Đ a n g t i d l i u . . .

03. Phẩm Đệ Tử

03. Phẩm Đệ Tử

DUY MA KINH LƯỢC SỚ

Thiên thai, Sa-môn Trạm Nhiên lược.

PHẨM: ĐỆ TỬ

Phần 1

Phẩm này kế sau phẩm Phương Tiện để phá vô vi duyên tập mà thành tựu giáo nghĩa cõi Phật thanh tịnh. Như trước đã nói ý nghĩa nó rất phong phú mà kẻ phàm phu khó suy lường. Nay tóm tắt có ba ý giải thích chung về phẩm này:

  1. Nói duyên do có phẩm này.
  2. Lược giải thích nghĩa “đệ tử”.
  3. Giải thích văn kinh.

I. NGUYÊN DO CÓ PHẨM NÀY:

Đức Phật từ bi muốn khiến chúng sinh được chánh báo giải thoát pháp thân chẳng thể nghĩ bàn và y báo cõi Phật thanh tịnh, nhưng chỉ hóa độ được những kẻ có duyên. Ngài Tịnh Danh ở cõi Nhẫn này cùng muôn vật từ lâu xa đã kết thắng nghiệp Bồ-đề, ngài đoán biết ý Phật nên trước giả bệnh để nói các pháp giúp thành tựu giáo nghĩa giải thoát Phật quốc. Nay lại ngã bệnh thầm nghĩ Đức Như Lai đại từ sẽ đoái hoài đến ta mà sai các đệ tử đến thăm hỏi. Các vị ấy sẽ từ chối vì xưa kia bị chê trách, tức được hiển bày điều Như Lai muốn nói. Nay nêu nguyên do có phẩm này tóm tắt có năm ý:

  1. Nêu rõ thắng trí của ngài Tịnh Danh.
  2. Khuyên bảo bốn chúng bỏ Tiểu thừa ưa thích Đại thừa.
  3. Giúp thành giáo Phật quốc.
  4. Chiết phục Nhị thừa thành giáo sinh tô.
  5. Ấn định thành kinh.

Thắng trí của ngài Tịnh Danh: Nếu sai đệ tử ắt đệ tử sẽ thuật lại việc xưa kia để từ chối, đại chúng nghe được ắt sẽ đối với ngài Tịnh Danh sinh tưởng khó lường mà càng kính trọng. Nếu cai trong tâm phát khởi tin sâu thì có khả năngnghe nói giáo Tịnh độ vì chưa vào thất.

Khuyên chúng bỏ Tiểu thừa ưa thích Đại thừa: Các vị chứng quả Thanh văn chưa hồi tâm như đất trên nguồn cao không sinh được hoa sen, người chưa vào ngôi vị dầu ưa thích Tiểu thừa, nhưng nghe việc bị chê trách xưa ắt phát tâm Đại thừa. Như khi nói Đại phẩm, những người chưa vào ngôi vị đã đem y đang mặc cúng dường Như Lai mà phát tâm lớn lao. Phật liền phóng quang thọ ký cho, đồng thời khai phát cho bốn chúng được đại đạo lợi ích vô lượng. Vì sao? Vì việc chê trách xưa có ít người nghe. Như việc quở trách ngài Ưu-ba-ly thì chỉ có hai vị Tỳ-kheo được tâm thanh tịnh; việc chê ngài A-na-luật chỉ có một vạn Phạm thiên phát tâm Bồ-đề… Nhưng ở tòa giảng này đại chúng được nghe cả nên ích lợi vô lượng, cho nên cần mỗi vị thuật lại việc xưa bị chê trách.

Giúp thành giáo Phật quốc: Muốn làm rõ việc chê trách hàng Nhị thừa thuở xưa đồng với ý chỉ Phật quốc hiện nay. Sao biết? Vì chúng sinh có tội nên không thấy được Tịnh độ. Như ngài Thân Tử kể lại việc ngài Tịnh Danh xưa đã quở ngài chấp Tiểu thừa khiến mọi người chê Tiểu mến Đại, do đó tội chấp Tiểu tạm trừ mà ngầm phát tâm mến Đại. Nay dự ở tòa này nhờ thần lực của Phật mà được nghe các lời kể này cả năm trăm vị đều như thế. Nhân đó được vào trong thất nghe pháp chẳng thể nghĩ bàn mà cõi Đăng vương Hương Tích không động hiện ra trước mắt.

Chiết phục Nhị thừa…, như lúc mới mở bày đốn giáo thì chỉ có hàng căn cơ cao. Hạng căn tánh thấp nhỏ do cấu nặng nên không được lợi ích cũng như chất sữa. Sau đó Tam hưng giáo hưng khởi, phương tiện mở bày ba thừa, hàng căn tánh thấp nhỏ nhân đoạn được kiến tư mà xa phàm thành Thánh, tức như chuyển chất sữa thành chất lạc. Kế nghe việc Đại sĩ chê trách thuở xưa, cho đến vào trong thất của bậc tiếng vang cả tam thiên, thì ắt phải bỏ Tiểu mà mến Đại. Tín tâm dần đổi chuyển thành sinh tô, nên kinh Pháp Hoa có nói: Từ đây về sau tâm tánh thể tướng ra vào Không khó khăn. Như đến Đại phẩm biến thành thục tô, vào Pháp hoa Niết-bàn liền thành đề hồ. Đó tức là thuật lại việc chê trách xưa mà thành nguyên do chuyển đến vị sinh tô.

Hỏi: Nếu năm trăm vị Thanh văn đều kể lại sáng ngời đức của ngài Tịnh Danh là nguyên do chuyển thành vị sinh tô để vào trong thất thì đây nhất định là thuộc phần Tựa chứ không thuộc phần Chánh thuyết?

Đáp: Nếu thành sinh tô thì há chỉ là vào trong thất, hoặc là trước đây nghe các kinh Phương đẳng như Ương-quật đã bị trách hoặc khi trách thuở xưa hoặc nay nghe thuật lại, hoặc đến vào trong thất hoặc ở các thời nói Phương đẳng sau này, các lúc như thế đều là sinh tô, đâu được vào trong thất mới nhất định thành sinh tô, mà thuộc phần tựa? Nếu lấy việc khen ngợi nguyên do thành sanh tô để làm tựa thì nguyên do vào trong thất và trở về Am viên cũng là phần tựa.

Ấn định thành kinh: Thuở xưa ngài Tịnh Danh tùy vật mà ứng cơ, tùy chỗ quở trách mà dạy dỗ, nếu Phật không sai đệ tử thì đại chúng sao được cùng nghe. Ấy là Như Lai ấn định lợi ích cho bốn chúng ở các đời chánh, tượng, mạt.

Hỏi: Việc quở trách Thanh văn này đối với ba quán của bốn giáo mỗi giáo dùng bao nhiêu?

Đáp: Dùng đủ ba quán, một là chê trách tích không vào Giả quán, dùng ba giáo của Đại thừa mà trách Tam tạng giáo.

II. LƯỢC GIẢI NGHĨA ĐỆ TỬ

có chín ý:

  1. Lược giải tên nghĩa đệ tử.
  2. Giải thích mười đệ tử.
  3. Đối chung mười tâm số.
  4. Đối riêng với mười tâm số.
  5. Nói trang nghiêm song thọ.
  6. Nói sinh về cõi quả báo.
  7. Nói cõi Phật thanh tịnh.
  8. Xét theo quán tâm.
  9. Khiển trách trước sau.

Lược giải tên đệ tử: Phàm thầy thì có công năng giúp dạy bảo. Người học thì có đức tiếp thu. Trò thì bỏ cha theo thầy, kính thầy như cha. Thầy khiêm nhường thương dạy trò như con em mình. Nên Khổng tử có nói: “Nhan Hồi coi ta như cha, ta xem Nhan Hồi như em.” Nay nhóm Thân tử theo học với Phật là tình thầy trò nên gọi là đệ tử.

Hỏi: Phật là cha lành của chúng sinh, tất cả chúng sinh đều là con Phật. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Tam giới này đều là ta có, chúng sinh trong đó đều là con ta”, há lại theo phép tắc của Khổng tử ư?

Đáp: Kinh có hai nghĩa là hoặc nương lý mà đặt tên hoặc thuận phong tục mà kêu gọi. Như kinh Pháp Hoa nói: Khi ta làm Thái tử thì La-hầu-la là con lớn, nay ta đã thành Phật đạo thì học pháp mà làm pháp tử, đây là căn cứ theo lý. Thế gian và xuất thế gian đều là cha con. Nếu thuận theo phong tục thì như phụ tử. Việc truyền giáo thường thuận theo phong tục không tranh cãi, chỉ lòng không trái thật pháp, nên theo nghĩa ngoài mà giải thích tên, không lỗi gì.

Hỏi: Nếu vậy thì người thế tục đều là đệ tử đâu riêng gì Thanh văn?

Đáp: Luận chung thì thật như thế, nhưng luận riêng thì không phải vậy. Người thế tục tuy đến học đạo nhưng vẫn theo phép thông tục kính thờ cha mẹ vua chúa, đâu thể sớm chiều hầu hạ thường được học hỏi nương nhờ. Bồ-tát thường lấy việc lợi vật làm hoài bão, có cơ liền đến không chuyên ở bên Phật. Còn hàng Thanh văn bỏ nhà làm quyến thuộc của Phật, do nghe sinh hiểu biết, học tập kế thừa mọi việc, về lễ, đệ tử đều đầy đủ sự lý . Lại nữa, trong kinh Thanh Văn nói về năm loại Phật tử, cả năm loại đều được quả mà không nói đến Bồ-tát, ấy là tên đệ tử dùng riêng cho Thanh văn. Như trong Đại thừa phần nhiều đều nói Bồ-tát là Phật tử. Nay vẫn theo gốc, căn cứ kinh Thanh Văn gọi là đệ tử được người đời phần nhiều tin dùng nên lấy đặt tên phẩm.

Giải thích mười vị Đệ tử: Các kinh nói mười vị đại đệ tử thứ lớp phần nhiều không giống nhau. Nay căn cứ theo kinh này cho rằng thứ lớp thường đồng với ý nghĩa ba căn của Pháp Hoa, chỉ có ngài Cachiên-diên đứng sau ngài Phú-lâu-na là khác. Nhưng Như Lai là đấng Pháp vương dẫn dắt ba cõi mới khai bày Tam tạng giáo ắt cần có người giúp sức. Mười vị Thanh văn đây đều có sở trường, mỗi vị giữ một pháp giúp Phật khai hóa. Như ngài Thân Tử có trí tuệ, ngài Mục-liên có thần thông, ngài Ca-diếp có khổ hạnh Đầu-đà, ngài Thiện Cát có Không hạnh vô tránh, ngài Phú-lâu-na có biện tài thuyết pháp, ngài Ca-chiêndiên có tài luận nghĩa qua lại, ngài A-na-luật có Thiên nhãn, ngài Ưuba-ly có trì luật, ngài La-hầu có mật hạnh, ngài A-nan có đa văn… đều gọi là bậc nhất.

Hỏi: Như đứng đầu mười sở trường này mà được gọi tên, nhưng việc ngài Thân Tử cầm giải áo, ngài Mục-liên dùng hết sức thần lực đến nổi cả tam thiên đều chấn động, nhưng không làm lay động được giải áo của ngài Thân Tử cầm, bèn đem việc ấy bạch Phật. Phật nói Phật nhập thiền, Thân Tử không biết tên thiền ấy, Thân Tử nhập định Mục Liên cũng không biết tên. Nếu Mục-liên có thần túc không lớn hơn Thân Tử thì tám vị kia chưa hẳn mỗi người có sở trường.

Đáp: Hoặc có sở trường riêng hoặc không, tại sao phải đặt cho người khác chưa hẳn nhất định phải có sở trường, ở mười đức này tự có sở trường riêng nên gọi là bậc nhất. Nhưng Phật là Pháp vương cũng đặt ra các pháp thần giống như đại thần với vua chúa. Tuy mỗi người đều có khả năng nhưng Bát tòa khanh đều có chỗ nắm giữ. Mười vị đệ tử lớn của Phật tuy mỗi người đều gồm đủ các tài năng kia, nhưng riêng một người không thể chuyên hai việc, nên phân mười đức, mỗi đức thuộc một vị, để giúp Phật tuyên bày mười thứ giáo môn, khiến mọi người đều ngưỡng mộ, nên nói là bậc nhất, để tùy căn duyên của họ mà có chỗ quy tâm. Tuy mỗi người giúp tuyên bày nhưng rốt cuộc cùng về một đạo.

Tổng đối mười tâm số:

Tỳ-đàm có kệ rằng:

Tưởng dục cánh lạc, tuệ

Niệm tư và giải thoát

Tác ý nơi cảnh giới

Tam-ma-đề và thống.

Thứ này chung cả đại địa giúp tâm vương khởi tất cả số như mười quan đại thần cùng giúp một vua, nếu cùng làm việc phi pháp thì dân đều tạo ác, nếu cùng làm Chánh đạo thì dân đều làm lành. Tâm vương của chúng sinh cùng chung tâm số cũng thế. Do chung tâm này thông cả thiện ác, nên cùng tâm vương khởi vô lượng thiện ác. Lại vương là thầy, số là đệ tử giúp nhau lành dữ cũng thế. Nên văn kinh nói: “Chúng đệ tử trần lao tùy ý xoay chuyển.” Phật là Pháp vương, đệ tử là đại thần cùng giáo hóa vương số, nếu chúng sinh tin nhận tu hành tuệ hạnh liền thành các thiện tâm số kiến đạo , tu tập hành hạnh liền thành các thiện tâm số tu đạo . Lại nữa, mười số tức là mười pháp môn có thể thông suốt vào Niết-bàn. Xưa lấy mười số làm chủng tử, từ đó tu tập cho đến thành đạo, như muốn ôm cả một cây ắt phải từ các ngọn nhỏ. Nay Pháp vương muốn dùng giáo Bán mãn dạy dỗ chúng sinh, trước phải tùy thuận chỗ ham thích. Nên ở đoạn văn sau nói: “Trước dùng móc ham thích lôi kéo, sau mới khiến vào Phật trí.” Nay mười đệ tử mỗi vị hoằng hóa một pháp, Người do loại tụ mà hợp thành nhóm đoàn, tùy sự ham thích mà mỗi một pháp môn nhiếp làm quyến thuộc, tuy mỗi người nắm giữ một pháp, nhưng không phải là Không gồm đủ mười đức. Như mười tâm số tùy thuộc một tâm khởi lên thì các tâm số kia tùy thuận khởi theo, tuy một số mang một tên mà thật sự gồm cả mười.

Đối riêng: Tưởng tâm số đối với Phú-lâu-na, vì Tưởng tâm số của ngài riêng mạnh nên từ tưởng mà vào đạo. Thế nên trong số đệ tử Phật thuyết pháp ông là bậc nhất. Vì sao? Thành luận có nói: Thức được thật pháp, tưởng được giả danh, ngài dùng Tưởng tâm số rất rõ ràng nên luôn phân biệt danh tướng, có biện tài vô ngại là bậc nhất trong số người thuyết pháp. Khi có ai ưa thuyết pháp thì ngài đều giúp mãn nguyện, bởi Phật quá tôn quý nên họ không dám hỏi thẳng. Những kẻ mới học tùy chỗ ưa thích ngài đều phục vụ đầy đủ, cho nên hai Tỳ-kheo không dám hỏi Phật. Do đó, mười vị đều dùng một pháp để vào đạo, trong hàng Thanh văn mỗi người ấy đều được gọi là bậc nhất. Đối văn mỗi mỗi đều tùy nghĩa tiện lợi dựa vào tưởng mà nói. Như nay người đời xem tam học, mỗi học đều có thủ lãnh. Cho nên nói Tỳ-ni, Tỳ-ni Cộng… chính là để phát khởi giáo Như Lai khô vinh nhập đạo.

Dục tâm số đối với ngài Đại Ca-diếp, vì ngài có Dục tâm số riêng mạnh, nhân đó mà vào đạo. Bởi tất cả thiện pháp lấy dục làm gốc. Ngài Ca-diếp dứt bỏ vinh hoa, chí vui niềm sơn cốc, đó là nhân tâm thiện dục bỏ ác dục ở đời. Người ham thích hạnh Đầu-đà xem ngài là thầy, ngài thu phục làm quyến thuộc, hiển bày pháp giáo Đầu-đà khô vinh mà vào đạo.

Cánh lạc tâm số đối với ngài Ca-chiên-diên, vì ngài riêng mạnh mẽ về tâm số này, dùng nó suy xét mà vào đạo, hỏi đáp qua lại không có trệ ngại vì tâm số này rất mạnh, các thứ khác thì như Ca-diếp.

Tuệ tâm số đối với ngài Thân Tử, ngài dùng tuệ tâm số này để nhập đạo, nên là đại tướng chuyển pháp luân, các thứ khác như ngài Ca-diếp.

Niệm tâm số đối với ngài Ba-ly, ngài dùng niệm tâm số mà trì luật vào đạo. Ngài tạo duyên nhớ giữ gọi là niệm, đối duyên nói lượng không hề quên mất, là hàng trì giới bậc cao tâm số này rất mạnh, các thứ khác như ngài Ca-diếp.

Tư tâm số đối với ngài La-hầu-la, ngài dùng tư số riêng lợi ích mật hạnh mà vào đạo, hành ấm là tư, tư tâm số để lợi ích cho tu các giới hạnh, công đức mật hạnh ẩn giấu, ngài là bậc nhất, các thứ khác như ngài Ca-diếp.

Giải thoát tâm số đối với ngài Thiện Cát, ngài dùng tâm số này riêng mạnh để vào đạo, nên nhập Vô tránh Tam-muội, nghiêm túc riêng mình giải thoát, không tranh giành với mọi người, các thứ khác thì giống như ngài Ca-diếp.

Tác ý tâm số đối với ngài Na-luật, vì ức số của ngài riêng mạnh, nhân ngài mù mắt, nên Phật khuyên ngài khởi số này mà tu Thiên nhãn vào đạo. Vì sao? Vì phàm người tu Thiên nhãn ắt phải trụ tâm duyên cảnh với ánh sáng mặt trời, mặt trăng thì mới phát được Thiên nhãn thông, các thứ khác như ngài Ca-diếp.

Tam-ma-đề tâm số đối với ngài Mục-liên, vì Định tâm số của ngài riêng mạnh nên tu thứ đó mà vào đạo vì sao? Vì phàm phu đều có tâm số này. Người vô định thì đứng ở đất bằng cũng ngã nghiêng. Do chúng sinh không thường tu tập nên không được thâm định, các thứ khác đều như ngài Ca-diếp.

Thống tâm số đối với ngài A-nan, vì Thọ tâm số của ngài riêng mạnh nên ngài dùng nghe nhận vào đạo, vì sao? Vì Thọ số quyển bốn này gọi là thống, Tạp tâm luận gọi là thọ, nay nói chung là thọ. Thọ lấy ý nghĩa là lãnh nạp. Tâm số này rõ ràng lãnh nạp giữ gìn Phật pháp như bát đựng đầy nước, các thứ khác đều giống ngài Ca-diếp.

Nói về Song thọ. Trên nói tươi khô, lời ngắn ý sâu kín ấy là mười người đệ tử cùng giúp Như Lai để trang nghiêm bán, mãn, dẫn dắt chúng sinh thấy tánh. Trụ vào Đại Niết-bàn, tức là nghĩa nhập Niếtbàn ở khoảng rừng Song thọ. Dùng Tam tạng giáo vô thường để phá bốn điên đảo thường… , trang nghiêm bốn khô để tiếp dẫn chúng sinh. Trong mỗi mỗi số dùng bốn Tất-đàn mà nhiếp vật, tùy khéo léo mà giúp Phật Pháp vương thành tựu Bán giáo , lợi ích cho tất cả. Một người dùng bốn Tất-đàn, mười người thì có bốn mươi trang nghiêm, cho đến năm trăm thì liền có hai ngàn trang nghiêm, bốn khô.

Hỏi: Nếu mười người đối mười số, năm trăm người thì như thế nào?

Đáp: Pháp vương nói ra ắt có nguyên do, nay chưa thấy năm trăm, nên chỗ tuyên truyền không thể sắp xếp. Nay tìm xét nghĩa lý mà tạm giải thích: Một số có mười, mười số tức một trăm, đem đối năm căn có năm trăm số. Lại Đại kinh nói: Năm trăm vị, mỗi thứ thuyết và thân nhân đều là chữ Bán mà dùng bốn khô vào đạo.

Tiếp nói đối mười số pháp môn giúp Phật hoằng truyền mãn giáo bốn vinh . Vì chúng sinh không kham nổi nên dùng sức phương tiện lập ra Bán giáo bốn khô. Mười đệ tử ấy đều là pháp thân trong ẩn ngoài hiện. Như Lai đã thác sinh ở vương cung, đệ tử cũng tùy duyên mà xuất hiện. Như Lai ngồi dưới gốc cây giác ngộ, thì đệ tử đều thông minh sáng trí làm thầy ngoại đạo. Cho nên kinh Pháp Hoa có nói:

Từ xưa mang tà kiến

Làm các sư Phạm chí

Thế Tôn biết tâm ta

Dẹp tà, nói Niết-bàn.

Do đó khi làm thầy họ, thì điều phục họ dễ dàng. Khi Như Lai thành đạo thì tất cả đều đến quy y học tập bốn khô. Vua thầy đã hàng phục các thói tật của học trò, nên từ đó trở đi tâm tướng thể tín vào ra không khó khăn. Thế nên ngài Tịnh Danh chê trách các Nhị thừa khiến họ ham đại mà bỏ tiểu. Cho nên thị hiện ở trên cái đe chưa đủ, mà chịu cái chày chê trách cùng vật khí chín muồi khiến thành đại sự, hiển bày phương tiện của Như Lai ngầm dạy chúng sinh đều thẹn tiểu mến đại, khai Phật tri kiến mà được Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, vào pháp môn chữ Mãn. Đều do đệ tử dùng pháp môn mười số, giúp thành Phật sự. Nghĩa của năm vị ủy thác ở Pháp Hoa, không phải chánh ý ở đây nên không nói đủ. Lại Đại kinh nói: Trang nghiêm bốn vinh đáng lẽ phải nêu đủ mười người, nhưng chỉ lấy sáu thôi vì để đối phá lục sư hủy phá Song thọ.

Tất cả chúng sinh đều có Vương số là nghĩa gì? Tức là nghĩa ba thứ Phật tánh. Vương tức chánh nhân, tuệ tức liễu nhân, các số khác duyên với nhân Phật tánh rõ ràng, do phiền não số che lấp mà không được hiển phát. Thế nên Như Lai cùng mười đệ tử chày đe gỏ lên thành sinh thục tô, khiến nhập vào chữ Mãn, khai Phật tri kiến, hiển bày ba tánh Phật, vào bí mật tạng. Nay lấy đệ tử đối số Như Lai làm vua thành ích lợi Bán mãn, nghĩa nó rất rõ ràng, từ xưa đến nay không nói nghĩa này, đâu biết được ý sai đệ tử là giúp thành giáo giải thoát bất tư nghị.

Nói sinh về cõi quả báo. Mười đại đệ tử dùng mười môn này mà giúp trang nghiêm Song thọ. Nếu chúng sinh được hóa độ thành tựu được bốn khô, khi vào vô dư mà sinh vào cõi Hữu dư, thì đó là người ấy vì căn độn nên đối với Phật đạo phải lòng vòng. Nay đối ngài Tịnh Danh chuyển nhập vào bốn vinh, nếu đến Pháp hoa khai Phật tri kiến được Vô sinh nhẫn, bỏ báo thân này liền sinh vào Tịnh độ quả báo, làm quyến thuộc với Lô-xá-na. Chỉ nghe Viên giáo, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên lưu nhập.

Nói cõi Phật thanh tịnh. Mười vị đại đệ tử này dùng mười pháp môn để trang nghiêm Song thọ, tức là thành tựu cõi Phật thanh tịnh chúng sinh, đến thời kinh Pháp Hoa được Phật thọ ký. Sau khi thành Phật, số người được giáo hóa ấy đều trụ ở mười thứ pháp môn mà tu nhân khô vinh, cõi Phật thanh tịnh. Khi thành Phật các chúng sinh như thế đều đến cõi nước. Đến đây thì giáo chỉ chê trách hàng Thanh văn, khen ngợi các Bồ-tát trụ ở cõi Phật thanh tịnh bất tư nghị. Hàng Nhị thừa mất hẳn vì căn hư hoại không kham nổi, thế nên ngài Ca-diếp danh chấn động khắp tam thiên. Nay lấy ý trong kinh Pháp Hoa mong thọ ký cho ngài Thân Tử… tức chỗ bọn các ông đang làm là đạo Bồ-tát”. Lại nói việc ít dục chán sinh tử là tự tịnh cõi Phật. Theo lýmà suy thì ngài Tịnh Danh chê trách đều vì hàng Tiểu thừa lần lượt đều thành nhân Tịnh độ, lời thuật lại của các đệ tử giúp thành phẩm Phật Quốc, ý rất rõ ràng, từ xưa đến nay có ai biết được.

Nói theo quán tâm. Nay xét lời giải trước cũng là quán tâm. Vì sao? Vương và số của người tu tức là thầy và trò. Chỉ vì chúng sinh ngày đêm sinh vô lượng các pháp chánh tà đều do vương số. Thế nên người tu cần làm khéo ý này. Nếu siêng năng tu tập, suy nghĩ phân biệt mà phát trí Bán mãn, tự hành hóa tha tức đồng với ngài Thân Tử trang nghiêm Song thọ. Như thế tất cả đều căn cứ theo tâm số và hành thành việc hóa vật. Hạnh hiển bày là do tâm. Nếu luôn quán kỹ, thật tâm tánh thì liền thấy Phật tánh trụ vào Đại Niết-bàn, tức đồng Như Lai trang nghiêm Song thọ. Nếu quán hành và tâm thấy rõ tâm ấy, thì vương tức Pháp vương, số tức đệ tử và trang nghiêm Song thọ, cũng như trước mắt.

Quán tâm, nói có sâu cạn, há nói hết tâm.

Liệu giản về thăm bệnh trước sau:

Hỏi: Vì sao Như Lai không sai Bồ-tát đến thăm bệnh trước?

Đáp: Nếu Bồ-tát kể việc không thể thăm bệnh của mình thì hàng Thanh văn sẽ so sánh ngại khó mà mất đi năm trăm pháp môn. Còn sai Thanh văn trước, thì năm trăm pháp môn của Thanh văn sẽ được làm kinh. Sau đó sai Bồ-tát thì lập đủ pháp môn kể việc xưa.

Hỏi: Nếu lấy thấp kém làm đầu, thì trước hết phải sai A-nan?

Đáp:Ai cũng có phần riêng của mình nên sai ai trước cũng không lỗi.

III. GIẢI THÍCH VĂN:

Từ “Nhĩ thời… trở xuống, có hai phần:

  1. Tịnh Danh im lặng thầm nghĩ.
  2. Như Lai sai hỏi bệnh.- Phần một có hai:
  3. Tự nghĩ mình nằm bệnh.
  4. Nghĩ Phật có thương tưởng dạy bảo.

Tự nghĩ có bệnh: Ngài Tịnh Danh ở bậc Đẳng giác thì có bệnh gì? Nay tự nghĩ, tức muốn chính nhờ đây mà khởi giáo lợi sinh. Tự nghĩ tức là giải thoát tri kiến pháp thân trụ ở ba đức của bậc Đẳng giác . Nằm biểu thị cho đức Bát-nhã, bệnh là biểu thị cho đức giải thoát, giường là biểu thị cho đức pháp thân. Đây không dọc không ngang như chữ Y ở đời. Vì sao? Vì pháp thân tức là tâm tự tánh thanh tịnh ẩn kín gọi là Như Lai tạng, hiển sáng gọi là pháp thân, tức là chân tánh giải thoát. Nằm biểu thị cho Bát-nhã, như người nghỉ ngơi, tức nghĩ dứt các phiền não và các tạo tác. Trong Đại kinh có nói: “Ai ngủ yên an ổn, gọi đó là chư Phật, thường quán Không Tam-muội, thân tâm yên, không động.” Nay dùng Bát-nhã Quán không mà tu nhân khi đầy đủ rồi thì các hành nghỉ ngơi, lý bổn tịnh hiển bày, cho nên nói nằm là Bát-nhã, tức là thật tuệ giải thoát. Bệnh biểu thị cho giải thoát, Bát-nhã cùng với lý chân tánh hợp nhau, tức có đại từ vô duyên không bỏ chúng sinh. Lấy từ bi hun đúc thân nên thường phương tiện hiện có bệnh. Đại kinh nói: Điều phục chúng sinh gọi là giải thoát. Vì chúng sinh bệnh, nên Tịnh Danh cũng bệnh, khéo léo hòa quang nhưng không đồng trần, tức là phương tiện tịnh giải thoát.

Hỏi: Vì sao Tịnh Danh tự nghĩ nằm bệnh?

Đáp: Nằm đã là Pháp thân Bát-nhã, vì đại bi mà thị hiện đồng chúng sinh có bệnh duyên phược “bị duyên buộc”, việc chưa bày ra còn ôm ấp mãi trong lòng không yên vui, nên mới tự nghĩ rằng: Thế Tôn đại bi há không thương tưởng đến mình.

Nghĩ Phật tưởng đến thăm bệnh: Mình nay đang tu nhân còn thương chúng sinh muốn cứu hết cái khổ ba thứ duyên tập mà tự thị hiện có bệnh. Như Lai ở quả địa Vô duyên đại bi luôn muốn cùng muôn vật vui Đại Niết-bàn còn hơn ta nữa, há lại không thương tưởng mình? Nếu sai người đến thăm hỏi, nhân tiện mình sẽ thuật việc có bệnh.” Ý này nêu bày ra thì bệnh ba thứ duyên tập nhân quả của chúng sinh sẽ lành. Đoạn này nói chúng sinh hết bệnh thì Tịnh Danh hết bệnh, há không phải là đại từ của Như Lai trùm khắp ư?

Phật sai người thăm bệnh Từ “Phật biết…” trở xuống, có hai phần: Phần một Phật biết tâm niệm. Phần hai Chánh thức thăm hỏi.

Phần một, Phật biết ý ngài Tịnh Danh: Đức Phật dùng trí tịch chiếu đoán biết việc giả bệnh do Vô duyên đại bi, vì bệnh chúng sinh. Người trí biết nhau như rắn biết rắn.

Phần hai Phật sai bảo người thăm bệnh Từ câu “bảo Xá-lợi-phất… hai hàng lại chia hai phần: Sai bảo mười đệ tử và sai bảo năm trăm vị.

Phật sai bảo mười đệ tử, trong mỗi phần của mỗi đệ tử gồm có hai ý: Phật sai bảo và đệ tử trả lời.

Một là: Phật sai Thân Tử.

Phật sai: Thân Tử là thị giả hầu bên tả Phật, vì trong chúng Thanh văn ngài là bậc danh cao đức trọng trong ngoài đều kính quý. Ngài Tịnh Danh tuy ở tại gia nhưng tinh thông Phật pháp, trí sáng biện tài khó bề ứng đối, nên sai Xá-lợi-phất trước. Nhưng Thân Tử nhân duyên khá nhiều khó nói đủ, nay chỉ lược nói thôi: Khi thác thai đã thông minh hơn người, muốn hóa độ tất cả ngoại đạo thông minh làm đệ tử trước. Sau gặp Phật xuất gia làm A-la-hán, dẫn tất cả ngoại đạo thông minh

đều làm đệ tử Phật là hiển bày giáo bốn khô. Nay bị quở trách nín thinh không đáp được, là muốn chiết phục tâm thô bỉ hẹp hòi của đám học trò bốn khô, khiến họ ngưỡng mộ giáo trí tuệ bốn vinh. Đến nói Ma-ha Bát-nhã trước, và đối với Thân Tử mà nói, là khiến hàng Thanh văn tin hiểu trí bốn vinh chữ Mãn. Đến nói kinh Pháp Hoa là đối trước ngài Thân Tử khai Phật tri kiến thì tám bộ bốn chúng đều khai Phật tri kiến, vui mừng khen ngợi nói kệ rằng:

Đại trí Xá-lợi-phất.

Nay được Phật thọ ký

Chúng ta cũng như thế

Thảy đều sẽ làm Phật.

Ấy là tất cả đều biết rõ về bốn vinh. Nên trong Đại kinh, Bồtát Sư Tử Hống hỏi Phật: “Người nào có thể trang nghiêm Ta-la song thọ?”Phật đáp: “Người ấy là Đại trí Xá-lợi-phất.” Có người nói Pháp Hoa là giáo vô thường, Thân Tử khi Phật chưa nhập Niết-bàn ba tháng mà đã diệt độ rồi, thì không nghe được giáo Niết-bàn song thọ. Làm sao được khen là “Có thể trang nghiêm song thọ”? Phải biết Pháp Hoa là trao lời thọ ký cho tám bộ và bốn chúng, tức nghĩa song thọ đã sáng tỏ, đây là hiểu sâu về ý của Pháp Hoa mà thôi. Do nhân duyên đó Phật sai ngài đến thăm bệnh.

– Thân Tử đáp lời không kham Từ “Xá-lợi-phất…” hai hàng. Văn có bốn:

  1. Đáp lời không kham.
  2. Nêu lý do không kham.
  3. Chánh kể việc không kham.
  4. Kết không kham.

