói không thấy, không thấy nói thấy, nghe nói không nghe, không nghe nói nghe, biết nói không biết, không biết nói biết, làm nói không làm, không làm nói làm, khinh miệt Thánh hiền, lường đảo dối hoặc người đời, đến như cha con, vua tôi, họ hàng, bè bạn mà nói năng gì cũng không khi nào thành thực, khiến người khác lầm nghe mình đến nỗi phải tan nhà mất nước. Lại còn giả trò yêu thuật, thường tự khen mình, khoe mình đã chứng tới bậc Tứ thiền, Tứ vô sắc định, An-na-bát-na, mười sáu quán hạnh, chứng bậc Tu-đà-hoàn, đến bậc A-la-hán, Bích-chi Phật, bậc Bất thoái Bồtát và Trời, Rồng Quỷ thần, thần gió, thần đất đều đến bên mình, lại bày trò lạ mê hoặc lòng người để mong cung kính cúng dâng, bốn món cần dùng. Những tội nghiệp do vọng ngữ gây ra như thế, vô lượng vô biên, ngày nay chúng con đều xin chí thành sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, vì nghiệp nói thêu dệt (ỷ ngữ) tạo ra bao nhiêu tội lỗi: dùng âm từ hoa mỹ, văn chương bóng bẩy, xuyên tạc sự sai lầm, trang sức điều trái quấy, khéo đặt những bản ca hát hình dung vẻ yêu kiều, mô tả thói dâm ô, khiến cho hạng trung lưu, hạ lưu động tâm đãng tánh, say đắm tửu sắc không thể tự giác. Hoặc phóng túng tư thù, không kể lời nghị bàn công chánh, dẫu người kia là bậc trung thần, hiếu tử hay là chí PHÁP TỪ BI THỦY SÁM, Quyển Trung sĩ, hiền nhân vẫn cứ làm văn thêu dệt nên tội, để người đời sau tin cho là thật, khiến kia phải ôm hận dưới cửu tuyền không biết đâu biện bạch.
Những tội nghiệp do ỷ ngữ gây ra như thế, vô lượng vô biên, ngày nay chúng con đều xin chí thành sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, vì nghiệp nói hai lưỡi gây ra bao nhiêu tội lỗi: khen trước mặt chê sau lưng, xảo trá trăm chiều, tới người kia nói chuyện người nầy, tới người nầy nói chuyện người kia, chỉ biết lợi mình, không nhìn lại đến kẻ khác, gièm siểm để ly gián vua tôi, vu oan hủy nhục người lương thiện, để cho vua tôi nghi kỵ nhau, cha con bất hòa nhau, để vợ chồng bỏ nhau, họ hàng thân thích xa nhau, làm mất ơn thầy trò, dứt đường lui tới bạn bè, cả đến làm cho hai nước đang giao hảo nhau phải hủy bỏ minh ước, mất hòa khí, gây sự oán thù đem binh đánh nhau giết hại trăm họ. Nghiệp nói hai lưỡi gây ra tội lỗi vô lượng vô biên như thế, ngày nay chúng con chí thành hướng về mười phương chư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng, đều xin giãi bày cầu xin sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối bốn nghiệp ác khẩu, đời đời kiếp kiếp được đầy đủ tám thứ âm thanh, bốn món biện tài, thường nói những lời hòa hợp lợi ích, giọng nói thanh nhã ai cũng muốn nghe, lại được hiểu rõ ngôn ngữ chúng sinh. Nếu có nói chi đều được thích hợp căn cơ, khiến cho ai nghe cũng được tỏ ngộ, nhập Thánh siêu phàm, mở phát tuệ nhãn.
Sám hối và phát nguyện rồi, xin đem hết thân mạng kính lễ Tam bảo.
Trước đã sám hối ba nghiệp ác của thân, bốn nghiệp ác của miệng, nay xin theo thứ lớp sám hối những tội chướng do sáu căn gây ra.
Chúng con… từ vô thỉ đến nay, mắt vì hình sắc ở ngoài làm mê hoặc, ham thích những màu đen, vàng, đỏ, tía, xanh, cùng những đồ chơi đồ trang sức quý giá, hoặc thấy tướng mạo đàn ông, đàn bà, cao, thấp, trắng, đen, cử chỉ yêu kiều diễm lệ mà khởi ra những tư tưởng phi pháp; hoặc tai ham nghe tiếng hay như cung, thương, đàn, sáo, ca hát, trò vè, hoặc nghe những giọng thanh tao, lời ăn tiếng nói khóc cười của đàn ông, đàn bà mà khởi ra những tư tưởng phi pháp; hoặc mũi thích ngửi mùi thơm của gỗ trầm, gỗ chiên-đàn, long não, xạ hương hay mùi thơm của cây uất kim, cây tô hợp mà khởi ra những tư tưởng phi pháp; hoặc lưỡi ham nếm những vị ngon lành, tươi tốt, ngọt béo, nên phải lấy máu thịt chúng sinh, để nuôi thân tứ đại, vun quén thêm cội khổ, mà khởi ra những tư tưởng phi pháp, hoặc thân mình ham muốn sự lòe loẹt, gấm, vóc, lụa là, tất cả những thứ mượt dịu, y phục đẹp đẽ bằng bảy loại châu báu, mà khởi ra những tư tưởng phi pháp, hoặc ý hay loạn tưởng nên gặp đâu cũng trái pháp. Bởi sáu căn tạo tội ra nghiệp vô lượng vô biên như thế, ngày nay chúng con chí thành hướng về mười phương chư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng đều xin sám hối.
