SỐ 159
KINH ĐẠI THỪA BẢN SINH TÂM ĐỊA QUÁN
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Bát-nhã, người nước Kế tân
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
QUYỂN 8
Phẩm 10: QUÁN TÂM
Bấy giờ, Đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi liền từ tòa đứng dậy sửa lại y phục, trịch áo vai phải, gối phải sát đất, cung kính chắp tay bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, như Phật đã nói cho nhóm ông Trưởng giả Diệu Đức năm trăm người rằng: “Ta vì các ông diễn bày pháp môn tâm địa vi diệu”. Nay vô lượng vô biên đại chúng trời, người trong đạo tràng này đều sinh tâm khao khát mong muốn được lãnh hội, con vì tất cả những người ấy thưa hỏi Như Lai: Thế nào là “Tâm”? Thế nào là “Địa”? Kính xin Đức Thế Tôn đem tâm đại từ dứt mọi duyên chấp, tâm đại bi không còn chướng ngại, vì các chúng sinh phân biệt diễn nói cho những người chưa khỏi khổ được khỏi khổ, những người chưa an vui được an vui, những người chưa phát tâm được phát tâm, những người chưa chứng quả được chứng quả, đồng nơi Nhất đạo mà được Niết bàn.
Khi ấy, Đức Thế Tôn đem Đại diệu trí ấn thanh tịnh quyết định thắng nghĩa mà Ngài đạt được trong sự tu các phước đức, trí tuệ ở vô lượng kiếp, ấn chứng cho Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và nói:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Nay ông thực là Phật mẫu trong ba đời! Tất cả Như Lai ở nơi tu hành, ông từng dẫn đạo các Ngài khi mới phát tín tâm; bởi nhân duyên ấy, các bậc thành Chánh giác trong mười phương quốc độ, đều lấy Văn Thù Sư Lợi làm mẹ. Song, nay thân ông, vì nguyện lực xưa mà hiện ra hình tướng Bồ tát, thỉnh vấn Như Lai về pháp cao siêu không thể nghĩ bàn được. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và nhớ nghĩ khéo! Ta vì khắp tất cả mà phân biệt, giảng nói về vấn đề ấy.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch:
– Dạ, bạch Thế Tôn, chúng con thích được nghe.
Lúc đó, Đức Thế Tôn thành tựu tốt đẹp “Tối thắng trụ trì bình đẳng tánh trí” của tất cả Như Lai cùng mọi thứ công đức vi diệu hiếm có; Ngài đã khéo thu đạt được “Quyết định thắng pháp Đại thừa trí ấn” của tất cả chư Phật; đã khéo viên chứng được “Kim cang bí mật thù thắng diệu trí” của tất cả Như Lai; đã khéo an trụ nơi Vô ngại đại bi, tự nhiên cứu độ nhiếp phục chúng sinh trong mười phương; đã khéo làm viên mãn “Diệu quán sát trí”, không quán mà như quán, không nói mà như nói.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, bậc Đại Thánh vô cấu mẹ của chư Phật:
– Đại thiện nam, pháp ấy là “Tối thắng bí mật tâm địa pháp môn” của Như Lai trong mười phương. Pháp ấy là pháp môn “Đốn ngộ” của tất cả phàm phu vào cảnh giới Như Lai. Pháp ấy là “Đường chánh chân thực” của tất cả Bồ tát đi tới cõi Đại Bồ đề. Pháp ấy là “Cưng báu vi diệu” của chư Phật trong ba đời, tự an hưởng pháp lạc. Pháp ấy là “Kho báu vô tận” trong tất cả lợi ích cho chúng sinh. Pháp ấy hay dẫn dắt các chúng Bồ tát đến nơi Trí tuệ “Sắc cứu cánh tự tại”. Pháp ấy là bậc Đạo sư chân thực, hay dẫn dắt hậu thân Bồ tát đi tới cội Bồ đề. Pháp ấy như ngọc Ma-ni, hóa những của cải của thế gian, xuất thế gian làm cho chúng sinh luôn mãn nguyện. Pháp ấy sinh ra nguồn gốc công đức của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời. Pháp ấy hay làm tiêu tan các nghiệp quả ác của tất cả chúng sinh. Pháp ấy hay làm cho tất cả chúng sinh sự ấn chứng về việc nguyện cầu. Pháp ấy hay độ cho tất cả chúng sinh bị sinh tử hiểm nạn. Pháp ấy hay làm ngừng sóng cồn biển khổ cho tất cả chúng sinh. Pháp ấy hay cứu vớt cấp thiết mọi hoạn nạn cho chúng sinh khổ não. Pháp ấy làm khô kiệt biển lão, bệnh, tử cho tất cả chúng sinh. Pháp ấy hay làm phát sinh chủng tử nhân duyên của chư Phật. Pháp ấy là đuốc trí tuệ lớn soi sáng cho chúng sinh trong đêm dài sinh tử. Pháp ấy là áo giáp, mũ trụ để phá tan binh chúng của bốn thứ ma. Pháp ấy tức là cờ xí chiến thắng của đạo quân dũng mãnh. Pháp ấy tức là xe pháp vô thượng của tất cả chư Phật. Pháp ấy tức là cờ pháp tối thắng. Pháp ấy tức là gióng trống đại pháp. Pháp ấy tức là thổi loa pháp lớn. Pháp ấy tức là đại Sư tử vương. Pháp ấy tức là tiếng gầm của đại Sư tử. Pháp ấy cũng như bậc Đại Thánh vương trong nước khéo làm việc cai trị chân chánh, nếu thuận theo sự giáo hóa ấy thời được an lạc lớn, còn nếu trái lại thì liền bị tru diệt.
Thiện nam, trong ba cõi lấy “tâm” làm chủ. Người quán được tâm, thì được giải thoát rốt ráo; người không quán được tâm, thì ở mãi trong nẻo trói buộc chìm đắm. Tâm của chúng sinh cũng như đại địa. Mọi thứ thóc lúa hoa quả đều từ đại địa sinh ra. Như vậy tâm pháp sinh ra thiện ác thế gian và xuất thế gian năm cõi, các bậc Hữu học, bậc Vô học, bậc Độc giác, bậc Bồ tát, cũng như đối với chư Như Lai. Do nhân duyên ấy, nên ba cõi do tâm, “tâm” được gọi là “địa”. Tất cả phàm phu thân cận bạn lành, nghe pháp tâm địa, như lý quán sát, theo như lời nói tu hành, hoặc tự mình làm, hoặc dạy người làm, khen ngợi khuyên gắng, đón mừng, an ủi, những người như thế, sẽ dứt được ba chướng, mau trọn muôn hạnh và chóng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ tát bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, như Phật nói: Chỉ đem tâm pháp làm chủ ba cõi, tâm pháp vốn là Không, không nhiễm bụi nhơ, tại sao tâm pháp lại nhiễm tham, sân, si? Đối với pháp trong ba đời, cái gì cho là tâm? Tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không an trụ, nội tánh của các pháp tìm không thể được, ngoại tướng của các pháp tìm không thể được, trung gian của các pháp cũng đều tìm không thể được; bản lai tâm pháp không có hình tướng, bản lai tâm pháp không có trụ xứ, tất cả Như Lai hãy còn không thấy tâm, huống là người khác được thấy tâm pháp? Tất cả các pháp từ vọng tưởng sinh, vậy do nhân duyên gì, hôm nay Thế Tôn vì đại chúng nói “Tam giới duy tâm”? Xin Phật thương xót, như thực giảng giải cho!
Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:
– Đúng như thế, đúng như thế! Thiện nam, như ông hỏi Ta “Bản tánh của tâm, tâm sở pháp” là vắng lặng tịch tĩnh, nay Ta sẽ nêu các thí dụ để chứng minh nghĩa ấy.