– Đáp lời không kham: Xưa bị chê trách không biết nói gì nên không kham đến thăm bệnh.

– Nói lý do không kham Từ “Sở dĩ giả hà thọ hạ trở xuống: Do ngồi yên tọa dưới gốc cây trong rừng. Yên, có người nói là súc chỉ “co lại ngăn dứt”, như rùa dấu cả đầu đuôi bốn chân, tức co giữ sáu thức sáu trần, ma không thể quấy não, nên nói là súc chỉ. Nay nói yên là an, tức an trụ vào căn bản tịnh thiền cho đến diệt định… dứt hết các phiền lụy ngoại đạo, giống như Niết-bàn, đặt pháp trong tâm, thân chứng tưởng thọ diệt, nên nói là yên tọa.

– Chánh kể việc không kham “Thời Duy-ma”trở xuống Văn này có ba: Một là Quở chung. Hai là Riêng bày thật yên tọa. Ba là Kết, ấn định.

Một. Chê chung: Không hẳn chỉ ngồi mới là yên tọa. Đây là là hoàn toàn muốn chê việc ở nơi hẻo lánh đó không phải là cứu cánh thôi. Thân Tử yên tọa như thế nào mà bị chê trách. Xem văn sau. Phần lớn là các thiền diệt tận định thuộc chữ Bán của Tam tạng giáo nên không thể đến được yên tọa của chữ Mãn. Nhập vào các thiền diệt tận định có sáu lỗi nên chê trách. Nói không hẳn tức chỉ là Không hiểu, nếu bất tư nghị tức là hẳn nhiên.

Tỳ-đàm nói: Diệt tận bất tương ưng hành. Bổ xứ có mười ba thứ nhập diệt định. Thành luận nói: “Không tâm hai xứ diệt.” Nay nói ba thừa nhập diệt thọ tưởng của Tam tạng giáo, có năm xứ không giống:

a/ Căn bản thông minh tịnh thiền. b/ Y vào tám bối xả quán thiền. c/ Y vào chín thứ đệ định luyện thiền. d/ Y vào Sư tử phấn tấn huân thiền. e/ Y vào siêu việt tu thiền.

Thứ đầu rút từ Đại tập, bốn thứ sau rút từ Đại phẩm. Đây là của ngài Nam Nhạc nêu lên.

a/ Y vào căn bản tịnh thiền, thông minh quán sát mà được. Đầu tiên là thiền quán sắc như bọt nước; hai là, thiền quán sắc như mây; ba là, thiền như bóng; bốn là, thiền như ảnh trong gương. Kế đến diệt sắc lấy không, một tâm duyên với không cho đến phi tưởng. Tuy không có thô phiền não mà thành tựu được mười thứ tế pháp, cũng là phiền não sinh tử. Đệ tử Phật biết đó không phải là Thánh pháp, liền có thể diệt đi, cũng diệt tâm năng diệt, tâm số pháp đã diệt nên nói là diệt thọ tưởng định.

b/ Nói về bối xả: Quán thân trong ngoài bất tịnh, xương trắng theo dòng sáng nhập vào bối xả; hai, thắng xứ diệt hoặc Sơ thiền mà vào Nhị thiền; ba là, bốn Thắng xứ diệt hoặc Nhị thiền. Từ đây trở đi không có sắc bụi nước, mây, ảnh trong gương… nữa, chỉ quán tịnh sắc mà vào Tam thiền. Duyên với tịnh nên nói là tịnh. Luyện tám sắc lưu quang để diệt hoặc Tam thiền mà thành Tứ thiền; bốn là thắng xứ vào tất cả xứ. Nếu diệt sắc duyên với không, cho đến Phi tưởng. Cũng nên biết Phi tưởng còn bốn ấm và mười thứ tế hoặc, quán sâu lìa chấp trước, tiến tu diệt thọ tưởng. Nếu hay diệt thọ các tâm pháp số, thân chứng diệt thọ tưởng, tức là diệt thọ tưởng bối xả, ở nhân nên gọi là bối xả. Nếu phát vô lậu dứt hết Phi tưởng hoặc, lúc đó bối xả chuyển gọi là giải thoát. Nếu trong nhân nói quả thì gọi là giải thoát. Nếu trong quả nói nhân thì gọi là bối xả, mà nay chẳng gọi là giải thoát là vì bậc A-na hàm y vào tám bối xả mà được vào chín thứ đệ định cũng không được gọi là giải thoát. Nếu là giải thoát thì phải là La-hán, sao được còn là thân chứng Na-hàm. Ước bối xả mà nhập là thắng thông minh của Tiểu thừa.

c/ Y vào chín thứ đệ định. Các bối xả trước tuy nhập vào diệt định tác ý có lúc chẳng phải là nhậm vận “tự động”. Nay luyện bối xả bắt đầu từ Sơ thiền thứ đệ mà vào cho đến Phi tưởng, nhậm vận vào diệt định thì rất dễ, chỉ khi xuất thiền thì như ngủ mới thức.

d/ Y vào Sư tử phấn tấn, trước đây nương vào luyện thiền, chỉ theo thứ lớp mà vào. Nay nói không phải chỉ thứ lớp vào đến diệt định. Cứ thế không gián đoạn, từ diệt định khởi thứ đệ xuất Phi tưởng cho đến Sơ thiền, định lực càng mạnh.

e/ Y vào siêu việt. Trên tuy vào ra tự tại không gián đoạn, nhưng chưa thể siêu nhập siêu xuất. Nay siêu thiền này có thể từ bất dụng xứ mà siêu nhập vào diệt định, cho đến sơ thiền siêu nhập vào diệt định đầy đủ như trong Đại phẩm. Đây như sư tử vàng siêu việt, đó gọi là khéo nhập xuất trụ, sinh ra trăm ngàn Tam-muội. Công lực của định này rất lớn. Nay ước vào năm thứ này mà nói năm vị thì thiền tịnh như sữa, bối xả như lạc, chín định Như sinh tô, phấn tấn như thục tô, siêu việt như đề hồ. Siêu việt thiền có đủ các công đức như nguyện trí, Vô tránh Tam-muội, bốn biện tài, ba minh, sáu thông, mười tám thứ biến hóa… trong các thiền nó là tột đỉnh, cho đến ở trong các thiền siêu việt xuất nhập đều gọi là đỉnh cả.

Hỏi: Vì sao trên căn bản tịnh thiền lại có bốn thứ khác?

Đáp: Như cách thuộc da ở đời. Thông minh như ngâm nước, bối xả như cạo lông, cửu định như vào óc, phấn tấn như xông khói, siêu việt như thuộc da cho mềm. Đây cùng các nhà giải thích về tập luyện không có liệu giản giống nhau…. La-hán nếu được thiền siêu việt thì gọi là Ma-ha Na-già. Tâm được điều phục nhu nhuyến, việc thiền định của tam thừa đến đây là tột. Ngài Thân Tử ở trong rừng đã nhập các thiền này mà dứt được các phiền lụy, vì không nương vào Phật tuệ mà khởi các thiền này, nên bị quở là bất tất. Ấy bởi vì sao? Vì Thân Tử đã được định không phải là định quật của chín thứ đại thiền không hẳn, không cần thâm thiền của Mãn tự nên nói là bất tất.

– Chỉ riêng về thật yên tọa, Từ “Phàm yên tọa”trở xuống: Sáu thứ yên tọa bất tư nghị gồm ba cặp:

  1. Xét về thể dụng.
  2. Xét về tâm pháp.
  3. Xét về nhân quả.

Trong phần Thể-Dụng, có hai:

1. Xét về thể nói rằng: Không ở ba cõi mà hiện thân ý gọi là yên tọa. Ngài Thân Tử không hướng đến Phật tuệ mà nhập các thiền trên ắt phải ở chỗ vắng mà thẳng thân nhất niệm mới được vào định thì là tướng ở cõi Dục hiện thân ý. Thân như gỗ đá tức là hiện thân, tâm như tro lạnh theo hơi thở ra vào tức là hiện ý. Vả lại khiến mọi người cung kính kinh sợ thì có diệt được gì. Còn yên tọa chân thật là hướng về Phật tuệ ở chín đại thiền và định của Nhị thừa tùy ý liền nhập thì gọi là Không ở ba cõi mà hiện thân ý. Nên ở đoạn văn sau có nói: Ở cõi Dục mà hành thiền khiến tâm ma hoảng loạn, không cần phải ngồi nghiêm, không vận tưởng là Không hiện thân ý, thân ý đồng với thế tục không trái diệt định, tuy nhập diệt định mà không làm hại đến oai nghi, tức là Không có lỗi xuất nhập động niệm, cũng tránh được lỗi ba cõi hiện tướng, tức là yên tọa chân thật, là yên tọa chân thật bất tư nghị. Lại nữa, pháp thân Bồ-tát ở thân pháp tánh mà nhập vào các thiền định, không ở ba cõi mà hiện thân ý, là yên tọa chân thật. Nếu theo lý mà luận thì chúng sinh đều là diệt định mà Thân Tử không biết. Nếu ở sự mà nói thì trong thân pháp tánh quyết định không có thân ở ba cõi nhập vào. Thân Tử còn thấy ý ba cõi đâu thể được gọi là yên tọa chân thật nên phải làm thinh là chê không biết cái thể của yên tọa chân thật nên bày ra như thế. Nếu tu một tâm ba quán là hướng đến về Phật tuệ khởi sáu thứ yên tọa vậy.

2. Chỉ về dụng bất tư nghị Từ “Không khởi”… đến “yên tọa”. Chê diệt định là vô dụng, vì Thanh văn nhập định không thể hiện ra bốn oai nghi như Ca-diếp nhập định không có chỗ dùng. Đến khi ngài Di-lặc ra đời mới biến hiện được. Cho nên biết hàng Nhị thừa nhập định thì mình và người đều vô ích không có chỗ dùng, do đó nói không thể có. Còn định bất tư nghị có thể có dụng. Cho nên thường chẳng khởi diệt định mà hiện mười giới oai nghi. Như đàn Tu-la tùy người ca ngâm. Bồ-tát tùy cơ khắp mười phương hiện hình mà ẩn hiện tự tại. Sao ông không dùng thệ nguyện để huân tập định khiến cho vật cơ cảm hiện các oai nghi, thật là do không thấy chân tánh và không nguyện Ba-la-mật vậy. Định vô dụng thì người không tôn trọng nên chê trách nói là bất tất. Lại nữa, thân pháp tánh dùng hướng đến Phật tuệ nhập vào các diệt định hay ở ba cõi mà hiện bốn oai nghi ở mười giới, tất cả các pháp Không thứ nào chẳng thị hiện, ấy là rốt ráo yên tọa chân thật.

– Xét về cặp tâm pháp. Từ “Bất xả”trở xuống là chê sự vụng về của pháp, tâm, nên nói “Bất tất”. Cũng có hai phần:

Xét về pháp mà chê. Thân Tử thật xuất thiền mới đồng là phàm phu. Nếu không xả các thiền sao được hẹn lúc xuất định, tức là xả đạo pháp mới đồng với phàm pháp, nên biết hai pháp này không được cùng xả. Đâu như Bồ-tát dùng hướng đến Phật tuệ, hai pháp Không khác, há bỏ đạo pháp lại nhập vào đạo pháp, hành phi đạo mà thấu suốt Phật đạo. Nếu không thấu suốt sao bảo là đạo. Bốn giáo mỗi thứ đều có hai hạnh đạo pháp. Hiện việc phàm phu, nghĩa là việc của ba nghiệp thiện và bất thiện. Như nói tuy là bạch y cư sĩ nhưng ngài Tịnh Danh vẫn đủ hai mươi chín việc và vô lượng phương tiện. Pháp thân thường ở trong Tam-muội mà thường khắp đồng phàm phu, tức là ở trong thân phàm phu mà nhập vào Vương Tam-muội, tất cả Tam-muội cũng đều vào trong ấy. Lấy đó mà dẫn mọi người nhập vào Phật Tịnh độ giải thoát bất tư nghị, tức yên tọa chân thật rốt ráo. Do đây mà chê sự vụng về của đạo và pháp nên nói là “Bất tất”.

Xét về tâm mà chê trách Từ “tâm bất”…. đến “yên tọa”. Nói “Không trụ”tức ngài Thân Tử nhập định trụ bên trong, khi xuất định ra ngoài, duyên với lý thiền ở bên trong, duyên với tịnh thiền ở ngoại đạo. Nhập diệt định trụ bên trong xuất diệt định ở ngoại đạo, ấy là tâm nương vào trong ngoài, nhập xuất, động tán, sao gọi là yên vắng, thế nên trách là “bất tất.” Bồ-tát dùng hướng đến Phật tuệ quán pháp tánh Trung đạo còn không thấy có sinh tử Niết-bàn trong ngoài đáng trụ đáng ở, sao lại có diệt định xuất tán trong ngoài đáng trụ đáng ở. Còn có phấn tan ở hai biên, không phải là yên tọa chân thật, nên nói là “bất tất.” Nay Bồ-tát tâm ngầm ở pháp tánh không loạn không mê tức là yên tọa chân thật bất tư nghị.

Một đôi căn cứ nhân quả, từ “Ư chư kiến trở xuống, đó là chỉ rõ cái yên tọa chân thật mà chê cái không phải chân. Trước hết, nói về cái thấy không động là chê cái nhân thiên lệch không phải là yên tọa chân thật. Cái thấy không động tức trong nhân mà yên tọa chân thật. Nay nêu bốn trường hợp để phân biệt:

  1. Tự có thấy động mà không tu đạo phẩm.
  2. Có không động mà không tu.
  3. Có động mà tu.
  4. Có không động mà tu.

Có động mà không tu: như các ngoại đạo, bỏ hữu lấy vô, cho đến “chẳng phải có, chẳng phải Không”, sáu mươi hai kiến như lánh hư không, tuy bỏ các kiến muốn lấy Niết-bàn mà không biết tu ba mươi bảy phẩm. Nên Phật ở trong kinh Tu-bạt đã làm Sư Tử Hống cho rằng ai không tu tám Chánh đạo quyết định không có bốn quả Sa-môn.

Không động không tu: ngoại đạo khởi kiến nói là sự thật, còn các người khác đều cho là nói dối chấp chặt không dời như chấp hư không cũng không tu đạo phẩm.

Động mà tu, như hàng Nhị thừa của Tam tạng giáo, biết thân biên là nhơ nhớp, điên đảo, nhân duyên, vô thường, lưu động. Động đây là lưu động nên gọi là động.

Tu đạo phẩm, là quán phá thân biên năm ấm, tu bốn khô niệm xứ… thành tựu noãn đảnh nhẫn, nhập vào kiến tư vô lậu. Nên trong Đại kinh có nói: Noãn pháp quán là bảy mươi ba người đệ tử của ta có, còn ngoại đạo thì không. Thân Tử và các Nhị thừa đều như thế nên quở là “bất tất”.

Không động mà tu; như hàng Bồ-tát hiểu rõ sáu mươi hai kiến tức là Bồ-đề, không lấy không bỏ, nên nói không động. Tu đạo phẩm, như quán ấm ô uế, tu niệm xứ… Khi quán sắc tánh không dơ không sạch, thọ không phải khổ lạc, tâm không phải thường hay vô thường, tưởng hành không phải ngã hay vô ngã. Đây là quán riêng tứ niệm xứ. Nên kinh Nhân Vương có nói: Pháp tánh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức Bồtát dùng thú Phật tuệ mà quán sắc pháp tánh tức sạch rốt ráo, quán thọ pháp tánh tức lạc Niết-bàn, quán tâm pháp tánh tức pháp thân, quán tưởng hành pháp tánh tức tự tại ngã, tức lấy bất động mà tu vinh niệm xứ. Ở trong cần sách là tứ chánh cần cho đến trong hành trong an ổn đạo tức tám Chánh đạo, tức là yên tọa chân thật rốt ráo bất tư nghị. Đây là chê trách ở các kiến động mà tu đạo phẩm là yên tọa vụng về vậy.

b) Xét về quả mà nói yên tọa chân thật Từ “bất đoạn”đến “yên tọa”, là chê Thân Tử chấp quả diệt định là thiên lệch. Thân Tử đầu tiên gặp Át-bệ được kiến đế rồi thì bảy ngày hoặc mười lăm ngày các chánh sử đều dứt hết, gọi là đoạn phiền não nhập vào Hữu dư Niết-bàn, khi thân trí đều dứt thì vào Vô dư Niết-bàn. Đây cũng có bốn trường hợp:

  1. Không đoạn không nhập, là phàm phu và Bồ-tát của Tam tạng giáo.
  2. Đoạn mà nhập là bậc Vô học.
  3. Đoạn mà không nhập, tức là Bồ-tát của Thông, Biệt giáo.
  4. Không đoạn mà nhập, là Bồ-tát của Viên giáo.

Cho nên tánh dâm, nộ, si tức là giải thoát. Tánh sân khuể si đủ tất cả pháp tức là phiền não không thể đoạn vậy. Ấy là Không diệt si ái mà khởi minh thoát “sáng suốt giải thoát”. Nếu ngài Thân Tử đoạn hoặc mà nhập Niết-bàn, thì như phá vách mà ra. Sợ hãi sinh tử không luôn dùng phiền não mà làm Phật sự. Bồ-tát dùng thú Phật tuệ không đoạn mà nhập. Như được thông suốt, tức là vách không thể ngăn ngại, ấy là trở lại dùng phiền não mà làm Phật sự. Đó gọi là Không đoạn phiền não mà nhập Niết-bàn. Người khác hiểu phiền não là Không, nên không cần đoạn. Nếu như thế thì núi Tu-di nhập vào hạt cải, mà không có hạt cải để nhập vào. Hạt cải rỗng không, tức là núi Tu-di vào Không mà không vào hạt cải. Có lỗi như thế. Nếu rõ ràng phiền não không cần phá mà bất động được vào Niết-bàn, tức là tánh hạt cải không phải lớn, không phải nhỏ, nhỏ không hại lớn, nên có thể chứa được cái lớn của núi Tu-di. Tánh núi Tu-di cũng không lớn không nhỏ, lớn mà không hại nhỏ, nên chui vào được cái nhỏ của hạt cải. Tuy nói rằng hay vào cái chỗ xưa không động. Nếu nói không vào mà thật vào hạt cải không thể nghĩ bàn thì là Không đoạn phiền não mà vào Niết-bàn. Nếu hay như thế thì là yên tọa chân thật. Đây là chê Thân Tử còn đoạn nhập, không phải là yên tọa chân thật, nên nói là “bất tất”.

Nếu hay như thế mà yên tọa, Phật ấn khả là ba, kết thành nghĩa yên tọa chân thật: Nếu Thân Tử luôn dùng hướng đến sáu thứ Phật tuệ này tức là yên tọa rốt ráo, được Phật ấn khả đâu dám chê trách nói là bất tất.

Kết thành không kham Từ “Thời ngã”trở xuống: Nghe lời nói ấy thì làm thinh, là Không hiểu sáu nghĩa chê trách để chỉ rõ ý bất tất. Không hiểu thì như điếc, không thể đáp lại thì như câm, đã như thế thì đâu dám kham nhận truyền ý chỉ của Phật, nên nói: Không nhận việc đến thăm bệnh. Nếu theo cách này thì cùng việc như câm như điếc ở tòa Hoa Nghiêm nào có khác chi. Theo lý mà luận bác bỏ tuệ nghiệp Vô học của Nhị thừa để dẫn nhập vào Giải thoát bất khả tư nghị, khiến họ sinh vào Tịnh độ quả báo lại thành cái nhân cõi Phật thanh tịnh.

Hỏi: Thân Tử tức là trí tuệ dùng định mà bị chê trách, Mục-liên thiền định nói pháp mà bị chê trách… Ý này thế nào?

Đáp: Không phải thiền thì không có tuệ, không phải tuệ thì không có thiền. Viễn Sư có lời tựa trong Thiền kinh rằng: “Thiền mà không trí thì không thể đi sâu vào nơi yên tịch; trí mà không thiền thì không thể chiếu soi đến chỗ tận cùng”. Ngài Thân Tử nếu có đi sâu vào thiền thì mới được đại trí, nếu thiền không xa thì trí cũng không lớn. Cho nên dùng chê trách để gồm được trí vậy. Đoạn văn sau có nói: Do hướng đến Phật tuệ mà khởi yên tọa, đã không nương vào Phật tuệ mà yên tọa, đủ ở bốn vinh mà chê bỏ là ý ở đây vậy. Nếu ngài Mục-liên thâm tu thiền định mà được thần thông, sao được có thần thông mà thuyết

31 pháp sai cơ. Nếu thuyết pháp đã nhầm thì phải biết định ấy cạn cợt. Dùng thần thông soi xét thì dụng cũng không sâu. Cho nên quở trách cách dùng Định là ý ở đây. Bát đại nhân giác như Pháp hoa đã chú sớ, nay chỉ lược nói thôi.

Phần 2

Hai là Phật sai Mục-liên “Phật bảo Đại Mục-liên…” cũng có hai phần: đi thăm bệnh và Mục Liên trả lời không kham đi nổi.

– Phật sai bảo Sở dĩ sai Mục Liên kế tiếp là vì ngài Thân Tử từ chối không kham thăm bệnh. Ngài Mục-liên là thiền định bậc nhất nên sai tiếp đó. Mục-liên là họ, tên Câu-luật-đà. Vì cha mẹ không con, cầu xin ở cây mà đẻ ra ngài, nên lấy đó đặt tên. Trong Văn-thù Vấn Kinh dịch là Lai Phục Căn, vì cha mẹ thích ăn nên lấy đó đặt tên con. Ngài Chân Đế Tam tạng giáo dịch là Hồ Đậu, vì Tiên nhân đời thượng cổ thích ăn nên lấy đó làm họ, cho đến chỉ rõ chí thâm cầu khô vinh hết mực. Đầy đủ nghĩa năm thứ lợi ích trước như đã nói rõ trong phần nói ngài Thân Tử.

– Mục Liên đáp không kham Từ “Mục-liên bạch Phật…” văn có bốn:

1/ Đáp lời không kham.

2/ Nói lý do không kham.

3/ Chính nói việc bị chê trách.

4/ Kết thành không kham.

– Đáp lời không kham: Xưa nói pháp cho cư sĩ mà bị chê trách lúc đó không biết trả lời sao, nên nay đâu dám truyền ý chỉ Như Lai mà đến thăm hỏi.

– Nói lý do không kham Từ “Sở dĩ”… đến “thuyết pháp”. Do ở trong ngỏ hẻm nói pháp cho cư sĩ. Ngỏ hẻm là một con đường nhỏ quanh co. Hoặc biểu thị cho lý đoạn của kinh quanh co lý đoán không phải là đường thẳng lớn. Cư sĩ có nghĩa như trước. Vì nói pháp: Có thầy nói là vì nói giới thiện nay e không phải. Giới thiện là nhân thiên thừa, không phải đế lý nhập đạo. Mục-liên phần nhiều nói tích không nhập đạo. Sao biết được? Vì loại chê trách các Thanh văn đều đối nhau với Bán mãn, tìm xem đoạn văn chê trách ở sau thì đúng thế.

Chính kể việc bị chê trách Từ “Thời Duy-ma”trở xuống văn có ba: Một là Chê chung. Hai là chê riêng. Ba là nghe pháp được lợi ích.

Một, Chê chung: “Không phải như nhân giả đã nói.” Nếu dùng tiếng bỏ tức là Không đúng pháp tướng căn duyên. Có ba thứ không đúng: Không đúng pháp tướng, không đúng căn duyên, không đúng tâm Phật. Về không đúng pháp tướng, thì pháp tướng tức không, sao nói phá bỏ, đây là trái pháp tướng, không đúng đạo lý. Về không đúng căn duyên: với đại thừa căn duyên cần nói pháp đại thừa, không thể lấy bát quý mà đựng đồ dơ, đã không được đạo lớn mà còn mất lợi nhỏ, nên là Không đúng căn duyên. Về không đúng ý Phật: Bổn ý Phật là đại sự nhân duyên, đối kẻ không nhận được thì mới dùng tiểu thừa mà tiếp dẫn. Nay đối với đại cơ tức đáng nói đại, sao bỗng lấy tiểu mà hóa độ đại căn. Đây là Không đúng ý Phật. Gồm ba ý này mà chê trách nên nói không đúng như nhân giả nói. Thật ra vì sức thiền định của Mục-liên còn cạn, nên pháp tướng không sáng tỏ, như nước không lóng trong thì tướng châu không hiện rõ. Lại định Tiểu thừa quán căn không biết lợi độn, đến nỗi có lỗi lậu cơ.

Hai, Chê riêng Từ “Phàm thuyết”… trở xuống, có ba phần: là dùng ba giáo diễn môn riêng phá ba thứ không đúng của Mục-liên. Đây có ba cặp:

a/ Ngoài nói đúng pháp tướng, trong hiểu đúng pháp tướng, là dùng tức không của Thông giáo mà bài bác không phải tức không, phá việc nói pháp của Mục-liên không đúng đạo lý.

b/ Ngoài hiểu rõ căn duyên, trong khéo biết thiện được vô ngại, là dùng Biệt giáo mà phá việc không đúng căn duyên, không được bốn vô ngại.

c/ Ngoài từ bi nghĩ nhớ chúng sinh, trong nghĩ báo đền ân Phật, là dùng Viên giáo mà phá cái không đúng tâm Phật, luôn dùng Ba giáo mà nói pháp, tức là đúng pháp tướng mà nói. Mục-liên không dùng ba thứ này nói pháp cho cư sĩ, cho nên bác việc nói của ngài không đúng Tam tạng giáo, khiến nương ba Như pháp tướng của Đại thừa mà nói.

Cặp thứ nhất có hai, là nói đúng như pháp, và hiểu đúng như pháp.

Nói đúng như pháp có ba phần nhỏ:

Nêu chương khuyên chung, nói riêng và phần kết.

Đầu tiên, khuyên chung: Phải nương vào môn thể pháp ba không của đại thừa, như pháp mà nói.

Tiếp nói riêng về thể pháp ba không Từ “pháp vô…” trở xuống phá cái lỗi dụng tích ba không. Có ba phần:

1. Bốn phen nói về cửa sinh không của Đại thừa mà phá tích sinh không.

2. Tám phen nói về thể pháp pháp Không mà phá tích pháp pháp Không.

3. Bảy phen đều có sáu trường hợp nói bình đẳng Không phá bình đẳng Không của Tam tạng giáo. Cần tóm tắt phân biệt ba không khác nhau. Ba không của Tam tạng giáo, giáo là nói: Năm ấm thành người tức là ấm, lìa ấm tìm người không được nên gọi là chúng sinh không. Phân tích năm ấm không gọi là pháp Không. Nên kinh A-hàm có nói: Ai lão tử là lão tử, cả hai đều là tà kiến. Không thấy ai lão tử gọi là chúng sinh không. Không là lão tử gọi là pháp Không. Nương vào Tỳđàm môn chỉ nói sinh không. Thành luận không môn nói đủ ba không. Có sự giải thích bình đẳng Không rằng: Nếu có nhân pháp thì không gọi là bình đẳng, không có nhân pháp khác nhau, đó là bình đẳng. Bình đẳng tức không, nên gọi bình đẳng Không.

Nay nghiên cứu lời này nếu nói bình đẳng tức là bình đẳng Không thì lẽ ra sinh pháp tức sinh pháp Không. Nếu sinh pháp thẳng thì không phải là sinh pháp Không. Phải phá sinh pháp gọi là sinh pháp Không, tức cũng phải phá bình đẳng, mới gọi là bình đẳng Không. Nếu chỉ nói hai không thì bình đẳng thuộc pháp. Pháp ngữ tuôn tràn thâu nhiếp tất cả. Nên Đại luận có nói: Pháp Vô thượng Niết-bàn, thế nên Niết-bàn không cũng là pháp Không. Tuy lại hai, ba đều là tích giả danh gọi là độ vụng về, dùng khéo phá vụng mới nói thể không. Nay dùng dụ để làm sáng tỏ cái khác nhau của tích và thể. Như ngoại đạo đưa tay lên thì ảnh trong gương cũng đưa tay lên “đầy đủ trong huyền nghĩa”. Người trí phân biệt và ảnh trong gương không nắm tay kia có ngón tay cũng không trống không. Không cần phải phá tích mới biết là Không không. Ba pháp này chỉ có danh tự. Pháp danh tự thì không ở trong ở ngoài hay ở giữa, cũng không tự có, chữ ấy không trụ cũng không đâu không trụ, bặt đường ngôn ngữ không nói không bày, pháp tướng như thế há có thể nói ư? Như ba không của Tam tạng giáo, thì hai thứ trước là phương tiện, bình đẳng Không mới là chân, nếu ba không của Đại thừa thì tức chân nhập trung. Nếu ba không của Thông giáo thì cùng được thấy chân. Bậc thượng căn lợi trí tuy nhờ Thông giáo thấy Không mà chẳng Không, tức là thấy Phật tánh. Nay ngài Tịnh Danh dùng thể phá tích, nên nói không đúng như nhân giả nói.

Từ “pháp Không trở xuống” là trước hết bốn phen nói thể pháp nhập chúng sinh không tức nhập Trung đạo.

Hỏi: Sinh không sao được vào trung?

Đáp: Đại Phẩm nói: “Tất cả pháp hướng đến ngã kiến…” Đại kinh nói: Chúng sinh và Phật tánh. “Không”tức sáu pháp mà không lìa sáu pháp. Đây nói sáu mươi hai kiến là Như Lai chủng. Nay nói pháp tức là tâm vô minh đầy đủ tất cả pháp. Nên ở đoạn văn sau nói: Tâm cấu nên chúng sinh cấu, tâm tịnh nên chúng sinh tịnh. Hoa Nghiêm có nói: Tâm như ông thợ vẽ, vẽ đủ thứ năm ấm, tất cả mọi thứ trong thế gian đều do tâm tạo, căn cứ đây để nói về tất cả pháp. Pháp Không chúng sinh, vì lìa chúng sinh cấu, thì nay có ba cách giải:

  1. Xét theo lý tánh.
  2. Xét về tuệ.
  3. Xét về phương tiện tuệ.

Từ đây trở đi nói lìa tất cả quán hạnh căn cứ vào ba thứ này đều nên để ý.

Xét về lý tánh: tâm và các pháp tức là pháp tánh, pháp tánh vốn tịnh, rốt ráo không có gì, sao lại có chúng sinh. Nếu không có chúng sinh, tức là Không có chúng sinh cấu. Ấy là tự tánh thanh tịnh, tâm không bị hoặc nhiễm, nên gọi là lìa. Đoạn văn sau nói: Như Ưu-ba-ly do tâm tướng được giải thoát, lúc đó có cấu chăng? Chúng sinh không cấu cũng thế. Kinh Thắng Thiên Vương có nói: Vì tự tướng Không, nên lìa tự tướng.

Xét theo thật tuệ, nếu pháp tức pháp tánh, pháp tánh không có chúng sinh mà vọng chấp là có chúng sinh, cho nên có mười sáu, sáu mươi hai… các kiến phiền não cấu. Nếu hiểu biết pháp tánh, rốt ráo không có chúng sinh, tức lìa cấu các kiến trên… Nên gọi là lìa chúng sinh cấu.

Xét theo phương tiện tuệ. Nếu thật tuệ cùng lý hợp nhau thường không có chúng sinh mà hiện có chúng sinh, có thể khiến chúng sinh lìa chúng sinh cấu, thì đây tức là ba thứ giải thoát, không dọc không ngang như chữ nhất ở đời. Chúng sinh Không này đâu có thể cho là đồng với Thanh văn kia. Từ đây trở đi đều có ý này. Vì không đâu không phải là quán tâm nên không cần y cứ quán tâm mà giải thích.

Vì pháp chẳng đoạn rốt ráo, ngay nơi ấm mà lìa ấm, tìm ngã không được, thì ngã kiến liền diệt, mới lìa được tất cả kiến phiền não cấu là pháp thể ngã không vậy.

Xét về lý, thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, pháp tánh xưa nay ngã phi vô ngã là chân vô ngã. Pháp tánh còn không có chỗ naò có ngã, tức là tự tánh lìa ngã cấu.

Xét về thật tuệ, nếu pháp tánh vô ngã mà có ngã cấu, là bởi vì không biết nghĩa chân vô ngã. Nếu hay nhận biết pháp tánh và vô ngã, tất cả thuộc kiến, các cấu tự lìa nên nói là lìa ngã cấu.

Xét về phương tiện tuệ và kết thành ba thứ giải thoát suy như trước mà biết.

Pháp Không có mạng sống vì lìa sinh tử.

Theo lý giải thích tâm và các pháp tức là pháp tánh. Pháp tánh sao được có vọng báo, có mạng sống, nếu không mạng sống tức là Không có sinh tử, nên nói là lìa sinh tử.

Về thật tuệ, thì pháp tức pháp tánh, hiểu biết như thế tức không thấy có mạng sống được lìa sinh tử.

Về phương tiện cho đến ba giải thoát đều suy như trước nói.

Pháp Không có nhân “người) vì bờ mé trước sau đều đoạn. Nếu theo sự giải thích thì bờ trước là sinh tử, mé sau là Niết-bàn. Theo lý giải thích, thì tâm và các pháp tức là pháp tánh sao lại có sinh tử Niếtbàn trước sau?