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do nhãn căn gây ra, chúng con nguyện mắt nầy thấy suốt Pháp thân thanh tịnh của mười phương chư Phật, Bồtát, không bằng sự sai biệt.
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do nhĩ căn gây ra, chúng con nguyện tai nầy thường được nghe chánh pháp của mười phương chư Phật, Hiền Thánh đã nói, và thực hành đúng theo giáo pháp ấy.
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do tỵ căn gây ra, chúng con nguyện mũi nầy thường ngửi hương thơm nhập pháp tánh ở cõi Hương Tích, xa lìa mùi hôi thối bất tịch của sinh tử.
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do thiện căn gây ra, chúng con nguyện lưỡi nầy thường ăn món ăn Thiền duyệt thực, Pháp hỷ thực, không tham mùi máu thịt của chúng sinh.
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do thân căn gây ra, chúng con nguyện thân nầy mặc được áo Như Lai, khoác giáp nhẫn nhục, nằm giường vô úy, ngồi tòa pháp Không.
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do ý căn gây ra, chúng con nguyện ý nầy thành tựu được mười Lực, thông suốt được năm minh, xét rõ lý chân không bình đẳng của hai đế, theo trí tuệ phương tiện vào được dòng nước pháp tánh, niệm niệm sáng suốt, phát hiển pháp Vô sinh nhẫn của Như Lai.
Phát nguyện rồi, xin đem cả thân mạng kính lễ Thường trụ Tam bảo.
PHÁP TỪ BI THỦY SÁM
QUYỂN HẠ
Tất cả chư Phật vì thương xót chúng sinh, mới nói phép Đạo Tràng Thủy Sám. Ngày nay chúng con xin đem cả thân mạng kính lễ tất cả chư Phật.
Nam-mô Tỳ-lô-giá-na Phật.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Nam-mô Di Lặc Phật.
Nam-mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật.
Nam-mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Bảo Thắng Phật.
Nam-mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Ca-sa Tràng Phật.
Nam-mô Sư Tử Hống Phật.
Nam-mô Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.
Nam-mô Phổ Hiền Bồ-tát.
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát.
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát.
Nam-mô Đại Trang Nghiêm Bồ-tát.
Nam-mô Quán Tự Tại Bồ-tát.
Đảnh lễ chư Phật rồi kế đến sám hối. Trên kia đã sám hối ba nghiệp của thân, bốn nghiệp của miệng, bây giờ chúng con xin sám hối tất cả nghiệp chướng đối với Phật, Pháp, Tăng.
Trong kinh Phật dạy: Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, chúng Tăng khó gặp, tín tâm khó sinh, sáu căn khó đủ, bạn tốt khó gặp. Ngày nay chúng ta nhờ kiếp trước đã gây nhiều căn lành, nên mới được làm thân người, sáu căn đầy đủ, lại gặp bạn lành, được nghe chánh pháp. Nếu trong lúc nầy, không hết lòng tinh tiến tu hành, ắt sau nầy sẽ bị chìm đắm trong muôn ngàn khổ đau không biết ngày nào ra khỏi. Bởi thế hôm nay, chí thành cầu xin sám hối.
Chúng con… từ vô thỉ đến nay thường bị vô minh che tâm tánh, phiền não chướng ý thức, thấy hình tượng Phật không hết lòng cung kính, khinh miệt chúng Tăng, tàn hại bạn tốt, phá pháp hủy chùa, thiêu đốt kinh tượng, làm hại thân Phật; hoặc mình ở nhà đẹp để tượng Phật, Bồ-tát ở chỗ thấp hèn bẩn thỉu, khói hun nắng táp, gió thổi mưa chang bụi đất dính đầy, chim chuột đục khoét, hoặc thờ chung trong phòng ngủ không từng kính lễ hoặc ở trần trước tượng Phật, không sửa y phục trang nghiêm tề chỉnh, hoặc che đậy đèn đuốc đóng kín cửa chùa, che lấp ánh sáng chỗ Phật. Những tội như thế, ngày nay chúng con đều xin chí thành sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, đối với pháp Phật lấy tay bẩn cầm các quyển kinh hoặc đang khi đọc tụng, xen nói lời tục tĩu phi pháp, hoặc để kinh PHÁP TỪ BI THỦY SÁM, Quyển Hạ trên đầu giường, ngồi đứng không cung kính, hoặc để trong rương tráp sâu mọt ăn nát; hoặc cuốn tròn làm cho sổ rớt, mất nát thứ tự lộn lẫn bộ loại, hoặc lôi kéo vướng đứt, làm rách giấy mất chữ, tự mình không tu tập, không chịu lưu truyền. Những tội như thế, ngày nay chúng con đều xin chí thành sám hối.