Thiện nam, tâm như huyễn pháp, do biến kế chấp sinh, các món tâm tưởng, thọ nhận, vui, khổ. Tâm như dòng nước chảy, niệm niệm sinh diệt, đối với đời trước, sau không hề dừng. Tâm như gió lớn, trong khoảng sát na đi qua mọi hướng. Tâm như đèn lửa, mọi duyên hòa hợp sinh ra. Tâm như chớp sáng, chỉ khoảng chốc lát, chứ không dừng lâu. Tâm như hư không, như bị khách trần phiền não ngăn che. Tâm như con hầu, con vượn, nhảy nhót trên cây năm dục không lúc nào dừng. Tâm như họa sĩ, vẽ ra mọi hình sắc thế gian. Tâm như kẻ tôi tớ, bị các phiền não sai khiến. Tâm như kẻ độc hành, không có người thứ hai. Tâm như quốc vương, khởi ra mọi sự, đạt được tự tại. Tâm như oán gia, khiến cho tự thân chịu bao khổ não. Tâm như bụi trần, bám nhơ tự thân, sinh ra nhớp nhúa. Tâm như ảnh tượng, đôi với pháp vô thường chấp là thường. Tâm như huyễn mộng, đối với pháp vô ngã, thì chấp làm ngã. Tâm như Dạ xoa, ăn mất mọi pháp công đức. Tâm như con nhặng xanh, ham đồ dơ xấu. Tâm như kẻ sát nhân, hay hại thân mạng. Tâm như kẻ đối địch, thường rình mò lầm lỗi. Tâm như giặc trộm, trộm mất các công đức. Tâm như trống lớn, thúc giục sự chiến đấu. Tâm như con thiêu thân, ưa thích màu sắc đèn sáng. Tâm như con hươu đồng, chạy theo tiếng gọi giả. Tâm như đàn lợn, thích đồ tạp uế. Tâm như đàn ong, gom góp mùi mật ngọt. Tâm như voi say mê theo voi cái.
Này thiện nam, như thế nói về tâm, tâm sở pháp không trong, không ngoài, cũng không trung gian, đối với mọi pháp tìm không thể được, quá khứ, vị lai, hiện tại cũng không thể tìm được, siêu việt ba đời, chẳng phải có, chẳng phải không. Chúng sinh thường ôm ấp sự nhiễm đắm, nhiễm đắm từ vọng duyên khởi mà duyên không có tự tánh, nên tánh của tâm là Không. Như thế tánh Không là không sinh, không diệt, không đến, không đi, không một, không khác, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, vốn không có nơi sinh, cũng không có nơi diệt, cũng chẳng phải xa lìa và chẳng phải xa lìa.
Những tâm như thế không khác với vô vi và thể của vô vi không khác với những tâm ấy. Thể của tâm pháp vốn không thể nói được, thời cái chẳng phải tâm pháp cũng không thể nói được. Sao vậy? Nếu vô vi là tâm, tức là đoạn kiến; nếu lìa tâm pháp tức là thường kiến. Lìa hẳn hai tướng, không chấp trước hai bên, ngộ được như thế gọi là “Chân đế” và người ngộ được Chân đế ấy là Hiền thánh. Tất cả Hiền thánh tánh vốn vắng lặng tịch tĩnh, trong pháp vô vi, giới không có trì, phạm, cũng không có lớn, nhỏ, không có tâm vương, tâm sở pháp và không có khổ, không có vui. Như thế, tự tánh của pháp giới là vô cấu, không có tướng sai biệt thượng, trung, hạ. Sao vậy? Vì tánh của pháp vô vi ấy là bình đẳng, như nước mọi dòng sông chảy vào trong biển đều đồng một vị, không có tướng sai biệt. Tánh vô cấu ấy là không gì sánh bằng, xa lìa mọi nẻo ngã và ngã sở. Tánh vô cấu ấy chẳng phải thực, chẳng phải hư. Tánh vô cấu ấy là Đệ nhất nghĩa, vì nó không có tướng hết và diệt, thể nó vốn không sinh. Tánh vô cấu ấy, thường trụ bất biến, vì là tối thắng Niết bàn gồm đủ ngã, lạc, thanh tịnh. Tánh vô cấu ấy, xa lìa tất cả sự bình đẳng và bất bình đẳng, vì thể của nó là không khác.
Nếu có các vị thiện nam, thiện nữ nào muốn cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cần nên một lòng tu tập quán pháp Tâm địa như thế!
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại ý nghĩa ấy, Ngài nói bài kệ:
Mẹ Phật ba đời – Diệu Cát Tường
Xin hỏi Như Lai: “Tâm địa pháp”
Ta nay trong đại hội chúng này
Nêu bày quán hạnh môn thành Phật.
Pháp này khó gặp hơn Ưu-đàm
Tất cả thế gian nên ngưỡng vọng.
Chư Phật mười phương chứng Đại giác
Đều từ pháp này mà tu hành.
Ta là Vô Thượng, Điều Ngự Sư,
Chuyển xe Chánh pháp khắp thế giới
Hóa độ vô lượng các chúng sinh
Nên biết, do ngộ Tâm địa quán.
Tất cả chúng sinh nghe pháp này,
Mừng tới Bồ đề được thọ ký
Những người hữu duyên được thọ ký
Tu quán môn này sẽ thành Phật.
Chư Phật tự hưởng pháp lạc lớn
Ở cung báu diệu Tâm địa quán
Nhận chức Bồ tát, ngộ Vô sinh
Quán Tâm địa môn khắp pháp giới.
Hậu thân Bồ tát ngồi cội “giác”
Nhập quán hạnh này chứng Bồ đề.
Pháp ấy hay mưa “bảy Thánh tài”
Như Ma-ni, mãn nguyện chúng sinh.
Pháp ấy gọi là Phật mẫu xưa
Xuất sinh ba thân Phật ba đời.
Pháp ấy gọi là giáp Kim cang
Chống với bốn chứng các ma quân.
Pháp ấy hay làm thuyền bè lớn
Khiến qua giữa dòng đến chốn báu.
Pháp ấy là trống pháp tối thắng.
Pháp ấy là cờ pháp nêu cao.
Pháp ấy là loa pháp Kim cang,
Pháp ấy là đuốc pháp soi đàng.
Pháp ấy cũng như đại Thánh chủ
Thưởng công, phạt tội, thuận nhân tâm.
Pháp ấy cũng như nước ngấm ruộng
Sinh thành, nuôi lớn theo thời tiết.
Ta dùng ví dụ tỏ nghĩa “không”
Thế biết ba cõi chỉ một tâm.
Tâm có đại lực sinh thế giới
Tự tại hay làm chủ biến hóa.
Tưởng ác, tâm thiện lại tạo tập
Quá, hiện, vị lai, nhân sinh tử
Nương tựa vọng nghiệp tạo thế gian
Ái, phi ái quả thường tương tục.
Tâm như nước chảy chẳng chút dừng
Tâm như gió bay qua các nước.
Cũng như hầu, vượn bám cành đùa
Cũng như sự giả, nương giả thành,
Như không, chim bay không chướng ngại
Như làng xóm vắng người qua lại.
Tâm pháp như thế vốn chẳng có
Phàm phu mê chấp cho là có
Nếu hay quán “Tâm thể tánh không ”
Hoặc chướng không sinh, liền giải thoát.
Khi ấy, Đức Như Lai đối với các chúng sinh khởi tâm đại bi, cũng như cha mẹ nhớ đến con một, vì muốn diệt trừ sức mạnh nơi tà kiến của thế gian, đem lại lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh, nên Ngài tuyên thuyết thần chú quán tâm rằng: “úm, thất tha, ba la để, phệ đạn, ca lư nhị”.
Đức Như Lai nói chân ngôn ấy rồi, bảo Đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:
– Thần chú ấy gồm đủ uy lực lớn, nếu có thiện nam, thiện nữ nào khi trì chú ấy, giơ tay trong sạch lên, mười ngón tay trái và phải bắt tréo lại với nhau, rồi lấy tay phải áp lên tay trái, nắm chặt lấy nhau như dây buộc, gọi là Kim cang phược ấn. Thành ấn ấy rồi, đọc tụng chân ngôn trước trọn đủ một lượt, thì hơn cả đọc tụng mười hai bộ kinh và có được công đức không thể hạn lượng, cho đến quả vị Bồ đề không bị thoái chuyển.