Nếu căn cứ pháp tánh không phải hai pháp, thì tức là Trung đạo Phật tánh, sao có trước sau, ấy tức là từ xưa không có nên nói là đoạn dứt. Kế tiếp xét theo thật tuệ, do vô minh không biết nên vọng chấp là có. Nếu thể nhập pháp tức là pháp tánh không đồng sinh tử của phàm phu, không đồng Niết-bàn của Nhị thừa, nên nói bờ mé trước sau đều đoạn dứt. Về phương tiện tuệ cho đến ba giải thoát giống như trước nói.

Từ “Pháp thường”trở xuống là tám phen nói phân biệt pháp nhập vào pháp Không.

Pháp thường vắng lặng vì các tướng diệt mất, nếu theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, gọi là thường tịch nhiên, tức là Đại Niết-bàn không thể diệt mất, mà nói các tướng diệt mất, về lý của pháp tánh vốn không khởi tướng. Đây là căn cứ tánh diệt nên nói là diệt. Nếu xét theo thật tuệ, thì thể đạt lý tịch nhiên, các tướng vọng tưởng tự nhiên diệt mất. Còn xét theo phương tiện cho đến ba giải thoát thì đều như trước đã nói.

Lìa pháp bỏ tướng vì không chỗ duyên, nếu theo lý giả thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, vốn không có mười tướng nên nói là lìa tướng. Nếu không có tướng cảnh thì không bị vọng niệm duyên với trí thức. Theo thật tuệ giải thích, thì nếu hiểu biết tự tánh của pháp tánh là lìa tướng, thì vọng niệm tự dứt, không duyên với niệm. Lý trí hợp nhau thì có phương tiện, cho đến ba giải thoát như trên.

Pháp Không danh tự vì ngôn ngữ đoạn dứt, nếu theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh vốn không thể nói, gọi là ngôn ngữ đoạn dứt. Nếu theo thật tuệ giải thích, thì thấu suốt lý pháp tánh, tức vô ngôn thuyết , nên gọi là ngôn ngữ đoạn dứt . Lý trí hợp nhau thì có phương tiện cho đến thành ba giải thoát suy diễn như trước.

Pháp Không nói năng lìa bỏ giác quán, nếu theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, xưa nay không nói năng, sao có giác quán. Nếu theo thật tuệ giải thích thì thấu suốt pháp tánh không có nói năng, thì phan duyên với giác quán tự nhiên không khởi, nên nói là lìa bỏ. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết.

– Pháp Không hình tướng vì như hư không, theo lý giải thích thì, tâm và các pháp tức là pháp tánh, không hình không chất, không có tướng mạo, không thể phân biệt, cũng như hư không. Nếu căn cứ thật tuệ, là thấu suốt pháp tánh không thấy tướng mạo, tâm như hư không. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết.

Pháp Không hý luận vì rốt ráo không, căn cứ lý giải, tâm và các pháp tức là pháp tánh, vốn không ái kiến, pháp hý luận rốt ráo không có. Theo thật tuệ giải thích, thì thấu suốt pháp tánh vốn không hý luận, tức rốt ráo không tịch. Lý trí hợp thành ba giải thoát nên biết.

Pháp Không có ngã vì lìa ngã sở: theo lý giải thích , thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, xưa nay vốn không ngã, sao có ngã sở. Vì tự tánh lìa vậy. Theo thật tuệ giải thích là thấu suốt pháp tánh là vô ngã, tức lìa tất cả ái trước. Lý trí hợp thành ba giải thoát nên biết.

Pháp Không phân biệt vì lìa các thứ, theo lý giải thích thì, tâm và các pháp tức là pháp tánh vốn không phân biệt, vì tánh không phải sáu, bảy, tám thức. Xét về thật tuệ, thì thấu suốt pháp tánh là lý không phân biệt, tức lìa các thức sinh tử duyên khởi. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết.

Từ “Pháp Không”… trở xuống là bảy phen và các trường hợp bình đẳng Không pháp Không vậy.

Pháp Không so sánh không có tướng đối đãi, theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh. Như Đại Phẩm có nói: Bồ-tát khi hành Bát-nhã không thấy ngoài pháp tánh còn có pháp, đã không có pháp lấy gì so sánh, tức là dứt hết đối đãi.

Hỏi: Nếu nói pháp Không có so sánh là tuyệt dứt đối đãi, “tuyệt đãi) là chỉ lấy đối đãi mà nói là Không đối đãi, há là tuyệt mất ư?

Đáp: Nếu dùng tâm có đối đãi, phân biệt không có đối đãi, thì cũng là chấp có đối đãi. Nếu pháp tánh không tâm, thì tất cả đối đãi đều là Không đối đãi. Theo thật tuệ, giải thích thì thấu suốt pháp tánh lại không có một pháp nào có thể so sánh, hoặc đối đãi nhau tự nhiên diệt mất. Lý trí hợp nhau phương tiện không trệ ngại, cho đến thành ba giải thoát nên biết.

Nay lấy không đối đãi mà đối với bình đẳng Không, thì mê hoặc về đối đãi đã vi tế, cho đến lý bình đẳng cũng còn. Nếu có thể dứt hết đối đãi, tức không đối đãi mà chẳng đối đãi, nên pháp bình đẳng cũng là Không. Nhưng Tam tạng giáo nói về bình đẳng Không thì chỉ là đối đãi của thiên chân, do đâu mà dứt được. Nay nói pháp tánh không có so sánh, tâm trí chướng diệt mới là nghĩa tuyệt đãi thật sự, pháp Không thuộc nhân vì không ở nơi duyên, theo lý giải thì tâm và các pháp tức là pháp tánh vốn chẳng phải sáu nhân không ở bốn duyên, cũng không phải mười hai nhân duyên lưu chuyển. Nhưng sáu nhân thì có nhân Sở tác mà có chỗ tạo tác, bốn duyên thì có duyên tăng thượng, cùng đối đãi nhau, ý đồng. Cho nên thuộc bình đẳng Không phá bỏ. Xét theo thật tuệ, nếu hiểu pháp tánh không phải là sáu nhân, bốn duyên và mười hai nhân duyên thì như trên nói đều diệt mất. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết.

Pháp đồng pháp tánh vì nhập vào các pháp, theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, nên nói là đồng. Trong tất cả pháp đều có tánh an lạc, một pháp vào tất cả pháp, tất cả pháp vào một pháp. Cho nên nói: Nhập vào các pháp. Theo thật tuệ giải thích thì, thấu suốt pháp tánh tức là trí tuệ, nhập vào tất cả pháp đều là pháp tánh. Lý trí hợp nhau cho đến thành ba giải thoát nên biết.

Pháp tùy thuộc ở Như không chỗ có gì tùy thuộc. Theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, pháp Không trái Như nên nói là pháp tùy theo Như, pháp tức pháp tánh, mà pháp tánh tức Như, không có năng sở khác nhau, nên nói là Không có gì tùy thuộc. Về thật tuệ thì, thấu suốt pháp tánh như như không khác, tức không thấy có trí năng quán mà khác ở như, nên nói không có gì là tùy. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết.

Pháp trụ thật tế vì các biên không động. Theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh. Pháp tánh tức là tên khác của thật tế. Nếu pháp nương vào pháp tánh tức là trụ ở thật tế. Thật tế không phải biên, nên không động ở bốn biên, hay hai biên. Theo thật tuệ, giải thích thì có thể thấu suốt việc trụ ở thật tế nên không bị bốn biên, hai biên tà kiến lay động. Lý trí hợp đến ba giải thoát nên biết.

Pháp Không dao động vì không nương vào sáu trần. Theo lý giải thích, thì tâm và các pháp tức là pháp tánh không nương vào sáu trần. Theo thật tuệ giải thích thì nếu thấu suốt pháp tánh tức là sáu căn, luôn tịnh không nhiễm sáu trần. Lý trí hợp cho đến ba giải thoát nên biết.

Pháp Không tới lui vì thường không trụ . theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, không tới không lui, ắt không hề có ttrụ. Thật tuệ giải thích thì thấu suốt pháp tánh vốn không tới lui, tức không trụ ở sinh tử hay Niết-bàn. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết.

Pháp thuận Không tùy vô tướng ưng vô tác. Như kinh Thanh văn nói: Ba thứ Tam-muội căn cứ mười sáu hành thì Đại thừa nói nghĩa đồng còn duyên thật tướng, tùy thuận mà ứng hóa. Ba tên tuy khác mà đồng một thật tướng. Nếu giải thích theo lý thì ba thứ Tam-muội, như kinh Tư Ích nói: Tất cả chúng sinh tức là diệt định không có ba thứ sai biệt thì tự có theo thật tuệ mà nói ba thứ Tam-muội tức là nói nghĩa trở về gốc và tự có dựa theo ứng dụng luận về ba thứ Tam-muội, tuy thuận tướng hữu tác mà ở nội tâm không trái thật pháp, tức là ba thứ giải thoát chuẩn theo trên.

Lìa pháp tốt xấu, nếu theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh không có Niết-bàn là tốt, sinh tử là xấu. Nếu theo thật tuệ giải thích thì thấu suốt pháp tánh không có tốt xấu, lìa bỏ cái khác nhau của sinh tử đáng ghét và Niết-bàn đáng yêu. Lý trí hợp cho đến ba giải thoát chuẩn theo trên.

Pháp Không tăng giảm: tâm và các pháp tức là pháp tánh, không có sinh tử tăng thêm, không có Niết-bàn giảm bớt. Về thật tuệ và lý trí hợp thành ba thoát cùng suy như trước.

Pháp Không sinh diệt: là tâm và các pháp tức là pháp tánh. Xưa vốn không sinh, nay thì không diệt.

Pháp Không chỗ về, tâm và các pháp tức là pháp tánh, sao lại có chỗ về.

Pháp ở ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm, tâm và các pháp tức là pháp tánh ở ngoài sáu vọng căn, vì không thuộc căn.

Pháp Không cao thấp, tâm và các pháp tức là pháp tánh, còn không có cái cao chủng trí Niết-bàn, thì đâu lại có cái thấp của phiền não sinh tử.

Pháp thường trụ bất động, tâm và các pháp tức là pháp tánh thường hằng không biến đổi, nên nói là bất động.

Lìa pháp tất cả quán hạnh, tâm và các pháp tức là pháp tánh, vốn không có quán hạnh, vì tự tánh vốn lìa.

Từ “Không sinh diệt”… trở xuống sáu câu, đều phải dựa theo thật tuệ và lý trí hợp thành phương tiện tuệ, làm nghĩa ba giải thoát thì chuẩn theo trên mà biết.

Hỏi: Sao được các câu giải thích theo ba cách đều có đủ ba giải thoát?

Đáp: Đại kinh có trăm câu giải thoát, Hoa Nghiêm có vi trần giải thoát, Pháp Hoa có nhất thiết giải thoát. Nay mấy mươi câu sao gọi là nhiều. Nếu không có câu câu biện giải, câu câu tung hoành dọc ngang thì đâu giống chữ Y, giống như ba mắt của Thủ-la ở đời và khác với Tam tạng giáo ư? Đây chỉ nói tổng quát.

Cuối cùng là kết phá: Đã không thể như ngài Tịnh Danh nói như pháp tướng, mà lại dùng pháp của ba thừa tuyên nói cho các cư sĩ trái với đại pháp tướng nên bị chê trách là Không đúng như nhân giả nói.

Hỏi: Pháp tánh không thể nói, sao ngài Tịnh Danh nói được?

Đáp: Ở đoạn văn sau có nói: Không lìa văn tự nói tướng giải thoát lìa tánh văn tự tức là giải thoát. Giải thoát tức là các pháp. Ngài Tịnh Danh dùng bốn Tất-đàn khéo léo không nói mà nói, tức là như pháp tướng mà nói.

Từ “Phàm nói”trở xuống là phẩm hai của cặp thứ nhất nói không thể hiểu đúng pháp tướng. Lại có hai phần nhỏ: và mượn huyễn làm dụ.

– Chánh thức chê: Nói phàm thuyết pháp là Không nói không chỉ bày, đây tức là như pháp tướng mà hiểu. Pháp tướng chân như, không nhân không ngã, thì ai là người nói. Nếu không có người nói, tức không thể chỉ bày. Không người nói, tức như Đại kinh có bốn bất khả thuyết. Không chỉ bày tức không có bốn lý để chỉ bày. Nên kinh Pháp Hoa nói: Pháp ấy không thể chỉ bày, vì tướng ngôn từ lặng dứt, các loại chúng sinh khác không thể hiểu được. Người nghe pháp Không nghe, không được gì, nếu như pháp tướng mà hiểu, chẳng những không có người có thể nói mà cũng không có kẻ nghe pháp. Đã không có người nghe thì ai nghe ai được. Không nghe tức là Không có bốn môn nghe ở bốn nói, không được tức là Không có bốn lý có thể chứng. Nếu Mục-liên không thấu suốt cái thể này tức là còn chấp chặt có thầy trò năng sở, đâu được là như pháp tướng mà hiểu.

– Huyễn dụ “Từ Thí như … nội pháp”Bồ-tát nhập vào Như huyễn Tam-muội mà hiểu biết, kẻ nói người nghe đều biết là người huyễn hóa, tuy biết không thật mà có điều nói ra, tức là biết bốn thứ bất khả thuyết. Tất-đàn phó duyên chỉ cho mọi người bốn lý mà lý cũng như huyễn hóa. Cho nên trong Đại phẩm có nói: “Giả sử có pháp hơn Niếtbàn thì ta cũng nói đó là như huyễn.” Người ví như nghe đều do vô minh huyễn sự mà có, thế thì không có mà có. Tuy có việc nghe nhưng là nghe huyễn, không nghe không được gì. Nếu ngài Mục-liên nhập vào Như huyễn Tam-muội mà nói thì có thể như pháp tướng mà hiểu, nếu không như thế tức là Không như pháp tướng mà hiểu, thì sao có thể như pháp tướng mà nói. Nên chê trách là Không phải như nhân giả nói, ý là ở đây vậy.

Cặp thứ hai, Chê trách nói pháp Không hợp căn duyên Từ “Phải hiểu…” trở xuống. Đây là Không hiểu Biệt giáo không nhập giả quán, không được đạo chủng trí pháp nhãn mà biết bệnh biết thuốc, tùy bệnh cho thuốc. Văn có hai phần: Trách không biết căn và trách đối với tri kiến có trệ ngại.

– Trách không biết căn: Nói phải hiểu căn chúng sinh có lợi độn, Mục-liên hoặc nghĩ rằng Như Lai cũng nói pháp này sao bị chê trách. Ngài Tịnh Danh biết ý nghĩ đó liền quở rằng: Như Lai biết căn cho nên ở kinh Thanh Văn thì nói giáo tích Không này. Nay cư sĩ lợi căn sao dùng cách vụng về mà nói pháp cho họ. Cho nên nói thể Không để hợp cơ của họ mà khéo léo ở tri kiến không hề trở ngại.

– Trách tri kiến có trệ ngại. Vì không có chủng trí pháp nhãn, nên nói pháp có trệ ngại. Nay ngài Tịnh Danh thấu suốt được đạo chủng trí của Biệt giáo, nên biết pháp Không trệ ngại. Được pháp nhãn, nên thấy pháp Không trệ ngại, nên biết bệnh biết thuốc, tùy bệnh cho thuốc. Dùng bốn vô ngại mà phó cơ không trệ ngại.

Cặp thứ ba, Trách nói pháp vận tâm không đúng ý Phật Từ “Dĩ đại…”trở xuống. Đây do không hiểu Đại thừa của Viên giáo, nên trách không phải như nhân giả nói. Văn có hai phần: Phải khởi tâm đại bi và nghĩ báo ân Phật.

– Đem tâm đại bi mà khen ngợi Đại thừa. Bi thường cứu khổ . nếu bi Tiểu thừa thì nói cứu khổ nhỏ trong cõi “nội giới, còn bi Đại thừa thì có khả năng cứu khổ lớn ở trong ngoài cõi và khiến được giải thoát bất tư nghị trụ ở Đại Niết-bàn.

– Nghĩ báo ân Phật Từ “Niệm báo… thuyết pháp”. Ngài Mụcliên nhờ Phật mà được giải thoát nên nghĩ báo đền ân Phật, phải độ chúng sinh nối thạnh giống Tam bảo. Nay nói Tiểu thừa vô thường nhập Không, khiến cư sĩ đoạn kiết nhập diệt, tức là dứt giống Tam bảo, đâu gọi là báo ân. Nếu theo Viên giáo thâm quán, tất cả các pháp khai Phật tri kiến tức là ba thoát, ba đức, ba báu không dọc không ngang, khai tâm chân giải, tâm tâm đều vắng lặng, tự nhiên lưu nhập vào biển Tát-bà-nhã. Đó là Không đoạn giống Tam bảo tức là thật báo ân Phật xứng hợp tâm Phật.

Cư sĩ được lợi Từ, “Duy-ma… Bồ-đề tâm”Ngài Tịnh Danh đã hay như pháp tướng mà hiểu, Như pháp tướng mà nói, khế hợp với Đại cơ, thì tám trăm cư sĩ đều phát đại tâm.

Kết thành không kham, Từ “ngã vô… vấn bệnh”. Ngài Mục-liên tự xét mình không đủ biện tài của ba giáo đến nỗi khi xưa bị chê trách.

Nay đâu dám nhận lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh.

Phần 3

Ba là Phật sai ngài Đại Ca-diếp. Văn có hai phần: Phật sai thăm bệnh và Ca diếp trả lời không kham nhận được.

– Sở dĩ Phật sai đi vì trong hàng Thanh văn, ngài có hạnh Đầu-đà bậc nhất. Ca-diếp là họ, Hán dịch là Quy, tức lấy họ làm tên, như ngài Mục-liên vậy. Nói đại (lớn) là do trí lớn, đức lớn hoặc tâm lớn, nên gọi là Đại Ca-diếp. Vì sao? Đó là căn tánh hàng Đại Bích-chi, xuất hiện ở đời không có Phật cũng có khả năng một mình được giác ngộ thành Bích-chi-ca-la. Nay đã gặp Phật làm hàng Thanh văn, trí tuệ ngài vượt trội hơn hết nên gọi là đại. Cũng do đức mà được gọi đại, là người Đầuđà khổ hạnh bậc nhất, đức rất trọng đại nên gọi là đại. Hoặc do tâm mà được gọi đại, là trong hàng đệ tử Thanh văn, ngài có tâm từ bi lớn nên gọi Đại. Có người nói ngài là Tăng thượng tọa xem xét việc chúng, nên gọi là Đại Ca-diếp. Nếu xét đến chỗ cùng cực cho đến nêu năm nghĩa lợi ích, thì đại ý đều giống trước.

– Đáp lời không kham “Ca-diếp bạch Phật”trở xuống. Văn có bốn:

  1. Đáp lời không kham.
  2. Nói lý do không kham.
  3. Chánh kể việc không kham.
  4. Kết thành không kham.

a. Đáp lời không kham, do xưa bỏ giàu theo nghèo mà bị chê trách không đáp được, nên không kham lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh.

– Nói lý do không kham Từ “Sở dĩ … hành khất” là do khất thực. Khất thực tức một trong mười hai hạnh Đầu-đà. Giải nghĩa mười hai hạnh Đầu-đà có ba ý: Một là căn cứ sự lý của Bán tự. Hai là căn cứ sự lý của Mãn tự. Ba là căn cứ theo quán tâm. Đầy đủ trong văn. Vì nhiều nên lược không kể lại đây. Có sư nói Tiểu thừa thấy lý gọi là nghèo. Nay xin hỏi, nếu nói lý nghèo là Tiểu thừa, thì ngài Thiện Cát “Tu-bồđề) theo giàu phải gọi là Đại thừa. Đã không phải Đại thừa thì nghĩa này đã hỏng. Nay theo quán giải căn cứ hai môn Hữu, Không. Ngài Ca-diếp do Hữu môn vào đạo, hữu môn là hạn cục hẹp hòi nên gọi là nghèo. Ngài Thiện Cát từ Không môn vào đạo vì Không môn rộng lớn nên gọi là giàu. Tuy là hữu – không khác nhau, nhưng đồng là Tam tạng giáo không liên quan chi đến Đại thừa. Nên Thành luận luôn luôn bài bác Tỳ-đàm, là ý ở đây vậy. Sợ e người nhầm lẫn lấy làm quán hạnh sai kinh nên cần so sánh bác bỏ. Đây không phải nghĩa chánh của kinh nên không cần phải chấp. Nay nói người nghèo đi xin ăn có hai ý: Lợi tha và Tự lợi.

Lợi tha: người có tâm từ bi thấy người nghèo hèn bèn ôm bát đến làm phước, khiến họ hiện đời chuyển báo ở kiếp sau sẽ khỏi khổ. Lại chúng sinh không khổ thì không cầu Niết-bàn, người gặp nghèo khổ tất dễ hóa độ, nên cần phải đến đó. Còn người giàu tham đắm hội vui không theo sự giáo hóa, đến đó chỉ kêu gọi cũng vô ích thôi.

Tự hành: Nhà giàu lầu các cao rộng cầu khó được và ắt khi ngừng mà bỏ sự nghiệp. Theo nghèo thì dễ không ngại gì. Lại người nghèo có quả báo kém, ăn uống đạm bạc nên không sinh tâm đắm nhiễm. Người giàu thì ăn uống ngon quý, đầy đủ, có nhiều thói tật trái hạnh Đầu-đà, không làm khuôn phép cho mọi người, vì thế, tình có lệch lạc đến nỗi bị chê trách, đó là lý do không kham đi thăm bệnh.

– Chánh kể việc bị chê trách Từ “Thời Duy-ma trở xuống. Văn có ba: Một là chê chung. Hai là chê riêng. Ba là kính trọng.

Chê chung:

Có tâm từ bi mà không ban khắp: ngài có tâm từ bi bậc nhất trong hàng Thanh văn. Như Lai khen ngợi và mời ngài cùng ngồi, chỉ vì từ bi của Tiểu thừa mà không khắp đủ. Lợi tha mà không bình đẳng. Vì bỏ giàu theo nghèo mà bị Đại sĩ trách. Vì Phật chế hạnh Đầu-đà khiến phải thứ lớp khất thực, nay bỏ giàu theo nghèo là trái ý chỉ Phật. Nếu vì hiện khổ cứu nghèo khiến ở vị lai được vui, thì giàu lại đam mê ham muốn chẳng biết tu, khi sắp đọa vào hố sâu sao chẳng đến hóa độ khiến đời sau được giàu tiếp. Nếu bỏ mà không hóa độ sao bảo là khắp từ bình đẳng. Nếu nói làm nhân giải thoát thì phải giàu nghèo cùng độ bình đẳng, độ đã không bình đẳng đâu thể thành khắp đủ. Nếu bảo người nghèo chán khổ dễ độ. Dễ độ vốn chỉ liên quan đến phước tuệ hà tất phải nghèo khổ. Nếu tự hành là dễ sao lại tiếc một thời gian ngắn để giáo hóa mà khiến người giàu mất lợi ích. Dầu để tâm giáo hóa kẻ giàu thì có hại chi đến tự hành. Nếu bỏ đạo pháp mà đến với kẻ nghèo thì cũng phải đến với người giàu. Nếu bỏ đạo pháp đến với người giàu có hại thì đến với kẻ nghèo cũng có hại, cả hai bên đều có hại thì sao đến một bên mà bỏ một bên. Vả lại, đối với pháp bình đẳng thì đối với ăn cũng phải bình đẳng, nếu ngon và không ngon đều bình đẳng mà pháp và ăn không bình đẳng thì có bao nhiêu hạnh đều không bình đẳng. Thế nên chê rằng có lòng từ bi mà không khắp đủ. Nay khi người khất thực quán hạnh phải làm theo lời của ngài Tịnh Danh.

Chê riêng: “Ca-diếp” trở xuống. Văn có bốn phần:

  1. Trách khất thực tâm quấy.
  2. Trách vào xóm tâm quấy.
  3. Chỉ pháp chánh thực.
  4. Kết khuyên.

Phần một có bốn:

  1. Phá Tiểu thừa chứng diệt.
  2. Phá biết khổ.
  3. Phá đoạn tập.
  4. Phá tu đạo.

Hỏi: Nếu căn cứ Tứ đế mà phá tâm quấy, thì nên trước đối khổ mà phá, sao lại đối diệt?

Đáp:Ngài Ca-diếp chứng Niết-bàn hữu dư đi khất thực mà tâm quấy, nên trước phải căn cứ vào diệt. Kế mới phá tâm xưa khế hợp vào việc bây giờ quả là tâm có sai trái, cho nên căn cứ ba đế còn lại để phá. Phải trụ vào pháp bình đẳng mà thứ lớp khất thực, là trước hết phá bỏ lý diệt chưa được bình đẳng, gặp việc lấy bỏ, đến nỗi trái pháp khất thực thứ tự. Nếu Bồ-tát được diệt đế lý bình đẳng, tức tâm làm bình đẳng xem như hư không, đối với các việc thiện và bất thiện đều dùng lòng từ, tức đối với giàu nghèo tâm không lấy bỏ hay thứ lớp mà tìm cầu. Đại Phẩm nói: Tu-bồ-đề bạch Phật trong tâm thứ lớp có hành Bát-nhã chăng? Phật đáp: Thường không lìa tâm Tát-bà-nhã làm hạnh sinh tu, tức là trụ vào pháp bình đẳng mà hay thứ lớp làm hạnh sinh tu, tức là ở lý trung mà thứ lớp cầu pháp hỷ thiền duyệt. Do bổn thùy tích nên gặp việc đi khất thực, do tích hiển bổn nên thường làm bình đẳng. Như ngài Ca-diếp phá tám tà vào tám giải thoát, nhưng chỉ được pháp hỷ thiền duyệt của Tiểu thừa. Đây tức là bỏ tà lấy chánh sao được gọi là thứ lớp cầu pháp hỷ thiền duyệt. Bồ-tát tuy biết pháp tánh chân diệt bình đẳng mà không thể bỏ tám tà vào tám giải thoát, tức là thứ lớp cầu pháp hỷ thiền duyệt Đại thừa. Vì sao? Vì tâm Tát-bà-nhã từ thiền duyệt của phàm phu mà vào các định thế gian, lại vào định xuất thế gian của Nhị thừa, lại vào các thiền thượng thượng của Bồ-tát đều là Ma-ha Diễn đều không thể được, cho nên đối với mỗi mỗi thiền đều có một tâm ba trí mà được chân pháp hỷ. Đều có ba đế Tam-muội nên được chân thiền duyệt. Nên nói trụ pháp bình đẳng phải thứ lớp mà đi khất thực. Ấy là Bồ-tát làm thứ lớp, học thứ lớp, đạo thứ lớp. Kinh Pháp Hoa có nói: “Khéo thường thứ lớp tu tập các pháp lành.” Cho nên Bồ-tát khi thực hành hạnh Đầu-đà thì tâm đại bi bình đẳng như hư không. Chẳng xem giàu nghèo, tâm không lấy bỏ, căn cứ vào pháp khất thực mà thứ lớp đi xin ăn. Ngài Ca-diếp nội tâm không được Vô duyên đại từ, không trụ vào bản hữu diệt đế chân pháp bình đẳng cho nên không thể đối với các thiền chánh tà mà thứ lớp được pháp hỷ thiền duyệt của Đại thừa. Chỉ trụ vào diệt đế thiên chân mà bỏ sinh tử, cho nên gặp việc đi khất thực thì tâm có lấy bỏ, bỏ giàu theo nghèo mà ngài Tịnh Danh trách là ý ở đây vậy.

Căn cứ ở biết khổ để phá: Vì không có ăn nên phải khất thực. Chỉ vì khổ đế là thân ấm nhập nên cần phải khất thực để nuôi tánh mạng. Nếu ngài Ca-diếp không phá khổ đế này vì cầu Niết-bàn mà theo pháp Không ăn, nên cần phải khất thực để nuôi sống thân hành đạo. Nếu phát nhân vô lậu vào vô dư như hư không tức là Không ăn. Nếu ở địa hữu học tuy phát vô lậu nhưng các kiết chưa hết, thì nhân không ăn chưa thành, có thể cho vì không ăn cho nên phải đi khất thực. Ngài Ca-diếp các kiết lậu đã hết, nhân ăn đã mất. Nếu là Không ăn thì chỉ bảy ngày không ăn liền nhập vô dư, tức không còn hoạn nạn về ăn uống, còn ngày ngày đi khất thực thì ý muốn làm gì. Nếu vì lợi sinh khiến được không ăn mà đi khất thực thì không nên bỏ nhà giàu và vào vô dư. Nếu Bồ-tát quán khổ vì lẽ không ăn nên phải đi khất thực, là muốn phá cái ăn sinh tử nội ngoại giới để cầu Vô thực Tam-muội Đại Niết-bàn, cho nên cần đi khất thực để nuôi thân mà tu nhân không ăn thì việc này không lỗi. Nếu vì hóa độ chúng sinh khiến được quả không ăn, thì giàu nghèo đều đến khất thực để độ đời, trọn không tắt mất mà vào Niết-bàn không ăn uống. Đây đều là quán tâm, không cần làm nữa.

Căn cứ ở đoạn tập mà phá “Vì hoại tướng hòa hợp nên phải nhận cách ăn đoàn thực”. Tập là phiền não hòa hợp tùy sự thọ báo, tức cần có bốn cách ăn. Vì Ca-diếp đoạn tập vốn phá sự hòa hợp này nên tìm cách ăn đoàn thực để nuôi thân mà quán hạnh. Nếu ở địa Hữu học mà tập hòa hợp chưa hết, có thể nên đi khất xin đoàn thực nuôi thân để đoạn cho hết. Nay chứng hữu dư tập hòa hợp đã hết, lại đi khất thực nuôi thân, là ý gì? Nếu nói là phá tập hòa hợp chúng sinh thì không nên bỏ nhà giàu và nhập vô dư. Bồ-tát không như thế, khi phá nội ngoại giới Tập đế chưa hết, phải nhận cách đoàn thực để nuôi thân mà phá tướng hòa hợp. Nếu vì hóa độ người không nên lựa giàu nghèo, đều khiến họ như mình, không nên vội nhập Niết-bàn.

Căn cứ ở tu đạo mà phá “Vì không thọ mà thọ thức ăn”. Ngài Cadiếp không vì được quả không ăn uống nhưng cần nhận ăn uống nuôi thân để tu đạo, thế thì có ăn mới sống, có thân mới có đạo. Như bậc Hữu học thì cho nhận thức ăn ấy để tu đạo không ăn. Nay đã ở bậc Vô học nhân không ăn đã thành sao còn thọ nhận. Nếu vì lợi sinh khiến được nhân này thì không nên bỏ nhà giàu và nhập Niết-bàn. Nếu Bồ-tát vì tu Đạo đế vô tác làm nhân không ăn, nên nhận thức ăn cầu nhập Niết-bàn là quả không ăn.. Nếu vì lợi sinh khiến họ được nhân quả không ăn, thì nên giàu nghèo đều thọ nhận. Lại chúng sinh chưa được nhân quả này nên thị hiện sống lâu trên thế gian để khiến họ được phước mà không nhập Niết-bàn.

Trách vào xóm tâm quay: “Vì tưởng xóm vắng…” trở xuống. Văn lại có hai phần nhỏ: Trách chung. Trách riêng.

-Trách chung là trách bỏ nhà giàu theo nhà nghèo, là trách khi vào xóm có tâm lấy bỏ. Vì sao? Vì khi vào xóm thấy có trần cấu, tức có phân biệt giàu nghèo, có sáu trần tốt xấu, cho nên sinh lỗi bỏ giàu theo nghèo, lòng từ bi không khắp, nhân đó mà bị quở trách.

Nếu vì tưởng xóm trống vắng mà vào xóm thì xóm trống vắng ở thế gian không có người vật tốt xấu khiến sinh lấy bỏ. Nếu có thể quán trần như thế thì không có giàu nghèo tốt xấu để có thương ghét mà có lánh bỏ, mà bị luận là làm mất lợi ích, thì đâu có lỗi lòng Từ không khắp đủ. Lại nếu theo sự mà giải thích thì nơi người vật tụ tập gọi là xóm làng. Còn theo lý mà giải thích thì căn là chỗ nương nhóm của trần và thức, gọi là xóm làng. Nên kinh Kim Quang Minh có nói: “ làng sáu nhập là nơi giặc kết ở, tất cả tự ở đều không biết nhau.” Đại Phẩm cũng nói: Tất cả pháp đến nhãn cho tới đến ý, phải biết sáu căn là chỗ nương tựa của tất cả trần thức tốt xấu. Trên đây căn cứ chung về xóm làng ngoại đạo mà chê trách Ca-diếp trệ ngại nơi hữu, nay căn cứ sáu căn nói làng bên trong trách người quán không biết sáu căn mà có trệ ngại với trần nên bị lỗi lấy bỏ.