Lại nằm dài nghe kinh, nằm ngửa tụng đọc, hoặc nói cười lớn tiếng, làm rộn người khác nghe pháp, hoặc giải sai lời Phật dạy, nói khác Thánh ý, không phải chánh pháp nói là chánh pháp, chánh là chánh pháp nói không phải chánh pháp, chẳng phạm nói phạm, phạm nói chẳng phạm, tội nhẹ nói nặng, tội nặng nói nhẹ, hoặc sao chép kinh sách đoạn trước để đoạn sau, đoạn sau đem để đoạn trước, hoặc đoạn trước đoạn sau đem để vào giữa, hoặc đoạn giữa đem để ra trước sau; hoặc thêu dệt lời văn trong kinh Phật để làm sách riêng của mình, hoặc vì danh dự lợi dưỡng cung kính mà nói pháp; không lòng vì pháp, chỉ vì muốn tìm lỗi của Pháp sư mà bàn luận nghĩa lý không vì tăng tiến sự hiểu biết để cầu pháp xuất thế, mà chỉ đàn hạch một cách vô lý, hoặc khinh mạn lời Phật, tôn trọng tà giáo, chê bai Đại thừa, khen ngợi Thanh văn. Những tội như thế vô lượng vô biên, ngày nay chúng con đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, đối với chúng Tăng gây ra các nghiệp chướng, như giết bậc A-la-hán, phá sự hòa hợp của chúng Tăng, hại những người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, dứt tuyệt giống Phật, làm cho Thánh đạo không lưu hành được; hoặc lột xẻ người tu hành, tra khảo bậc Sa môn, đánh đập đày đọa, dùng lời thô bỉ mắng nhiếc, hoặc phá giới hạnh thanh tịnh làm mất hết uy nghi, hoặc khuyên người khác bỏ tám chánh đạo; hoặc giữ và thực hành theo năm phép tà, hoặc giả dạng nhà sư trộm của thường trụ tiêu xài việc riêng. Những tội như thế, ngày nay chúng con đều xin sám hối.
Hoặc để mình trần hay mặc y phục mỏng manh đường đột đến trước kinh tượng, hoặc mang giầy bẩn thỉu đi vào điện Phật, dẫm lên tháp Phật, hoặc mang guốc vào chùa, khạc đàm nhổ nước miếng trong nhà thiền, làm dơ nhớp chỗ Phật và chúng Tăng ở, hoặc đánh xe cỡi ngựa xông pha trong chùa chiền, tịnh xá. Phàm đối với Tam bảo mà khởi ra những tội lỗi như thế, thật vô lượng vô biên, ngày nay chúng con chí thành hướng về mười phương chư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng, cầu xin sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối ấy, chúng con đời đời kiếp kiếp thường gặp được Tam bảo để tôn ngưỡng cung kính, không bao giờ chán nản, lại có gấm lụa tốt đẹp, anh lạc quý giá, trăm ngàn âm nhạc, các món danh hương, các thứ hoa quả tốt tươi có đủ những vật sở hữu trên đời để cúng dường. Nếu có vị nào thành Phật chúng con nguyện đến trước khuyến thỉnh mở cửa cam lồ cứu độ chúng sinh. Nếu có vị Phật nào nhập Niết-bàn, chúng con nguyện được cúng dường một lần sau chót. Còn như trong hàng chúng Tăng, chúng con nguyện tu sáu phép hòa kính, được sức tự tại, trùng hưng Tam bảo, trên hoằng dương đạo Phật, dưới hóa độ chúng sinh.
Những tội hoặc nặng hoặc nhẹ đối với Tam bảo đã sám hối rồi, còn lại những tội ác khác chúng con xin theo thứ lớp sám hối tất cả. Như trong kinh nói: Có hai hạng người được mạnh mẽ: một là tự mình không gây tội, hai là đã gây tội mà biết ăn năn sám hối. Lại có hai phương pháp trong sạch, có thể làm cho chúng sinh diệt trừ được các món chướng ngại: một là biết hổ nên tự mình không làm ác, hai là biết thẹn, nên không xúi người khác làm ác. Có hổ thẹn như thế mới gọi là người. Nếu không biết hổ thẹn thì cũng không khác cầm thú. Bởi vậy ngày nay chúng con chí thành quy y Phật, xin đúng theo phép mà sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, vì mê tín tà kiến nên giết hại chúng sinh để cúng tấu quỷ thần, ly mỵ vọng lượng, cầu được sống lâu, nhưng không bao giờ được, hoặc nói dối thấy ma quỷ, rồi giả xưng là thần nói để gạt người. Những tội như thế, ngày nay chúng con đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, hoặc hành động láo xược, tự cao tự đại, hoặc ỷ dòng quý tộc khi dễ mọi người, cậy mình sang trọng khinh kẻ hèn hạ, hoặc ỷ sức mạnh ăn hiếp kẻ yếu, hoặc uống rượu rồi gây sự loạn đả không kể người thân sơ, say sưa suốt ngày không biết tôn ti. Những tội như thế ngày nay chúng con đều xin sám hối.
Lại như tham ăn uống không tiết độ, ăn gỏi thịt gỏi cá, hoặc ăn năm thứ cay nồng mùi hôi bay lên xông uế các kinh tượng, xua đuổi những kẻ tu hành giữ giới thanh tịnh; buông lung tâm ý, xa lìa người lành, gần gũi bạn ác. Những tội như thế, ngày nay đều xin sám hối. Lại có tánh cống cao, bày điều giả dối, bắt người khác theo mình, càn bướng cố chấp cho mình là hay, ương ngạnh chống báng không biết nhân tình, cho mình là phải, người khác là quấy, và hay hy vọng ở sự may rủi. Những tội như thế, ngày nay đều xin sám hối.
Còn lâm đến chỗ tiền tài thì lại không nhường nhịn, không liêm sỉ, mua bán rượu thịt lừa dối để sống, hoặc cho vay nặng lời, tánh từng ngày từng giờ góp chứa một cách cay nghiệt, tham cầu không biết chán, hưởng thọ của dâng cúng không biết hổ thẹn, hoặc không giới đức mà lạm nhận của tín thí. Những tội như thế, ngày nay đều xin sám hối.
Và đánh đập tôi tớ, sai khiến trẻ con làm việc nặng không kể đến sự đói khát lạnh nóng của chúng, hoặc phá dỡ cầu cống làm ngăn trở sự đi lại.
Những tội như thế, ngày nay đều xin sám hối.
Lại để mặc ý mình phóng túng, lung lăng tán loạn, chỉ để thì giờ đánh xu bồ, đánh cờ tướng, hoặc vây đoàn hợp lũ uống ăn rượu thịt, chén tạc chén thù làm rối cho nhau, nói chuyện vu vơ, hay bàn luận chuyện thiên hạ, hết năm nầy qua năm khác để ngày giờ trôi qua không lợi ích gì, mỗi đêm ba thời không tụng kinh ngồi thiền, lười biếng, giải đãi cứ nằm dài suốt ngày không để tâm quán sáu món niệm xứ thấy người khác có việc hơn mình, lại sinh ghen ghét, ôm lòng hiểm độc, khởi đủ phiền não, để cho gió lốc vật dục thổi vào củi lửa tội lỗi, cháy luôn không ngớt, thiêu mất những điều lành nhỏ của ba nghiệp. Khi những pháp lành đã hết thì hóa ra Nhất xiển-đề, đọa vào địa ngục lớn, không có kỳ hạn ra được. Bởi thế nên ngày nay, chúng con cúi đầu hướng về mười phương Tam bảo xin sám hối tất cả.
Tất cả tội lỗi từ trước đến nay hoặc nhẹ hoặc nặng hoặc thô hoặc tế, hoặc tự mình làm, hoặc bảo người khác làm, hoặc thấy người khác làm vui mừng, hoặc dùng thế lực bắt buộc người khác làm, cả đến những tội khen người làm ác, ngày nay chúng con chí thành đều xin sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối các tội ác ấy, chúng con đời đời kiếp kiếp được từ hòa, trung hiếu, khiêm nhường, nhẫn nhục, biết liêm sỉ, biết chào đón trước, sửa mình chánh đáng, trong sạch nhân nghĩa, nhường nhịn, xa lìa bạn ác, thường gặp duyên lành, thâu nhiếp được sáu căn, giữ gìn được ba nghiệp, nhẫn nại được khổ nhọc, tâm không thoái lui, cứ lập chí tu hành đắc đạo, không phụ bạc chúng sinh.
Phát nguyện rồi đem hết thân mạng kính lễ chư Phật.
Nam-mô Tỳ-lô-giá-na Phật.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Nam-mô A-di-đà Phật. Nam-mô Di-lặc Phật.
Nam-mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật.
Nam-mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Bảo Thắng Phật.
Nam-mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Ca-sa Tràng Phật.
Nam-mô Sư Tử Hống Phật.
Nam-mô Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.
Nam-mô Phổ Hiền Bồ-tát.
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát.
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát.
Nam-mô Đại Trang Nghiêm Bồ-tát.
Nam-mô Quán Tự Tại Bồ-tát.
Trước đã sám hối những phiền não chướng, nghiệp chướng, nay theo thứ lớp giãi bày những quả báo chướng còn lại, xin sám hối tất cả.
Trong kinh nói: Khi nghiệp báo đã đến, chẳng phải trong không trung, trong biển, trong hang núi, không có chỗ nào thoát khỏi được quả báo, chỉ có sức sám hối có thể diệt trừ. Vì sao biết được? Vì như ông Thích-đề Hoàn-nhân khi thấy năm tướng suy hiện ra, trong lòng khiếp sợ bèn chí thành quy y Tam bảo, thì năm tướng xấu ấy liền tiêu diệt, lại còn thêm tuổi thọ. Những chuyện như thế trong kinh rất nhiều không phải là một. Thế nên biết sự sám hối hay diệt trừ được tai họa.