– Trách riêng “Sở kiếp”trở xuống, hễ người có phân biệt thì có yêu ghét. Mù, là Không thấy nên không lấy bỏ. Ngài Ca-diếp là Thánh nhân nhập quán duyên chân giống với người mù, khi xuất quán trở về duyên tục thì đồng với kẻ phàm phu. Vì có tình ý lấy bỏ nên ở trong sắc cũng sinh cái thấy giàu nghèo. Bồ-tát thì không như thế. Không bỏ đạo pháp đồng với cái thấy của phàm phu mà thấy sắc tức không, không còn phân biệt, nên đồng với người mù. Tuy không phân biệt mà hiểu rõ tất cả pháp là Không đồng với mù, vì tuy phân biệt mà không lấy bỏ, luôn từ tâm bình đẳng. Lại nữa, nếu biết tất cả pháp đến với nhãn, hiểu nhãn là xóm làng, tức được nhục nhãn thanh tịnh của Bồ-tát, thấy sắc khắp mười giới gọi là thấy không bị nhiễm trước, tức đồng với người mù. Đại kinh nói: “Người học Đại thừa tuy có nhục nhãn mà gọi là Phật nhãn.” Ấy là năm nhãn đầy đủ. Thấy sắc thô tế theo lý ba đế gọi là thấy mà thật không có gì thấy, tức đồng với người mù. Nên Đại Phẩm có nói: Ta dùng năm nhãn quán sát không thấy có ba nhóm chúng sinh, ấy là Không thấy mà thấy, không thấy nên đồng với người mù, mà thấy nên năm nhãn đầy đủ. Ấy là từ vô duyên bình đẳng trùm khắp. Năm nhãn thanh tịnh thấy mười pháp giới, cứu khổ ban vui, khắp đồng phước lợi, đâu có một chút tà vạy bên trong mà bỏ giàu theo nghèo. Thiết luân còn như thế, há Đồng luân sắp lên mà có thể so sánh được sao?

Từ “Sở văn đến trí chứng”đây là chê ngài Ca-diếp xuất quán vào xóm làng không hiểu rõ. Tiếng “không” là như tiếng vang trong hang, cho đến thân không nhận các xúc như dùng trí mà chứng, cho nên đến với bốn trần như tiếng v.v… của giàu nghèo mà sinh khó dễ, lấu xấu bỏ tốt khác đối với nhập quán chứng diệt định. Bồ-tát không như thế. Vì hiểu tánh của tai là Không, nên tiếng như âm vang, cho đến đối xúc cùng trí khế hợp lý cả hai đều không khác, ắt không có lý bỏ, lý lấy nên đối với nghèo giàu tình không lấy bỏ, một tướng từ tâm, phước lợi đồng khắp. Bồ-tát biết tất cả pháp đến tai đều bình đẳng, Thể thấu suốt tức không, cho đến không thấy có đến hay không đến, thân như gương sạch, cả y chánh mười giới đều hiện trong thân. Rộng như trong kinh Pháp Hoa nói về sáu căn thân thanh tịnh rất đầy đủ, căn cứ vào sắc mà biết.

Từ “Tri chư… đến vô diệt”, là chê ngài Ca-diếp không biết ý căn tức không, các pháp như huyễn, cho nên phân biệt nghèo giàu khó dễ khác nhau. Giàu thì oai nghi lễ tiết rắc rối khó gần, nghèo thì hệch hạc sơ sài tới lui dễ dàng, cho nên từ bi có ngăn cách, phước lợi có lệch lạc, trái với chánh pháp Đầu-đà bình đẳng. Bồ-tát thể theo đó mà biết tất cả pháp đều từ vô minh khởi lên, đều như huyễn hóa, hóa nên không phải là thật tướng. Như Phật đáp lời Đức Nữ rằng: “như huyễn không phải trong ngoài, mà hiện ra tất cả việc huyễn hóa.” Vô minh cũng thế, không phải trong ngoài mà có tất cả pháp. Nay thể theo ý có bốn trường hợp xét về sinh đều không thể được, tức xưa không sinh thì nay không diệt. Nếu xưa không sinh nay không diệt, thì không còn có sinh tử Niếtbàn để lấy bỏ, huống là có giàu nghèo dễ khó mà lấy bỏ ư? Đây là thấu suốt ý Trung đạo, vì lợi ích chúng sinh mà giao du cả chân tục nên đối với giàu nghèo khó dễ đều đến khất thực. Bồ-tát biết tất cả pháp đến ý tức không thì không thấy có đến và không đến. Các thứ khác như phân biệt về nhãn đã nói rộng như trong kinh Pháp Hoa.

Phần ba. Chỉ pháp chánh thực Từ “Ca-diếp”trở xuống. Văn cùng có hai phần: Chỉ về chánh thực và Giải thích lại.

– Chỉ về chánh thực, lại có hai: Nói về thể của ăn và nói về dụng của ăn.

Nói về thể của ăn, tức khất thực có tâm quấy, thật ra vì không biết pháp chánh thực. Do đó ở đoạn văn sau trách ngài Thân Tử rằng: “Phật nói tám giải thoát, nhân giả tuân làm đâu lại xen việc muốn ăn vào mà nghe pháp ư?”. Tám giải thoát của Tiểu thừa tức là chân pháp hỷ, nhưng không nương vào Phật tuệ bỏ tám tà vào tám giải thoát, tức giải thoát tư nghị nên không được thức ăn Đại thừa pháp hỷ. Vì vậy Đại kinh có nói: Tỳ-kheo các ông tuy hành khất thực mà chưa từng được pháp thực của Đại thừa. Nếu Bồ-tát luôn dùng Phật tuệ để thấy lý Trung đạo, không phải tà không phải chánh mà cả tà chánh đều giao tiếp, thì nhập vào tám giải thoát bất tư nghị, tức là chân pháp hỷ của Đại thừa. Song tà chánh mỗi thứ đều có lý và sự.

Về sự tà, tức căn bản vị thiền đều sinh ái kiến, tức là Tứ thiền Tứ không, nếu so với ma định quỷ thì cũng là chánh thiền, nếu so bối xả thì là sự tà.

Về lý tà. Là thấy tâm duyên với lý không chánh nên nói là tà, tức tà kiến, tà ngữ… tám thứ. Chánh có hai thứ, chánh sự tức là tám giải thoát phá sự tám tà. Về lý chánh, tức chánh kiến… tám thứ đối phá tám tà của lý duyên tám tà. Thanh văn không được Phật tuệ, tu tám bối xả đoạn bỏ sự tà tám thiền mới được tám giải thoát, là bỏ tám tà mà vào tám giải thoát. Tu tám Chánh đạo phá tám tà của duyên lý được vào kiến đế, ấy là lìa bỏ tà tướng mà vào chánh pháp, đều là tư nghị pháp hỷ, không phải là chân đại thừa pháp hỷ thực. Bồ-tát nương vào Phật tuệ không bỏ vị thiền sự tà mà tu bối xả, nhập vào tám giải thoát, tà không hại chánh, thành ba đế Tam-muội, tức là Đại thừa thiền duyệt. Lại thường quán tám tà mà vào vô tác bát chánh, tà không hại chánh, thành lý nhất tâm tam trí tam đế, tức là pháp hỷ đại thừa, đó gọi là pháp thực bình đẳng. Ca-diếp không như thế đến nỗi mới có lòng Từ không khắp. Còn Bồ-tát nhất quyết là hiểu biết cho nên được chân pháp hỷ thiền duyệt bất tư nghị. Tức là Vô duyên đại từ, giàu nghèo đều được lợi như vì một người, hay đông chúng đều như thế. Nếu đối với tất cả chúng sinh mà tâm không thiên lệch hay đối với thực có bình đẳng thì đối với pháp cũng bình đẳng.

Nói về dụng của ăn, từ “dĩ nhất… khả thực”Ngài Ca-diếp đã được pháp hỷ thiền duyệt tư nghị, đây không phải là cái dụng rộng lớn. Bồtát nương vào chân pháp hỷ thiền duyệt bất tư nghị giao tiếp có hai đế mà được bữa ăn về cả thế và xuất thế, cho nên luôn dùng một bữa ăn mà thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và chúng Thánh hiền, cho đến một bát cơm ở cõi Hương Tích mà cả chúng ăn cũng không hết, đó là chân ứng cúng. Hay làm chân phước điền đáp ân thí chủ sau đó mới ăn. Nếu không được như thế trách sao trong tâm không nhận được bữa ăn thiền duyệt hư ngụy. Ngoài không phải thật phước điền mà bỏ giàu nhận nghèo, khiến cho cả giàu nghèo đều không được phước lợi chân thật.

– Giải thích lại Từ “Như thị …”trở xuống. Văn có hai phần: 1/ Ba lần giải thích thể của thực, 2/ Giải thích dụng của thực.

1/ Lần một giải thích thể của thực: Xét về lý tìm tà chánh không trở ngại nhau, nếu nương vào Phật tuệ thì không thấy có tà kiến, chánh kiến… tám thứ, cho nên nói không phải có phiền não, không phải lìa phiền não. Không phải có tức là Không thấy tà kiến… tám thứ. Không phải lìa tức là Không thấy chánh kiến… tám thứ, không phải nhập định ý, không phải khởi định ý.

Lần hai là giải thích tám tà tám chánh theo sự. Bồ-tát có tâm nương Phật tuệ nên không thấy có tám giải thoát, chín định, có thể nhập, nên nói không phải nhập định ý. Không thấy xuất nhập vị thiền và các tà định, nên nói không phải khởi định ý.

Hỏi: thì sao lý trước sự sau?

Đáp: Sự lý bất tư nghị không nhất định trước sau, không phải trụ thế gian cũng không trụ Niết-bàn.

Lần ba giải thích chung về sự lý. Bồ-tát tâm nương vào Phật tuệ không trụ vào sự tà, lý và cho nên nói không phải trụ thế gian. Không trụ vào sự chánh lý chánh mà nhập vào có, không hai thứ Niết-bàn, cho nên nói không phải trụ Niết-bàn.

2/ Giải thích dụng của thực “Kỳ hữu”đến “vi tổn”thường vì thí chủ làm chân thật phước điền. Người bố thí không có phước lớn hay phước nhỏ như chê Ca-diếp, không thể tâm trọng người nghèo vì có phước lớn nên cần tìm đến khất thực, tâm khinh người giàu vì có phước nhỏ mà không đến. Bồ-tát là thực điền vô thượng, nếu có thí thì đều vào Phật đạo đâu có lớn nhỏ khác nhau. Nếu xét lý mà giải thích, phước sinh vào Niết-bàn gọi là lớn, phước sinh vào cõi nhân thiên gọi là nhỏ, cho nên được chân phước điền không sinh kiến chấp hai biên lớn nhỏ.

Không làm lợi ích, không gây tổn hại, như chê ngài Ca-diếp, mà Ca-diếp cho là đến người nghèo không đến người giàu là tổn ích, thì kia đây đều tổn ích. Bồ-tát nương vào Phật tuệ không thấy tổn ích như thế, chỉ vì tâm Từ bình đẳng làm sáng tỏ lý pháp tánh không tăng giảm. Nếu xét theo lý giải thích thì thì không làm ích lợi quả báo thế gian, không làm tổn hại cái tổn hại, khiến hết sinh tử mà được Niết-bàn hôi thân đoạn trí, đó là bố thí rốt ráo.

Phần bốn, Kết khuyên cũng là chê trách: Khai Phật tri kiến vào sơ phát tâm tức là Phật một phần chân thật vậy.

Không nương vào Thanh văn: nếu là thuyết không liễu nghĩa mà nói thì không được quả Bồ-đề, nếu nương ý liễu nghĩa thuyết thi tạm vào Phật tuệ. Cho nên kinh pháp Hoa nói: Các người ấy nên dùng pháp đó mà dần dần vào Phật tuệ. Vì chẳng không ăn vật thí của người thì luôn dùng Vô duyên đại từ giàu nghèo cùng đến, tất cả đều khắp được lợi ích. Y vào Tứ đế Đại thừa đi khất thực nuôi thân chánh nhập xóm làng được chân pháp thực bất tư nghị, chân thật tức là tùy chỗ thí mà làm phước điền vô thượng Đại thừa, đó tức là chẳng không ăn vật thí của người.

Ba, Từ “Thời ngã… đến chi-Phật” là kể chuyện khi xưa nghe lời chê trách này mà ôm lòng kính sợ. Nghe ngài Ca-diếp kể lại những điều chê trách và chỉ bày pháp khất thực chân thật của ngài Tịnh Danh, các Bồ-tát thuở xưa chưa nghe nên đều khởi tâm cung kính tự hứa không có tâm như thế mà rèn phục giáo bốn khô, tức là làm sáng tỏ giáo bốn vinh của Như Lai.

Kết lời không kham: “Thế nên không dám đến thăm bệnh vì xưa bị ngài chê trách như thế, lúc đó không biết trả lời sao. Nay đâu dám lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh.

Phần 4

Bốn là Phật sai ngài Thiện Cát Từ “câu Phật bảo Tu-bồ-đề … trở xuống”. Văn có hai phần: Phật sai đi thăm bệnh và Thiện Cát trả lời không kham nhận được .

– Sai hỏi bệnh. Sở dĩ sai tiếp, đến Thiện cát vì ngài là bậc giải không đệ nhất trong hàng Thanh văn. Tu-bồ-đề, Hán dịch là Thiện cát, cũng gọi là Thiện Nghiệp hay bất Sinh. Vì ngày sinh ra ngài thì nhà cửa đều trống không. Cha mẹ thấy quái dị bèn hỏi thầy tướng số, thấy chiêm quẻ đáp: Đây là tướng tốt, nhân đó đặt tên là Thiện Cát. Bản tánh ngài từ thiện, không tranh giành cùng ai. Ngài xuất gia thấy không mà được đạo, gồm tu Từ tâm được Vô tránh Tam-muội. Do đó, ngài thường hay hộ trì tâm mọi người, nên gọi là Thiện Nghiệp. Vì lúc sinh ngài, nhà cửa đều trống không, nên gọi là Không Sinh. Nhà cửa đều trống không tức biểu thị khi lớn lên thành tướng giải không. Nếu tìm xét tận cùng thì cũng lập nên năm thứ lợi ích như trước nói trong chương đầu ngài Thân Tử.

– Đáp lời không kham “Tu-bồ-đề… trở xuống. Văn có bốn:

  1. Đáp lời không kham.
  2. Kể lý do không kham.
  3. Chánh nói việc không kham.
  4. Kết thành không kham.

– Đáp lời không kham. Vì ngày xưa bị chê trách mà không đáp được đâu dám lãnh ý chỉ đến thăm bệnh.

– Nói lý do không kham Từ “Sở dĩ … khất thực”. Do đến khất thực mà bị quở trách. lýdo đến nhà ngài Tịnh Danh khất thực có hai nghĩa:

Một là bỏ nghèo đến giàu. Hai là tự ỷ mình giải không.

Nghĩa thứ nhất lại có hai ý: a. Hóa tha. b. Tự hành.

1. Hóa tha: Người nghèo khốn khó, thường lo không đủ, vì Từ tâm không tranh giành,Ý hộ trì họ, nên không đến khất thực. Còn nhà giàu no ấm may mắn đến xin thì không làm hao tổn, nên không có lỗi làm phiền não họ. Lại hiểu người nghèo: thì tệ hại nghèo đói nên dễ giáo hóa, bởi gặp duyên liền phát, không đáng tâm lo nghĩ. Còn nhà giàu lại có thêm lòng kiêu căng phóng dật khó dạy, nếu tự mình không nhận xin ăn thì không do đâu mà khai hóa. Đây cùng lỗi với ngài Ca-diếp. Ngài Ca-diếp theo nghèo mà lòng từ bi Không khắp. Còn ngài Thiện Cát theo nhà giàu không tranh giành cũng là thiên lệch.

2. Tự hành: Ngài Thiện Cát hành không Tam-muội không bị lầu đài sang trọng khó cầu làm phương hại. Nếu bày lễ cúng trang trọng, vì không, và chẳng chút phân biệt nên chẳng động tâm, nên ngài bỏ nhà nghèo theo nhà giàu, vì đối với quán hạnh tâm không ngại.

Nghĩa thứ hai: Tự ỷ giải Không. Ngài Tịnh Danh với biện tài không có giới hạn, nên những kiến chấp gì cũng đều bị chê trách cho nên hàng Thanh văn Bồ-tát không dám đụng đến pháp môn của ngài. Ngài Thiện Cát suy nghĩ nếu còn kiến giải “Có”thì ắt sẽ bị chê trách. Nhưng đã “Không”không có gì thì sao bị chê trách được. Tự ỷ Giải không lòng chẳng sợ khó, nên đến cửa khất thực, bèn bị chê trách dữ dội đến độ muốn vô phép để bát bỏ đi, lý do không kham là như thế.

* Chánh nói việc bị chê trách “Lúc bấy giờ Duy-ma … trở xuống.

Văn có năm phần:

  1. Cầm bát đầy cơm.
  2. Chánh chê trách.
  3. Bỏ bát mà đi.
  4. Ngài Tịnh Danh an ủi.
  5. Người nghe ngộ đạo.

Bưng bát cơm đầy, theo sự mà giải thích thì thí chủ có vẻ không muốn cho cơm mà chê trách, Như có ý luyến tiếc. Nay cho cơm mà chê trách là biểu thị tâm không luyến tiếc mà chỉ vì người khất thực có tâm quấy nên thương mà chỉ bày cho. Theo lý à giải thích thì, ôm bát không mà đến là biểu thị chỉ thấy “không”. Đem cho bát đầy là biểu thị diệu dụng có chê trách chỉ rõ lý “chẳng không”. Nên trong Đại kinh có nói: Thanh văn thấy “không”mà không thấy “chẳng không”. Bồ-tát không những thấy “không”mà còn thấy “chẳng không”muốn trách ông ấy vướng trệ ở không, để chỉ rõ chẳng không, nên lấy bát không để đầy cơm mà đem cho.

Chánh chê trách: Đại ý có hai câu hỏi: Một, nếu là kính điền thì lấy ăn. Hai nếu là bi điền thì lấy ăn. Câu hỏi đầu phần lớn dựa vào Thông và Viên giáo, câu hỏi hai phần lớn dựa vào Biệt viên. Vì sao? Vì không phải vì tiếc bữa ăn, chỉ vì Thiện Cát tự có ý tưởng mình đến ứng cúng để sinh phước điền, nên phải hỏi đó là thật hay giả. Nếu là Thánh nhân thì đáng làm kính điền. Nếu không phải kính điền thì phải đồng là bi điền của ngoại ma mà lấy ăn. Ngài Thiện Cát không lường được ý chỉ sâu xa của câu hỏi, muốn từ kính điền mà lấy ăn, nhưng với câu hỏi về Thánh pháp thảy đều không biết, muốn từ bi điền mà lấy.

Đâu thể chấp nhận cho bậc Vô học đốn căn lại đồng với ngoại ma, nên lừng chừng tiến thối lưỡng nan muốn bỏ bát mà đi. Ngài Tịnh Danh chê trách, ý chính ở đây.

Câu hỏi đầu về kính điền có hai phần; một là, hỏi có biết Thánh pháp chăng; hai là, hỏi có phải Thánh nhân không.

Hỏi có biết Thánh pháp chăng, từ “nhược năng” đến “thử thực”, nếu biết thì mới lấy ăn, vì pháp giúp thành người. Trước căn cứ theo pháp mà hỏi, nghĩa có hai là hỏi về sự và hỏi về pháp.

Về sự, nếu biết sự trong Thánh pháp đối với ăn bình đẳng thì sự đối với pháp cũng phải bình đẳng hóa tha, tự hành, từ bi bình đẳng Không nên bỏ nghèo theo giàu như trước đã nói. Vì ăn không bình đẳng nên từ bi quán hạnh đều không bình đẳng. Vì ăn không bình đẳng nên đối với pháp cũng không bình đẳng. Đã từ bi quán hạnh không bình đẳng, nên khất thực cũng không bình đẳng. Ấy là đối với pháp Không bình đẳng, đối với ăn cũng không bình đẳng. Nếu đều không bình đẳng thì sao được lấy ăn. Lại nữa, nếu cho rằng “Có”có thể phá, mà “không”chẳng thể phá, nên không sợ cật vấn mà đến xin ăn, thì “Có”và “Không”không bình đẳng, thì đối với pháp Không bình đẳng. Pháp Không bình đẳng cho nên đến hỏi xin ăn thì ăn cũng không bình đẳng. Bồ-tát không như vậy Không và “Có”chẳng thiên lệch, ấy là pháp bình đẳng. Pháp bình đẳng nên ăn bình đẳng. Vì ăn bình đẳng nên tức không, như Thiện Cát cậy vào Không mà không sợ. Nhân ăn mà có tranh giành sao được gọi là vô tránh. Nếu luôn Có, Không bình đẳng đối với ăn không tranh giành thì tức là có thể biết Thánh pháp, có thể gọi là kính điền. Người tu quán hạnh nếu được như thế tức là chân khất sĩ.

Về lý, như trong Đại Phẩm nói: tất cả pháp hướng đến vị, sự hướng đến ấy chẳng ngoài vị còn không thể được thì sao đáng có hướng đến và không phải hướng đến . Nay nói tất cả hướng đến vị, vị tức là pháp giới bao gồm tất cả pháp. Có ăn nên có pháp, ăn nên không pháp không . Nay ăn cái “không thể có được”còn chẳng thấy Có sao gọi là có hướng đến , còn chẳng thấy không sao gọi là Không phải hướng đến . Tức là Trung đạo Tam-muội chân thiền duyệt thực mà hay thấu suốt hướng đến và không phải hướng đến, song chiếu cả hai đế được ba đế Tammuội gọi là chân pháp hỷ. Đó gọi là pháp thực bình đẳng. Lại các pháp bình đẳng, là tất cả các hướng đến, ấm, nhập, giới cho đến Nhất thiết chủng trí, vì ấm nhập giới Nhất thiết chủng trí không thể được, vì sao lại nói đáng có hướng đến hay không hướng đến. Rõ ràng đầy hướng đến và không hướng đến thì tất cả các pháp đều đủ ba đế. Như Đại luận có

dụ ba tướng sát-na ấy là các pháp cũng bình đẳng. Nếu thấy pháp tánh của ăn không khác pháp tánh của các pháp tức là hai pháp đồng một. Lại đối với ăn mà bình đẳng, nếu thông suốt các pháp về lý ba đế, tức là lý ba đế trong ăn, do đó mà đối với ăn cũng bình đẳng. Thường biết như thế là biết Thánh pháp, bèn là kính điền thì mới có thể lấy ăn. Nếu không thể như thế tức là Không phải kính điền sao được lấy ăn. Từ đây trở đi phần nhiều là quán tâm mà nói nghĩa nên không cần lập riêng.

Hỏi có phải là Thánh nhân chăng? “Nếu Tu-bồ-đề … trở xuống Nếu là Thánh nhân thì phải chứng Thánh pháp, có thể làm kính điền mà lấy ăn. Còn nếu không phải là Thánh nhân đâu nên làm ứng cúng mà thọ nhận. Sở dĩ đặt câu hỏi này là sợ ông ta nghĩ rằng: Ta tuy không biết pháp bất tư nghị thì có hại gì, bởi khi thấy lý Tứ đế là được quả Thánh nhân, tức là Ứng cúng, kính điền mà lấy ăn thì có tội gì cho nên dựa vào Tứ đế mà hỏi. Nếu ý ông bảo thấy lý Tứ đế được quả là Thánh nhân, thì nay lần lượt Tứ đế mà hỏi. Nếu thật thấy thì sao lại cho được quả Thánh nhân là kính điền. Còn nếu không biết thì sao được vọng bảo là đã được. Nếu không phải kính điền thì đâu được lấy ăn. Văn phần này có ba phần: Một là xét hỏi riêng lần lượt theo Tứ đế. Hai là chung kết Tứ đế để giải thích lại. Ba là kết phá.

Phần một có bốn: a. Xét Tập.

  1. Xét Khổ.
  2. Xét Đạo.
  3. Xét Diệt.

Như đã thường nêu, là xét theo thứ tự khi nói pháp, tức nói quả trước nhân sau, tức muốn khiến chán khổ thì đoạn tập, mến diệt thì tu đạo. Nay cũng theo thứ tự nhân quả mỗi mỗi xét hỏi.

Riêng hỏi về Tập đế:

Nay đem vô tác Tập đế mà hỏi để phá hữu tác Tập đế. Nếu phàm phu ba độc cùng tâm đều sinh đều diệt, tức cùng đều có sinh diệt. Nếu là bậc Thanh văn thì không ai biết Tập mà không đoạn, đây là đoạn mà không đều có. Còn Bồ-tát quán vô tác Tập đế thì tánh dâm, nộ, si cũng như hư không nên không đoạn, cũng không cùng đều, nên không đồng với phàm phu và Nhị thừa. Bồ-tát luôn dùng Phật tuệ quán tánh ba độc tức là Phật tánh, thấu suốt ba độc thấy tất cả Phật pháp đều đầy đủ, tức là vô tác Tập đế. Nên Vô Hạnh nói rằng: “Tham dục tức là đạo, khuể si cũng như thế.” Như thế trong ba pháp đầy đủ tất cả Phật pháp. Nếu có thể thấy được như thế thì mới đáng là thấy Đế được quả Thánh nhân, là kính điền Ứng cúng, mới được lấy ăn.

Hỏi riêng về Khổ đế: “Bất hoại … Nhất tướng”: Hàng Nhị thừa quán hữu tác Khổ đế, phân tích kiểm tra sưu tìm giả danh thật pháp mới được lý khổ gọi là hoại thân. Bồ-tát quán vô tác Khổ đế thật tướng thể thân, như thấy ảnh trong gương, không cần phân tách. Ấy là bất hoại đối với thân mà theo một tướng. Thông giáo còn thiên chân nên không gọi là một tướng. Còn Viên giáo thì pháp thân không có tướng thấy khác, nên gọi là một tướng. Nên ở đoạn văn sau nói: Quán thân thật tướng, quán Phật cũng thế. Thấy ở một tướng không đồng với phàm phu, bất hoại đối với thân không đồng với Nhị thừa. Quán vô tác khổ, thấy một thật đế thanh tịnh pháp thân, gọi là thấy Đế mới là Thánh nhân, tức là kính điền chân thật, nếu không thế thì không nên lấy ăn.

Hỏi riêng về Đạo đế: Từ “Bất diệt … Minh thoát”. Nếu hàng Nhị thừa bỏ tám tà vào tám chánh, khởi ba minh vào tám giải thoát, thì đây là diệt bỏ si ái mà khởi minh thoát, tức là hữu tác Đạo đế. Bồ-tát tu vô tác Đạo đế chỉ quán tất cả chúng sinh tức tướng Bồ-đề, pháp tám tà tức là tám giải thoát. Nếu đoạn mà khởi, thì không phải là tu vô tác. Dùng Phật tuệ mà quán không phải sáng không phải tối, cùng giao tiếp với cả sáng tối không ngăn ngại nhau, mà hiển bày Bồ-đề. Tức là làm phi đạo mà thấu suốt Phật đạo, nên không cần đoạn si ái, khởi minh thoát. Thì minh đối với si, thoát đối với ái, nên kinh Tư Ích có nói: dùng tướng Bất nhị mà quán minh đạo Thánh đế. Nếu có thể tu đạo Thánh đế như thế mới là chân Thánh nhân Kính Điền mà lấy ăn. Không thế thì không nên lấy ăn.

Riêng hỏi về Diệt đế: Từ “dĩ ngũ … bất phược”hỏi hàng Nhị thừa quả phược đoạn dứt thì gọi là được hai thứ Bát-nhã tức là tên khác của Diệt đế Niết-bàn. Giáo Thanh văn nói người phạm tội ngũ nghịch còn chẳng được xuất gia thọ giới, đâu được nói là giải thoát Diệt đế. Viên giáo thì không thế, vì hiểu thật tướng ngũ nghịch tức là Diệt đế. Nên đoạn văn sau có nói: “Tất cả chúng sinh tức Đại Niết-bàn”nên không còn diệt nữa. Kinh Tư Ích nói: “Pháp xưa không sinh, nay thì không diệt, là Diệt Thánh đế.” Kinh Phương Quảng nói: Cho đến tội ngũ vô gián đều sinh tướng giải thoát. Ngũ nghịch là phược dữ dội mà còn vốn là diệt, huống là tất cả pháp mà không phải giải thoát ư? Như Điều-đạt tạo tội ngũ nghịch đọa vào ngục Vô gián mà vui như ở Tam thiền, thường tự vắng lặng, tức là Đại Niết-bàn. Vì tướng ngũ nghịch nên không đồng với Nhị thừa, mà được giải thoát nên không đồng với phàm phu. Nếu có thể như thế mà thấy vô tác Diệt đế, thì đó là Thánh nhân vô thượng kính điền. Không thế thì không nên lấy ăn.

Chung giải thích lại “không thấy… Thánh nhân”: Trước hỏi vô tác Tứ đế vì ngài Thiện Cát không hiểu, nên giải thích lại . Không thấy Tứ đế không phải là Không thấy Đế, thì nay dùng ba nghĩa giải thích chung:

  1. Giải cả hai đều không phải.
  2. Giải cả hai lấy, bỏ.
  3. Căn cứ bốn bất khả thuyết.

Giải cả hai đều không phải: Không thấy tức không phải Có, không phải thấy tức không phải Không. Sở dĩ nói điều này để giải thích là vì ngài Thiện Cát tự bảo rằng nếu thấy hữu tác Tứ đế là được quả. Trên đã trình bày vô tác lấn át hữu tác, tức không có lý hữu tác đế thấy được, nên nói không thấy Tứ đế. Nếu nói không thấy có hữu tác tức không có Tứ đế có thể thấy. Trên đã nói vô tác, vì sao lại bảo như thế, nên nói không phải chẳng thấy Đế. Lại giải không thấy Tứ đế không giống Nhị thừa, không phải Không thấy Đế, không đồng với phàm phu.

Giải cả hai lấy bỏ Tứ đế của bốn giáo thì bỏ một lấy ba. Bỏ một, tức là Không thấy, không thấy có Tứ đế sinh diệt. Lấy ba, tức không phải Không thấy Đế, không phải Không thấy Tứ đế của ba giáo. Đây như Trung luận nói về lỗi của ngoại đạo. Luận chủ nếu phá tất cả pháp, tức là Không có Tứ đế, bốn quả Sa-môn, ấy thật đáng sợ. Luận chủ hỏi gặn lại: Nếu như chỗ ông chấp có tức phá Tứ đế của bốn quả Sa-môn, ta tuy phá tất cả pháp Tứ đế bốn quả Sa-môn nghĩa đó rất rõ ràng. Tương tự với đây mà phá tức như nay phá sinh diệt Tứ đế. Về “Có”thì nay diễn môn có ba thứ, huyền văn đã phân biệt, nay không nhắc lại.

Căn cứ bốn bất khả thuyết: Đại kinh nói bốn bất khả thuyết, tức bốn lý Tứ đế. Nói có bốn nhân duyên, tức bốn Tất-đàn phó cơ nói bốn thứ. Không thấy Tứ đế, tức bốn lý Tứ đế đều bất khả thuyết. Không thể thấy nên nói không thấy Tứ đế. Tuy bất khả thuyết mà bốn giáo thuyết, tuy không thể thấy mà năm nhãntướng mà thấy, bất khả thuyết mà thuyết. Nếu không thể như thế tức không phải là Thánh nhân chân kính điền sao được lấy ăn.

Không phải được quả, có Sư nói, đây e là loại rơi rớt cần có đối, nay nói không phải thế. Ngài Tịnh Danh đã giải thích không phải thấy Đế, tức không có Thiện Cát và hàng Nhị thừa thấy Đế được quả. Nếu thế, không phải Không thấy Đế nên có Đại thừa Bồ-tát được quả. Nay nói Bồ-tát trong nhân không chứng, nên nói không phải được quả. Nhưng hàng Nhị thừa cho rằng thấy Tứ đế thì được hai quả Niết-bàn. Ý nay trách là chỉ chứng thiên chân mà gọi là được quả hai Niết-bàn. Đã phá quả hóa thành tức là Không phải quả nên nói là Không phải được quả. Nếu Bồ-tát của Thông giáo tuy trong nhân thấy vô sinh mà chưa chứng nên không phải được quả. Biệt giáo trong nhân tuy thấy vô lượng nhưng nếu nhập vô tác, Thập địa chưa đủ thì đâu được chứng quả. Bồtát của Viên giáo chưa đến Diệu giác đâu được ở Sơ tâm mà được quả vô thượng. Đoạn văn sau có nói: Tuy lại thị hiện thành đạo, chuyển pháp luân, mà không bỏ hạnh Bồ-tát, tức là Không phải được quả. Ngài Thiện Cát còn chưa thấy được ba thứ Tứ đế của Diễn môn, không phải là chân Thánh nhân, sao được chứng quả Vô học. Đây không phải là kính điền thì đâu được lấy ăn. Không phải phàm phu tức không phải cụ phược, không phải lìa pháp phàm phu, tức không phải pháp giải thoát của Nhị thừa. Lại nữa, không phải phàm phu, tức là pháp bốn thứ Diệt Đạo. Không phải lìa pháp phàm phu, tức là pháp bốn thứ Khổ tập. Vì sao? Vì tất cả phàm phu và hàng Nhị thừa là ở ngoài lý Trung đạo, đều là phàm phu. Còn Bồ-tát quán Trung đạo mà thấy Phật tánh, nên không phải phàm phu. Không phải lìa phàm phu là năm loại phàm phu luận nói Thập địa, vẫn gọi là Thánh tuệ phàm phu, thế thì dưới quả vị Phật trở xuống đều là phàm phu nên nói không phải lìa pháp phàm phu. Không phải Thánh nhân, là nếu cho cả hai đều không phải, Bồtát quán pháp bình đẳng còn không thấy Thánh pháp, thì có chỗ nào là Thánh nhân, nên không phải là Thánh nhân Nhị thừa. Không đâu không phải Thánh nhân thì tức là Không phải phàm phu. Lại không phải Thánh nhân, là chẳng phải Thánh nhân ngoài lý. Hàng Nhị thừa không thấy Trung đạo thì đâu phải là Thánh nhân. Lại không đâu không phải Thánh nhân là chỉ cho hàng Tam hiền Thập Thánh. Xét theo Viên giáo thì đều là Thánh nhân cả. Ngài Thiện Cát đã ở ngoài lý mà không dự vào số Thánh nhân này, thì không phải là kính điền đâu được vọng dối lấy ăn.