Song kẻ phàm phu nếu không gặp bạn tốt dẫn đường, thời không có việc ác nào mà không làm, đến nỗi khi sắp chết, cảnh địa ngục gớm ghê hiện ra trước mắt, chánh lúc ấy lại hối hận, sợ hãi. Ôi! Ngày trước không tu điều lành để đến ngày cùng ăn năn, thì ăn năn sao kịp. Phước báo hay tai ương tự mình gieo trồng từ trước, nay cứ thẳng lối mà vào địa ngục, một mình mình đi đến, để lăn vào vạc dầu sôi, thân tâm tan nát, tinh thần thống khổ. Tới lúc đó dù muốn lạy hay sám hối một câu, cũng không dễ gì được nữa.
Vì thế, tất cả mọi người chớ ỷ mình tuổi trẻ sức mạnh có tiền tài thế lực mà lười biếng giải đãi tự ý buông lung. Một khi khổ chết đã đến thì không luận già, trẻ, nghèo, giàu, sang, hèn đều tiêu ma hết. Quỷ vô thường đến thình lình không cho ai biết trước. Mạng người vô thường như giọt sương mai, một hơi thở ra tuy có đó, nhưng hơi hít vào không chắc gì còn được. Thế gì cớ chi mà không sám hối? Nếu sứ giả Ngũ thiên hay quỷ La sát thoạt nhiên đi đến, dù tuổi trẻ sức mạnh đến đâu cũng không thể tránh. Lúc ấy dù có nhà đẹp lầu cao cũng không ích gì đến người, xe tốt ngựa hay không đem theo được, vợ con quyến thuộc cũng không còn là người thân, những đồ trân bảo quý giá cũng chỉ để cho người khác hưởng. Lấy đó mà nói là quả báo ở đời đều giả dối không chắc thật. Còn như ở cõi trời tuy vui thật, nhưng rốt cuộc cũng sẽ tan nát. Khi sự sống hết thì vẫn phải đọa lạc trong ba đường. Vì thế Phật bảo ông Tu-đạt-đa: Thầy ngươi là Uấtđầu-lam-phất lợi căn sáng suốt, đã hàng phục được phiền não, đến cõi trời Phi phi tưởng rồi, mà khi mạng chung còn phải đọa vào đường súc sinh làm con phi ly huống chi người khác. Thế mới biết hễ chưa lên tới quả Thánh, thì còn bị luân chuyển qua các đường ác. Nếu không cẩn thận, một mai thình lình thân chịu chỗ đó, thật đáng hối hận?
Xem như ngày nay bị tội phải đến cửa công, đó là khổ nhỏ mà tâm tình đã sợ hãi, quyến thuộc đã khủng khiếp cầu cứu trăm bề. Đối với nỗi khổ trong địa ngục còn gấp trăm ngàn vạn lần hơn, không thể so sánh được.
Chúng con cùng nhau trải vô số kiếp, tội lỗi chồng chất như núi Tudi, nghe như vậy làm sao cứ an nhiên không sợ hãi, không kinh khủng để về sau mắc phải những nổi khổ ấy, đáng đau đớn biết bao! Vì thế ngày nay, chúng con chí thành cầu xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, chúng con… có nhiều báo chướng nhưng nặng nhất chỉ có địa ngục A-tỳ. Như trong kinh đã nói rõ, nay xin nói sơ về hình tướng của địa ngục A-tỳ.
Chung quanh ngục có bảy lớp thành sắt, có bảy lần lưới sắt giăng kín ở trên, phía dưới có bảy từng dao sắt rậm như rừng và vô số ngọn lửa dữ luôn luôn thiêu đốt. Bề dài bề rộng của ngục nầy tánh có tám muôn bốn ngàn do-tuần. Tội nhân đầy trong ấy, nhưng vì nhân duyên của tội nghiệp nên không làm trở ngại. Lửa phía trên hắt xuống, lửa ở dưới bốc lên, lan khắp bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tội khổ trong ngục ấy như cá bị chiên trong chảo, dầu mỡ đều chảy ra. Ở bốn cửa thành có bốn con chó đồng, thân hình dài rộng đến bốn ngàn do-tuần, nanh dài móng nhọn, mắt sáng như điện chớp. Lại có vô số giống chim mỏ sắt, vỗ cánh bay lên mổ khoét thịt người có tội. Quỷ sứ đầu trâu hình như La-sát, có chín đuôi như đinh ba bằng sắt, lại có chín đầu, trên đầu có mười tám sừng, mỗi sừng có sáu mươi bốn mắt, từ mỗi con mắt tiết ra sức nóng như thiêu đốt tội nhân. Mỗi khi nóng giận chúng gào thét tiếng vang như sấm. Lại có vô số bánh xe dao, từ trên không trung quay xuống, xoáy vào đỉnh đầu tội nhân, rồi xoáy suốt xuống chân mà ra ngoài. Tội nhân đau đớn thấu xương tủy, nhức nhối tận tim gan, cứ như thế trải qua không biết bao nhiêu năm, cầu sống không được cầu chết không được. Những tội báo như thế, ngày nay chúng con hổ thẹn, cúi đầu xin sám hối.