Kết giải thích “Tuy thành … thủ thực”. Tuy thành tựu tất cả pháp, là thấu suốt bốn thứ Tứ đế, tất cả các pháp quyền thật đều thành tựu. Nhưng lìa các pháp tướng, tức là pháp giới bình đẳng Không phải nhân, không phải quả mà không thể nói. Vì không thấy bốn tướng Tứ đế, nên tâm không đắm trước. Lại nữa, nếu thấu suốt bốn thứ Tứ đế, tức thấy trung đạo song chiếu với hai đế, mà được tam đế Tam-muội, ba trí đầy đủ, định tuệ trang nghiêm, thành ba đức bí tạng rốt ráo không thể được, thuận đạo pháp, ưa bất sinh, tức nhập vào sơ trụ của viên giáo, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên lưu nhập. Nếu được như thế tức là chân Thánh nhân, Ứng cúng phước điền mới được lấy ăn, đã không như thế đâu được lấy ăn.

Câu hỏi thứ hai: nếu đồng Bi điền mới được lấy ăn Từ “Nếu Tubồ-đề… trở xuống Sở dĩ nêu câu hỏi này là nếu biết Thánh pháp, thì tức là Thánh nhân đáng là kính điền. Đã không biết vô tác Tứ đế Thánh pháp , tức không phải là chân Thánh nhân, chỉ biết pháp phàm hẹp hòi thì tức là bi điền đáng nương cậy mà lấy ăn. Văn này khó thấy, xưa giải không đúng.

Có người nói: Nếu phân biệt Phật pháp là chân chánh, ngoài pháp là tà, thì tâm có phân biệt không phải là giải không bậc nhất, nhưng tà chánh một tướng mới thật là hiểu không, mới có thể lấy ăn. Hoàn toàn ý giống Thông giáo, e ý kinh này không phải thế. Có Sư nói: Ngài Thiện Cát là Thanh văn không thể lời nói ra lại đồng với ngoại đạo, ngài Tịnh Danh chê trách khiến ngài đồng với lục sư, là Bồ-tát, mới có thể lấy ăn. Ý không phải thế. Nay nói ngài Tịnh Danh hỏi ngài Thiện Cát nếu muốn ma ngoại đạo tức là bi điền bèn có thể lấy ăn. Đây có hai câu hỏi: Một là, hỏi có muốn đồng với bọn tà đạo thì hãy lấy ăn; hai là, hỏi có muốn đồng với tà pháp thì lấy ăn. Vì sao, bởi đã không phải là Thánh nhân thì tức là muốn đồng với tà nhân thành tựu pháp hẹp hòi phàm phu, đã có ái kiến thì há không phải là ma ngoại, há không phải là ý muốn đồng với bi điền mà lấy ăn ư? Ý kinh nếu thế đâu lại đồng với các Sư.

Câu hỏi đầu có ba phần:

  1. Căn cứ không thấy Phật không nghe pháp mà hỏi.
  2. Căn cứ đồng lục sư mà hỏi.
  3. Kết, khiến lấy ăn.

Căn cứ không thấy Phật không nghe pháp. Phàm chúng sinh không nhất định, tà chánh là ở duyên. Ngài Thiện Cát đã không thấy pháp thân Phật , không nghe pháp vô tác Tứ đế, tức là Không thấy Phật không nghe pháp. Thế thì những thấy nghe xưa đâu chẳng phải là thấy bọn ngoại đạo và nghe pháp của họ? Như Tam tạng giáo nói: “Nếu không thấy có Phật trượng sáu ở cung vua, không nghe pháp sinh diệt Tứ đế , riêng có thầy dạy học, tuy có thiền định thần thông trí tuệ, nhưng đều là ngoại đạo.” Nay ngài Thiện Cát đã không thấy ba thân Phật ba đức của Đại thừa, không nghe pháp ba thứ Tứ đế Đại thừa, tức là Không thấy Phật không nghe pháp, chỉ lúc xưa thấy Phật là Tỳ-kheo già và nghe pháp sinh diệt Tứ đế , thì tức không thấy được Phật chân thật, không nghe được pháp chân thật. Cho nên Kim Cang Bát-nhã Luận nói rằng: “Ứng hóa không phải Phật chân thật, cũng không phải nói pháp.” Như ở đạo tràng vắng lặng Hoa nghiêm khi mới thành chánh giác, nói đốn giáo viên mãn, hàng Thanh văn ở tòa giảng như câm như điếc, tức là Không thấy Phật không nghe pháp. Lại như trong kinh Pháp Hoa, kẻ cùng tử nghỉ đêm trong chòi lá, chỉ thấy cầm đồ hốt phân, không thấy thân tôn quý. Đó là Không gặp chánh duyên, không thấy chánh đạo, rơi vào hàng Nhị thừa, đồng loại với ngoại đạo, nên không thấy được chân lý, đều không phải là Thánh nhân, tất cả là bi điền.

Căn cứ lục sư mà hỏi Từ “Bỉ ngoại đạo… xuất gia”. Sở dĩ hỏi, tức đã không thấy Phật không nghe pháp, thì thọ học với ai về thần thông trí tuệ, đúng là phải theo học với lục sư. Vì sao biết? Vì lục sư sinh trước, Thiện Cát học sau. Đã không thấy Phật nghe pháp, ngoài ra không có ai dạy dỗ. Nếu như thế, thầy đã tà thì đệ tử đâu chánh được, cớ sao không đồng với bi điền mà lấy ăn?

Phú-lan-na là tên, Ca-diếp là họ, đã nói các pháp Không sinh không diệt.

Mạt-già-lê là tên, Câu-xa-lê là mẹ, nói ở chúng sinh tuy có khổ vui mà không có nhân duyên, tự nhiên như thế.

San-xà-dạ là tên, Tỳ-la-chi là tên mẹ nói chúng sinh cứ phó mặc, đến lúc chín muồi sẽ được đạo, cũng như hòn bi lăn hết mức sẽ dừng lại. Lại nói: Đủ Tám vạn kiếp tự nhiên sẽ được đạo.

A-kỳ-đa-xí-xá là tên, Khâm-bà-la là áo xấu nói rằng chúng sinh phải chịu khổ báo, nay người ấy cạo tóc xông mũi, mặc áo xấu để thay thế, cho rằng sau sẽ được vui Niết-bàn.

Ca-la-cưu-đà là tên, Ca-chiên-diên là họ nói rằng: Chúng sinh cũng có cũng không.

Ni-kiền-đà là tên chung của ngoại đạo xuất gia, Nhã-đề là tên mẹ nói rằng: Tất cả đều do nghiệp làm ra, nhất định không đổi được, không trốn tránh được.

Nay Đại sĩ chỉ dùng phần ít để chê trách phân tích như mắng người là lừa, chưa chắc phải có bốn chân và đuôi lông… Tam tạng giáo chưa rốt ráo thì cùng tướng tà giống nhau, đây là chê trách nói tướng cũng giống thế. Tam tạng giáo có bốn môn vào lý, lục sư cũng có bốn môn tà chấp. Như Phú-lan-na thấy về không nhân không quả, không sinh không diệt. Không sinh tức không hữu, không diệt tức không vô, tức là môn “chẳng phải có, chẳng phải Không”. Mạt-già-lê nói tất cả đều tự nhiên không có tạo tác, đây tức là phá nhân mà không phá quả, như Trang, Chu đã chấp về tự nhiên. Đây giống như không môn. Sanxà-dạ thì chấp tà nhân và không nhân chưa rõ ràng. Ca-chiên-diên thì chấp môn có, không, chấp hai thứ kia đều là hữu môn, nên biết lục sư có bốn chấp. Trong giáo Thanh văn nói Phật quá khứ khi ra đời, người có tuổi thọ dài ngắn, được đạo… đều có định số. Sau khi Đức Di-lặc ra đời thì lúc người sống đến tám vạn tuổi được đạo, còn các lúc khác không được đạo, nên Phật không ra đời, đây bị Đại luận chê trách. Là cùng với San-xà-dạ có gì khác. Giáo này lại nói cạo tóc, nhuộm y quét phân, khổ hạnh, cùng với Khâm-bà-la có gì khác. Lại nói Thi trọng Tỳ-ni làm phép đuổi và các tội giá làm ngăn ngại Thánh đạo thì cùng Nhã-đề tử có gì khác. Cũng nói là giống nhau cho nên dùng để chê trách. Lại ngoại đạo có ba thứ: Một là, Nhất thiết trí; hai là, Thần thông; ba là, Vi-đà “Phệ-đà”. Trong kệ bốn chữ có luyện tập suy nghĩ thật tinh tế mà thấu nhập thì thấy tâm rõ ràng. Mỗi người ở môn của mình mà biện thuyết vô ngại khó thể bắt bẻ khuất phục, tức là Nhất thiết trí ngoại đạo. Tuy có trí này nhưng chưa được thiền định thì chưa có thần lực. Nước lửa, vách núi chạm vào còn bị ngăn ngại. Nếu được thiền định nhân đó phát thần thông thì có thể đi đứng trên mặt nước, ở lỗ tai biến ra dê, tay nắm bắt ánh sáng trời trăng sao, miệng ngậm nước bốn biển… thần lực như thế cùng Thánh không khác, ấy là thần thông ngoại đạo. Tuy được trí tuệ thần biến nhưng chưa thông suốt luận bốn Vi-đà. Đó là thiên văn, địa lý, thuốc men và chú thuật. Gặp việc không biết phần nhiều đều bị khuất phục. Đây là có tuệ mà không nghe học. Nếu người có khả năng học thuộc bốn bộ Vi-đà thì là bậc thượng thủ trong đạo. Trong tất cả thế gian đều có các Sư, mười sáu nước kính trọng họ như Phật, nên đem ba thứ này căn cứ làm lục sư, một sư có ba mươi ba ngàn sáu trăm mười tám (33.61) Sư ngoại đạo. Tam tạng giáo cũng có ba thứ La-hán. Người mới tu ba thứ niệm xứ gọi là tánh cộng duyên, nên được quả thành ba thứ La-hán, gọi là tuệ câu vô ngại. Nếu căn cứ ở bốn môn thì có mười hai A-la-hán. Nhất thiết trí, Thần thông, Vi-đà các việc đều giống nhau. Sở dĩ nói hạng người tà này mà không chê trách, là vì sợ Thiện Cát tự bảo ta là La-hán thấy chân đoạn kiết thì được Nhất thiết trí, lại được ba minh sáu thông, lại tinh thông cả Tam tạng giáo là Đại La-hán, đây sánh được với bọn ngoại đạo này, nên Đại sĩ lấy ba thứ của lục sư để bài bác. Nếu ba thứ của ngoại đạo là tà thì ba thứ của ông đâu phải là chánh. Tâm làm ngoài lý từ trước nay đều gọi tà kiến, không phải là vô tác. Đại sĩ biết tâm ông ấy “Tu-bồ-đề) có hồi phục. Cho nên tóm kết nhiều lần mà chê trách, khiến không đối đáp được. Như thế mà cật vấn tới lui “ông đâu khác gì đám ngoại đạo kia, ông đã xuất gia với họ, học của họ Nhất thiết trí…”

Kết thành bi điền hãy lấy ăn Từ “Bỉ sư … thủ thực”. Thầy ông bị đọa, tức hàng tà kiến lục sư, ông cũng đọa theo, tức ông xem họ là thầy, họ đọa vào sinh tử thì ông cũng đọa theo. Tuy là phân ra hai thứ sinh tử khác nhau, nhưng đều là Không thấy tánh, đồng nghĩa với đọa lạc, nếu muốn cùng đọa thì đồng với bi điền hãy nên lấy ăn.

Câu hỏi kế tiếp là hỏi có muốn đồng tà pháp chăng? “Nếu Tu-bồđề trở xuống Sở dĩ lại hỏi câu này, tức nếu đúng chưa muốn thì tự bảo ta tuy không thấy Phật chân thật, không nghe chánh pháp vô tác, nhưng là La-hán, đủ cả ba nghĩa, đâu đồng với lục sư, là đệ tử của bi điền mà lấy ăn. Đại sĩ biết ý đó nên hỏi lại: Ông tự cho là A-la-hán đầy đủ ba nghĩa, không đồng với bọn lục sư và đệ tử của họ, sao lại còn dùng pháp kiến tư hẹp hòi xấu xa. Nếu người có điều đó tức không đủ ba nghĩa, đâu lại là La-hán, mà chẳng muốn đồng với bi điền lấy ăn. Văn này lại có ba phần:

  1. Căn cứ Sát tặc mà chê trách.
  2. Căn cứ Ứng cúng mà chê trách.
  3. Căn cứ Bất sinh mà chê trách.

Căn cứ Sát tặc mà trách: nếu tự cho là La-hán, theo lý phải sát tặc sao được có đủ hoặc kiến tư hoặc Văn đây có hai phần nhỏ:

  1. Trách có kiến tư mà nhập vào tám nạn.
  2. Trách có tư duy mà lìa pháp thanh tịnh, đã đủ hai hoặc này, sao gọi là Sát tặc?

Trách về kiến hoặc: “Nếu Tu-bồ-đề… vô nan”. Nói tà kiến là những kiến nào. Nếu hợp với Trung đạo làm hai đế, chân đế hợp với tục đế, lại là hữu kiến. Nếu làm ba đế riêng thuộc vô kiến. Nên Đại kinh nói: Phàm phu là hữu, Nhị thừa là vô, còn Bồ-tát thì chẳng có chẳng không. Vì sao? Vì phàm phu không thấy Trung đạo mà khởi sáu mươi hai kiến, lưu chuyển trong hai mươi lăm hữu, nên thuộc hữu kiến, còn Nhị thừa không thấy Trung đạo mà đoạn sáu mươi hai kiến nhập Không, nên thuộc vô kiến. “Không”đối với sinh tử lại là hai biên, đều không vào Trung đạo. Nếu cùng luận với họ rằng đã thấy hoặc của tam giới mà đến bờ kia nên cướp lời nóiđó chính là kiến hoặc của ngoại giới đâu thể đạt đến chỗ thấy kiến hoặc rốt ráo . Vì mê Trung nên thấy Không bất động, không tu vô tác đạo phẩm, sao lại nói đến biệt kiến của bờ kia, Do đó không phải là sát tặc.

Trụ ở tám nạn không được không nạn, tám nạn là chướng kiến đạo, Thanh văn nếu có nạn này thì không được vào. Bồ-tát bất định tự mình có bị nạn che chướng. Tự mình tuy có đang ở trong tám nạn mà khéo léo dùng chánh quán, liền được không nạn, mà thấy được Phật tánh. Đây tức là làm phi đạo mà thấu suốt Phật đạo. Ngài Thiện Cát tuy đã lìa tám nạn giới nhưng trụ vào tám nạn của ngoại giới nên, đâu được đến bờ kia của kiến đạo Vô tác. Nên cần phân biệt hai thứ tám nạn: Một là phàm phu trụ sự tám nạn, hai là Nhị thừa trụ lý tám nạn, đều không được không có nạn. Ngài Thiện Cát gồm cả hai, đâu được không nạn. Chỉ có Bồ-tát của Viên giáo tu quán Trung đạo trụ sự tám nạn, đều được không nạn, nên ở tám nạn, mình người đều không trệ ngại.

Về sự tám nạn, là tám nạn của nội giới , chướng Thiên, Viên kiến đạo, sự số như trước đã nêu. Nay nói về lý tám nạn, chỉ chướng Viên chân. Ba nạn trước là ba ác đạo có Sư dùng ba không làm ba ác đạo. Đây chưa hẳn như thế. Vì Bồ-tát cũng tu ba không, mà không phải là Nhị thừa ác đạo. Nay dùng kiến tu Vô học của Tam tạng giáo làm ba ác đạo, vô vi chánh vị không thể phát tâm, gọi là đọa ác đạo. Cho đến bậc Vô học cũng như thế. Nếu vào vô dư, ắt trái hẳn Phật đạo, đâu không phải ba ác đạo là nạn. Bồ-tát không sợ tội ngũ nghịch và ba ác mà chỉ sợ sinh tâm Nhị thừa. Như Đại Luận có nói: Cây lớn đổ thì cành lá không có chim oán đậu nghỉ đêm. Nạn thứ tư là Bắc Uất-đơn-việt Định tức đem diệt của Tứ đế đối với phương Bắc, Thanh văn chứng diệt như định thọ ấy. Nạn thứ năm là Trường thọ thiên. Thanh văn gọi là Tịnh thiên. Nếu nhập Vô dư thì về Đệ nhất nghĩa thiên đâu có thể hóa sinh. Có người nói Nhị thừa vô dư là định đại diệt, trải bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp Phật sẽ phóng quang chiếu kẻ có duyên, khi ra đời mới nói pháp cho nghe. Nếu dựa vào Đại Luận mà nói thì ra khỏi ba cõi rồi thọ thân pháp tánh, các loại như thế là khác với trầm độn khó hóa độ, đồng với trời Trường thọ. Nạn thứ sáu là, sinh trước Phật sau Phật, hàng Nhị thừa quán thấy Chân, khi xuất quán thì duyên với tục, không thấy lý Trung đạo, tức là trước Phật sau Phật. Nạn thứ bảy là, Thế trí biện thông ngoại đạo không thấy lý chân, mà phát kiến tuệ gọi là Thế trí biện thông. Hàng Nhị thừa chưa thấy Trung đạo mà phát tuệ vô lậu đồng là thế trí biện thông. Nạn thứ tám là, mù điếc câm ngọng, hàng Nhị thừa không có căn Bồ-tát, tuy được lục thông, nhưng không thấy sắc của mười giới thì như mù, không nghe tiếng ở mười giới thì như điếc, không thể dùng một âm mà tùy loại được hiểu thì như câm. Như tám nạn này nghiêng về Sự mạn. Ngài Thiện Cát không thể trụ ở sự lý nạn mà được không nạn, mình và người không trệ ngại, lại trụ ở lý mạn mà chướng kiến

Trung đạo, sao đạt được , kiến đạo đến bờ kia , tức đồng pháp phiền não lìa thanh tịnh.

Trách còn có tư duy: chỉ vì phiền não gọi chung ở trên đã thuộc kiến, nay phải thuộc tư. Ngài Thiện Cát có đủ biến dịch phiền não tâm cùng thứ này hợp nhau, nên nói đồng với phiền não. Như trong Đại Luận nói: Kết sử có hai thứ: Một là, Nhị thừa cộng đoạn; hai là, Nhị thừa bất cộng đoạn. Bất cộng đoạn, tức như Ca-diếp… chưa đoạn được nên khi nghe Ca-la nữ đàn lên thì không thể tự an.

Lìa pháp thanh tịnh, tức là lìa pháp tâm tự tánh thanh tịnh. Kẻ phàm phu cụ hoặc gặp duyên cũng có thể cầu được pháp thanh tịnh. Hàng Nhị thừa chấp chứng của mình là rốt ráo không cầu, tâm mê lý Trung đạo tức là lìa hẳn pháp thanh tịnh. Thế thì tư hoặc vẫn còn sao tự bảo là sát tặc được?

Trách không phải Ứng cúng: Từ “ông được… ác đạo”. Ngài Thiện Cát cho rằng mình được Vô tránh Tam-muội thì là phước điền tốt, tất cả chúng sinh cũng được định ấy sao nói họ không phải là Ứng cúng phước điền. Căn bản thiền định, bốn Vô lượng tâm, Vô tránh… các định, trải nhiều kiếp chúng sinh cũng từng được. Cho nên Đại kinh có nói: Phàm phu đều có Sơ địa vị thiền.

Hỏi: Ngài Thiện Cát đã tu quán luyện huân tu mà được định Vô tránh, chúng sinh không tu thứ này, vì sao nói cũng được định này?

Đáp: Quán luyện huân tu đều nhân căn bản thiền. Nay bèn một loạt lấy đây nêu ra nên nói đều được. Lại nữa, các lục sư… đều được thâm thiền, đều có Từ tâm từ thiền định mà khởi, dù có hương xông dao cắt, tâm vẫn không nghĩ khác. Như thế thiền này cùng với thiền Vô tránh của Thiện Cát đâu khác?

Những người thí cho ông không gọi là phước điền, chúng sinh cũng được định ấy nhưng vì có cát muối kiến tư nên không gọi là phước điền. Các ông lại được định ấy thì cũng đủ cả cát muối kiến tư. Người cúng dường các ông tất đọa vào ba ác đạo, tức cúng dường cho Tiểu thừa. Khi báo trời, người hết rồi, gặp duyên lại phát nghiệp Tiểu thừa, thì nhập vào kiến tư Vô học ba ác đạo. Lại nói cúng dường cho Tiểu thừa, sau này tâm buông lung không trú Đại thừa, phần nhiều lại chê bai, nên bị đọa vào ba ác đạo. Như Thắng Ý chấp Tiểu chê Đại sinh thân mà đọa lạc trải nhiều kiếp chịu khổ. Đây chính là nhân tội đâu thể gọi là Ứng cúng.

Trách không phải Bất sinh: Từ “Vi dữ … thủ thực”, chúng ma, thì ham mê sinh tử. Nếu cùng ma đồng, tức đồng sinh tử, sao gọi là Bất sinh. Là cùng chúng đồng tức có hai nghĩa:

a/ Căn cứ tự hành. b/ Căn cứ hóa tha.

Căn cứ tự hành, tức ma và Thiện Cát đều cùng ưa sinh tử, tuy có hữu vi vô vi không đồng nhau, nhưng đều là Không thấy tánh. Như làm một vật giống nhau nên nói là một tay.

Căn cứ hóa tha, như Đại Phẩm nói: Khi Bồ-tát hành Bát-nhã thì ma đến nói rằng: Các ông sao không học theo Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chi-Phật, nay gọi là hàng Nhị thừa cũng dạy chúng sinh tu hành pháp của mình, tiếp dẫn nghĩa đồng nên nói là một tay. Lữ nghĩa là bạn bè, người cùng chí hướng. Lao nghĩa là đều có trần lao thấm đượm vào nghiệp việc đồng. Lại giải lao tức là bền chắc, tức đều nhiễm sinh tử chấp nhân khó chuyển, nên nói là lao lữ “bạn trần lao”.

Ông nay cùng chúng đồng, tức ma có đủ tám vạn bốn ngàn trần lao, ông cũng có đủ nên nói là đồng. Lại đủ cả tám vạn bốn ngàn ngoại giới.

Đối với tất cả tâm chí oán, tức như kẻ phạm pháp vua, là tên giặc cướp lớn không thể cứu. Hàng Nhị thừa tự cho mình khỏi cứu chúng sinh mặc tình với luân hồi là tên cướp lớn. Lại như đám giặc cướp thiến người. Nhị thừa cũng thế, phá hoại thiện căn của người, dứt chủng tử của Phật, nên nói mà có oán tâm.

Lại hại pháp thân tuệ mạng của chúng sinh và thiện pháp quyến thuộc. Đó gọi là hại mẹ Trí Độ, hại cha Thiện Quyền, hại vợ Pháp Hỷ, hại con trai Thiện Tâm, hại con gái từ bi, há không phải là tên cướp lớn của thiện pháp. Chê bai chư Phật, chê bai có hai nghĩa: Tăng và tổn. Phật không có các nạn sinh tử bệnh não… mà nói là có, tức là tăng thêm mà chê. Thân Phật thường trụ công đức trí tuệ lặng sáng đầy đủ, mà nói là Không có, tức là làm mất đi mà chê. Như đoạn văn sau trách A-nan rằng: Chớ chê Như Lai. Thân Như Lai là thể kim cang, các ác đã dứt hẳn, các thiện khắp đầy, đâu còn bệnh tật sầu não nào…

Hủy pháp, nếu nhất định nói pháp hữu tác tức là chê pháp vô tác. Lại pháp tức là pháp tánh không thể nói bày, nếu nói có, tức là hủy báng. Kinh Kim Cang Bát-nhã nói: Nói có thuyết pháp tức là hủy báng Phật, vì không hiểu điều ta nói. Tam tạng giáo chân đế nói bốn hủy báng, tức là bốn môn Tiểu thừa có bốn trường hợp nói pháp, là nói pháp chê Đại thừa vậy. Nếu ở chúng sinh có oán chê Phật hủy pháp gọi là đại ác nghiệp. Do biệt hoặc mà thọ sinh biến dịch, sinh tử mênh mông sao gọi là Bất sinh?

Không vào số chúng ấy, nếu có chướng thì không được vào số Thánh hiền của Viên giáo. Thiết luân ở giáo này thì sáu căn hỗ dụng nhau, hàng Nhị thừa không có, đâu được ở trong số đó.

Trọn không diệt độ, là chấp có Tiểu thừa diệt độ, trọn không thể được Thường Lạc Niết-bàn, tức là Biến dịch sinh tử chưa hết, sao gọi là diệt độ. Nên kinh Pháp Hoa nói: Chỉ lìa hư vọng thì gọi là giải thoát. Thật sự chưa được giải thoát tất cả , Phật nói người này chưa được diệt độ, người này chưa được đạo Vô thượng. Cho nên ông nay chấp chứng, quyết không được Đại diệt Niết-bàn, tức không phải Bất sinh, sao được tự gọi là Bất sinh? Thảy đều không có ba nghĩa của La-hán, đâu khác gì ma ngoại kia, thì đâu được không muốn đồng với Bi điền mà lấy ăn. Người đời không hiểu sâu ý kinh, phần nhiều đều nghi lời giải này, đến Pháp Hoa mới rõ. Nên bốn vị đại Thanh văn tự mừng rằng: Bọn ta nay mới thật là A-la-hán ở thế gian, đáng nhận thọ cúng dường. Đây mới ngộ được sự chê trách lúc xưa của ngài Tịnh Danh.

c/ Bỏ bát mà đi khi ấy ta đến nhà, ba lần Thiện Cát để bát tự bằng lòng là chưa biết Thánh pháp, lại không phải là Thánh nhân. Lại ta thật đã đoạn hết các hoặc ở tam giới đâu được tức đồng ma ngoại, suy nghĩ tới lui đều không thể làm bi hoặc kính điền mà lấy ăn, mê muội ngẩn ngơ không biết đáp sao, bèn bỏ bát mà đi. Lúc đó Đức Thế Tôn tôi nghe kẻ hoang mang này thuật lại việc mê mờ kinh nghi không hiểu. Vì sao? Vì trong Tam tạng giáo chỉ nói vụng về vượt qua sinh diệt, chưa từng nghe Phật nói vô tác Tứ đế , ngu si không hiểu thế nên hoang mang. Không biết nói gì, đâu biết đáp sao, tức không hiểu điều ngài Tịnh Danh nói đều là lý viên giáo, không biết sự quyền thật khai giá của Phật pháp, thế nên không biết đáp sao. Bèn để bát muốn đi ra khỏi nhà ấy, đã không thành kính điền mà cũng không muốn đồng với bi điền, bỏ hai lối này không còn cách nào khác, do đó để bát mà đi ra khỏi nhà.

Ngài Tịnh Danh an ủi: Từ “Duy-ma-cật”trở xuống, ngài Thiện Cát cậy mình giải Không, không sợ vấn nạn, nên đến khất thực để xem biết thần trí sắc bén của ngài Tịnh Danh. Nếu thế sao Tịnh Danh hỏi thì mờ mịt không biết gì. Song việc ngài Tịnh Danh cật vấn vốn là muốn bác bỏ chỗ trệ Không, chỉ rõ pháp chưa nghe, không phải vì tiếc của mà gây buồn lo, do đó đã an ủi khiến ngài Thiện Cát lấy bát về. Văn có ba phần nhỏ:

  1. Hỏi an ủi.
  2. Ngài Thiện Cát đáp.
  3. Lại an ủi giải thích.

An ủi lấy bát chớ sợ, đã Không, tức đồng với lục sư thì chỉ là có lỗi

trệ Không, sao lại tự hạ mê mờ như thế. Nói Phật hiện ra hóa độ người dùng việc đó để gạn hỏi, tức là pháp thân khởi ứng, mà dùng lời cật vấn này, đâu nên sợ. Việc hóa độ tức Không, là đã hiểu nghĩa Không. Trong Đệ nhất không thì không có người, sao lại sợ sệt.

Thiện Cát đáp lời “Tôi nói Không… “, dùng tâm giải không mà nghe lời giáo hóa, tâm nhỏ bé tỉnh ngộ, hết sợ sệt nên nói Không. Lại an ủi giải thích “Duy-ma-cật… trở xuống. Văn đây lại có ba: a. Chính an ủi.

1. Giải thích.

2. Luận lại.

3. Nói tất cả các pháp đều như tướng huyễn hóa, nay Ngài không có gì phải sợ. Đây là dùng huyễn hóa của Thông giáo để an ủi, khiến không sợ hãi. Nên ngài Thiện Cát tích pháp Không mà quán nhập, ắt không còn lo âu, nhưng khi xuất quán nghe nói khác, thì tâm liền biến động, nên dùng huyễn hóa tức không mà an ủi.

4. Giải thích Từ “Sở dĩ… sở cụ”. Những điều vừa nói trên cùng đồng tất cả pháp, đều huyễn hóa tức Không. Nếu được tức Không, nên không đắm trước danh tự, thì tâm không kinh sợ.

5. Lại luận văn tự tánh lìa Từ Hà dĩ… pháp dã”. Không ở mình người bốn câu tức chữ là tánh. Tánh vốn không có, nên nói tánh lìa: Đó là bất tư nghị giải thoát, đâu được giải thoát mà tâm còn kinh sợ?

Nói thời chúng được lợi ích Từ “Duy-ma… nhãn tịnh”. Pháp nhãn tịnh, tức ngộ lý tức không mà vào kiến đạo, nên gọi là Pháp nhãn tịnh, cần dùng Thông giáo mà giải thích ý ở đây. Cho nên nói “Con không dám lãnh lệnh đến thăm bệnh ông ấy”.

* Kết lời không kham. Với hai câu hỏi của ngài Tịnh Danh mà khiến ngẩn ngơ không biết gì, đâu dám lãnh ý chỉ Phật mà đến thăm bệnh ông ấy.

 

Phần 5

Năm là Phật bảo ngài Phú-lâu-na. Văn cũng có hai phần: Phật sai thăm bệnh và đáp lời không kham.

– Sai đi thăm bệnh. Sở dĩ sai Phú lâu na, vì ngài là thuyết pháp bậc nhất trong hàng đệ tử Phật. Phú-lâu-na là họ, lấy họ làm tên, Hán dịch là Thiện tri thức. Di-đa-la-ni là tên mẹ, Hán dịch là Mãn nguyện. Mãn nguyện sinh ra nên gọi là Mãn nguyện tử. Sở dĩ phải thêm tên mẹ vào để phân biệt các tên khác. Ngài là hàng hạ căn mới được thọ ký ở thời Pháp Hoa, nhưng sai ngài thì hoặc vì ngài ở gần Phật, hoặc vì cơ duyên thuận tiện, nên sai trước. Vì sao? Vì ngài có biện tài trang nghiêm, văn từ sắt bén nói năng lưu loát, đẹp lòng mọi người, nếu sai ngài truyền ý chỉ Phật ắt chúng sẽ đồng tình kính trọng, nên sai ngài trước. Như khi Phật nói Đại Phẩm thì chỉ sai ngài Thân Tử, ngài Thiện Cát và ngài Phú-lâu-na. Khi chuyển nói Bát-nhã Đại luận thì đã sàng lọc đầy đủ để thâm cầu nghĩa rốt ráo, cho đến thành tựu năm thứ lợi ích trước.

– Đáp lời không kham Từ “Phú-lâu-na trở xuống. Văn có bốn:

  1. Đáp lời không kham.
  2. Nói lý do không kham.
  3. Chính kể việc không kham “chê trách”.
  4. Kết thành không kham.

– Đáp lời không kham: Bởi vì thuở xưa nói pháp trái cơ, đến nỗi bị chê trách, nên không kham truyền ý chỉ Phật.

– Nói lý do không kham “Sở dĩ”đến “thuyết pháp”: Do xưa ở dưới cội cây nói pháp cho Tỳ-kheo mới học.

Dưới cội cây là chỉ nơi nói pháp, hoặc có biểu thị, xem lại phần Thân Tử sẽ rõ.

Mới học là người mới phát tâm ở tam thừa. Nhưng các vị Tỳ-kheo này thuộc cơ Đại thừa, không xét quán kỹ mà vọng nói pháp Tiểu thừa, đây không nêu lời nói pháp, xét trong kinh sẽ rõ. Văn nói rằng: Muốn đi đường lớn chớ chỉ đường tắt nhỏ. Đường tắt tức đường Tiểu thừa đang đi. Đây trái với Đại cơ nên bị chê trách. Nguyên do không kham là do trái cơ.

– Chính kể việc chê trách: Văn có bảy phần: Một là, trách nói pháp sai cơ; hai là, kết lỗi; ba là, ngài Tịnh Danh nhập định như các Tỳkheo; bốn là các Tỳ-kheo tâm chí khai phát; năm là, ngài Tịnh Danh nói pháp cho họ; sáu là, các Tỳ-kheo được bất thoái chuyển; bảy là, Phú-lâu-na kính ghi nhận.

– Phần một có bốn:

  1. Trách không quán bổn tâm.
  2. Trách không biết tâm niệm.
  3. Trách không quán căn nguyện.
  4. Trách không quán ưa thích.

Bốn điều trách này suy nghĩ tức dùng bốn Tất-đàn Đại thừa .

– Không biết bổn tâm, tức là tâm tự tánh thanh tịnh, tức Đệ nhất nghĩa Tất-đàn. Đại kinh có nói: Chánh nhân Phật tánh là tâm chúng sinh.

– Không biết tâm niệm, tức vị nhân Tất-đàn, người có ác niệm tu không đồng. Nên kinh Pháp Hoa có nói nghĩ việc gì, tu việc gì…

– Không biết căn nguyên, tức là đối trị Tất-đàn, như người có lợi căn mà bị ngăn cản nên không khai phát, nếu đối trị mà phá ngăn cản thì công dụng liền phát.

– Không biết ham thích, tức là thế giới Tất-đàn. Nếu người thích nghe Đại thừa thì phương tiện nói tất cả pháp, đều dùng danh tự thế gian mà phân biệt. Nhưng theo thứ lớp bốn Tất-đàn thì Đệ nhất nghĩa ở sau, nay đổi ra trước, là bỏ gốc cũ. Mãn nguyện không dùng bốn Tất-đàn nên có lỗi sai cơ.

Trách không quán bổn tâm. Phàm muốn nói pháp cần phải xét về đế, nếu không nhập định tất không thấy được căn duyên, đến nỗi có lỗi sai cơ. Do đó mà chê trách trước không nhập định để quán xét tâm Tỳkheo, nên không thấy họ đã phát Đại thừa từ lâu, mà lại vọng nói Đệ nhất nghĩa Tiểu thừa.

Hỏi: Nhập những định nào để biết được căn duyên?

Đáp: Định có tám thứ.

1. Ngoại đạo căn bản ám chứng, vốn không phải chiếu cơ, nếu nhập vào định này thì không thể biết căn duyên.

2. Phàm phu ngoại đạo nếu đoạn chướng thì cũng không biết, tuy được tha tâm nhập định thì chỉ biết được tâm niệm của người khác mà không biết được căn duyên.

3. Tuệ giải thoát của Tam tạng giáo, người được tám thứ định của hữu tác Tứ đế, thứ này vốn duyên lý cũng không thể biết được căn duyên.

4. Câu giải thoát của giáo này, người được căn bản thiền mà quán luyện huân tu, phát tha tâm trí, nhưng cũng chỉ biết tâm niệm của người khác, mà không biết căn duyên.

5. Tuệ giải thoát của thông giáo, tu tám định của vô sinh Tứ đế , đây cũng là duyên lý mà không thể chiếu cơ.

6. Câu giải thoát của Giáo này, người được thiền căn bản mà quán luyện huân tu, phát tha tâm trí cũng chỉ biết được tâm người khác, mà không thấy đươc căn duyên, Bồ-tát cũng thế.

7. Bồ-tát của Biệt giáo tu tám định của vô lượng Tứ đế, nếu nhập định này thì biết được tâm niệm của người khác cũng thấy được căn duyên của mọi người.

8. Bồ-tát của Viên giáo, tu tám định vô tác, Tứ đế tịnh mà thường chiếu, biết được tâm niệm và các căn duyên. Sáu thứ trước là Không biết, hai thứ sau là biết. Nay xét hai thứ sau đều biết về tâm niệm và căn duyên mà chê trách kia không nhập vào hai định này.

Hỏi: Tâm và căn duyên có gì khác?

Đáp: Biết tâm chỉ là tha tâm trí, phàm phu và Tiểu thừa đều có, còn biết căn duyên là đạo chủng trí, Biệt giáo mới có, Thông giáo thì không, huống là hàng phàm Tiểu.

Hỏi: Nếu thế, ngài Tịnh Danh sao được chê trách không biết tâm?

Đáp: Chủng trí thì biết căn duyên, nhân đó cũng biết tâm người khác, cho nên ở sau căn cứ theo thứ lớp không biết tâm mà chê trách.

Hỏi: Vô lượng và vô tác biết căn khác nhau thế nào?

Đáp: Tám định của vô lượng từ Không vào Giả phát Đạo chủng trí thì biết được căn của vật. Đây là duyên tu mà làm hiển sáng chân tu, không phải là định mà mặc tình chiếu khắp. Còn vô tác là chân tu, tịch mà thường chiếu, không dùng hai tướng khắp thấy các cõi, tức là tướng Bất nhị mà chiếu khắp các căn duyên.

Hỏi: Nếu thế sao được khuyên ngài Mãn Nguyện nhập định này?

Đáp: Lời nói này giống như đem tám định của Biệt giáo để đối phá hàng Nhị thừa không quán căn duyên của người, nên nói trước phải nhập định. Viên giáo thì không có tướng nhập và xuất. Hoặc là phá để giúp phương tiện nói nhập. Lại nữa, tâm tâm tự nhiên lưu nhập mới là chân nhập.

Không đem đồ ăn dơ đặt trong bát báu, đây là đã phát đại tâm từ lâu xa. Đại tâm tức là pháp tánh chân tâm, ra ngoài pháp tánh không có chân tâm nào khác. Bát báu, tức tâm Bồ-đề như báu vật dung chứa Phật pháp, như bát báu này, tức là Đại thừa khí thế gian vậy. Đồ ăn dơ, tức là pháp hỷ thiền duyệt của Tiểu thừa, mang chất dơ trần sa vô minh. Ngài Mãn Nguyện vì không nhập định, quán các đồ đựng báu đại tâm của các Tỳ-kheo mà nói cho họ nghe thức ăn pháp hỷ thiền duyệt Tiểu thừa thì không thể được.

Trách không nhập định không biết tâm niệm, niệm tức là nghĩ nhớ tính toán, các Tỳ-kheo ấy đã từng phát tâm Đại thừa tu các hạnh lục độ. Đời nay dầu mất nhưng vẫn còn tập nhân nên dùng Đại thừa mà nói để họ phát sinh hạnh xưa, tại sao lại dùng Tiểu thừa nói tiểu pháp cho họ, như ngài Thân Tử có lỗi khi dạy hai đệ tử. Đại thừa chân thật được dụ cho lưu ly, còn Tiểu thừa không thật thì dụ như thủy tinh, không phải vật báu thật.

Trách không nhập định trước để biết căn nguyện, là các Tỳ-kheo ấy từ lâu đã gieo trồng thiện pháp gọi là căn, vốn xưa gặp Phật và phát tâm nên gọi là nguyện. Ngài Mãn Nguyện đã không nhập tám định vô lượng vô tác, nên không thấy được căn nguyện của các Tỳ-kheo có che chướng, đáng lẽ nói Đại thừa đối trị, vì sao lại vọng nói tiểu đối trị, khiến họ chán khổ mà cầu diệt độ, người ta không bệnh chớ gây tổn thương, tức thí dụ đã sáng tỏ. Các Tỳ-kheo này phát tâm Đại thừa đến nay đã tạo những căn lành nào đều chưa có ý đắm trước pháp bệnh Tiểu thừa. Bỗng nói cho họ pháp Tiểu khiến họ sinh niệm đắm trước, tức làm tổn thương căn thiện pháp Đại thừa.

Trách không biết sự ham thích Từ “dục hành… lửa đóm”, các Tỳkheo này ham thích Đại thừa thì phải nói thế giới Đại thừa để thành tựu sự ham thích, sao lại nói thế giới Tiểu thừa làm hư lòng ham thích Đại thừa. Căn, dục, tánh này là ba lực trong mười lực. Căn là quá khứ, dục là hiện tại, tánh là vị lai. Trong đây chỉ nói về căn và dục mà không luận về tánh, vì căn lành chưa thành thì ham thích cũng thay đổi được, tức chưa thành tánh vậy. Nên Đại luận có nói dục gọi là tùy duyên mà khởi, còn tánh thì tâm thâm sâu làm việc. Nếu thiện căn ở quá khứ thành tựu bền chắc thì đời này gặp duyên liền khởi. Đây là nhân tánh thành dục. Nếu các thiện căn ở quá khứ chưa bền chắc mà đời này gặp duyên khởi ham muốn. Tập luyện nhiều tất thành tánh, cho nên nói tánh là Không thể sửa đổi. Dục và tánh có liên quan nhau, nên trách không biết ham thích “Dục) là gồm nói cả tánh. Đây có ba dụ, tức là ba thứ tâm ham thích Đại thừa.

Một là, Ham thích đi đường lớn thì đừng chỉ bày đường nhỏ tắt. Đây là thí dụ muốn quán thật tướng pháp thân Vô thượng đại đạo, tức trí độ đại đạo Phật gọi Thiện lai. Vì sao? Vì các Tỳ-kheo này đã có tâm ham thích tìm cầu tâm thật tướng, mà ngài Mãn Nguyện chỉ nói cho pháp chữ Bán, tức chỉ bày đường nhỏ vậy.

Hai là, Chớ đem để nước cả biển lớn mà để ở lỗ chân trâu. Đây là thí dụ muốn tu công đức vạn hạnh Đại thừa. Vì sao? Vì các Tỳ-kheo này muốn tu vạn hạnh đại Từ, đại tâm tức là biển lớn. Ngài Mãn Nguyện đã nói đạo phẩm Tiểu thừa tức lổ chân trâu, khiến cho người vốn có Đại tâm lại tu tiểu hạnh tức là nước cả biển lớn để ở lổ chân trâu.

Ba là, Chớ cho ánh sáng mặt trời đồng với lửa đom đóm, đây là thí dụ dùng vô tác Tứ đế Nhất thiết chủng trí Đại thừa sánh với hữu tác Tứ đế Nhất thiết trí Tiểu thừa. Vì sao? Vì các Tỳ-kheo này muốn cầu Nhất thiết chủng trí của Đại thừa mà ngài Mãn Nguyện lại nói Nhất thiết trí tuệ của Tiểu thừa.

Nếu nói thấy chân là đồng thì lý phải cùng đồng. Song lấy ánh sáng mặt trời mà so với lửa đom đóm là Không được. Tóm tắt có năm nghĩa:

  1. Ánh sáng côn trùng không phải là ánh sáng báu.
  2. Sáng nhấp nháy không dừng.
  3. Phá tối ít.
  4. Chỉ sáng trong đêm.
  5. Không lợi ích gì nên không thể bì được với ánh sáng mặt trời.

Bởi ánh sáng mặt trời thì:

  1. Ánh sáng báu.
  2. Sáng mãi không nhấp nháy.
  3. Phá tối tăm khắp nơi.
  4. Tự soi và soi vật khác.
  5. Tất cả đều nhờ ơn nguồn sáng ấy.

Hợp năm thí dụ trên ắt thấy rõ. Các Tỳ-kheo có đủ ba thứ dục này ắt thành ba đức bí tạng. Vì sao? Vì đường lớn tức là Pháp thân, ánh sáng mặt trời tức là Bát-nhã, vạn hạnh tức là Giải thoát, đâu thể đem ba dục của Tiểu thừa mà sánh được ư? Lại nữa, ngài Mãn Nguyện không biết bốn tâm này, không thể thấu suốt từ xa xưa gặp Phật đến nay có tâm số căn dục này, ở khoảng giữa đã quên đi bốn tâm, tuy có nhưng chưa quyết định. Nếu nghe Đại thừa thì đại tâm liền phát do nhờ các thiện căn đời trước giúp cho bất thoái chuyển. Đã là bất định, nếu nghe nói Tiểu thừa liền theo Nhị địa, nên không thể được.

Phần hai, Kết lỗi Từ “Phú-lâu-na trở xuống: Văn có hai: Một là, chánh kết lỗi chê trách; hai là, thí dụ làm sáng tỏ.

1. Chánh chê lỗi: Ở quá khứ gặp Phật đã phát bốn tâm trước, ở khoảng giữa lại quên mất ý này. Từ đấy trở đi phải trải bao sinh tử, tuy bị báo chướng ngăn cản, nhưng vẫn có thể phát, sao lại đem Tiểu thừa bốn Tất-đàn mà dẫn dắt khiến trái ý xưa.

Hỏi: Thiện căn ngày xưa nhất định mất hay không mất?

Đáp: Tuy quên mà không mất. Nên kinh Pháp Hoa có nói: Không biết trong áo mình có hạt bảo châu vô giá. Kinh lại nói: Một câu nhiễm thần trí muôn kiếp không phai mờ.

2. Thí dụ làm rõ việc kết lỗi Từ “Ngã quán… lợi độn”. Trí Tiểu thừa nhỏ cạn, quán sinh diệt thấy chân thì gọi là Nhất thiết trí. Trí này không đoạn dứt trần sa vô minh, lại không thể thấy được các căn duyên của mọi người. Không thể viên chiếu pháp giới nên gọi là nhỏ, như thỏ bơi qua sông không đụng đáy thật tướng nên gọi là cạn. Cũng như người mù không thể phân biệt, là hàng Nhị thừa chỉ có ba thứ nhục nhãn, Thiên nhãn và tuệ nhãn mà không có pháp nhãn, nên không thấy được căn duyên. Không có Phật nhãn nên không thấy được Phật tánh. Không có căn Bồ-tát đối ba đế trần sa không phát ba trí, tâm không thấu suốt nên như kẻ mù. Lại như người mù bẩm sinh, tức hàng Nhị thừa có nhục nhãn mà không như lục căn tịnh của Pháp Hoa nói một lúc thấy cả sắc mười pháp giới của tam thiên giới nên như mù. Hàng Nhị thừa có Thiên nhãn nếu tác ý có thể thấy được thiên giới cho đến đại thiên. Còn chư Phật và Bồ-tát có chân Thiên nhãn, không dùng hai tướng mà thấy các cõi Phật. Hàng Tiểu thừa không có thứ này, nên như kẻ mù. Nếu Tuệ nhãn của Bồ-tát thấy ít Phật tánh và không rõ ràng thì tuệ nhãn của hàng Tiểu thừa đều không thấy được. Vì chỉ thấy ở không tức là mù. Tuệ nhãn của chư Phật như mười sáu Vương tử khen ngợi nguyện được tuệ nhãn Đệ nhất tịnh như Thế Tôn. Nên biết Nhị thừa hoàn toàn không có năm nhãn, nên nói như mù. Nếu không có năm nhãn thì không thể phân biệt căn lợi độn của chúng sinh đối với ba đế lý.

Phần ba, Ngài Tịnh Danh nhập định gia hộ các Tỳ-kheo Từ “thời Duy-ma-cật… Tam-bồ-đề”. Sở dĩ phải gia hộ là vì muốn khiến họ nhớ lại đời trước đã ở trước năm trăm Đức Phật phát tâm tu hành hồi hướng đại đạo.

Phần bốn, Các Tỳ-kheo lại được bổn tâm “tức thời” trở xuống Văn có hai: Một là nói được bổn tâm; hai là chí kính.

1. Dùng sức Tam-muội gia hộ các Tỳ-kheo khiến ngộ lại việc tu bốn tâm thuở xưa, nên nói được lại bổn tâm.

2. Các Tỳ-kheo kính lễ. Ngài Mãn Nguyện đã sai cơ nên quẩn quanh vô ích, nay nhờ gia hộ liền biết việc đời trước, thiện căn khai phát cảm ân trọng hậu thẹn thùng đảnh lễ.

Hỏi: Xuất gia sao lại lạy người tục?

Đáp: Vào được đạo thì ân sâu dù nát thân cũng khó đền đáp. Các Tỳ-kheo này mới tu đại đạo đâu cần giữ tiểu nghi.

Phần năm, Ngài Tịnh Danh nói pháp cho nghe “Thời Duy-macật” trở xuống chính dùng Đại thừa bốn Tất-đàn nói pháp cho bốn tâm.

Phần sáu, Các Tỳ-kheo được bất thoái chuyển Từ “A-nậu”… đến thoái chuyển” được tương tự giải thoát bất thoái của Viên giáo, tức ngôi vị Thiết luân vương. Nếu thật sự không thoái chuyển là bậc Sơ trụ của Đồng luân. Vì phát tâm từ xa xưa nên là ở vị ngũ phẩm bất định mà thôi. Hoặc là bất thoái của Thông giáo hay Biệt giáo chưa thể quyết định.

Phần bảy, Ngài Mãn Nguyện tự thẹn Từ “ngã niệm đến thuyết pháp”.

Vì không có chủng trí pháp nhãn nên không thấy được căn duyên đến nỗi bị sai cơ, há được xưng là nói pháp bậc nhất mà lại lầm nói pháp vô ích không lợi ích cho người, rất hỗ thẹn sợ sệt, nên không kham lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh.

* Kết lời không kham. Tự nghĩ lúc xưa nói pháp sai cơ nên bị chê trách, nay đâu dám lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh.

Sáu là Phật sai ngài Ma-ha Ca-chiên-diên. Văn có hai phần: Phật sai đi thăm bệnh; và đáp lời không kham.

– Sai đi thăm bệnh: Sở dĩ sai ngài kế tiếp vì ngài là luận nghĩa bậc nhất trong hàng đệ tử Phật. Ma-ha là Đại, Chiên-diên là họ, lấy họ đặt tên, lại dịch là Bất định. Có người nói là Vai lệch “kiên oai”. Có người gọi là Văn sức, chưa biết ai đúng. Như Sa-di Tu-đà-da mới tám tuổi mà biết luận nghĩa nên được thọ giới. Lại như mười tiên Phạm chí đều nhân luận nghĩa mà phát tâm vào đạo. Nên Đại kinh nói: Người ham luận nghĩa thì sinh lên ngũ Tịnh cư, ở cõi trời ấy mà nhập Niết-bàn. Xét đến cùng cho đến thành tựu năm thứ ích lợi, đã nói đủ ở chương ngài Thân Tử.

– Đáp lời không kham: Từ “Ca-chiên-diên” trở xuống. Văn có bốn:

  1. Chính đáp lời không kham.
  2. Nói lý do không kham.
  3. Chính kể việc không kham.
  4. Kết thành không kham.

– Đáp lời không kham: Vì lúc xưa giải thích năm nghĩa mà bị chê trách không đáp được nên không kham việc truyền ý chỉ Như Lai.

– Nói lý do không kham Từ “Sở dĩ” … trở xuống. Do Phật lược nói pháp yếu cho các Tỳ-kheo, ta tiếp đó mà diễn giảng nghĩa lý đến nổi bị chê trách. Văn có hai: a) Phật lược nói pháp yếu – b) Ca-chiên-diên sau đó giảng rộng ra. Phần a có bốn trường hợp là:

  1. Danh tóm nghĩa rộng, tức giáo ít giải nghĩa nhiều.
  2. Danh rộng nghĩa tóm, tức giáo nhiều giải nghĩa ít.
  3. Danh nghĩa đều rộng, tức giáo nhiều giải nghĩa cũng nhiều.
  4. Danh nghĩa đều tóm, tức giáo ít giải nghĩa cũng ít.

Nói về tổng tướng Khổ đế không cần giải thích nhiều, tức là danh nghĩa đều tóm. Nếu phân biệt về biệt tướng khổ đế thì có bốn hành, các thứ thí dụ giải thích tức là danh rộng nghĩa rộng. Nếu chỉ nói chung về năm hành mà giải thích các thứ, tức là danh tóm nghĩa rộng. Nếu nói đủ mười sáu hành, nhưng không phân biệt giải thích thì tức là danh rộng nghĩa tóm. Phật nói cho các Tỳ-kheo hoặc dùng tổng tướng lược nói Khổ đế mà không giải thích riêng, hoặc tóm tắt mười sáu hành tổng tướng mà nói năm hành, không rộng phân biệt Biệt tướng, tức là danh tóm nghĩa tóm, nên nói là lược nói.

Hỏi: Ngài Ca-chiên-diên rộng giải năm nghĩa của Phật, sao được dựa theo năm hạnh mà giải?

Đáp: Xét theo lý thì gọi là năm nghĩa, dựa theo trí thì gọi là năm hành, xét về định thì gọi là năm thiền, nghĩa chuyển đổi tương quan đều không trái khác nhau.

1. Nói pháp yếu: Vì năm hành tóm tắt các hành, ý chỉ quy về nhập đạo cao tột nên nói là pháp yếu. Vì sao? Vì mười sáu hành này gồm nhiếp tất cả hành. Nay lấy bốn thứ này, tức khổ… bốn hành duyên chung với Niệm xứ thì sinh ra Noãn pháp, tức là tương tợ đạo cho đến Thượng nhẫn Thế đệ nhất pháp, tùy dùng một hành mà được vào khổ nhẫn, tức chân đạo vào sự đạo đầy đủ nên nói là pháp yếu. Lại năm hành này tức là ba pháp ấn. Ấn là kinh Thanh Văn. Vì sao? Vì Khổ hợp với vô thường, không hợp với vô ngã và được tịch diệt tức là ba pháp ấn. Nên nói là pháp yếu. Lại năm hành này tức là ba giải thoát môn. Không, vô ngã là Không. Tịch diệt Niết-bàn tức là Vô tướng. Vô thường, khổ tức là Vô tác. Ba thoát môn này gồm nhiếp tất cả pháp, nên nói là phát yếu.

2. Ngài Ca-chiên-diên nói rộng. “Ta ở sau giải bày nghĩa ấy”, tức là nói vô thường… năm thứ. Nói diễn bày ở sau, tức Phật vì các Tỳkheo mà nói tổng tướng khổ, hoặc nói ổng tướng năm thứ chính, cốt ý khiến họ hiểu mà tiến tu đạo nên không nói rộng phân biệt biệt tướng, e trái cơ làm mất ý chánh đạo. Ngài Ca-chiên-diên cho là các Tỳ-kheo không hiểu nên sau đó diễn giảng rộng ra. Phu là kê khai, diễn là giảng rộng ra, tức giảng rộng về năm nghĩa. Lại giảng rộng có hai thứ: Một là, giảng rộng chiều ngang; hai là, giảng rộng chiều dọc.

– Giảng rộng về chiều ngang, tức trải qua ba cõi mỗi mỗi đều riêng nói năm nghĩa của Khổ đế.

Giảng rộng về chiều dọc, tức căn cứ theo thân biên hai kiến, bốn kiến, sáu mươi hai kiến, mỗi mỗi đều phân biệt nói về năm hành. Như thầy trò của Số luận sư.

Có phân tích kỹ về năm nghĩa thì chỉ giảng rộng chiều ngang chứ không thể vào đạo. Nay một nhà phân bày ngang dọc là cho vào đạo thì chỉ có ngài Chiên-diên thấy rõ có, không mà vào đạo, tạo ra luận Côn Lặc luận sáng nghĩa lý. Như nói Niệm xứ thì liền biết bốn điên đảo; nói ba đôc liền biết ba Thánh hạnh, nói hữu liền biết vô. Nay vì các Tỳkheo ắtcăn cứ vào luận đó mà dựa theo môn có, không, bao gồm hai biên, nói rộng năm nghĩa: Chỉ có Phật ở đời thì nói ra các điều không trái và không tranh cãi. Vào môn tuy khác nhưng được đạo vẫn là một. Ai có soạn ra luận thì chỉ nói về môn của mình không nói đến các pháp khác. Cho nên Đại kinh nói năm trăm Tỳ-kheo mỗi người đều nói nhân của mình, tức là việc này vậy. Ngài Chiên-diên tạo luận nếu không thông suốt bốn môn, Tam tạng giáo, phân biệt không trệ ngại, thì luận ấy đâu được truyền bá ở Nam Thiên Trúc. Tỳ-đàm hữu môn cho đến Phi không phi hữu môn đều nói năm nghĩa. Bốn môn nói nghĩa đều đầy đủ ở huyền văn, suy xét kỹ ở kinh thì bốn thứ năm nghĩa có thể thấy rõ ràng, nếu nói đủ e rườm.

Hỏi: Những gì là có, không gồm chứa năm tướng nghĩa?

Đáp: Như hai môn hữu và không vừa rồi, hai Sư phán quyết khác nhau rất xa. Nay luận Côn Lặc dễ dàng chấp nhận cho nhân hữu và vô đều được vào đạo, mà lại dùng đây rộng giảng năm nghĩa cho các Tỳkheo. Ngài Thanh Mục chú giải Trung Luận có nói: “Kẻ ít hữu ít vô mà vào đạo là hàng độn căn.” E rằng sự dễ dàng này không quyết, phán là thuộc độn căn. Hoặc ngài Chiên-diên nhân đây mà chấp nhận giảng nói năm nghĩa không thể phán quyết khiến vào Đạo đến nỗi bị chê trách, tức lý do không kham.

Hỏi: Phật nói tóm tắt các Tỳ-kheo chưa hiểu, Ca-chiên-diên rộng giảng nói thì có lỗi gì. Nếu Phật dùng giáo Tam tạng giáo mà không hợp cơ thì lỗi này do Phật có liên quan gì đến Ca-chiên-diên?

Đáp: Ý Phật rất khó lường ẩn hiện có nhiều mối. Tuy lúc đầu dùng Tam tạng giáo để tiếp dẫn nhưng người vào đạo ắt dùng Diễn môn của Thông giáo. Ấy là Như Lai quyền dụng năm nghĩa của Tam tạng giáo. Ngài Ca-chiên-diên không hiểu mà giảng rộng ra, đã không khiến các Tỳ-kheo tiến đạo, đến nổi bị chê trách, nên nói là nguyên do.

* Chính nói việc không kham “Thời Duy-ma-cật” trở xuống. Văn có ba:

  1. Trách lỗi tâm năng thuyết.
  2. Trách lỗi pháp sơ thuyết.
  3. Các Tỳ-kheo tâm được giải thoát.

Trách lỗi tâm năng thuyết: Hàng Tiểu thừa vào Chân không có nói năng, khi từ Chân xuất Tục thì có tâm có nói, ấy là dùng tâm sinh diệt mà nói pháp thật tướng. Đã là sinh diệt thì không gọi là thật tướng, há lại dùng tâm này mà nói thật tướng. Lại bốn nghĩa là sinh, tịch diệt là diệt. Như đây mà phân biệt thì không phải nói thật tướng. Lại khi xuất quán, tâm khởi là sinh, khi nhập quán tâm mất là diệt. Thật tướng không như thế, sao dùng tâm này mà nói pháp thật tướng. Lại ngài Chiên-diên nhân có, không mà nhập đạo. Lại căn cứ theo có, không mà nói năm nghĩa, thì sinh tức là hữu, diệt tức vô, sở thuyết đã là sinh diệt có, không thì năng thuyết tức phải như thế. Cho nên nói không dùng tâm hành sinh diệt mà nói pháp thật tướng. Lại bốn môn năm nghĩa của Thanh văn đều là quán tích pháp sinh diệt. Nên Trung luận có nói: Nếu vì hàng độn căn Thanh văn nói nhân duyên sinh diệt, tức nói pháp thật tướng. Vì sao? Vì Bát địa của Thông giáo trở lên thì Nhị đế song chiếu, tức chân mà nói. Bậc Sơ địa của Biệt giáo cả đạo và quán cùng song lưu, nói về tức tịnh, đều e là có giáo mà không có người. Chỉ có sơ tâm của Viên giáo tức tịnh mà nói như đàn Tu-la gọi là Không phải sinh diệt mà nói pháp thật tướng. Lại ngài Chiên-diên không những chỉ tâm quấy nói pháp mà cũng không biết cả căn duyên, các Tỳ-kheo này chỉ nhân Thông giáo khéo độ mà đắc đạo không cần nhờ Tam tạng giáo. Cho nên Đại sĩ trách ngài còn sinh diệt, không có sức định tuệ, không thấy được cơ duyên của người khác, lầm nói năm nghĩa lòng vòng.

Trách lỗi pháp sở thuyết “Ca-chiên-diên đến tịch diệt nghĩa”. Sở dĩ trách là vì pháp ngài Ca-chiên-diên nói là vụng độ nên tâm các Tỳkheo không khai ngộ. Nay ngài Tịnh Danh nói cho pháp thể năm nghĩa, không phải chỉ thông suốt chân, mà cũng thông Trung đạo, các pháp rốt ráo không sinh không diệt. Ấy là nghĩa vô thường, tức Tam tạng giáo nói thô tế sinh diệt vô thường chỉ là vô thường, không phải nghĩa vô thường. Nếu hiểu rõ các pháp Không phải sinh không phải diệt mà chấp càng là sinh diệt, nên dùng bốn trường hợp để kiểm, sinh, hồi, đắc thì liền không có diệt, tức không sinh không diệt là nghĩa vô thường. Năm thọ ấm rỗng suốt không có chỗ khởi, là nghĩa của khổ. Tam tạng giáo nói thô tế năm ấm vọng chấp là có, nên thể của hữu tức là Không. Không thấy tướng khổ nên gọi là Không có chỗ khởi, tức là nghĩa của khổ. Các pháp rốt ráo không có, ấy là nghĩa của không, là Tam tạng giáo nói sinh và pháp hai không, đây chỉ là Không mà không phải là nghĩa của không. Đại thừa nói thể các pháp này tức là thật tướng xưa nay vốn vắng lặng vì vọng chấp là có nhân và pháp. Đã nói rốt ráo không có gì tức không cần phải phá bỏ. Nếu không có hữu để bỏ, thì đâu thể có không, tức rốt ráo không có gì, đó là nghĩa Chân không. Đối với ngã và vô ngã mà không hai, đó là nghĩa của vô ngã. Tam tạng giáo nói nhân vô ngã thì chỉ là vô ngã mà không phải là nghĩa của vô ngã. Đại thừa nói: Thật tướng Chân không xưa nay vốn không có ngã và vô ngã, vọng chấp là có, nên nói đối với vô ngã nếu không được ngã thì cũng không được vô ngã. Ngã cùng vô ngã xưa nay vốn không hai, không hai tức là vô tánh, tánh của vô tánh tức nghĩa chân vô ngã. Pháp xưa vốn không như thế thì nay tức không mất, ấy là nghĩa của tịch diệt. Tam tạng giáo nói: Đem có về không, nên gọi là tịch diệt Niết-bàn, chỉ là tịch diệt không phải là nghĩa của tịch diệt. Đại thừa nói các pháp xưa nay thường là tướng tịch diệt, tức Đại Niết-bàn, không thể còn diệt nữa, tức là nghĩa của chân tịch diệt. Mà phàm phu vọng thấy lưu động, Nhị thừa đối trị để diệt đi. Bồ-tát thể thấu suốt pháp vốn không phải thế, tức là lý chân đế tịch diệt, xưa nay vốn không có phiền não sinh tử, thì nay cũng không có nhân diệt, quả diệt tức Diệt đế Niết-bàn. Nếu thấy sinh diệt và Chân không lý chẳng hai, tức là nghĩa của chân diệt. Tam tạng giáo nói năm pháp danh nghĩa đều khác. Đại thừa nói năm pháp giả danh tuy khác, danh tự tức không, nghĩa nó là một. Đây là cách chung giải thích năm nghĩa. Đại thừa cũng tức là năm nghĩa Viên giáo vậy. Nếu phá ngài Ca-chiên-diên do có, không chấp nhận mà nói năm nghĩa, phải nói rằng: Các pháp rốt ráo không sinh không diệt là nghĩa vô thường, sao được có, không chấp nhận là nghĩa vô thường. Từ “phá” trở xuống bốn nghĩa, suy ra sẽ biết.

Hỏi: Trên nói ngài Ca-chiên-diên vì giảng số bốn vinh mà bị chê trách, nay Đại thừa nói năm nghĩa để kết bốn khổ ở trước, há là hiển bày vinh?

Đáp: Nếu phá chân mà nhập trung, kết chân thành khô, từ đó thành vinh. Như kinh Niết-bàn nói: Như hai chim cùng bay. Thường và vô thường đều đủ nghĩa chân vô thường, không được lìa thường, nên kinh này nói: “Đối với ngã và vô ngã mà không hai”tức là nghĩa chân vô ngã. Như trong Đại kinh nói: Ngã và vô ngã tánh nó không hai, tánh không hai tức là nghĩa chân ngã, tức là trong pháp vô ngã có chân ngã. Ngài Tịnh Danh kết chân nói bốn khô, ý là hiển bày vinh. Chính là ý giáo sinh tô Phương đẳng, ẩn hiện chưa rõ ràng, há được đồng ngay với Pháp Hoa, Niết-bàn.

c) Nói các Tỳ-kheo ngộ đạo Từ “thuyết thị … giải thoát”. Các Tỳ-kheo này tất nhân sinh diệt mà điều tâm để được nhập vào vô sinh chánh đạo, ấy là vì lúc đầu Phật nói tóm tắt sinh diệt để điều phục tâm. Sau nhân ngài Tịnh Danh chê trách, ngài Chiên-diên mới bỏ sinh diệt, dùng năm nghĩa vô sinh xứng cơ mà nói, bèn vào đạo, tâm được giải thoát. Nhân nghe thể pháp nhập không mà được quả A-la-hán. Cho nên Đại Phẩm khen đức của A-la-hán có nói: “Tâm được giải thoát tốt, tuệ được giải thoát tốt”tức là tư duy thoát ba cõi, tâm được tại đủ tám giải thoát.

* Kết thành không kham “Cho nên con không kham đến thăm bệnh”:

Ca-chiên-diên tự nghĩ thuở xưa vì các Tỳ-kheo rộng giảng năm nghĩa, bị ngài Tịnh Danh chê trách làm thinh không đáp được, đâu thể lãnh lệnh truyền ý chỉ Phật nên từ chối không kham.