Kế đến chúng con xin sám hối những tội báo: đầu, thân rơi rã trong địa ngục núi đao, rừng kiếm bị thiêu nướng trong địa ngục vạc Dù, lò than; sám hối những tội báo bị thiêu đốt trong địa ngục giường sắt, cột đồng; sám hối những tội báo bị đè nghiến mổ xẻ trong địa ngục xe dao, xe lửa; sám hối những tội báo trong địa ngục kéo lưỡi để trâu cày; sám hối những tội báo làm cho ngũ tạng cháy tiêu trong địa ngục nuốt hòn sắt nóng, uống nước đồng sôi; sám hối những tội báo xương thịt nát tan trong địa ngục cột sắt; sám hối những tội báo da, thịt, xương, tủy rơi lìa từng mảnh trong địa ngục quấn dây sắt nóng; sám hối những tội báo bị bứt rứt ngạt thở trong địa ngục sông tro phẩn; sám hối những tội da dẻ lạnh cóng nứt da trong địa ngục nước mặn đóng giá băng; sám hối những tội báo tàn hại lẫn nhau trong địa ngục chó sói, chim sắt, chó săn; sám hối những tội báo đâm chém cấu xé nhau trong địa ngục đao binh móng vuốt; sám hối những tội báo bị rang nướng trong địa ngục hầm lửa; sám hối những tội báo bị hình hài tan nát trong địa ngục hai tảng đá ép lại, sám hối những tội báo bị róc lột trong địa ngục bốn bề núi đá xô ép lại; sám hối những tội báo bị chém xẻ trong địa ngục núi thịt u ám; sám hối những tội báo bị chặt đứt trong địa ngục cưa xẻ đóng đinh; sám hối những tội báo bị mổ cắt trong địa ngục gậy sắt, treo ngược; sám hối những tội báo phiền oan trong địa ngục đốt nóng kêu gào, sám hối những tội báo chịu cảnh đêm dài mù mịt không bóng mặt trời, mặt trăng và sao trong khoảng lớn nhỏ núi Thiết vi; sám hối những tội báo trong địa ngục A ba ba, địa ngục A bà bà, địa ngục A tra tra, địa ngục A-la-la. Trong tất cả các địa ngục lạnh nóng như thế có phụ thêm tám muôn bốn ngàn địa ngục cách tử.
Những tội khổ trong đó bị chiên nấu đau đớn, bị lột da róc thịt, chẻ xương đập tủy, rút ruột bức phổi, nhiều nỗi khổ khác không thể nghe không thể nói. “Nam-mô Phật!” Những người bây giờ đang bị đọa vào các chốn ấy hoặc là cha mẹ hay họ hàng của chúng con trong vô thỉ kiếp chúng con cùng họ, sau khi chết sẽ bị đọa trong các địa ngục như thế.
Ngày nay chúng con rửa sạch lòng trần, cúi đầu hướng về mười phương chư Phật, các bậc Đại Bồ-tát cầu xin sám hối, khiến cho tất cả tội báo kia đều tiêu diệt.
Nguyện nhờ công đức sám hối những tội báo trong địa ngục, chúng con phá được bức thành sắt chốn A-tỳ làm thành cõi Tịnh-độ, không còn cái tên ác đạo bao nhiêu thống khổ sợ sệt trong các địa ngục đều chuyển thành những duyên vui sướng, núi đao rừng kiếm biến ra rừng báu, lò lửa vạc dầu hóa thành hoa sen; lính ngục đầu trâu chừa bỏ sự bạo ngược, khởi lòng Từ-bi không còn niệm ác. Và chúng sinh trong đường địa ngục thoát khỏi quả khổ, không gây thêm nhân ác khác, thọ hưởng sự yên vui như ở cõi Tam thiền, đồng thời phát tâm cầu đạo Vô thượng.
Sám hối và phát nguyện xong, xin hết lòng kính lễ Thường trụ Tam bảo.
Nam-mô Tỳ-lô-giá-na Phật.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Nam-mô Di-lặc Phật.
Nam-mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật.
Nam-mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Bảo Thắng Phật.
Nam-mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật.
Nam-mô Ca-sa Tràng Phật.
Nam-mô Sư Tử Hống Phật.
Nam-mô Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.
Nam-mô Phổ Hiền Bồ-tát.
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát.
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát.
Nam-mô Đại Trang Nghiêm Bồ-tát.
Nam-mô Quán Tự Tại Bồ-tát.
Đảnh lễ chư Phật rồi kế đến sám hối. Trước đã sám hối những tội báo trong địa ngục, nay xin sám hối những tội báo trong ba đường ác. Trong kinh Phật nói: Con người vì nhiều ham muốn, nhiều tham cầu lợi dưỡng nên khổ não cũng nhiều. Người biết đủ tuy nằm dưới đất mà vẫn lấy làm yên vui, người không biết đủ, dù ở thiên đường cũng không vừa ý. Song người đời nếu thình lình có tai nạn nguy cấp thì thường bỏ hết tài sản không kể là nhiều hay ít. Thế mà không biết thân nầy khi lâm vào hố thẳm ba đường ác, hễ một hơi thở không trở lại thì phải bị đọa lạc. Thoảng như có người trí thức khuyên làm việc công đức để dự trữ pháp lành cho đời sau, thì lại cứ cố chấp keo bẩn không chịu làm theo lẽ phải. Những người như thế thật ngu hoặc biết bao! Vì sao? Trong kinh Phật nói: Lúc sinh không đem lại một đồng nào, lúc chết cũng không cầm được một đồng nào đem đi. Người đời phải khổ thân để góp chứa tiền của, chỉ đèo theo sự lo âu phiền muộn không ích gì cho mình, mà người khác hưởng hết. Không chút duyên lành, không một mảy công đức để nhờ cậy đến nỗi khi chết phải bị đọa vào đường ác. Vì vậy ngày nay chúng con chí thành đem thân mạng nương về ngôi Tam bảo, cầu xin sám hối.
Kế đến chúng con xin sám hối những tội báo ngu tối trong loài súc sinh; sám hối những tội báo mang nặng kéo cày đền nợ cũ trong đường súc sinh, sám hối những tội báo bị người đâm, xẻ, mổ, cắt, không được tự do trong đường súc sinh; sám hối những tội báo không chân hai chân, bốn chân hay nhiều chân trong loài súc sinh; sám hối những tội báo trong lông, cánh, mai, vẩy, trong thân bị các giống trùng nhỏ cắn rỉa, ở loài súc sinh. Trong loài súc sinh có vô số tội báo như thế, ngày nay đều xin chí thành sám hối.
Chúng con lại xin sám hối những tội báo luôn luôn chịu sự đói khát trải qua trăm ngàn vạn năm không nghe đến tên cơm nước trong loài ngã quỷ; sám hối những tội báo ăn uống máu mủ phẩn dơ trong loài ngã quỷ; sám hối những tội báo mỗi khi động thân thì tất cả chi tiết đều cháy trong loài ngã quỷ, sám hối những tội báo bụng lớn cổ nhỏ trong loài ngã quỷ.
Trong loài ngã quỷ, có vô số tội báo như thế, ngày nay cúi đầu cầu xin sám hối.
Chúng con lại xin sám hối những tội báo hay nịnh hót kiêu mạn trong loài Tu-la, quỷ thần, sám hối những tội báo gánh cát mang đá lấp sông trấn biển trong loài quỷ thần, sám hối những tội báo ăn uống máu thịt, chịu đủ mọi sự xấu xa trong loài quỷ thần La-sát, Cưu-bàntrà. Trong loài quỷ thần có vô lượng vô biên tội báo như thế, ngày nay chúng con hướng về mười phương chư Phật, đại địa Bồ-tát, cầu xin sám hối khiến cho những tội báo ấy đều tiêu diệt.
Nguyện nhờ công đức sám hối những tội báo trong đường súc sinh, chúng con đời đời kiếp kiếp diệt hết tất cả ngu si, biết được nghiệp duyên của mình, trí tuệ sáng suốt, không làm thân trong các đường ác.
Nguyện nhờ công đức sám hối những tội báo trong đường ngã quỷ, chúng con đời đời kiếp kiếp lìa khổ xan lận, đói khát, thường được ăn những pháp vị cam lồ giải thoát.
Nguyện nhờ công đức sám hối những tội báo trong đường Tu-la quỷ thần, chúng con đời đời kiếp kiếp tánh tình chất trực xa hẳn nhân tà mạng, trừ các quả báo xấu xa, và làm được nhiều phước lợi cho cả trời người.
Chúng con… nguyện từ nay trở đi cho đến đạo tràng, không còn chịu những tội báo trong bốn đường ác, chỉ trừ lòng đại Bi cứu độ chúng sinh, lấy sức thệ nguyện, ở chung trong ấy, không khi nào chán nản.
Chúng con… đã sám hối những tội báo trong ba đường ác, nay theo thứ lớp cầu xin sám hối những tội báo trong chốn trời, người.
Chúng con cùng nhau thọ bẩm thân mạng ở cõi Diêm-phù nầy, tuy nói một trăm năm chớ có mấy ai sống trọn. Trong thời gian đó, số người trẻ tuổi chết non không thể nào lường, những khổ não còn nung nấu bức bách thân hình, lo rầu sợ hãi không ngớt phút nào. Sở dĩ như thế, bởi căn lành rất ít, nghiệp ác quá nhiều, đến nỗi trong đời hiện tại làm việc gì cũng không được vừa ý. Nên biết đó là dư báo của những nghiệp ác ở đời quá khứ còn lại. Bởi thế nên ngày nay, chúng con xin sám hối vô lượng dư báo ấy trong cõi trời, người từ vô thỉ cho đến đời hiện tại và vị lai; sám hối những tội báo tai ương túc trái, tàn tật trăm bệnh, sáu căn không đủ ở cõi người; sám hối những tội báo sinh vào nơi hoang dã xa cách mọi người, luôn luôn bị tà kiến, tám nạn, ba ác; sám hối những tội báo bị nhiều bệnh hoạn, gầy còm, chết yểu, chết oan, ở cõi người; sám hối những tội báo bà con quyến thuộc không đoàn tụ, ở cõi người sám hối những tội báo bị khổ vì bạn bè tan nát ân ái chia lìa, ở cõi người; sám hối những tội báo oán cừu gặp gỡ, ưu sầu khiếp sợ ở cõi người; sám hối những tội báo bị nạn nước lửa, trộm cướp đao binh nguy hiểm, kinh khủng khiếp nhược, ở cõi người; sám hối những tội báo bị cô độc khốn khổ, lưu lạc, bôn ba quên mất xứ sở, ở cõi người; sám hối những tội báo bị tù ngục giam cầm, bị nhốt đứng trong ngục tối, bị đánh đập tra khảo ở cõi người; sám hối những tội báo bị miệng lưỡi công tư thêu dệt, vu họa ở cõi người; sám hối những tội báo bị bệnh tật liên miên liệt giường liệt chiếu không đứng dậy được ở cõi người; sám hối những tội báo bị các chứng ôn dịch về mùa Đông, mùa Hạ, hay bị độc lệ thương hàn ở cõi người; sám hối những tội báo bị trúng gió độc, bị thũng, trướng, bị kết, ở cõi người; sám hối những tội báo bị các ác thần tìm dịp tiện tác họa ở cõi người; sám hối những tội báo bị các thứ ác điểu bay đến kêu lên trăm điều quái gở, gặp tà quỷ phi thi làm các yêu dị, ở cõi người; sám hối những tội báo bị các loài cầm thú dữ sài lang, hổ báo làm hại, ở cõi người; sám hối những tội báo tự đâm tự giết ở cõi người; sám hối những tội báo tự lao mình xuống hố sâu hầm lửa, nhảy xuống sông hay gieo mình từ trên cao xuống, ở cõi người; sám hối những tội báo không có uy đức tiếng tăm, ở cõi người; sám hối những tội báo thiếu thốn, tiêu dùng ăn mặc không được vừa lòng, ở cõi người; sám hối những tội báo ra vào, đi lại hay làm việc gì cũng khó khăn hoặc bị người khác ngăn trở, ở cõi người. Những tai họa bất trắc, những bệnh truyền nhiễm, những ách nạn suy não trong đời hiện tại, vị lai, trong cõi trời người, nhiều không thể kể xiết như thế, ngày nay chúng con chí thành hướng về mười phương chư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu diệt.
Trước đã sám hối tất cả phiền não chướng và nghiệp chướng của sáu căn, ba nghiệp, tất cả quả báo chướng trong sáu nẻo bốn loài, nay chúng con xin theo thứ lớp phát nguyện hồi hướng.
Chúng con… nguyện đem công đức sám hối ba món chướng kia hồi hướng cho tất cả chúng sinh cũng đều cùng nhau sám hối; nguyện cùng tất cả chúng sinh trong đời hiện tại thân tâm được yên vui, ba tai tám nạn các việc chẳng lành đều tiêu trừ tất cả, sự ăn mặc được dư dật đầy đủ, chánh tín Tam bảo, xả báo thân nầy, vãng sinh về cõi Cực Lạc gần gũi Đức Phật Di-đà, được thọ ký để qua đời sau gặp Phật Di-lặc, nghe hiểu chánh pháp, theo đó tu hành. Nguyện đời đời kiếp kiếp bất cứ sinh ở chỗ nào, thường gặp các vị quốc vương, trùng hưng Tam bảo, không bị sinh vào nhà ngoại đạo tà kiến. Chúng con lại nguyện đời đời kiếp kiếp bất cứ ở nơi nào, cũng do hoa sen hóa sinh, thuộc dòng giống cao quý, được yên ổn, vui sướng, món ăn thức mặc tự nhiên có sẵn. Chúng con lại nguyện đời đời kiếp kiếp bất cứ ở chỗ nào, cũng có sẵn lòng nhân từ trung hiếu, đem tâm bình đẳng cứu giúp chúng sinh, không khởi niệm nghịch hại. Lại nguyện đời đời kiếp kiếp bất cứ sinh ở chỗ nào, cũng thường được chư Phật hộ niệm, thường hàng phục được ma oán và các thứ ngoại đạo, được ở chung một chỗ với các bậc Bồ-tát, một lòng theo đạo Bồ-đề không khi nào dứt đoạn. Lại nguyện đời đời kiếp kiếp bất cứ sinh ở chỗ nào cũng nêu tỏ Phật, Pháp, tu theo giáo lý Đại thừa, phân thân vô số để cứu độ chúng sinh, thẳng tiến đến đạo tràng (thành Phật) không khi nào thoái chuyển.
Chư Phật, Bồ-tát đã phát lời thệ nguyện tu hành phước trí và hồi hướng, chúng con cũng xin phát nguyện tu tập phước trí và hồi hướng như vậy.
Cõi hư không có thể cùng tận, cõi chúng sinh có thể cùng tận, nghiệp báo của chúng sinh có thể hết, phiền não của chúng sinh có thể diệt, nhưng sự tu hành hồi hướng của chúng con không bao giờ cùng tận.
Phát nguyện và hồi hướng xong, xin hết lòng kính lễ Thường trụ Tam bảo.