Bảy là Phật sai ngài Na-luật. Văn có hai: Phật sai thăm bệnh; và đáp lời không kham.

– Sai thăm bệnh: Sở dĩ sai A na luật tiếp, vì ngài có Thiên nhãn bậc nhất trong hàng đệ tử Phật. Ngài thuộc dòng Sát-lợi con vua Bạch Phạn. Hoặc gọi là A-ni-lư-đậu hoặc A-nâu-lầu-đà như tiếng Sở, Hạ không giống nhau. Hán dịch là Như ý hoặc Vô bần. Vì ở quá khứ đã cúng dường một bữa ăn cho một vị Bích-chi-Phật mà được chín mươi mốt kiếp ở trên trời. Khi làm người thì được vui như ý nên gọi là như ý. Từ đó đến nay không bị thiếu hụt nên gọi là vô bần. Ngài là em họ của Phật. Khi mới vào đạo ngài ngủ nhiều nên bị quở trách. Nhân đó ngài không ngủ mà bị mù mắt. Ngài bạch Phật, thưa đủ mọi việc. Phật bảo: Ngủ là cho mắt ăn, như người bảy ngày không ăn tất chết, còn bảy ngày không ngủ thì mắt cũng hư không chữa trị được, vậy cần phải tu Thiên nhãn để nhìn thấy việc đời. Nhân đó ngài tu thiền mà được bốn đại tịnh sắc. Chỉ cần nửa phần quán thấy Đại thiên thế giới như trái cây trong lòng bàn tay. Nếu cả Tam tạng giáo Phật thì dùng toàn phần Thiên nhãn thấy suốt không ngăn ngại. Tuy không bằng Phật nhưng trong hàng Thanh văn thì ngài là bậc nhất tức là dùng Tác ý số để vào đạo như trên đã nói đủ. Nếu xét đến cùng cho đến đạo thành năm lợi ích trước như đã nói đủ trong chương ngài Thân Tử.

– Đáp lời không kham “A-na-luật” trở xuống. Văn có bốn phần:

  1. Đáp lời không kham.
  2. Nêu lý do không kham.
  3. Chính kể việc bị chê trách.
  4. Kết thành không kham.

– Đáp lời không kham: Bởi vì thuở xưa có Phạm vương hỏi về Thiên nhãn, ngài đáp về sở đắc của mình đến nỗi bị chê trách mà không biết trả lời sao, nên nay không dám lãnh ý chỉ đến thăm bệnh.

– Nêu lý do không kham. Văn lại có hai phần nhỏ:a) Phạm vương đến hỏi.

b) A-na-luật đáp lời.

Phạm vương hỏi: Phạm vương chỉ là chúa thế giới thống ngự đại thiên có báo được Thiên nhãn cũng thấy được đại thiên. Có báo được Thiên nhãn thì không ai bằng Phạm vương. Phạm vương và quyến thuộc nghe ngài A-na-luật có Thiên nhãn bậc nhất trong hàng Thanh văn, muốn biết hơn kém thế nào nên đến hỏi từ ta tức … Mã-lặc-quả.

Na-luật đáp lời: Các Thanh văn khác được Thiên nhãn đều không ai thấy được đại thiên giới. Nên Đại luận có nói: Thiên nhãn của Đại La-hán chỉ thấy được tiểu thiên, Đại Bích-chi-Phật thì thấy được trăm thế giới Phật, chư Phật Như Lai thấy tất cả cõi Phật. Riêng Na-luật thấy được đại thiên, vì ngài riêng tu Tác ý số, nên ngài có Thiên nhãn bậc nhất trong hàng Thanh văn. Việc thấy cùng Phạm vương hình như giống nhau, dụng đã không hơn nên ông ta không kính trọng đâu thể khiến ông phát tâm, đến nỗi bị Đại sĩ chê trách, tức là lý do không kham.

Hỏi: Nếu thế đâu có gì khác?

Đáp: Phạm vương được báo ở chỗ mình ở thì thấy được đại thiên, còn các nơi khác thì không thấy. Ngài Na-luật vì tu căn bản năm thứ bốn thiền, tám sắc thanh tịnh… mà phát chân Thiên nhãn, tùy chỗ đến đều thấy được đại thiên, như xem trái cây trong bàn tay. Các La-hán tuy không thấy đại thiên nhưng tùy chỗ thấy như bóng theo hình. Lại Phạm vương chỉ thấy tổng tướng, thấy không rõ ràng. Na-luật thì thấy biệt tướng tất thấy rõ ràng. Cho đến các La-hán nhân tịnh thiền mà được, tức đều biệt tướng mà thấy nên thấy rõ ràng. Lại Thiên nhãn của Phạm vương là thông chứ không phải minh, còn Thiên nhãn của La-hán là thông cũng là minh, có khác như thế.

Hỏi: Thiên nhãn của Phạm vương thấy đại thiên cùng với nhục nhãn của Pháp Hoa có gì khác?

Đáp: Đại Luận có nói: Báo sinh Thiên nhãn là ở trên nhục nhãn. Thiên nhãn thì mở rộng, còn nhục nhãn thấy sắc nên thấy đại thiên. Đại Phẩm nói: Nhục nhãn của Bồ-tát thấy một trăm do-tuần cho đến cả đại thiên, quá đây thì dùng Thiên nhãn. Vì nhục nhãn cùng phong tướng trái nhau nên không nói thấy cõi khác. Nếu nhờ sức kinh Pháp Hoa thì nhục nhãn có thể thấy được tất cả pháp ở đại thiên, hàng Nhị thừa Tam tạng giáo có Thiên nhãn và tuệ nhãn, chỗ thấy sự lý còn không bằng, huống là chỗ thấy của Phạm vương mà bằng sao? Cho nên Đại kinh nói rằng: Người học Đại thừa tuy có nhục nhãn thì gọi là Phật nhãn, còn hàng Nhị thừa tuy có tuệ nhãn vẫn gọi là nhục nhãn. Vì tuệ nhãn thấy chân đoạn. Hoặc nên so cùng nhục nhãn của Viên giáo hoặc bằng hoặc kém. Nhục nhãn của Viên giáo gọi là Phật nhãn, vì tuy nó đầy đủ tánh phiền não nhưng hay biết được bí mật tạng của Như Lai.

* Chinh kể việc bị chê trách “Thời Duy-ma-cật trở xuống. Văn có năm phần nhỏ:

  1. Hạch nạn.
  2. Na-luật bị khuất phục.
  3. Phạm vương thưa hỏi.
  4. Tịnh Danh trả lời.
  5. Phạm vương và quyến thuộc phát tâm.

– Hạch nạn. Văn có hai: a) Song hạch. b) Song nạn.

a) Song hạch. Công đức của La-hán có hai thứ hữu vi và vô vi. Hữu vi tức là mười trí, ba thứ Tam-muội, tam minh, lục thông; vô vi tức là tam giới kiến tư đoạn xứ, vô sinh vô diệt. Thiên nhãn nếu thuộc hữu vi là thấy những thứ có tướng, nếu thuộc vô vi là thấy những thứ không tướng. Định nương vào đâu mà thấy được đại thiên.

Song kết nạn “Giả sử… hữu kiến”. Thiên nhãn của Tịnh thiền đều thấy tướng có tạo tác sinh diệt, tuy cùng dùng sức của căn bản thiền có khác, nhưng đều là hữu vi, mới xem qua không khác, nên nói cùng đồng với năm thông của ngoại đạo. Nếu tướng vô tác tức là vô vi không phải có thấy, đây là dựa theo công đức vô vi mà kết nạn. Vô vi chính là chứng số duyên đã hết không còn chỗ duyên để thấy thì đâu thấy được đại thiên. Nếu vô vi còn có thấy thì đâu khác gì ngoại đạo. Đã không được có thấy đâu được nói thấy đại thiên. Nếu chấp hữu vi là thấy được đại thiên thứ này yếu kém đồng với Phạm vương, phàm Thánh đâu khác. Đã không hơn được thì đâu thể khiến Phạm vương phát tâm. Lỗi của Na-luật chính là ở đó. Vì sao? Vì Tam tạng giáo tích không chẳng được Trung đạo. Vào quán tức đồng với vô vi không thấy, ra quán lại đồng với hữu vi có thấy. Có lỗi như thế nên bị hạch sách khuất phục.

Na-luật chịu khuất phục “Bạch Thế Tôn! Con bấy giờ yên lặng”. Vì sao? Vì đối với việc hạch sách này không biết nói thế nào cho thông.

Phạm thiên thưa hỏi “Bỉ chư Phạm”. Văn có ba: a) Khen việc chưa từng có.

  1. Kính lễ.
  2. Thỉnh hỏi.

Khen việc chưa từng có: Nghe ngài Na-luật trả lời, chưa biết là có khác, nay nghe Đại sĩ hạch sách thì Thiên nhãn của Na-luật đã hỏng mà Phạm vương cũng không thật, tức còn có một loại chân Thiên nhãn nên sinh tâm chưa từng có.

Nói Phạm vương và quyến thuộc phát tâm kính lễ Từ “Tức vị tác lễ…” : Trong lòng phát ý cung kính cũng là lễ nghi thưa hỏi rằng trên đời ai là người có chân nhãn.

Phạm vương thưa hỏi: Thiên nhãn của ngài Na-luật và của mình không phải chân, vậy ắt có người được chân Thiên nhãn, nên hỏi trên đời ai có.

Đại sĩ đáp “Duy-ma-cật…”: Văn có hai: a) Đáp có chân Thiên nhãn.

b) Luận về tướng chân Thiên nhãn.

Người có chân Thiên nhãn dùng thấy Trung đạo không có hai biên, giả gọi là chân Thiên nhãn.

Hỏi: Không có hai biên giả gọi là chân tuệ nhãn, sao gọi là Thiên nhãn?

Đáp: Tức trung thấy sắc thì gọi là chân Thiên nhãn.

Luận về tướng chân Thiên nhãn Từ “Thường tại … Nhị tướng”, tức thường ở trong các đại Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, cũng gọi là ở trong các hang sâu thiền định đại Bát-niết-bàn, cũng là tướng diệt định của tất cả chúng sinh. Thấy các Phật quốc, tịch mà thường thấy, như gương sáng và mặt nước trong thì muôn hình đều hiện rõ. Không dùng hai tướng mà thấy, tức không giống với Thiên nhãn của Phạm vương ngoại đạo thấy tướng hữu vi có tạo tác, cũng không giống với Nhị thừa thấy vô vi thiên chân mịt mờ không thấy. Lại không dùng hai tướng, là Trung đạo chân Thiên nhãn, không phải tướng Nhị đế mà thường khắp soi hai thứ sinh tử trong bốn cõi, chết đây sinh kia, y chánh báo đều hiện trong Vương Tam-muội, tức là chân Thiên nhãn.

Hỏi: Thứ chân Thiên nhãn này thuộc giáo nào?

Đáp: Không phải Thiên không phải Viên, mà Thiên Viên cùng thấy, tức là chân Thiên nhãn thuộc Viên giáo.

Hỏi: Nếu Phật thấy Trung đạo thì gọi là Thiên nhãn sao lại gọi là Phật nhãn?

Đáp: Nay lấy chứng lý thì thấy mười phương cõi và thấy sắc thô tế của mười pháp giới thì gọi là Phật Thiên nhãn. Viên thấy ba đế không hai, thì gọi là Phật nhãn. Tùy nghĩa phân biệt năm nhãn rõ ràng. Nếu đã hiểu được ý sâu của Thiên nhãn thì ngại gì bốn nhãn kia. Như Kim Cang Bát-nhã có nói: Nếu phân biệt đầy đủ khỏi luận các việc khác.

Phạm vương phát tâm. Văn có hai: a. Nói các Phạm vương phát tâm.

b. Nói chí kính mà đi.

Phạm vương phát tâm: Trước nghe ngài A-na-luật nói thì không biết rõ được lý thật tướng, lại không có việc thấy tất cả cõi nước nên không khiến các Phạm vương phát tâm. Nay nghe Đại sĩ nói mới rõ chân lý sự việc rộng rõ hơn trước xứng hội căn duyên nên đều phát tâm. Tợ phát của Viên giáo tức là Thiết luân, còn chân phát tức là Đồng luân.

Chí kính: Phạm vương kính lễ ngài Duy-ma-cật rồi biến mất. Nên con không kham lãnh ý Phật đến thăm bệnh.

* Kết thành không kham: Ngài Na-luật tự nghĩ thuở xưa đã nói cho Phạm thiên về Thiên nhãn đến nổi bị Đại sĩ chê trách mà không đối đáp được, đâu dám lãnh ý Phật đến thăm bệnh.

Phần 6

Tám là: Phật sai ngài Ưu-ba-ly “Mạng Ưu-ba-lị…” . Văn có hai phần: Phật sai thăm bệnh và đáp lời không kham.

– Sai thăm bệnh. Sở dĩ sai tiếp “Ưu ba ly”, vì ngài là người trì luật bậc nhất trong số đệ tử Phật. Ưu-ba-ly, Hán dịch là Thượng thủ. Có người dịch là Hóa sinh là người có ứng theo Niệm tâm số mà vào đạo. Vì sao? Vì Tu-đa-la và A-tỳ-đàm của Tam tạng giáo do Phật nói hoặc các đệ tử hóa nhân, Thiên, Tiên tùy cơ mà nói ra được Phật ấn khả thành kinh. Còn Tỳ-ni kiết giới đều do chính Phật chế ra, vì muốn giữ gìn Phật pháp, sửa chính hàng quyến thuộc cần tu niệm giữ gìn giới luật, khiến không quên mất, niệm lực nếu mạnh thì không sai sót. Lại nữa người trì giới cấm luật, nếu không chuyên niệm cân nhắc khinh trọng ắt sẽ có nhiều sai sót, làm việc lỗi lầm, cho nên Phật dạy các Tỳ-kheo sáng sớm thường tu lục niệm tất tránh nhiều sai phạm, làm việc không lỗi lầm, nên ngài là bậc Thượng thủ trì giới. Xét đến cùng cho đến thành tựu năm lợi ích trước đầy đủ như trong chương ngài Thân Tử.

– Đáp lời không kham Từ “Ưu-ba-ly…”. Văn có bốn:

  1. Chánh đáp không kham.
  2. Kể lý do không kham.
  3. Kể việc chê trách.
  4. Kết thành không kham.

– Chánh đáp không kham: Bởi vì lúc xưa phán đoán không sáng suốt đến nỗi bị chê trách, đâu dám truyền chỉ Như Lai.

– Kể lý do không kham “Sở dĩ giả hà” trở xuống do vì hai thầy Tỳ-kheo giải thích Luật tướng không khế hợp cơ lý. Văn có hai:

  1. Hai thầy Tỳ-kheo phạm giới nghi hỏi.
  2. Thượng thủ giải thích.

Hai thầy Tỳ-kheo hỏi: Có hai Tỳ-kheo phạm giới khinh trọng chưa biết, nếu khinh sao lại không dám hỏi Phật. Nếu là trọng thì luật không có văn sám hối hoặc phương tiện về trọng tội. Có thầy từng thấy kinh nói: Có một Tỳ-kheo nằm ngủ trần trong Lan-nhã có cô gái hái củi thấy được đến phạm tội dâm. Tỳ-kheo thức dậy nghi mình phạm trọng tội. Lại có Tỳ-kheo nổi giận muốn đánh cô gái, cô gái sợ chạy lọt hố mà chết. Thầy Tỳ-kheo nghi mình phạm giới sát, rất xấu hổ không dám hỏi Thế Tôn, bèn đến xin ngài Ưu-ba-ly quyết nghi. Trên nói mười vị đại đệ tử cùng giúp Như Lai hoằng truyền mười pháp môn là ý ở đây vậy.

Ngài Ba-ly giải thích “Ta sẽ vì các ông nói đúng pháp)

Y vào luật mà phán đoán hoặc dạy tập họp Tăng làm phép Yếtma để đuổi đi nên nói giảng giải đúng pháp.

*) Chính kể việc bị chê trách “thời Duy-ma-cật … trở xuống. Văn có hai:

  1. Chính kể việc bị chê trách.
  2. Hai thầy Tỳ-kheo tâm được thanh tịnh.

– Phần (a) có bảy ý:

  1. Chánh chê trách.
  2. Khuyên dẹp bỏ.
  3. Giải thích.
  4. Dẫn lời Phật làm chứng.
  5. Hạch sách ngài Ba-ly.
  6. Phán xét theo lý chân.
  7. Kết thành tuân giữ giới luật.

Ý một chánh chê trách: Nếu căn cứ theo lý mà sám hối thì không phiền phải can thiệp bằng sự. Về sự tướng lăn xăn nào có lợi gì với lý. Không làm nặng tội thêm của hai Tỳ-kheo này, vì tội từ tưởng sinh ra, vậy phải dẹp bỏ tưởng. Còn ngài Ba-ly lại cưỡng phân biệt là trọng là khinh Yết-ma như thế là can thiệp bằng sự, dối làm loạn tâm; sinh ăn năn nặng nề, che lấp định tuệ, ấy là làm nặng thêm tội, cần dẹp bỏ ngay, chớ làm động tâm người.

Ý thứ hai khuyên dẹp bỏ: Quán kỹ tánh của tội thì vọng tưởng tự dứt, ấy là dẹp bỏ ngay. Vì sao? Vì tội từ tâm sinh, tất do tâm diệt, nên tội có hay không có đều do ở tâm. Nếu quán tâm rốt ráo không thể được, tức không thấy tướng tội, đó là dẹp bỏ ngay, không nên làm loạn tâm họ. Nay nói tội diệt có ba cách: Tác pháp sám. Quán tướng sám và quán vô sinh sám.

Tác pháp sám thì diệt trừ tội trái vô tác, nương vào Tỳ-ni môn. Quán tướng sám thì diệt trừ tánh tội, thứ này nương vào định môn. Quán vô sinh sám thì diệt trừ tội vọng tưởng, thứ này nương vào tuệ môn. Lại nữa, tội trái vô tác thì chướng giới, tội tánh thì chướng định, tội vọng tưởng thì chướng tuệ.

– Tác pháp sám như luật đã nói: Tác pháp thành tựu luôn diệt trừ các tội trái vô tác, nhưng không trừ được tánh tội. Đại luận nói: Như Tỳkheo cắt cỏ, làm mất mạng thì hai tội cùng một thiên, tác pháp sám hối thì hai thứ vô tác diệt, mất mạng thì không diệt. Tuy tội trái vô tác diệt nhưng tánh tội chưa diệt vì nó không phải thật diệt mà khi tác pháp thì loạn động phân tán bỏ phế việc tu thiền định; chướng ngại việc nhập vô sinh tức là làm nhiễu loạn tâm người ấy.

– Quán tướng sám, thì như các kinh Phương Đẳng đã nói về hành pháp để thấy tướng tội diệt. Bồ-tát giới có nói: Nếu thấy các tướng lạ như hoa và ánh sáng thì các tội liền diệt mất. Nếu không thấy tướng lạ dầu sám hối cũng vô ích. Nếu thấy tướng đẹp thì hai tội tánh và vô tác đều diệt mất. Chấp tướng thì tâm động, tức nước tâm không trong thì ngọc châu đâu thể hiện ra. Đây cũng là quấy nhiễu tâm, không phải là diệt thẳng tội.

– Quán vô sinh sám, khi quán này thành thì có thể diệt trừ hết các tội thuộc vọng hoặc căn bản. Như đào bật gốc cây thì các cành lá đều chết. Phổ Hiền Quán có nói: Tất cả biển nghiệp chướng, đều từ vọng tưởng sinh, người muốn sám hối tội, ngồi thẳng nghĩ thật tướng, các tôi như sương sớm, mặt trời tuệ chiếu tan không cần phải tác pháp và thủ tướng lăng xăng.

Hỏi: Nếu thế, các kinh nói về Sám hối ắt phải rất xấu hổ sợ sệt mà sửa đổi tội lỗi thì sao được không cần tác pháp và thủ tướng sám.

Đáp: Người có lợi độn. Nếu người độn căn tạo tội thì tâm nặng, sám hối thì tâm nhẹ. Tâm nhẹ không thể trừ được tội tâm nặng, cho nên khiến phải sinh tâm rất xấu hổ sợ sệt sữa lỗi, cần phải theo tác pháp và thủ tướng sám hối. Còn người lợi căn tâm chánh quán tánh tội vốn tự mất, lo sợ hối lỗi không khởi tất là rốt ráo, nên không tạo tội mới là gọi là diệt thẳng tội lỗi, không quấy nhiễu tâm. Nên Đại luận có nói: Nếu người phạm tội hay sám hối, sám hối rồi không còn lo âu. Như thế tâm an lạc không còn nhớ nghĩ nữa. Nếu hối lỗi quá nặng thì việc hối lỗi sẽ như mũi tên đâm vào tim, hiện đời sầu khổ chết rồi bị đọa vào địa ngục. Lại nếu chấp có tội này, thì tội trở thành nặng, nếu không chấp tội thì tội nhẹ dần. Nếu hay thấy được lý sự của tánh căn bản thì tất cả các tội liền diệt mất. Ấy là diệt thẳng, không quấy nhiễu tâm.

Ý thứ ba, giải thích Từ “dở dĩ … trung gian”“, tánh tội không ở trong, ngoài hay khoảng giữa, là tội tánh vốn không. Nếu thường quán “không”, tức là Không tội. Vì sao? Vì nếu tội là có tức có định tánh. Nếu có định tánh thì không ngoài ba chỗ: Ở trong tâm. Ở ngoại cảnh và ở khoảng giữa, tức tâm cảnh cùng sinh.

Nay kiểm tra lại nếu ở trong tức là tự tánh. Tự tánh là tội, khi chưa đối cảnh thường phải luôn có tội, nên không phải là tự tánh. Nếu bảo là ở ngoại cảnh, thì cảnh là tánh khác. Nếu người khác có tội thì tội thuộc người khác đâu liên quan gì đến mình. Nếu bảo trong ngoài hợp lại mà tội sinh ra, tức là cùng sinh ra tội, cùng có hai lỗi, gọi là mình người, tức hai tội cùng sinh như chặt cỏ cây. Nếu người có tội cỏ cây cũng phải có. Nếu bảo là ở khoảng giữa thì dao cũng có tội đâu phải chỉ ở hai phía.

Lại giải thích không phải ở nội căn, ngoại trần hoặc khoảng giữa sáu thức, nếu mười tám giới “không” thì không có tội tánh nào có tội. Lại tội từ tâm sinh, mà quán tâm không từ mình người cùng sinh thì tâm không ở trong hoặc ở ngoài hay ở giữa. Tâm như thế thì tội cấu cũng thế, các pháp cũng thế. Nên Phổ Hiền Quán có nói: Quán tâm không có tâm, pháp Không trụ ở pháp, tâm ta tự trống không, tội phước không chủ, các pháp như thế, không trụ, không hư hoại, sám hối như thế gọi là đại sám hối, gọi là trang nghiêm sám hối, gọi là vô tội sám hối, gọi là phá hoại tâm thức sám hối. Làm pháp sám hối này tâm như nước chảy, niệm niệm không dừng trụ, thấy được Phổ Hiền Bồ-tát và mười phương Phật. Hai lời giải trước là quán hạnh có sơ thất nhỏ không hợp với kinh, lời giải sau là giúp ngài Tịnh Danh dẫn lời Phật nói. Nếu hay như thế mà quán tội vô sinh là diệt trừ thẳng không quấy nhiễu tâm. Ngài Tịnh Danh lấy đây mà giải thích mà thấy rõ ý chê trách trước.

Ý thứ tư dẫn lời Phật nói làm chứng để giải thích điều nghi của Ba-ly “Như Phật đến ư như”. Vì sao? Vì ngài Ba-ly tự nghĩ Tỳ-ni do Phật chế ra. Nay sử dụng theo pháp chế này nào có lỗi gì. Thế nên Đại sĩ cũng dẫn lời Phật nói sao không nhận. Nhưng lời Phật nói có hai là liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, đâu thể chấp nhận lời nói bất liễu nghĩa mà không chấp nhận lời liễu nghĩa, cũng là khiến hai thầy Tỳ-kheo tín tâm được sáng sạch. Cho nên dẫn lời Phật nói để phá nghi chấp của họ. Nếu căn cứ vào đây mà phán quyết trái lời Phật nói, tức trong Tỳ-ni Phật hỏi ông khởi tâm nào, nếu khởi tâm cấu bẩn thì khinh hay trọng đều là tội cả, chẳng nói là Không. Đại sĩ liền dẫn lời Phật: Tâm cấu nên chúng sinh cấu. Phải biết tội từ tâm sinh, nếu thấy có chúng sinh tức có tội cấu. Nếu biết tâm trống không, không có tướng chúng sinh, tức là tâm tịnh, mà tâm tịnh tức chúng sinh tịnh. Chúng sinh tịnh, nên không có tội cấu. Đây thì tâm năng tri sở tri đều không ở trong, ở ngoài hay ở khoảng giữa. Ấy là Không tâm, không tâm sao có tội cấu? Cho nên nói tội cấu cũng như thế, các pháp cũng như thế, không ở ngoài Như. Như Đại Phẩm nói: Khi Bồ-tát hành Bát-nhã thì không thấy có pháp ở ngoài pháp tánh, pháp tánh tức là tên khác của như.

Ý thứ năm, hạch sách “Như Ưu-ba-ly … trở xuống có ba phần nhỏ: Đại sĩ hỏi, Ưu-ba-ly đáp và Đại sĩ so sánh chỉ rõ Chân không vô cấu

– Đại sĩ hỏi: Đây hỏi Ba-ly tích pháp quán tâm, khi nhập vào thiên chân thì có cấu chăng.

– Ngài Ba-ly đáp “ta nói là Không”. Tích pháp quán tâm, khi thấy chân, chân là tướng vô cấu.

– So sánh hiển sáng Từ “Duy-ma… như thị”. Đại thừa nói tướng tâm chúng sinh tức không tức trung. Vô cấu cũng thế.

Ý thứ sáu nói ba Giả vào Không phê đoán đoạn trừ “Duy Ưu-ba-ly đãi nhau” trở xuống. Ba giả là: Nhân thành. Nối nhau. Đối đãi nhau.

Thể là Giả vào Không, cho nên dùng các thí dụ huyễn mộng…để luận về tướng giả. Như thể giả này cũng vào Viên, Chân đối phá tích giả Thiên chân của Tam tạng giáo. Vì sao? Vì ba giả của Tam tạng giáo chỉ tùy theo tình mà vào chân, còn giả của Đại thừa nói thì theo lý mà vào chân, đầy đủ như trong huyền nghĩa. Đây là diệt tội khéo vụng không đồng, ngài Ba-ly thì thô dùng vụng, ngài Tịnh Danh thì dùng khéo léo vi tế. Văn có ba:

  1. Thể nhân thành.
  2. Thể nối tiếp nhau.
  3. Thể đối đãi nhau.

Thể này vào Không tức chân tức trung, thì không có tội tướng, tức là dẹp bỏ thẳng của Tỳ-ni Đại thừa.

Có ba điên đảo, chính là căn cứ theo vô minh sáu uế thành năm ấm, giả gọi là người tội, tức nhân thành ra giả. Vô minh điên đảo không ngoài ba thứ, tức tưởng, tâm, kiến luôn thành ba điên đảo, ba ấm đều do vô minh tạo thành. Ba thứ đảo ấm này giúp tâm vương khởi mà có tất cả các hành tội cấu. Nếu có thể hiểu rõ ba điên đảo không có mình người không nhân cùng chung tức là Không sinh. Không sinh, không diệt, không tâm, không tội. Chỉ do Ba-ly vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh.

Đây nói là tâm điên đảo, thể nó giả tức không, điên đảo không khởi thì không có tội cấu, cho nên nói không điên đảo là tịnh. Điên đảo là cấu, không điên đảo là tịnh. Chấp ngã là cấu, không chấp ngã là tịnh. Chấp ngã tức là ngã kiến… năm thứ, là kiến điên đảo. Thể nó giả tức không, tức không chấp ngã. Nếu không chấp ngã, thì không có tội cấu, nên nói không chấp ngã là tịnh. Cả ba thứ này đều là nhân thành giả cùng căn cứ tâm mà luận tội cấu nên cần thể hội.

Nói về thể nối tiếp Giả để nhập vào Không như huyễn. Thí dụ pháp nối tiếp chỉ gia bày ra nối tiếp có tội. Nếu thể nối tiếp thì không phải mình người… tức được nhập không thì không thấy tội tướng. Tội tướng hư vọng không thể được, tất tội cấu tự diệt mất. Như thí dụ về điện chớp là hiển sáng việc tranh diệt tiếp nối nhanh chóng.

Hỏi: Điện chớp là thí dụ của Tam tạng giáo sao được vào môn dụng của Đại thừa?

Đáp: Đã nói thí dụ huyễn hóa về tiếp nối nhanh chóng không thật nhưng chưa sáng tỏ, nên phải mượn thí dụ về điện chớp để hiển sáng việc nhanh chóng, sao lại không được?

Nói về thể nối tiếp đối đãi Từ “các pháp… tương sinh”. Giả nhập vào Không đối đãi có hai thứ: Khác thời và đồng thời. Đây xét theo khác thời nên nói cho đến một niệm cũng không trụ, dùng bốn trường hợp kiểm soát cũng không thể được, liền được nhập vào Không.

Nói đối đãi nhau, tức đều thấy hư vọng.

Lại từ các pháp trở đi là chung thí dụ về ba giả thành tất cả pháp, đều là Không có mà phân biệt sinh ra tất cả pháp, là đều do vọng thấy, nên nói như mộng, như hơi nóng, như trăng trong nước… đều là vọng tưởng sinh ra. Thể giả tức không thì vọng tưởng không khởi, tâm không tội, tức là thanh tịnh. Nên ngài Tịnh Danh nói phải dẹp bỏ thẳng.

Ý thứ bảy kết thành việc giữ luật Từ “kỳ tri đến thiện giải”. Phật giáo vốn khiến đoạn ác vào đạo. Nếu hiểu sâu được ý Phật phó cơ phán đoán người hay trừ tội cấu mà được vào đạo, tất không trái lời Phật dạy, tức là tuân thủ giới luật. Người biết điều này thì gọi là khéo hiểu biết, tức là biết tướng tôi khinh trọng đều như huyễn hóa. Biết rõ khinh trọng, nhập vào Không có khinh trọng Đệ nhất nghĩa đế, tức là biết rõ sự khéo léo vượt qua của Tỳ-ni.

– Phần (b) Hai thầy Tỳ-kheo tâm được thanh tịnh. Văn có ba:

  1. Hai thầy Tỳ-kheo khen ngài Tịnh Danh.
  2. Thuật việc ngài Ba-ly hàng phục thành.
  3. Hai thầy Tỳ-kheo tâm tịnh mà phát tâm.

Hai thầy Tỳ-kheo khen “ư thị…”, khen ngài Ba-ly là vụng về giữ luật, còn ngài Tịnh Danh là khéo léo giữ luật. Vì Khéo và vụng khác nhau nên khen là bậc Thượng trí. Ngài Ba-ly vì vụng không bằng xảo độ nên không nói được. Chỉ nói ngài là bậc Thượng thủ trì luật của Tam tạng giáo chứ không thể dùng cho Đại thừa. Thông, Biệt, Viên giáo thì phó cơ phán đoán nên nói mà không thường nói.

Thuật ngài Ba-ly hàng phục thành Từ “ngã… thử dã”. Ngài Ba-ly được hai Tỳ-kheo khen ngợi tự xả và kẻ tu học ba giáo cùng các ngôi vị dưới của Viên giáo không thể phán quyết việc ngài Tịnh Danh luận về quyền thuật nhạo thuyết. Người có trí tuệ thấu suốt được như đây thì thể pháp lý soi thấy cơ rõ ràng. Biết bệnh biết thuốc, tùy bệnh cho thuốc thấu suốt vô ngại.

Nói hai thầy Tỳ-kheo phát tâm “thời nhị… thị biện”. Mối nghi ăn năn đã hết, tức nghi về tội dâm và tội sát đã hết. Ăn năn, tức ăn năn phạm tội đã hết và ăn năn tội thành nặng cũng hết. Tâm Bồ-đề như trước đã phân biệt.

Làm các việc như thế là nguyện khiến được vô ngại biện tài Đại thừa như Đại sĩ.

* Kết thành không kham “nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy”. Ngài Ba-ly tự nghĩ việc vụng về giữ luật thuở xưa không thể trừ tội của hai Tỳ-kheo được đến nỗi bị Đại sĩ chê trách. Khi ấy bèn đến kính lễ, nên không kham lãnh ý Phật đến thăm bệnh.

Chín là Phật sai ngài La-hầu-la: Văn có hai: Phật sai thăm bệnh và đáp lời không kham.

– Sai thăm bệnh. Sở dĩ sai tiếp La-hầu-la, vì ngài là Mật hạnh bậc nhất trong hàng đệ tử Phật. La-hầu-la là con của Phật khi còn làm Bồtát, cũng gọi là La Vân, Hán dịch là Phú chướng, vì ở trong thai sáu năm nên gọi là Phú chướng. Bởi xưa đã lấp hang chuột nên bị báo này. Đại Luận nói: La Vân xưa làm vua có hẹn gặp một Tiên nhân, nhưng mãi ham nghe nhạc mà quên mất. Vị Tiên nhân phải hầu chờ ngoại đạo suốt sáu ngày không ăn uống, nên sáu năm phải ở trong thai, nhân đó gọi là Phú chướng. Có nơi dịch là Cung sinh, vì Thái tử Tất-đạt khi sắp vượt thành xuất gia, đã chỉ tay vào bụng vợ bảo rằng: “Sáu năm sau nàng sẽ sinh một trai.” Gia-du phu nhân đó biết mình có thai. Người trong nước đều nghi rằng Thái tử xuất gia, còn vợ ở tại cung làm sao có thai được nếu không phải là thông dâm. Phật và vua Tịnh Phạn về sau đã làm chứng đó là con của Thái tử do đó có tên là Cung Sinh. La Vân đã từ Tư tân số mà vào đạo, nên là Mật hạnh bậc nhất. Nếu xét kỹ cho đến thành năm thứ lợi ích trước, như nói đủ trong chương ngài Thân Tử.

– Đáp lời không kham “La-hầu-la trở xuống. Văn có bốn:

  1. Chánh đáp lời không kham.
  2. Nêu lý do không kham.
  3. Chính kể việc chê trách.
  4. Kết thành không kham.

* Đáp lời không kham, vì xưa đã nói cho các Trưởng giả tử về công đức xuất gia, nên bị chê trách mà không đáp được, đâu dám lãnh ý thăm bệnh.

b) Nêu lý do không kham “sở dĩ” trở xuống. Do xưa đã nói cho các Trưởng giả tử về công đức xuất gia nên bị chê trách. Văn đây có hai:

  1. Trưởng giả tử hỏi.
  2. La-hầu-la đáp.

Trưởng giả tử hỏi: Đức Phật nếu ở tại gia sẽ làm Luân vương xuất gia thì thành Phật. Ngài La Vân ở tại gia cũng làm Luân vương, nhưng nay bỗng b) La Vân đáp Từ “ngã… chi lợi”, có thầy bảo trong kinh Hiền Ngu có nói: Suy xét độ người mà nói công đức xuất gia. Nay nói không phải vậy. Trưởng giả tử hỏi La Vân công đức xuất gia há lại luận việc độ người được phước nhiều ít. Bèn vì nói việc xuất gia theo Tam tạng giáo sẽ được mười trí, ba thứ Tam-muội, tam minh, lục thông, tám giải thoát… ra khỏi sinh tử được hai thứ Niết-bàn… Công đức xuất thế đâu như Luân vương còn bị lưu chuyển trong sinh tử không bến bờ. * Chánh kể việc chê trách “Thời Duy-ma…”. Văn có năm: a) Chánh chê trách.

  1. Giải thích.
  2. Rộng bày công đức xuất gia.
  3. Kết chân xuất gia.
  4. Khuyên các trưởng giả tử xuất gia.

Chánh chê trách, không cho nói: Đây có ba ý:

  1. Đã là Mật hạnh sao được nói lợi của xuất gia, bèn nói rõ thế nào là Mật hạnh.
  2. Nói công đức xuất gia nhỏ hẹp của Tiểu thừa không xứng với căn duyên Đại thừa của các trưởng giả tử.
  3. Nếu nói công đức xuất gia phải đúng hình thức thì các trưởng giả tử sẽ bị trở ngại, trọn không thể có được hình thức xuất gia.

Vì ba lỗi trên, nên bị chê trách là Không nên nói.

Giải thích: “sở dĩ” đến “công đức”. Tam tạng giáo nói công đức hữu vi vô vi che giấu giới, định, tuệ gọi là Mật hạnh. Nay Đại sĩ chê trách có sự có lý. Về sự chê trách, nếu là Mật hạnh thì không nên tự nói công đức xuất gia, nếu vì lợi sinh thì không nên tự khoe. Đã không biết căn, nói không hợp cơ nào có lợi ích gì? Về lý chê trách, thì không lợi ích, không công đức ấy là xuất gia. Vô vi tức là hư không Phật tánh. Nếu thấy Phật tánh ra khỏi hai nhà chết mới là chân xuất gia. Nếu thấy Phật tánh được Đại Niết-bàn tất không chứa nhóm, mới gọi là tạng, gọi là chân Mật hạnh. Đây tức là Mật hạnh đối khô hiển bày vinh. Pháp hữu vi thì có thể nói lợi, có công đức. Đây là trách La Vân thấy chân, thiên lệch trí đoạn ấy là pháp hữu vi. Pháp hữu vi thì có lợi, có công đức. Đã là hữu vi thì không thể ra khỏi biến dịch sinh tử, sao gọi là xuất gia. Nên Đại kinh có nói: Không tức là sinh tử, chẳng không tức Đại Niết-bàn.

Phàm xuất gia là pháp vô vi. Trong pháp vô vi thì không có lợi, không có công đức. Đây là chê trách La Vân xuất gia tâm quấy. Phàm xuất gia vì vốn muốn ra khỏi nhà sinh tử, tìm đến chân vô vi. Chân vô vi như đoạn văn sau nói rằng: Thân Phật vô vi không rơi vào các số. Nếu chưa khỏi sinh tử mà trụ vào hữu vi, thì đây là cầu xuất gia tâm quấy. Vì sao? Vì Tiểu thừa thấy chân được Số, duyên hết mà được Hữu dư Niết-bàn, mà bảo là vô vi. Nếu nương Đại thừa được thấy Trung đạo, không còn biến dịch sinh tử nữa, mới là pháp chân vô vi, tức là bình đẳng. Ở chân pháp giới, Phật không độ chúng sinh, nên nói trong pháp vô vi không có lợi, không có công đức. Nên trong Đại kinh nói: Tăng Thanh văn gọi là Tăng hữu vi, Tăng Bồ-tát gọi là Tăng vô vi.

Hỏi: Ngài Tịnh Danh chính dùng vô vi phá hữu vi, vô vi chỉ là Hư không Phật tánh, sao được nói dùng chân mật hạnh Đại thừa để phá Bất chân mật hạnh của La Vân?

Đáp: La Vân đắm trước hữu vi, bao nhiêu Mật hạnh có được đều là hữu vi. Nay Tịnh Danh vừa rồi đem vô vi mà phá. Nếu biết rõ chân vô vi như châu Như ý, không gì chẳng có, cho nên trước nói vô vi, sau liền nói rộng về công đức xuất gia.

Rộng bày công đức xuất gia “La-hầu-la…”, vì La Vân nói công đức xuất gia Đại thừa, tức là trong pháp vô vi có đầy đủ tất cả hạnh, gọi là chân Mật hạnh. Văn có hai: Tự hành và Hóa tha.

Về tự hành, tức chánh quán Trung đạo để phá bên này, bên kia, và khoảng giữa vô vi Niết-bàn của Tiểu thừa. Vì sao? Vì kinh Thanh Văn nói: Niết-bàn là bờ bên kia, sinh tử là bờ bên này, phiền não là dòng chảy ở giữa, thì tất cả bờ kia đây, dòng chảy ở giữa đều là bờ bên này của Đại thừa. Nếu quán Trung đạo được chân vô vi, thì không thấy kia đây và dòng chảy ở giữa, tức là thấy Phật tánh, gọi là chân vô vi.

Lìa sáu mươi hai kiến là chánh quán Trung đạo, được chân vô vi, dứt bỏ tất cả kiến của nội ngoại giới. Nên kinh Địa Trì giải thích thanh tịnh thiền có nói: “Lìa tất cả kiến tức thanh tịnh thiền”tức là nghĩa đó.

Ở nơi Niết-bàn, là nếu quán Trung đạo liền thấy Phật tánh, trụ vào Bổn hữu Niết-bàn, thành ba đức bí tạng bất tư nghị, như chữ nhất ở đời.

Người trí thọ nhận, đây là nêu quả để thành nhân. Trí, tức tất cả người trí tuy không thọ nhận, nhưng tâm còn mù mờ về Trung đạo nên gọi là thọ nhận. Chỗ làm của Thánh, Trung đạo là chỗ làm của Thánh. Nên Đại luận có nói: Phật từ đường lớn trí độ mà đến. Lại người trí thọ nhận, tức là quán Trung đạo mà chứng quả. Chỗ làm của Thánh nhân là tu nhân quán Trung đạo. Trung không phải nhân quả mà thường thành nhân quả công đức muôn hạnh, tức là chân Mật hạnh.

Về Hóa tha Từ “hàng phục trở xuống, tức nói về công đức xuất gia hóa tha của Đại thừa. Văn có hai:

  1. Hàng phục chúng ma.
  2. Tồi phục ngoại đạo.

Về hàng phục chúng ma tức là phá ái luận, tồi phục ngoại đạo tức là phá kiến luận. Nhưng ái kiến lại có hai: Nội giới tức là đám Ba-tuần, lục sư, ngoại giới tức là hàng Nhị thừa và Bồ-tát của Thông giáo.

Căn cứ hàng ma nói về công đức hóa tha, kinh Đại Tập nói: Được đạo Bồ-tát phá ma phiền não, được thân pháp tánh tức phá ấm ma. Được đạo Bồ-tát và thân pháp tánh tức là phá tử ma, được Bất động Tam-muội là phá Tha hóa thiên tử ma. Đại kinh có nói tám ma, tức là bốn thứ thường… và bốn thứ vô thường. Bốn thứ trước là giới nôi, bốn thứ sau là ngoại giới.

Dựa theo ma phiền não trước mà nêu ra tám thứ này. Thường… thì khởi bốn thứ phiền não… tức là nội giới, khởi bốn thứ phiền não thường v.v… tức ngoại giới. Nếu chánh quán Trung đạo được pháp chân vô vi là tự hành phá tám ma. Nếu hóa tha, là nói Trung đạo không phải có để phá bốn thứ thường…, nói Trung đạo không phải Không, là để phá bốn thứ vô thường… Nên nói là hàng phục chúng ma.

Độ cho năm đạo, tức năm đạo đều là bà con của ma. Bồ-tát dùng căn lực từ thiện mà sinh vào năm đạo, hiện thân đồng sự và thuyết pháp giúp độ năm đạo, sáu đạo. Mở toang sáu đạo vượt thoát hai mươi lăm hữu. Bồ-tát quán Trung đạo, cùng chiếu soi hai đế, liền được ba đế Tam-muội, thành được hai mươi lăm Tam-muội. Mười phen phá hữu thường độ được năm đạo nội giới và Nhị thừa ngoại giới. Thành được ba thứ ý sinh thân của hàng Đại lực Bồ-tát.

Tịnh năm nhãn, là Bồ-tát tu chân vô vi, viên quán ba đế, quán cảnh thô của tục đế, phá các ác nghiệp gọi là tịnh nhục nhãn. Quán cảnh tế của tục đế, phá các loạn tâm, gọi là tịnh Thiên nhãn. Nếu quán chân đế, phá các hoặc nội giới, gọi là tịnh tuệ nhãn. Quán nội ngoại giới của tục đế, phá hằng hà sa vô tri thì gọi là tịnh pháp nhãn quán trung song chiếu, trừ sạch vô minh là tịnh Phật nhãn.

Được năm lực, là nếu tịnh được năm nhãn tức được năm lực, nghĩa là được năm lực trong bốn đạo phẩm. Vì sao? Vì nếu tích thể, tịnh tuệ nhãn thì được năm lực vô sinh. Từ không vào Giả, tịnh pháp nhãn thì được năm lực vô lượng. Nếu quán Trung đạo, viên chiếu pháp giới tịnh

Phật nhãn thì được năm lực vô tác, đó là ba quyền một thật.

Lập năm căn, Bồ-tát biết pháp giới bình đẳng cũng như hư không, không phải quyền không phải thật, mà hay thành tựu được năm lực quyền thật, hóa độ bốn thứ chúng sinh đều được năm căn, tức là lập năm căn vậy.

Không quấy não họ, là dùng bốn Tất-đàn để xứng hợp bốn căn duyên, trọn không sai cơ phá hỏng thiện căn của họ, tức là Không quấy não họ.

Lìa bỏ các tạp ác, tức Bồ-tát tự thành tựu bốn thứ năm lực, lìa bỏ tất cả tạp ác nội ngoại giới, hay lập năm căn cho bốn thứ chúng sinh, lìa bỏ bốn thứ tà nghi bất thiện phiền não, tức là khiến chúng sinh lìa bỏ các tạp ác.

Căn cứ tồi phục ngoại đạo nói công đức hóa tha Từ “tồi phục… chúng quá”. Tức là tồi phục chín mươi sáu phái lục sư nội giới và hàng Nhị thừa cùng Bồ-tát của Thông giáo ngoại giới. Vì sao? Vì Bồ-tát quán Trung đạo được chân vô vi, tức có thể tự phá bọn ngoại đạo hai biên. Vì chúng sinh mà nói phi hữu “không phải có) tức là tồi phục hàng ngoại đạo nội giới, nếu nói phi vô “không phải Không) tức là tồi phục hàng ngoại đạo ngoại giới. Vì sao? Vì tâm hành lý ngoại thì không đâu là Không phải ngoại đạo. Tồi phục khiến cho vào Trung đạo tức là hóa tha thành tựu.

Vượt khỏi giả danh, tức là sinh tử và Niết-bàn đều là giả danh. Bồ-tát quán trung, được chân vô vi tức là vượt khỏi giả danh của hai biên. Nếu vì chúng sinh mà nói đảo ngược để tồi phục ngoại đạo giúp ra khỏi bùn lầy, tức là chánh quán Trung đạo, ra khỏi bùn lầy kiến tư nội ngoại giới. Nếu vì chúng sinh nói “chẳng phải có, chẳng phải Không”thì căn cứ theo trước mà biết.

Không bị phược trước, phược là nghiệp, trước là ái, phiền não thắm nhuần nghiệp nên gọi là phược trước. Quán Trung đạo thì hay đoạn nghiệp ái hai biên. Nếu vì chúng sinh y theo trước có thể thấy.

Vô ngã sở, tức là chánh quán Trung đạo, không còn thấy có ngã, ngã sở nội ngoại giới. Nếu vì chúng sinh thì y theo trước sẽ thấy rõ.

Không thọ nhận, tức chánh quán Trung đạo, không thọ nhận hai biên. Nếu vì chúng sinh thì chuẩn theo trước sẽ thấy rõ.

Không làm nhiễu loạn, là quán Trung tức Không, thì không có nhiễu loạn hai biên Không và Có. Nếu vì chúng sinh chuẩn theo trước có thể thấy.

Bên trong phá hoại hỷ, là nếu quán Trung đạo, song chiếu hai đế, liền được bốn thứ hỷ của giác phần. Nếu vì chúng sinh mà nói Trung đạo hai đế bốn thứ hỷ giác chúng sinh sẽ được mừng vui của Bồ-tát, tức thành tựu hỷ vô lượng tâm.

Hộ trợ ý người khác, tức quán bốn căn duyên dùng bốn thứ Tấtđàn không trái với bốn cơ nên gọi là hộ trợ ý người khác.

Tùy thiền định, là nếu quán Trung đạo, song chiếu hai đế, tức là theo ba đế Tam-muội, trụ ở Đại Niết-bàn, vào sâu hang thiền định, không khởi diệt định mà hiện các oai nghi, vì chúng sinh nói pháp như đàn Tu-la khiến tất cả chúng sinh đều theo ba đế Tam-muội các thiền định vậy.

Lìa các lỗi là nếu quán Trung đạo, không có lỗi phiền não nội ngoại giới, được ba thứ không lỗi, ba thứ bất hộ, ba nghiệp tùy trí tuệ hạnh, ba luân hóa bất tư nghị, hóa độ tất cả chúng sinh nội ngoại giới, không bị lỗi làm tổn hại căn duyên người khác, hay khiến chúng sinh lìa bỏ các lầm lỗi nội ngoại giới.

Kết thành chân xuất gia “Nếu có thể như thế là chân xuất gia”.

Nếu hay như thế, là như trước đã nói, đều là Trung đạo mà được chân vô vi, đầy đủ công đức tự hành và hóa tha. Ấy là một tâm đầy đủ muôn hạnh, như châu Như ý đầy đủ tất cả báu, tức là chân Mật hạnh bốn vinh.

Là chân xuất gia, tức chánh quán Trung đạo được chân vô vi hay thoát khỏi hai mươi lăm hữu của phàm phu và ra khỏi nhà của Nhị thừa và Bồ-tát của Thông giáo, tức ra khỏi hai nhà sinh tử và Niết-bàn, nên gọi là xuất gia.

Ngài Tịnh Danh khuyên các trưởng giả tử xuất gia “ư thị trở xuống.

Văn có bốn:

1/ Khuyên xuất gia.

2/ Từ chối có trở ngại.

3/ Lại khuyên.

4/ Phát tâm.

Ngài Tịnh Danh khuyên xuất gia, tức là khuyên tu Trung đạo, ra khỏi nhà sinh tử, nên nói: Các ông ở trong chánh pháp, nên cùng xuất gia. Chánh pháp tức là chánh lý Trung đạo. Hay quán lý này mà được ra khỏi hai biên gọi là xuất. Vì sao? Vì Phật Thế Tôn tất khó gặp, có Phật ra đời mới được nghe pháp, nếu không có Phật ra đời, dù có chánh lý thì suốt kiếp cũng không được nghe. Nay được gặp Phật, được nghe pháp đâu không nhanh chóng tu tập khiến ra khỏi hai nhà chết.

Các trưởng giả tử từ chối có trở ngại không xuất gia được Từ “chư trưởng giả tử… xuất gia”. Ngài Tịnh Danh vốn khuyên quán chân vô vi mà ra khỏi hai nhà chết. Các trưởng giả tử cho là khuyên phải theo hình thức xuất gia, nên đồng từ chối có trở ngại, nên dẫn lời Phật nói. Ghi đủ ở luật Tăng-kỳ.

Khuyên quán hạnh xuất gia Từ “Duy-ma… cụ túc”. Cần nêu đủ bốn trường hợp:

– Hình và tâm đều không xuất gia.

– Hình xuất gia mà tâm không.

– Hình không mà tâm xuất gia, tức là quán hạnh xuất gia.

– Hình và tâm đều xuất gia.

Nên lại khuyên nói: Các ông chỉ phát tâm này tức là xuất gia rồi. Điều Phật đã dạy ngài Tịnh Danh vốn biết làm như thế cố nhiên là được, chỉ cần các Trưởng giả tử đều có thiện căn Đại thừa, do đó khuyên họ phát tâm cầu chân vô vi liền ra khỏi hai nhà chết. Nhưng Giới từ tâm sinh. Đạo tâm nếu phát thì giới phẩm Bồ-tát tùy tâm đều phát sinh, nên nói liền đầy đủ.

Nói các trưởng giả tử phát tâm Từ “Nhĩ thời… Bồ-đề tâm”. Các trưởng giả tử y lời khuyên đều phát tâm Vô thượng đạo. Về tâm Bồ-đề đã giải thích ở trước.

* Kết lời không kham “nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy”. Ngài La Vân tự nghĩ lúc xưa, vì các trưởng giả tử nói về công đức xuất gia, nhưng văn nghĩa thô thiễn không xứng hợp căn duyên của các trưởng giả tử, đã bị chê trách, đâu dám lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh.

Mười là Phật sai ngài A-nan. Văn có hai: Phật sai thăm bệnh và đáp lời không kham.

– Sai thăm bệnh: Sở dĩ Phật tiếp sai ngài, vì A nan là Đa văn bậc nhất trong hàng đệ tử. Ngài là con thứ của vua Hộc Phạn, em ruột của Điều-đạt và là em họ của Như Lai. Hán dịch là Hoan hỷ. Sở dĩ gọi Hoan hỷ thì như Đại Luận nói có ba nguyên do:

1. Từ bản nguyện mà được tên là Hoan hỷ. Tức tiền thân Đức Thích-ca là người thợ đồ gốm đã phát nguyện với Đức Phật Thích-ca ở quá khứ rằng: Con nguyện khi thành Phật thì lại có tên là Thích-ca và thị giả cũng tên là A-nan. Nay được làm thị giả rất xứng với bản nguyện, nên gọi là Hoan hỷ.

2. Từ cha mẹ mà đặt tên là Hoan hỷ, là khi Như Lai sắp thành đạo thì ma đến chỗ vua Tịnh Phạn bảo rằng “Con ông đã chết.” Vua cùng quyến thuộc rất buồn khổ, khi ấy trời Tịnh cư đến báo tin Thái tử đã thành chánh giác thì vua rất mừng rỡ. Lát sau khi vua Hộc Phạn báo tin sinh con trai. Vua càng vui mừng, bảo đứa nhỏ này sinh ra trong lúc vui mừng nên đặt tên là Hoan hỷ.

3. Từ thấy mà được tên. Vì A-nan thân tướng đoan nghiêm, người nhìn thấy đều yêu kính, sinh tâm vui mừng nên gọi là Hoan hỷ. Xét đến cùng cho đến thành tựu được năm lợi ích trước thì đã nói đầy đủ như trong chương Thân Tử.

– Đáp lời không kham “A-nan trở đi”. Văn có bốn:

1/ Chính từ chối không kham.

2/ Nói lý do không kham.

3/ Chính kể việc chê trách.

4/ Kết thành không kham.

– Chính đáp không kham. Bởi thuở xưa vì Phật xin sữa nên bị chê trách không đáp được, đâu dám lãnh ý thăm bệnh.

– Nói lý do không kham. Do Phật có bệnh nhẹ phải dùng sữa bò. Ngài A-nan cầm bát đi xin nên bị chê trách. Vì sao? Vì Tam tạng giáo chỉ nói sinh thân của Phật mà không nói pháp tánh ba thân ba đức. Sinh thân có chín việc, ép ngặt như đói, khát, lạnh, nóng, bệnh tật… Sở dĩ thân có chút bệnh phải dùng sữa bò, A-nan không biết là thân pháp tánh, bảo có bệnh là thật, nên bưng bát đi xin sữa. Ấy là bán tự đa văn không nghe pháp thân là thể kim cang, thường trú rỗng không do đó mà bị chê trách.

– Chính kể việc chê trách “thời Duy-ma trở xuống. Văn đây có ba phần:

  1. Hỏi ý xin.
  2. Chính chê trách.
  3. A-nan hổ thẹn.

– Phần một lại có hai: a. Tịnh Danh hỏi. b. A-nan đáp.

– Tịnh Danh hỏi: Sở dĩ hỏi, vì giờ khất thực chưa đến, nay ôm bát đến đây là muốn xin gì, muốn trách cứ nên trước hỏi rõ ý định. Nên hỏi vì sao sáng sớm ôm bát đứng đây.

A-nan đáp “ngã ngôn… chí thử”. A-nan chỉ chấp ý giáo Tam tạng giáo cho rằng Phật có bệnh nhẹ cần uống sữa, phận đệ tử phải cung phụng không trễ nãi, nên đến mà xin sữa.

Phần hai, Chính chê trách: Từ “Duy-ma-cật…”. Văn có bốn: a. Lại ngăn A-nan có hai hủy báng.

  1. Chỉ rõ thể kim cang.
  2. Kết hủy báng.
  3. Lại giải thích để đối phá.

Ngăn A-nan hủy báng: Nói chân pháp thân thì không có bệnh này. Sở dĩ ngăn hai thứ là ngăn hai hủy báng. Nói hai hủy báng là chê thêm và chê bớt. Chê thêm, là chân pháp thân của Phật Đoạn đức đầy đủ không có nhân quả của khổ, mà nói là có, tức chê thêm pháp thân. Nói chê bớt, là chân pháp thân của Phật Trí đức viên mãn, tức là thường quả, mà nói có bệnh, tức là chê bớt. Cho nên ở đoạn văn sau nói: “Chê hủy báng Như Lai.” Nay A-nan nói: “Thân có chút bệnh”tức có đủ cả hai hủy báng. Thế nên ngăn A-nan đừng nói lời ấy.

Chỉ rõ thân kim cang của Như Lai “Như Lai… hà não”: A-nan không lường được ý lại ngăn, do đó Tịnh Danh chỉ rõ thân Kim cang để đối phá giáo Tiểu thừa nói về sinh thân. Thân Như Lai là thể Kim cang, tức pháp thân, thường thân. Sở dĩ dụ với kim cang là vì thể bền chắc dụng, nhọn thấu suốt cả nguồn cội. Bền chắc dụ cho pháp thân không bị vọng hoặc sinh tử xâm phạm, thường trụ bất biến. Bén nhọn dụ cho trí đức Bát-nhã của pháp thân có công năng chiếu dụng khắp mọi nơi. Thấu suốt đến cội nguồn là dụ cho đoạn đức giải thoát của pháp thân, dứt hết tận cùng các hoặc chướng, ấy là ba đức như chữ nhất ở đời, nên mượn kim cang để dụ cho pháp thân.

Các ác đã đoạn, các thiện khắp hội, các ác đã đoạn tức là năm trụ đều dứt. Các thiện khắp hội, tức là Ma-ha Bát-nhã hay dẫn dắt muôn thiện còn mịt mờ ở Trung đạo được rốt ráo viên cực, ấy là ba đức của pháp thân nghĩa rất rõ ràng.

Còn có bệnh gì, còn có não gì, tức các ác đã hết thì không còn khổ quả, thì còn có bệnh gì? Các thiện khắp hội rốt ráo thường lạc nào có não gì? Đây là phá báo thân trí đoạn của Tam tạng giáo, nên nói là bệnh. Pháp thân trí đoạn của Đại thừa không có khổ, nên nói không có bệnh. Nói có bệnh tức là hai thứ hủy báng. Nhưng xưa ước bốn thời, năm thời nói rằng nói Bát-nhã cũng là Phật tám mươi tuổi. Giáo Phương đẳng này đồng với Thủ-lăng-nghiêm nói sống bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp mà chẳng chịu giải thích, mười đệ tử là hiển bày khô vinh, đâu được dùng vô thường làm mất văn kinh này.

Kết hai hủy báng. Văn có hai:

– Kết chê bớt.

– Kết chê thêm.

Một, Kết chê bớt, đem Luân vương làm chứng để làm sáng tỏ nghĩa này “hãy làm thinh bước đi”, là ngăn việc chê bớt nên nói “hãy làm thinh”; để ngăn việc chê thân nên nói “bước đi.” chân thân không bệnh, sao nhọc công xin sữa, nên khiến đi vậy. Nếu nói có bệnh, tức là nói thêm, chớ khiến người khác nghe lời thô thiển này, là kẻ ngoại đạo ôm lòng dị kiến, tức là người khác nghe Phật có bệnh cho rằng Phật tu thiện còn thô thiển, lạc quả không trọn nên còn bệnh tật, có khác gì người đời, tăng thêm hủy báng bậy, nên khuyên làm thinh đi đi.

Không nên khiến… là người có báo lành nhỏ đều được không bệnh tật. Nếu nghe A-nan nói Phật có bệnh liền rất quái lạ là Phật không hơn Luân vương. Vì Luân vương chỉ ba đời tu thập thiện, và tự hành hóa tha, đây là phước nhỏ mà còn được không bệnh, huống là Như Lai có vô lượng phước, hội vượt trội. Phật từ vô lượng kiếp đã tu Ma-ha Bát-nhã để dẫn dắt người muôn hạnh gặp chân lý tột chứng quả thường lạc, đâu được có bệnh. Nếu nói Phật có bệnh tức không bằng Luân vương, người có oai đức ở Tịnh độ và chư Thiên. Đâu không phải là làm tổn thương lớn ư?

Hai, Kết chê thêm Từ “Hành hỷ… nhân văn”. Đây là ý chê trách rằng: Nếu nói Phật có bệnh tức là chê thêm, pháp thân vốn không bệnh mà nói là có, tức là có quả bệnh. Quả tất do nhân, vậy nhân là Không lành, nếu có bệnh ác, tức là người ác há lại làm thầy người. A-nan đã là ngừời tu, tất phải xấu hổ với đồng bạn. Nếu nói lời này tất phải xấu hổ với Bồ-tát bốn chúng đệ tử. Nên nói: Chớ khiến bọn ta cùng chịu sự xấu hổ này. Ngoại đạo… đây là nêu đủ về thầy trò cùng chịu nhục, lại khiến nhiều tà nhân mang trọng tội phỉ báng, là việc không nên. Nên khiến hãy đi nhanh đi chớ để người nghe, nếu người không nghe thì không phô bày, không gây tổn nhục cho môn đồ và thêm nhiều người phỉ báng khác.

Lại giải thích “đương tri… hà tật”. Nói pháp thân không bệnh để phá A-nan thấy sinh thân có bệnh, chấp đây mà nói, liền thành hai hủy báng. Văn có bốn ý:

Từ “Đương tri… dục thân”, đây là giải thích về pháp thân đoạn đức. Tư tức là hành, dục tức là ái. Nếu cùng hành hợp với nhuận nghiệp mà thọ sinh, pháp thân đã đoạn dứt các nghiệp phiền não nội giới ngoại giới, nên nói không phải thân tư dục. Tức là phá báo thân Hữu dư của Tam tạng giáo, cũng còn là quả của nghiệp phiền não nội giới, nên nói là bệnh nhỏ. Nếu chấp đây mà nói tức là chê thêm. Phật là Thế Tôn vượt ngoài ba cõi, đây là giải thích pháp thân trí đức, vượt ngoài hai thứ của ba cõi. Há lại có bệnh của ba cõi nội giới, đây là phá sinh thân Hữu dư cũng còn có báo thân nội giới, nên có bệnh. Nếu chấp đây mà nói tức là chê bớt. Thân Phật vô lậu, các lậu đã hết, đây là giải thích pháp thân đoạn đức, không có ba lậu, hai thứ nội ngoại giới, nên không đọa lạc vào hai thứ sinh tử, há lại có cái quả hữu lậu nội giới, mà có bệnh ư? Đây là phá sinh thân hữu dư của Tam tạng giáo, là quả hữu lậu nên có bệnh nhẹ. Chấp đây mà nói tức là chê thêm. Thân Phật vô vi không đọa vào các số. Đây lại giải thích về pháp thân trí đức. Vô vi không phải là hữu vi nội ngoại giới, tức không có hai thứ số pháp ấm nhập, há lại có pháp ấm giới nhập nội giới. Nương theo đây mà có bệnh tức là phá sinh thân Phật của Tam tạng giáo cũng còn có quả báo ấm giới nhập… các pháp số, nên có bệnh. Nếu chấp đây mà nói tức là chê bớt. Thân như thế thì có bệnh gì, đây là tổng kết về pháp thân trí đoạn. Đã không có bốn lỗi này há được có bệnh, để phá lời A-nan nói, đến nổi thành hai hủy báng, trước đã giải thích ở chương Tu-bồ-đề nói về nghĩa hủy báng Phật. Đến đây thì ý đã sáng tỏ.

Phần ba, A-nan rất xấu hổ “thời ngã…”. Văn có hai: a) Chánh hổ thẹn. b) Trên không trung có tiếng an ủi.

– Chánh hổ thẹn. Xưa tự cho mình là học rộng, lãnh hội không nhầm lẫn, nay bị chê trách, bèn gây nên hai hủy báng, làm nhục cả thầy trò nên ôm lòng hỗ thẹn. Lại sợ ở gần Phật mà Phật nói không ngộ đến nỗi nghe lầm nên bị chê trách.

Tiếng trên không trung an ủy dụ A-nan “tức văn… vật tàm”, đã rất xấu hổ sợ gây ra tội hai thứ hủy báng, nên có tiếng trên không trung giải thích an ủi. Tiếng trên không trung là tiếng của pháp thân Tỳ-lô-giá-na, như Phổ Hiền quán đã nói.

Như cư sĩ nói, là như ngài Tịnh Danh nói pháp thân trí đoạn đầy đủ, thân này không bệnh không cần phải xin sữa, tức là thật trí. Lời nói ấy không hư dối. Chỉ vì Phật hiện ra trong đời ác năm trược bày việc này để độ thoát chúng sinh.

Năm trược là: Kiếp trược. Phiền não trược. Chúng sinh trược. Kiến trược. Mạng trược.

Nếu Phật xuất hiện trong đời ác năm trược này để độ các đệ tử Thanh văn độn căn thì chỉ dạy cả về người và pháp, nên hiện ra có bệnh, tức là quyền trí. Nay vì hóa độ Bà-la-môn nên nói cần lấy sữa để làm phước cho họ, vậy không nên xấu hổ. Ấy là hai thân Chân ứng nghĩa không đồng nhau. Bổn địa pháp thân tuy không có bệnh tật, nhưng trong tích phải ứng hiện đồng phương tiện để lợi vật. Nếu biết rõ ý này thì không có hai thứ hủy báng, không cần xấu hổ.

* Kết thành không kham: Từ “Thế Tôn… vấn tật”. Ngài A-nan tự nghĩ ngài Tịnh Danh đã biện tài chê trách như thế, đâu dám lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh.

B. Phật sai năm trăm đệ tử Từ “Như thị…”. Kinh vốn lược nêu khoảng này. Nhưng nếu năm trăm người bị chê trách, tức là có năm trăm Tỳ-kheo nương Tam tạng giáo vào đạo, ai nấy đều nói việc của mình, ngài Tịnh Danh lại dùng năm trăm pháp môn Đại thừa mà chê trách chiết phục, phân biệt các tướng, riêng hiển bày khô vinh, nhưng không trình bày ra đây chỉ nên để tâm mà hiểu.

 

0 0 Phiếu
Xếp Hạng Bài Viết
Đăng ký
Thông báo về
guest

0 Bình Luận
Mới nhất
Cũ nhất Được bình chọn nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận