PHẬT THUYẾT QUÁN PHẬT TAM MUỘI HẢI KINH

Hán dịch: Đời Đông Tấn, người xứ Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Phật-đà Bạt-đà-la
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
[vc_separator color=”sky” style=”shadow” border_width=”6″ el_width=”30″]

 

Phẩm 6: QUÁN BỐN OAI NGHI

(Từ giữa quyển 6 – hết quey63n 7)

Bấy giờ, Đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, liền đứng dậy, bước chân đi vào hư không, vua cha nhìn thấy, lòng rất hoan hỷ, cũng đi theo Đức Phật. Khi Đức Phật nhấc chân lên, xuất hiện tướng bánh xe có một ngàn nan hoa dưới chân. Mỗi bánh xe đều mưa xuống tám vạn bốn ngàn hoa sen báu. Mỗi hoa sen báu lại hóa ra tám vạn bốn ngàn ức vô số hoa. Mỗi hoa sen báu hóa thành một đài hoa. Mỗi đài hoa, mỗi cánh hoa che khắp vô lượng thế giới ở mười phương. Mỗi hoa sen có tám vạn bốn ngàn cánh. Mỗi bước chân của Đức Thích-ca Mâu-ni bước vào hư không đều mưa xuống hoa báu. Mỗi hoa như vậy lại có vô lượng bước chân Phật bước vào hư không nhiều như bụi trần. Vua cha nhìn thấy, lòng rất vui mừng, đắc quả A-na-hàm, năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ Phật. Đại chúng trong hội đều nhìn thấy việc này, bạch Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Thế giới ở mười phương có vô số Hóa Phật. Vị nào là Đức Phật thật? Vị nào là Hóa Phật?

Đức Phật bảo đại chúng rằng:

–Các Đức Phật Như Lai nhập vào cảnh giới rỗng lặng, Tammuội Giải thoát, tùy ý tự tại không có thân thật hay thân biến hóa. Vì sao? Vì tâm Phật tịch tĩnh, lại nhập vào Tam-muội Không tịch giải thoát quang minh vương. Nhờ năng lực của định này nên các Đức Phật Như Lai hóa ra vô biên thân. Vô biên thân chính là Nhất thiết trí. Nhất thiết trí gọi là Tam-muội Vô trước. Nhờ Tam-muội Vô trước nên Đức Như Lai thị hiện các hạnh, hoặc hiện đi khất thực, hoặc hiện đi kinh hành. Hai pháp như vậy đem lại lợi ích cho chúng sinh. Nếu chúng sinh nào, khi Phật còn ở đời, nhìn thấy Đức Phật đi. Trong từng bước từng bước, thấy được tướng bánh xe có ngàn nan hoa thì họ tiêu trừ được tội ác cực nặng trong một ngàn kiếp. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, người nào nhập vào Tam-muội Chánh thọ quán tưởng bước đi của Phật thì cũng tiêu trừ được tội ác cực nặng trong một ngàn kiếp. Người tuy chẳng quán tưởng sự đi của Phật mà thấy dấu chân của Phật, thấy hình tượng Phật đi từng bước từng bước thì cũng tiêu trừ được nghiệp ác cực nặng trong một ngàn kiếp.

Đức Phật bảo A-nan rằng:

–Từ hôm nay, ông hãy đem lời dạy của Như Lai nói cho khắp các đệ tử rằng, sau khi Phật diệt độ, tạo hình tượng đẹp khiến cho thân tướng đầy đủ, cũng làm ra sắc tượng của vô lượng Hóa Phật và khai thông ánh sáng nơi thân cùng vẽ dấu chân của Phật bằng lụa màu vi diệu và đem ngọc pha lê đặt ở chỗ tướng Bạch hào khiến cho chúng sinh được thấy tướng đó. Chỉ thấy tướng này, lòng sinh hoan hỷ thì người này trừ bỏ được tội sinh tử trong trăm ức vô số kiếp nhiều như số cát sông Hằng.

Nói lời đó xong, Đức Như Lai lại ngồi vào tòa.

Vua cha lại hỏi Đức Phật rằng:

–Xuất thế gian có lợi ích gì? Có thể làm cho chúng sinh an vui sao?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với vua cha rằng:

–Ông trưởng giả Tu-đạt trong thành Xá-vệ có nuôi một bà lão tên là Tỳ-khư-la, cẩn trọng siêng năng đối với gia nghiệp nên được ông trưởng giả cho giữ chìa khóa kho. Việc xuất nhập, lấy cho tất cả đều giao cho bà. Ông trưởng giả Tu-đạt thỉnh Phật và chúng Tăng để cung cấp những đồ cần dùng. Có vị Tỳ-kheo bệnh yêu cầu nhiều thứ. Bà lão vốn bỏn sẻn tham lam, sân giận, tỵ hiềm đối với Phật, Pháp và chúng Tăng nên nói rằng: “Ông trưởng giả nhà ta ngu si mê hoặc bị pháp thuật của Sa-môn. Những kẻ ăn xin đó muốn nhiều không chán. Có thứ đạo gì lạ vậy?” Nói lời đó rồi, bà lại phát nguyện ác rằng: “Khi nào mới được không nghe danh hiệu Phật, chẳng nghe tên Pháp, chẳng thấy những người cạo đầu nhuộm áo?” Tiếng ác như vậy được một người nghe rồi lại hai người nghe… lần lượt khắp trong thành Xá-vệ đều nghe. Phu nhân Mạt-lợi nghe lời nói này rồi, nói rằng: “Tại sao ông Tu-đạt như hoa sen đẹp, mọi người ưa nhìn thấy? Tại sao ông lại có con rắn độc hộ vệ?” Nói lời đó xong, bảo ông Tu-đạt rằng: “Ông hãy sai vợ ông đến, ta muốn nói chuyện với bà ấy!” Bà A-na-bân-đê đi mau đến cung vua, đến làm lễ xong, lui đứng qua một bên. Phu nhân Mạt-lợi lệnh cho tòa ngồi, khách ngồi xong, phu nhân nói rằng: “Bà lão của gia đình ngươi ác khẩu, hủy báng Tam bảo sao chẳng đuổi bà ấy đi!” Bà A-na-bân-đê quỳ xuống bạch rằng: “Mặt trời Phật ra đời được nhiều sự thấm nhuần, lợi ích! Ương-quật-ma-la là người đại ác, Ni-đề kẻ hèn hạ, Khí-hư hạng Chiên-đà-la… Đức Phật đều có thể thu phục, huống gì một nô tỳ già mà chẳng thể điều phục?” Phu nhân Mạt-lợi nghe lời đó rồi, rất vui mừng, nói rằng: “Ta muốn thỉnh Đức Phật, bà hãy sai bà lão nô tỳ đó đến!” Hôm sau, đến giờ ăn, phu nhân thỉnh Đức Phật và Tăng chúng vào cung cúng dường. Ông trưởng giả sai bà lão mang bình đựng đầy ngọc ma-ni, vàng đến khuyến trợ nhà vua cúng dường chúng Tăng, bảo rằng: “Này người đáng tin cậy! Ngươi hãy đem cống vật này dâng lên nhà vua!” Bà lão nô tỳ nghe lời nói đó rất vui mừng, mang bình báu chạy đi. Phu nhân Mạt-lợi thấy bà lão kia đến thì nghĩ rằng: “Người tà kiến sẽ được Đức Phật hóa độ. Ta thấy người này khi được hóa độ, nhất định sẽ đạt được pháp lợi.”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ cửa chính đi vào, Nan-đà ở bên trái, A-nan ở bên phải, La-hầu-la theo sau Đức Phật. Bà lão thấy Đức Phật, lòng kinh hãi, dựng tóc gáy, nghĩ rằng: “Thật đáng ghét! Người này theo ta đến sau!” Tức thời bà muốn rút lui, theo lỗ chó chui ra thì lỗ chó liền đóng lại, những hẻm nhỏ bốn phía đều đồng thời đóng chặc lại, chỉ có con đường chính mở ra. Bà lão che mặt bằng quạt, tự ngăn chẳng muốn thấy Đức Phật. Nhưng Đức Phật ở trước bà khiến cho quạt trong suốt như gương, không có gì ngăn ngại. Bà quay đầu về Đông nhìn thấy phương Đông có Phật, về Nam nhìn thấy phương Nam có Phật, về Tây nhìn thấy phương Tây có Phật, về Bắc nhìn thấy phương Bắc có Phật, ngẩng đầu ngước nhìn lên phương trên có Phật, cúi đầu sát đất thì đất hóa thành Phật, dùng tay che mặt thì mười ngón tay đều hóa thành Phật. Bà lão nhắm mắt lại thì tâm nhãn liền mở ra, thấy tất cả hóa Phật trong hư không đầy khắp các cõi mười phương.

Khi tướng này hiện, trong thành Xá-vệ có hai mươi lăm người con gái Chiên-đà-la, năm mươi người con gái Bà-la-môn và những người hèn hạ cùng với năm trăm người con gái trong cung của phu nhân Mạt-lợi, lòng sinh hủy báng, chẳng tin Phật pháp. Họ thấy Đức Phật Như Lai, chân bước đi trong hư không, vì bà lão, hiện ra vô số thân, lòng rất vui mừng, phá tan lưới tà kiến, cúi đầu cung kính đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng âm thanh Phạm an ủi những người con gái rằng:

–Này những người con gái! Các cô hôm nay có thể xưng lên Thích-ca Mâu-ni! Xưng danh hiệu của ta, quán tưởng thân tướng của ta, các cô sẽ được giải thoát.

Đức Phật nói lời đó xong thì những người con gái đồng thanh nói: “Nam-mô Phật”. Đức Phật phóng ra ánh sáng tướng lông trắng giữa hai chân mày soi sáng tâm của những người con gái. Những người con gái thấy Đức Phật bước đi oai nghi đĩnh đạc, dưới chân mưa hoa giống như chiếc lọng hoa, hóa Phật nhiều như rừng cây chẳng thể kể xiết. Những người con gái nhìn thấy vậy đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bà lão thấy Đức Phật, tà kiến chẳng tin mà còn trừ được tội sinh tử của tám mươi vạn ức kiếp, huống là lại có thiện ý cung kính lễ bái. Bấy giờ, bà lão nhờ được thấy Đức Phật nên hẻm nhỏ, lối mòn mở ra trở lại, liền chạy vội về nhà, thưa với chủ nhà rằng:

–Hôm nay, tôi gặp phải điều rất xấu là phải đối mặt với ông Sa-môn Cù-đàm tại cửa cung vua, trước mặt nhiều người. Ông ấy làm những điều yêu mị biến hóa, thân như núi vàng ròng, nhiều loại hoa ánh lên đẹp đẽ, mắt hơn hẳn đóa sen xanh, có hàng vạn ức ánh sáng, chẳng thể thấy đủ được. Sa-môn giỏi huyễn thuật, thế gian không ai sánh bằng. Đại gia tuổi nhỏ có thể chẳng ưa nhìn thấy.

Nói lời đó rồi, bà vào trong lồng gỗ, dùng hàng trăm bức màn bằng da che bên trên lồng gỗ, dùng vải trắng buộc đầu, lui vào nằm chỗ tối. Bấy giờ, Đức Thế Tôn trở lại rừng Kỳ-đà. Phu nhân Mạt-lợi bạch rằng:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn hóa độ cho bà lão tà kiến, đừng trở lại tinh xá!

Đức Phật bảo bà Mạt-lợi rằng:

–Người đàn bà này tội nặng, đối với Phật không có duyên, nhưng đối với La-hầu-la thì có nhân duyên lớn. Hôm nay, Phật đi là để tiêu trừ tội cho bà ấy.

Nói lời đó rồi, Đức Phật liền trở về tinh xá, bảo La-hầu-la rằng:

–Ông hãy đi đến nhà ông đại trưởng giả Tu-đạt, hóa độ bà lão ác!

Khi Đức Phật nói lời đó, một ngàn hai trăm năm mươi vị Samôn đều thưa rằng:

–Chúng con hôm nay nguyện xin đi theo!

Bấy giờ, La-hầu-la nương uy thần Đức Phật, nhập vào định Như ý, lễ bái xong, nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, liền tự hóa thân làm Chuyển luân thánh vương, A-nan hầu bên trái, Nan-đà hầu bên phải. Một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo hóa thành một ngàn người con, A-nan làm thần Điển tạng, Nan-đà làm thần Chủ binh, bảy báu bốn binh đều đầy đủ. Lúc đó, bánh xe vàng báu ở trong hư không, ở trên đài hoa sen dẫn đường đến nhà trưởng giả Tu-đạt. Quỷ Dạ-xoa nói lớn rằng:

–Thánh vương ra đời, đuổi hết những người ác, tuyên dương pháp thiện!

Bà lão nghe rồi, lòng rất vui mừng nghĩ rằng: “Thánh vương xuất hiện thì có ngọc Như ý. Điều gì cầu xin mà chẳng thể được thì nên nói ở đây!”

Bấy giờ, Thánh vương khua chuông, đánh trống, cỡi xe báu lớn đi đến nhà ông Tu-đạt. Bà lão nhìn thấy rất vui mừng nghĩ rằng: “Thánh vương ra đời đem lại nhiều điều thấm nhuần lợi ích, biết phân biệt thiện ác, nhất định sẽ chẳng bị sự mê hoặc của Sa-môn”. Bà từ lồng cây chui ra, lễ kính Thánh vương. Thánh vương liền sai thần Chủ tạng báu đi đến chỗ bà bảo rằng:

–Này người chị em! Đời trước của ngươi có phước ứng với tướng Vương giả. Hôm nay Thánh vương muốn dùng ngươi làm Ngọc nữ báu!

Bà lão thưa rằng:

–Thân con thấp hèn giống như phân bẩn, được Thánh vương hạ cố hỏi đến đã là vui mừng không lường! Làm sao đủ sức làm Ngọc nữ báu? Nếu ngài đoái thương đến con thì lệnh cho đại gia của con thả con được giải thoát. Sự ân tứ này đã là nhiều lắm rồi!

Khi ấy, Thánh vương bảo Tu-đạt rằng:

–Bà lão của ngươi, các tướng cao vời, nay ta muốn đem sung làm Ngọc nữ báu!

Tu-đạt bạch rằng:

–Tuân mạng! Theo lệnh ngài, nguyện dâng lên Đại vương!

Bà lão nghe mình được phóng thích, vui sướng vô cùng. Thánh vương liền dùng ngọc Như ý soi sáng mặt bà khiến cho bà tự thấy mình như Ngọc nữ báu nên hoan hỷ bội phần, nói rằng:

–Các Sa-môn bàn cao nói lớn, tự nói có đạo mà không một chút hiệu nghiệm! Bậc Thánh vương ra đời đem lại nhiều lợi ích rộng lớn, khiến cho thân già tệ hại của ta giống như Ngọc nữ báu.

Nói lời đó rồi, bà gieo mình sát đất, đảnh lễ Thánh vương. Bấy giờ thần Điển tạng tuyên bố lệnh dạy của vua là xiển dương mười pháp thiện. Người nữ tỳ nghe mười pháp thiện, lòng rất vui mừng, liền nghĩ rằng: “Ý nghĩa lời nói của Thánh vương thì không gì chẳng thiện!” Rồi bà đảnh lễ hối lỗi đức vua tự trách mình nên tâm được thuần thục. Lúc đó, La-hầu-la trở lại thân cũ, bà lão ngẩng đầu lên thấy một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo, liền nói rằng:

–Phật pháp thanh tịnh chẳng bỏ chúng sinh! Tệ ác như ta mà còn được hóa độ!

Nói lời đó rồi, bà cầu thọ năm giới. La-hầu-la vì bà nói pháp Tam quy và trao cho năm giới. Bà lão nghe pháp này, trong khoảnh khắc chưa cất đầu lên đã thành đạo quả Tu-đà-hoàn. Thần đất vui mừng, từ đất vọt lên bảo Tu-đạt rằng:

–Hay thay! Thưa Trưởng giả! Phá tan lưới tà kiến! Đức Như Lai ra đời chính là vì điều này!

La-hầu-la đưa bà lão đến rừng Kỳ-đà. Đến nơi bà thấy thân tướng Đức Phật màu vàng ròng, hoan hỷ chắp tay đảnh lễ Đức Phật, sám hối tội đã tạo từ trước, cầu xin Đức Phật được xuất gia. Đức Phật bảo La-hầu-la:

–Ông đem bà lão này đến chỗ di mẫu Kiều-đàm-di!

Trong thời gian trên đường đi, La-hầu-la vì bà nói pháp khổ, không, vô thường, vô ngã… Bà lão nghe pháp xong, đầu tóc tự rụng, thành Tỳ-kheo-ni với ba Minh, sáu Thông, đủ tám Giải thoát, thân bay lên hư không thực hiên mười tám sự biến hóa. Phu nhân Mạt-lợi của vua Ba-tư-nặc thấy sự biến hóa này, lòng rất vui mừng khen rằng:

–Hay thay! Mặt trời Phật xuất hiện ở thế gian phá tan bóng tối vô minh, khiến cho người tà kiến đạt đạo A-la-hán.

Nói lời đó xong, phu nhân đảnh lễ Đức Phật, bạch rằng:

–Bạch Thế Tôn! Bà lão này đời trước có tội gì mà sinh ra chỗ thấp hèn, làm tôi tớ của người? Lại có phước gì mà may mắn được gặp Đức Thế Tôn, như tấm vải trắng tốt dễ nhuộm màu sắc, ngay tức thời được đạo A-la-hán?

Đức Phật bảo rằng:

–Này Đại vương! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy nghĩ điều đó! Như Lai sẽ vì Đại vương phân biệt giảng nói! Thuở quá khứ xa xưa cách đây vô số kiếp, có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Nhất Bảo Cái Đăng Vương Như Lai… đầy đủ mười hiệu. Sau khi Đức Phật đó diệt độ, trong đời Tượng pháp, có vị vua tên là Tạp Bảo Hoa Quang. Vua ấy có người con tên là Khoái Kiến, cầu xin được xuất gia. Vua cha liền đồng ý. Vương tử đi vào núi, đến trong Tăng phường cầu xin xuất gia thì có một vị Tỳ-kheo thông minh, đa trí, hiểu sâu thật tướng nhận làm đệ tử. Lại có một Tỳ-kheo tên là Đức Hoa Quang, khéo léo nói điều cốt yếu của pháp động viên, sách tấn lúc mới học. Vương tử Tỳ-kheo tuy đã xuất gia nhưng còn tâm kiêu mạn. Hòa thượng vì vương tử nói pháp vi diệu sâu xa, ý nghĩa đại Không của Bát-nhã ba-la-mật.

Vương tử nghe rồi lý giải lầm lẫn, giảng nói tà bậy. Sau khi vị Tỳ-kheo diệt độ, vương tử liền nói rằng: “Đại Hòa thượng của ta rỗng không, không có trí tuệ, chỉ có thể khen ngợi việc hư vô, rỗng không. Nguyện xin đời sau của ta, chẳng ưa thấy vậy. Vị A-xà-lê của ta trí tuệ biện tài, nguyện xin đời đời làm Thiện tri thức.” Tỳkheo vương tử nói lời đó xong thì từ đó, hễ pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, dạy đồ chúng làm theo tà kiến. Tuy giữ gìn giới cấm uy nghi chẳng sai sót, nhưng do lý giải lầm lẫn nên sau khi qua đời, nhanh chóng như tên bắn, bị đọa vào địa ngục A-tỳ, tám mươi ức kiếp luôn chịu khổ não, tội hết mới ra làm người nghèo hèn, năm trăm đời làm người tai điếc, mắt mù, một ngàn hai trăm kiếp luôn làm tôi tớ cho người.

Khi Đức Phật nói điều đó, phu nhân Mạt-lợi có năm trăm nữ tỳ sám hối, tự trách, phát tâm Bồ-đề, nguyện xin đời sau hiểu rõ được pháp Không sâu xa.

Đức Phật bảo Đại vương rằng:

–Vị Hòa thượng ấy, nay chính là thân ta! Vị A-xà-lê nay chính là La-hầu-la! Vị Tỳ-kheo vương tử chính là bà lão này! Đồ chúng đệ tử thì hôm nay là những người con gái tà kiến đang phát tâm Bồ-đề!

Khi Đức Phật nói điều này thì hai vạn Ưu-bà-tắc trong thành Xá-vệ đều phát tâm Bồ-đề, được định Niệm Phật, thường ở trong định thấy Đức Phật nói pháp. Đức Phật nói với phụ vương rằng:

–Người ác tà kiến khi thấy Đức Phật đi còn được vô lượng phước đức như thế này, huống gì là người quán tưởng sự đi của Phật và tượng Phật.

Vua cha bạch Phật rằng:

–Phật mẫu Ma-gia sinh lên cõi trời Đao-lợi. Đức Phật hôm nay có tướng ánh sáng thần thông đầy đủ, chừng nào sẽ đến vì mẹ nói pháp?

Đức Phật nói với vua cha rằng:

–Như Lai sẽ đúng như pháp bước đi của Chuyển luân thánh vương từ cõi Diêm-phù-đề lên cõi trời Đao-lợi thăm hỏi Đàn-việt và nói pháp nhiệm mầu.

Lúc ấy, trong hội có vị Đại Bồ-tát tên là Trì Địa liền đứng dậy nhập vào Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Nhờ năng lực của Tam-muội nên từ bờ cõi Kim cương mà Kim cương làm vòng, Kim cương, Kim cương làm hoa rồi từng hoa từng hoa kế tiếp nhau ra khỏi cõi Diêmphù-đề. Bốn vua rồng Nan-đà, Bạt-nan-đà, A-nậu-đạt-đa, Ta-giàla… đều đem bảy báu đi đến chỗ ngài Trì Địa. Họ dâng bảy báu để vì Đức Phật Thế Tôn làm ba đường thềm báu, bên trái bằng bạc, bên phải bằng pha lê, chính giữa bằng vàng ròng, từ bờ cõi Kim cương của Diêm-phù-đề lên đến cung trời Đao-lợi. Mỗi thềm báu có bảy lớp lan can. Những lan can đó do trăm ức châu báu tạo thành có trăm ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng có trăm ức hoa báu. Trong mỗi hoa có vô lượng nhạc cụ tự nhiên vọt ra.

Bấy giờ, Bồ-tát Trì Địa đem hằng hà sa số hoa sen bảy báu bày ra ở chỗ bước chân đi của Đức Phật. Ở bên đường thềm dựng lên các cờ báu, có vô lượng phướn báu treo trên đầu những cờ báu ấy. Che khắp bên trên là hàng trăm ức lọng báu. Chư Thiên cõi trời Đao-lợi mưa xuống hoa Mạn-đà-la, hoa Đại mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Đại mạn-thù-sa để trang trí vùng ấy. Vua trời Phạm tay nâng lò hương cùng với hàng vạn Phạm chúng đều đứng hầu bên thềm. Mỗi làn khói thơm như mây lưu ly đầy khắp hư không. Trong mây ấy có trăm ngàn loại âm nhạc, chẳng đánh mà tự trổi lên. Vua rồng Nanđà… đem bột thơm Hải thử ngạn chiên-đàn tung rải tràn lan trên đường đi. Ánh sáng hương thơm tỏa lên như ánh vàng ròng rực sáng cao đến một cây Đa-la, rồi hóa thành đài vàng. Vô lượng chư Thiên đem chuỗi ngọc của trời trang trí đường thềm. Những vậy cúng dường như vậy nhiều chẳng thể kể xiết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở cõi Diêm-phù-đề, tay cầm ba y bảo A-nan, Nan-đà, La-hầu-la… và năm trăm vị Tỳ-kheo bước chân trên mặt đất mà đi. Khi nhấc bước chân đầu tiên thì đất chấn động sáu cách. Khi hạ chân xuống thì đất sinh ra cung điện báu như cung của vua Phạm thiên. Từng cung điện tiếp theo nhau treo giữa hư không, ánh sáng lên theo sau Đức Phật. Ở bên đường bậc thang, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Di-lặc… cùng một ngàn vị Bồ-tát đồng thời chắp tay, dùng hàng vạn ức âm thanh ca vịnh vô lượng đức hạnh của Đức Như Lai.

Bấy giờ, Phạm vương cùng với vô số trăm ngàn các Phạm thiên tay nâng lò hương và vô lượng nhạc cụ để cúng dường Đức Phật, đứng hầu ở bậc thềm bên trái. Thích Đề-hoàn Nhân và vô số Thiên tử cùng hàng trăm ngàn Thiên nữ trổi nhạc đàn ca cũng đứng hầu ở bậc thềm bên trái. Vô số đại chúng Thanh văn Bồ-tát đứng hầu ở bậc thềm bên phải.

Khi ấy, Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn chiếu soi bên đường bậc thang. Ánh sáng ấy như mây, có trăm ngàn ức màu sắc giống như nhiều lầu đài. Đức Phật ở trong ấy với tám muôn bốn ngàn vị hóa Phật xung quanh. Năm trăm chư Phật phân thân cùng với Đức Phật đều đắp y mang bát, uy nghi an tường. Các Đức Phật phân thân cũng có A-nan, Nan-đà làm thị giả. Ma Ba-tuần, ở trong hư không, cùng với chúng ma tán tụng kệ hay vi diệu ngợi khen công đức của Đức Như Lai. Thích Đề-hoàn Nhân thưa phu nhân Ma-gia rằng:

–Đấng Thế Hùng Như Lai vì báo ân nên đi đến chỗ này!

Phu nhân Ma-gia nghe Đức Phật đến nên sai các Thiên nữ đem các châu báu cõi trời âm nhạc trời và hoa Mạn-đà-la đứng ở bên đường bậc thang mà nghênh đón Đức Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, Đức Như Lai nhấc chân, hạ chân hiện ra vô số cung điện. Mỗi cung điện có năm trăm vị Hóa Phật ngồi kiết già. Mỗi Như Lai có năm trăm vị Bồ-tát làm thị giả.

Lúc đó, năm trăm Đức Phật Thích-ca Văn phân thân, vào cung trời Đao-lợi, chư Thiên vui mừng nói kệ này:

Phật Tỳ-bà-thi
Đấng Cát Tường nhất
Cũng phóng ánh sáng
Đi đến nơi này.
Đức Phật Thi-khí
Đấng Cát Tướng nhất
Hóa thân vô số
Đi đến nơi này.
Phật Tỳ-xá-phù
Ánh sáng bạch hào
Soi sáng khắp cùng
Đi đến nơi này.
Phật Câu-lâu-tôn
Ánh sáng khuôn mặt
Soi cõi mười phương
Đi đến nơi này.
Phật Câu-na-hàm
Hóa thân vô số
Phóng ánh sáng lớn
Đi đến nơi này.
Đức Phật Ca-diếp
Thân như đài báu
Chân bước hư không
Đi đến nơi này.
Phật Thích-ca Văn
Năm trăm phân thân
Vô số hóa Phật
Soi sáng khắp nơi
Đi đến chỗ này.
Bồ-tát Di-lặc
Tôn giả hiền kiếp
Cũng phóng hào quang
Đi đến nơi này.
Chỗ này lành tốt
Vô vi an lạc
Nơi Đức Phật ở
Đất Mâu-ni sinh
Tên Niết-bàn-quật
Người tuệ, trí độ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vào cung Đao-lợi, phóng ra ánh sáng tướng lông trắng giữa hai chân mày. Ánh sáng ấy hóa thành một lọng lớn bằng bảy báu che bên trên bà Ma-gia, hóa ra giường trang trí bằng bảy báu dâng lên cho phu nhân ngồi. Ma-gia, mẹ của Phật thấy Đức Phật vào cung, chắp tay cung kính đảnh lễ Đức Phật. Năm trăm vị hóa Phật đồng thời duỗi cánh tay, chư Thiên giữ lại, chẳng cho bà lễ kính. Tám muôn bốn ngàn vị hóa Như Lai đều đứng dậy. Lúc ấy, trong cung của phu nhân Ma-gia tự nhiên phóng ra năm trăm ức ánh sáng. Trong ánh sáng này có đài báu lớn. Trên mỗi đài báu có mười phương Phật. Các Đức Phật như vậy tự nói lên danh hiệu và an ủi mẹ của Phật.

Phương Đông, Đức Phật Thiện Đức đem hoa báu đẹp đẽ tung lên trên Đức Thích-ca Mâu-ni và phu nhân Ma-gia. Hoa hóa thành chiếc lọng hoa, trong lọng hoa ấy có hàng trăm ức vị Hóa Phật đứng dậy chắp tay thăm hỏi mẹ của Phật.

Phương Nam, Đức Phật Chiên-đàn Đức đem hoa sen báu tung lên trên Đức Thích-ca Mâu-ni và mẹ của Phật. Hoa hóa thành lọng hoa. Trong lọng hoa, có vô số Hóa Phật đứng dậy chắp tay thăm hỏi mẹ của Phật.

Phương Tây, Đức Phật Vô Lượng Minh dùng hoa sen báu tung lên trên Đức Thích-ca Mâu-ni và mẹ của Phật. Hoa hóa thành lọng hoa. Vô số vị Hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi mẹ của Phật.

Phương Bắc, Đức Phật Tướng Đức dùng hoa sen báu tung lên trên Đức Thích-ca Mâu-ni và mẹ của Phật. Hoa hóa thành lọng hoa. Vô số vị Hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi mẹ của Phật.

Phương Đông nam, Đức Phật Vô Ưu Đức; phương Tây nam, Đức Phật Bảo Thí; phương Tây bắc, Đức Phật Hoa Đức; phương Đông bắc Đức Phật Tam Thừa Hạnh; phương Trên, Đức Phật Quảng Chúng Đức; phương Dưới, Đức Phật Minh Đức. Những Đức Phật như vậy… đều dùng hoa báu tung lên trên Đức Thích-ca Mâu-ni và mẹ của Phật. Hoa hóa thành lọng hoa. Trong mỗi lọng hoa có vô số vị Hóa Phật đứng dậy chắp tay thăm hỏi mẹ của Phật. Lúc này, trong cung Đao-lợi đầy những vị Hóa Phật. Phật mẫu Ma-gia, trên đỉnh đầu tự nhiên hiện ra những phẩm vật cúng dường, vô lượng cờ phướn cúng dường các Đức Phật. Trong cờ phướn có âm thanh nhiệm mầu khen Phật, khen pháp, khen Tỳ-kheo tăng. Đức Phật bảo A-nan rằng:

–Đó gọi là Như Lai từ cõi Diêm-phù-đề lên cung trời Đao-lợi với ánh sáng sắc tướng và những việc thần thông biến hóa. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu quán tưởng được như vậy thì gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Người quán tưởng như thế, tiêu trừ được một tội sinh tử trong một ức kiếp, lúc sắp qua đời, được thấy chư Phật mười phương, chắc chắn được sinh đến cõi Phật thanh tịnh ở phương khác.

Đức Phật bảo A-nan:

–Ông đem lời nói này giảng nói rộng rãi cho các chúng sinh đời vị lai,. Người nghe lời này, suy nghĩ ý nghĩa đó, phải biết, người đó được sự che chở hộ trì của các Đức Phật mười phương, sau khi qua đời nhất định sẽ sinh ra trước mặt các Đức Phật.

Đức Phật nói với vua cha rằng:

–Sao gọi là Như Lai lúc từ trời Đao-lợi xuống cõi Diêm-phù-đề với sự ứng biến của tướng ánh sáng?

Lúc ta mới xuống, vô số Thiên tử, trăm ngàn Thiên nữ theo hầu Thế Tôn, chỉ thấy duy nhất một vầng tròn ánh sáng của Phật rộng một tầm, phóng ra hàng trăm ngàn ánh sáng, chân bước vào hư không, đi theo bậc thềm mà xuống. Trong ánh sáng của Phật có hình tượng vị Hóa Phật hiện ra, từ ánh sáng của Phật phát ra, dẫn đường đi trước Phật. Lúc đó (dưới cõi Diêm-phù-đề) vua Ưu-điền kính mộ Đức Thế Tôn, đúc vàng làm tượng. Nghe Phật sắp xuống, vua cho voi chở tượng vàng đi nghênh đón Thế Tôn. Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc hóa ra núi lưu ly, ngồi kiết già ở trong hang núi với vô lượng phẩm vật cúng dường phụng nghênh Thế Tôn.

Bấy giờ, tượng vàng từ trên mình voi hạ xuống giống như Phật sống, chân bước vào hư không, dưới chân mưa hoa, cũng phóng ra ánh sáng đến nghênh đón Thế Tôn. Tượng vàng đúc chắp tay đảnh lễ Phật. Bấy giờ Thế Tôn cũng lại quỳ gối chắp tay hướng về tượng. Lúc ấy trong hư không có hàng trăm ngàn vị Hóa Phật cũng đều chắp tay quỳ gối hướng về tượng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với tượng rằng:

–Vào đời sau, Ngài sẽ làm Phật sự lớn! Sau khi ta diệt độ, những đệ tử của ta, xin đem phú chúc cho Ngài!

Các vị Hóa Phật ở trong hư không, khác miệng đồng thanh, đều nói lên rằng:

–Nếu có chúng sinh, sau khi ta diệt độ, tạo lập hình tượng, rồi dùng cờ phướn, lọng hoa, các loại hương thơm cúng dường thì người đó đời sau nhất định được Tam-muội Niệm Phật thanh tịnh. Nếu chúng sinh nào biết lúc Phật từ trời Đao-lợi xuống với đủ thứ tướng mạo mà nhất tâm chánh niệm để suy nghĩ thì nhất định được thấy Phật.

Đức Phật bảo A-nan rằng:

–Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật biết việc Phật Như Lai xuống từ cõi trời Đao-lợi và thấy tượng Phật thì tiêu trừ được nghiệp ác cực nặng trong một ngàn kiếp. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Đức Phật bảo A-nan rằng:

–Sao gọi là Như Lai đến đầm nơi đồng hoang để thu phục đại tướng quỷ?

Ta từ tinh xá Kỳ-đà ở thành Xá-vệ, phóng ánh sáng màu vàng chiếu soi thành Xá-vệ khiến thành màu vàng. Bên trong nước Xá-vệ, có một vị trưởng giả tên là Tài Đức. Vị trưởng giả có người con tuổi mới lên ba. Người cha dạy đứa con ấy thọ tam quy. Quỷ thần Tán Chỉ bị lửa đói bức ngặt, vào thành Xá-vệ bắt trẻ con. Lúc ấy, đứa trẻ nói lớn: “Nam-mô Phật.” Nhờ đứa bé xưng danh Phật nên miệng vua quỷ bị đóng chặt, chẳng thể ăn được, chỉ có mắt quỷ phát ra lửa để dọa đứa trẻ. Đứa trẻ thấy hình dạng của quỷ xấu xí, ngực có ba mặt, rốn có hai mặt, hai đầu gối hai mặt. Mặt như mặt voi, răng chó chĩa lên. Mắt lại phát ra lửa, lửa tuôn xuống. Đứa bé kinh sợ xưng lên: “Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng.” Bấy giờ, Thế Tôn dùng Thiên nhĩ, từ xa nghe được, cùng với Tôn giả A-nan, chân bước vào hư không ra đi. A-nan ở phía sau theo Đức Phật chẳng kịp. Đức Phật dùng thần lực hóa ra hoa báu, rồi ánh sáng của hoa ấy đón lấy A-nan. Tôn giả A-nan ngồi trên hoa, thấy cõi Diêm-phù-đề chứa đầy những vị Hóa Phật. Thân mỗi vị Hóa Phật đầy tam thiên đại thiên thế giới. Các vị Hóa Phật đó giảng nói pháp ba Thừa, khuyến lệ sách tấn Bồ-tát tu hành niệm Phật. A-nan thấy nghe rồi liền nhớ lại Kinh tạng của chín mươi ức Đức Phật đời quá khứ đã giảng nói, nhớ lại giữ gìn chẳng mất.

Bấy giờ, Thế Tôn đã đến đầm nơi đồng trống, phóng ánh

sáng tướng Đại nhân là lông trắng giữa hai chân mày. Ánh sáng ấy chiếu thẳng vào thân đứa trẻ đang sợ. Đứa trẻ thấy ánh sáng như thấy cha mẹ, lòng không kinh sợ. Quỷ đồng trống nhấc một tảng đá lớn dày mười hai trượng muốn ném vào Đức Thế Tôn, mắt phát ra sấm chớp, tuôn đá xuống như mưa. Mỗi giọt mưa đá rơi xuống như con gà đỏ từ hư không xuống, chưa đến thân Phật đã hóa thành vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật đều nhập vào Tam-muội Hỏa quang, những ánh sáng lửa đó thiêu đốt đầm nơi đồng hoang. Đất đai cháy suốt mà vua quỷ chẳng sợ, vẫn ném đá, đá trụ ở trên không hóa thành đài báu. Trong đài báu lại có trăm ức vị Hóa Phật, khác miệng đồng thanh, khen ngợi tâm Từ. Quỷ vẫn còn chẳng phục. Thần Kim Cang, tay giơ cao chày vàng, vung kiếm bén, râu mép như kiếm nhọn, mắt như ánh chớp, dùng chày Kim cang đánh vào trán vua quỷ, đâm vào cánh tay quỷ và kêu lớn, tiếng chấn động trời đất.

Quỷ vương kinh sợ, ôm giữ đứa trẻ, quỳ gối hướng lên Đức Phật bạch rằng:

–Thưa Sa-môn! Nguyện xin Ngài rủ lòng từ thương xót cứu sinh mạng của con!

Thần Kim Cang hóa chày Kim cang thành núi sắt lớn, bốn mặt lửa nổi dậy, vây quanh quỷ bảy vòng. Lửa mạnh rừng rực đốt cháy thân quỷ. Đứa trẻ giơ tay bảo vua quỷ rằng:

–Hãy xưng lên “Nam-mô Phật”! Ta nhờ xưng danh hiệu Phật nên từ chết được sống, hôm nay ngươi có thể xưng lên “Nam-mô chư Phật”.

Lúc bấy giờ, vua quỷ kinh sợ thất thanh xưng “Nam-mô Phật” và bạch rằng:

–Xin ngài Cù-đàm hãy cứu giúp tôi!

Lúc ấy, Đức Thế Tôn dùng âm thanh Phạm, giống như bậc cha hiền an ủi các con, Phật vỗ về an ủi vua quỷ cũng như vậy. Thần Kim Cang Mật Tích bảo vua quỷ rằng:

–Hôm nay, ngươi hãy mau quy phục mà quy y Phật, Pháp cùng với chúng Tăng đi! Nếu ngươi chẳng quy phục thì ngươi và hàng vạn ức tám ngàn quyến thuộc bị tan nát như bụi trần.

Quỷ đồng hoang kinh sợ nên năm vóc gieo xuống đất, đảnh lễ Phật bạch rằng:

–Bạch Thế Tôn! Con thường ăn thịt người, hôm nay không giết hại nữa thì con sẽ ăn vật gì?

Đức Phật sắc bảo quỷ vương rằng:

–Ngươi hãy ngưng giết hại, ta sẽ bảo đệ tử luôn bố thí đồ ăn cho ngươi, cho đến khi pháp tận diệt. Do năng lực của ta, ngươi sẽ được no đủ.

Quỷ vương nghe rồi hoan hỷ chắp tay, thọ năm giới của Đức Phật. Thọ năm giới rồi, vua quỷ thấy những núi lửa hừng hực tiếp nhau đều biến thành những vị Hóa Phật. Đầy trong đầm nơi đồng hoang đều là các vị Hóa Phật. Sau mỗi vị Hóa Phật có một vị A-nan. Tất cả các vị Hóa Phật đồng thanh giảng nói về năm giới. Quỷ Khoáng dã bạch với thần Kim Cang rằng:

–Nhờ Đại đức nên tôi được uống pháp vị cam lộ Vô thượng!

Thần Kim Cang ném cái chày vào hư không, nhờ thần lực Đức Phật nên khiến cho chày Kim cang giống như trăm ức núi Tu-di vàng. Mỗi núi Tu-di có hàng trăm ức bàn thờ. Mỗi bàn thờ có trăm ức vị Hóa Phật đang đi kinh hành. Những vị hóa Phật đó nhấc chân hạ chân, dưới chân tự nhiên sinh ra đài bảy báu. Trên mỗi đài có các vị hóa Phật nhiều như cát sông Hằng đang ngồi kiết già.

Đức Phật bảo với Đại vương rằng:

–Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật muốn biết thần thông tự tại của Như Lai thu phục quỷ đồng trống, nên quán tưởng đúng như vậy, quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, nếu có chúng sinh tư duy pháp này, quán tưởng pháp này, đạt được phép quán tưởng này thì tiêu trừ được tội sinh tử trăm ngàn ức kiếp, đời đời chẳng thọ thân quỷ, được gặp thời có các Đức Phật, không rỗng không, khiếm khuyết. Giả sử khi không có Phật thì gặp Bích-chi-phật, không có Bích-chi-phật thì luôn gặp bậc Tiên nhân giảng nói chánh đạo.

Đức Phật bảo A-nan rằng:

–Hôm nay, ông hãy đem niệm tưởng cảnh giới này giảng nói

cho khắp tất cả chúng sinh đời vị lai. Đó gọi là cảnh giới thần thông của các Đức Phật. Nếu bỏ mất việc này, gọi là bài báng Phật, là đoạn dứt giống Bồ-đề. Người trì pháp này thì quỷ mị chẳng thể dựa nhập, luôn luôn được sự ủng hộ trợ giúp của các Đức Phật.

Đức Phật bảo A-nan rằng:

–Sao gọi là Như Lai đến hang La-sát ở phía Nam ngọn núi Ana-tư và phía Bắc suối Hoa sen xanh bên ao Độc long ở rừng hoa Chiêm-bặc trong núi Cổ tiên tại nước Na-càn-ha-la?

Bấy giờ, hang đó có năm con quỷ La-sát hóa thành Long nữ cùng Độc long thông nhau. Rồng lại tuôn xuống mưa đá, La-sát làm loạn, đói kém dịch bệnh đã trải qua bốn năm. Vua nước ấy kinh sợ, cúng tế thần đất đều vô ích nên triệu các vị thầy chú thuật, ra lệnh chú trừ Độc long. Khí La-sát thịnh, chú thuật chẳng làm được gì, nhà vua nghĩ rằng: “Phải chi được một vị thần nhân xua đuổi La-sát-này, hàng phục Độc long đó thì chỉ trừ thân ta ra, còn lấy gì ta cũng chẳng tiếc.” Có vị Phạm chí thông minh đa trí bạch rằng: “Thưa Đại vương! Con vua Tịnh Phạn của thành Ca-tỳ-la, ngày sinh của vị ấy có hàng vạn thần hầu hạ, bảy báu giáng điềm, thầy tướng A-tư-đà nói, ở lại với đất nước sẽ làm Chuyển luân thánh vương, nếu chẳng ưa thiên hạ thì thành Phật tự nhiên. Hôm nay Ngài đã thành đạo hiệu là Thích-ca Văn, thân lớn một trượng sáu, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đi theo sau chân là hoa sen, cổ tỏa ánh sáng mặt trời, thân tướng trang nghiêm như núi vàng ròng”. Vua nghe lời nói đó, lòng rất vui mừng, hướng về chỗ đản sinh của Đức Phật tự quy y, đảnh lễ, nói rằng: “Nếu lời nói của Phạm chí là xác thật chẳng hư dối, quả có Phật ra đời tên là Thíchca Văn. Nhưng theo tướng pháp của ta thì sau chín kiếp nữa mới có Phật hiệu là Thích-ca Văn. Tại sao hôm nay ánh mặt trời Phật đã hưng khởi? Tại sao Ngài chẳng thương đến đất nước này?” Trong hư không có tiếng bảo rằng: “Này Đại vương! Ông chớ nghi ngờ! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tinh tấn dũng mãnh vượt qua chín kiếp.” Nghe lời nói đó rồi, nhà vua lại quỳ gối chắp tay khen ngợi: “Đức Phật thông minh trí tuệ ứng biết lòng của con, nguyện xin Ngài rủ ánh sáng từ bi đến nước này.”

Bấy giờ, khói hương lan tỏa đến tinh xá của Phật như mây lưu ly trắng, nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng rồi hóa thành lọng báu bằng vàng. Lọng báu ấy có những chuông nhỏ phát ra âm thanh vi diệu. Âm thanh ấy thỉnh Đức Phật, thỉnh Tỳ-kheo Tăng.

Lúc ấy, Đức Như Lai bảo các vị Tỳ-kheo, những người chứng đắc sáu thần thông đi theo sau Đức Phật, nhận lời mời đến cõi Phấtba-phù-đề của vua Na-càn-ha-la.

Đại Ca-diếp cùng năm trăm đồ chúng hóa ra núi lưu ly. Trên núi có suối chảy, ao tắm, hàng cây bảy báu. Dưới mỗi cây đều có giường vàng, ánh sáng bạc. Ánh sáng hóa thành hang động. Đại Ca-diếp ngồi trong hang động này, luôn ngồi chẳng nằm, bảo các đệ tử tu mười hai hạnh Đầu-đà. Núi lưu ly ấy như đám mây được gió mạnh thổi nhanh đến núi Cổ tiên. Mục-kiền-liên cùng năm trăm đồ chúng hóa trăm ngàn thân rồng cuộn làm tòa ngồi. Miệng rồng phun ra lửa hóa thành đài vàng với giường, tòa ngồi bằng bảy báu và đầy đủ màn báu, lọng báu cùng những cờ phướn. Mục-liên ở bên trong như người bằng lưu ly hiện rõ trong suốt, đi đến nước Na-càn-ha-la. Xá-lợi-phất dùng thần lực hóa ra núi Tuyết với ngọc trắng làm hang, cùng với Câu-đề… Năm trăm vị Sa-di ngồi trong hang bảy báu, vây quanh núi Tuyết. Xá-lợi-phất ngồi trong hang ngọc trắng như người bằng vàng ròng, phóng ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy đủ màu ánh chiếu với núi Tuyết, trình bày đại pháp cho Sa-di nghe nhận và đi đến nước Na-càn-ha-la. Đại Cachiên-diên cùng năm trăm vị Tỳ-kheo quyến thuộc hóa làm hoa sen giống như đài vàng, các Tỳ-kheo ngồi trên đó, phần dưới thân tuôn ra nước hóa thành suối, chảy trên các vùng hoa, nước chẳng giọt xuống đất, bên trên có tàng vàng che khắp các vị Tỳ-kheo, cùng đi sang nước kia. Như vậy, một ngàn hai trăm năm mươi vị đại đệ tử đều có năm trăm vị Tỳ-kheo có thần thông như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… vọt thân lên hư không như con nhạn chúa chao cánh, đi sang nước kia.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn mặc áo, cầm bát, bảo A-nan đem theo tọa cụ. Lúc ấy, Đức Thế Tôn bước chân vào hư không. Khi Đức Phật nhấc chân thì Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương, vô số Thiên tử, trăm ngàn Thiên nữ vây quanh Đức Phật bảy vòng, đảnh lễ Phật và theo sau hầu.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng vàng trên đỉnh đầu hóa ra một vạn tám ngàn những vị đại Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật lại phóng ra ánh sáng. Như ánh sáng đỉnh đầu này, lại hóa ra một vạn tám ngàn vị Hóa Phật lớn, từng Đức Phật, Đức Phật tiếp theo nhau đầy trong hư không, như chúa nhạn chao cánh, đi sang nước Na-cànha-la. Mới đến biên giới của đất nước thì nhà vua đã ra cung nghinh và làm lễ Đức Phật.

Bấy giờ, Long vương thấy Đức Thế Tôn đến thì cùng cha mẹ, đồ đảng mười sáu con rồng lớn nổi lên mây lớn, sấm gầm vang động, mưa đá. Trong mắt chúng phát ra lửa, miệng cũng phun ra lửa, giáp vảy lông thân đều phát ra khói lửa. Năm quỷ La-sát nữ hiện hình xấu xí, mắt như chớp sắt, đứng ở trước Đức Phật. Con của vua rồng thấy trong hư không đầy các Hóa Phật, tâu với cha rằng: “Phụ vương phun lửa muốn hại một Đức Phật. Cha thử xem, trong hư không có vô số Phật!” Rồng phun ra khí độc, tâm ý mạnh mẽ, quở trách con rằng: “Chỉ có một Phật, có đâu mà nhiều?” Thần Kim Cang tay cầm chày lớn hóa ra vô số thân. Đầu chày lửa cháy như vòng lửa xoáy. Từng vòng lửa, vòng lửa tiếp theo nhau từ không trung hạ xuống. Lửa cháy hừng hực giống như nước đồng sôi, thiêu đốt thân rồng ác. Chúa rồng kinh sợ, không chạy tìm chỗ trốn mà chạy vào bóng Đức Phật. Bóng Phật mát mẻ như được tưới cam lồ. Rồng được hết nóng, ngửa đầu nhìn lên không, thấy không trung đầy các Đức Phật. Mỗi vị Như Lai phóng ra vô lượng ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có vô lượng vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật cũng phóng ra vô số trăm ngàn ánh sáng. Trong tất cả các ánh sáng đều có thần Kim Cang, tay vung chày Kim cang.

Rồng thấy các Đức Phật thì vô cùng vui mừng nhưng thấy các thần Kim Cang thì vô cùng kinh hoàng, chắp tay cung kính lễ Phật. Năm La-sát nữ cũng đảnh lễ Đức Như Lai. Các Thiên tử mưa xuống hoa Mạn-đà-la, hoa Đại mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Đại mạn-thù-sa để cúng dường. Trống trời tự kêu. Chư Thiên vòng tay đứng hầu trong hư không. Vua của nước đó cùng năm ngàn quyến thuộc đốt các loại danh hương, cúi đầu đảnh lễ Đức Phật, mời Đức Phật ngồi vào tòa. Vua rồng từ trong ao rồng xuất hiện dâng hiến giường bằng bảy báu, tự tay nâng giường đặt bày và bạch Đức Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Ngài cứu con, chớ sai lực sĩ làm tổn hại thân con!

Lúc ấy, Đức Như Lai dùng âm thanh Phạm, giống như mẹ hiền dỗ dành con trẻ, khiến cho vua rồng và La-sát nữ nhận được sự giáo hóa của Pháp vương, thỉnh Đức Phật ngồi vào tòa ngồi. Khi ấy quốc vương lại bày giường cao với mền lông, đệm lông rất mềm mại, giăng màn vải lông trắng, che phủ bên trên là lưới trân châu rộng khắp, rồi thỉnh Đức Phật Thế Tôn ngồi vào trong màn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nhấc chân muốn đi, đùi nai chúa của Đức Phật phát ra năm luồng ánh sáng. Ánh sáng có năm màu nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng như hoa vi diệu của cõi trời, hoa kết thành bức màn hoa. Trong mỗi cánh hoa có trăm ngàn vô số hóa Bồ-tát chắp tay nói kệ khen ngợi bằng vạn ức âm thanh. Trong hư không, các vị hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng nơi đùi như vậy. Mười sáu rồng nhỏ, tay cầm đá núi, sấm sét dậy lửa, đi đến chỗ Đức Phật. Đại chúng kinh sợ vào trong hào quang của Đức Phật.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn đưa ra cánh tay màu vàng, mở khép bàn tay có màn lưới. Ở vùng màn lưới ngón tay, mưa xuống hoa báu lớn. Đại chúng đều thấy hoa hóa thành Hóa Phật. Chỉ có các rồng thấy hoa hóa thành chim cánh vàng muốn bắt và cắn chúng. Rồng sợ chim cánh vàng chạy vào trong bóng Đức Phật, đảnh lễ Phật, dập đầu cầu cứu.

Đức Phật đến trước màn bảo A-nan rằng:

–Hãy trải tọa cụ ra!

Lúc đó, A-nan liền vào trong màn, trước tiên đưa tay phải lấy tọa cụ từ trên vai phải, tọa cụ liền hóa thành năm trăm ức đài vàng trang hoàng bằng bảy báu. Khi sắp trải ra, tọa lại hóa thành năm trăm ức hoa sen bằng bảy báu trang nghiêm. Khi trải ngay ngắn bốn góc, mỗi góc sinh ra năm trăm ức hoa sen bảy báu. Từng hàng từng hàng tiếp nhau đầy khắp bên trong màn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi kiết già trên giường bằng bảy báu. Bên trên các hoa sen đều có Phật ngồi. Các Tỳ-kheo thấy Đức Phật ngồi rồi, đảnh lễ Đức Phật, nhiễu quanh bên phải bảy vòng. Tọa cụ trải ra đủ để Tỳ-kheo ngồi, tất cả đều hóa thành tòa ngồi bằng lưu ly. Khi Tỳ-kheo ngồi vào tòa thì tòa lưu ly, phóng ra ánh sáng lưu ly làm thành hang lưu ly. Các vị Tỳ-kheo đều nhập vào Tam-muội Hỏa quang, thân trở nên màu vàng ròng.

Lúc đó, quốc vương thấy thần biến của Đức Phật, vô cùng vui mừng, chắp tay nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, rồi đảnh lễ Phật. Nhìn thấy sự thần thông biến hóa của Đức Phật, quốc vương tức thời phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, bảo các bề tôi đều phải phát tâm.

Lúc ấy, vua rồng kinh sợ Đại lực sĩ Kim Cang nên cũng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Năm La-sát nữ cũng phát tâm Bồ-đề.

Bấy giờ, Đại vương muốn cúng dường Đức Phật và Tăng chúng một bữa ngọ trai. Đức Phật bảo đại vương, chỉ bày biện đồ đựng thức ăn, không cần gì khác nữa. Nhà vua vâng lời Đức Phật, sắp bày đầy đủ những đồ đựng quý báu. Nhờ thần lực Đức Phật, bên trong những đồ đựng tự nhiên đầy tràn vị Thiên-tu-đà (một loại thức ăn của trời). Các đại chúng ăn đồ ăn đó rồi, tự nhiên được Tam-muội Niệm Phật, thấy thân chư Phật ở mười phương nhiều vô lượng vô biên, lại còn nghe âm thanh nói pháp vi diệu. Âm thanh ấy toàn khen ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-kheo tăng, đồng thời cũng giảng nói về sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy Phẩm trợ Bồ-đề.

Nghe lời nói đó rồi, lại hoan hỷ bội phần, họ nhiễu quanh Đức Phật hàng ngàn vòng.

Lúc ấy, quốc vương thỉnh Đức Phật vào thành. Long vương nổi giận nói rằng:

–Ngươi đoạt lợi ích của ta, ta sẽ tiêu diệt nước của ngươi!

Đức Phật bảo đại vương:

–Thí chủ đã quy y Phật, tự biết phải thời!

Lúc đó, quốc vương lễ Phật, rồi đi lui ra. Khi ấy Long vương và La-sát nữ năm vóc lạy sát đất, cầu Đức Phật trao cho giới pháp. Đức Phật liền đúng như pháp vì họ nói pháp Tam quy Ngũ giới. Vua rồng nghe rồi lòng rất vui mừng. Năm trăm rồng quyến thuộc của vua rồng từ ao rồng xuất hiện, đảnh lễ Đức Phật. Đức Như Lai tức thời tùy theo từng loại âm thanh của rồng mà nói pháp cho chúng. Chúng nghe pháp rất hoan hỷ, Đức Phật bảo Mục-liên vì chúng mà trao giới pháp.

Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên nhập vào định Như ý, liền tự hóa thân thành năm ngàn ức vua chim cánh vàng. Mỗi vua chim quắp chân lấy năm con rồng, ở trên hư không. Các rồng nhỏ nói rằng:

–Đức Phật bảo Hòa thượng truyền giới pháp cho chúng tôi, sao Hòa thượng lại làm ra hình tượng đáng sợ?

Tôn giả Mục-liên bảo rằng:

–Đã nhiều kiếp, các ngươi ở trong sự không sợ hãi, lại phát sinh tưởng sợ hãi, đối với không sân nhuế phát sinh tưởng sân nhuế, ở chỗ vô hại lại phát sinh hại tưởng… Ta chính thật là người, các ngươi có tâm ác nên thấy ta là chim.

Bấy giờ, Long vương do sợ hãi nên tự thề chẳng giết hại, chẳng gây não hại cho chúng sinh. Vì rồng phát tâm thiện nên Tôn giả Mục-liên liền trở lại thân cũ và nói năm giới cho chúng.

Lúc ấy, vua rồng quỳ gối, chắp tay thỉnh cầu Đức Thế Tôn:

–Nguyện xin Đức Như Lai thường trụ ở cõi này! Nếu Đức Phật chẳng ở lại, con có lòng ác thì không còn được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nguyện xin Đức Như Lai rủ lòng thương luôn ở lại nơi đây.

Rồng ân cần ba lần thỉnh Đức Như Lai như vậy chẳng dừng. Vua trời Phạm lại đến lễ Đức Phật, chắp tay cầu thỉnh rằng:

–Nguyện xin Đức Thế Tôn vì những chúng sinh đời vị lai, chớ riêng thiên vị một con rồng nhỏ này!

Hàng trăm ngàn Phạm vương, khác miệng đồng thanh đều nói lên lời thỉnh nguyện đó!

Bấy giờ, Đức Như Lai liền mỉm cười, từ miệng phát ra vô lượng trăm ngàn ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có vô lượng vị Hóa Phật.

Mỗi vị Hóa Phật có hàng vạn ức vị Bồ-tát làm thị giả. Vua rồng kia ở trong ao rồng hiện ra đài bảy báu dâng lên Đức Như Lai, bạch rằng:

–Nguyện xin Đức Thiên Tôn nhận đài này của con!

Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo vua rồng rằng:

–Ta chẳng cần cái đài này! Hôm nay ngươi chỉ cần đem hang đá La-sát giao cho ta.

Tức thời vua trời Phạm và vô số Thiên tử vào trong hang trước. Vua rồng dùng nhiều châu báu để trang hoàng hang động. Đức Phật bảo A-nan rằng:

–Ông hãy bảo vua rồng quét dọn sach sẽ hang đá!

Chư Thiên nghe rồi đều cởi áo báu tranh nhau lau quét hang. Lúc đó, Đức Như Lai thu ánh sáng của thân lại, thu các vị hóa Phật lại vào nơi đỉnh đầu. Lúc này, Đức Như Lai bảo các vị Tỳ-kheo đều ở ngoài động, chỉ riêng một mình Đức Phật vào và tự trải tọa cụ. Khi Đức Phật trải tọa cụ, núi đá này bỗng chốc trở thành bảy báu. La-sát nữ và vua rồng vì bốn vị đại đệ tử: Tôn giả A-nan…, tạo ra năm hang đá.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi trong hang vua rồng, chẳng dời khỏi chỗ ngồi. Đức Phật cũng nhận lời thỉnh của vua, vào thành Na-càn-ha, rồi ở núi Kỳ-xà-quật, ở thành Ca-tỳ-la của nước Xá-vệ và ở các trụ xứ khác đâu đâu cũng đều thấy có Đức Phật. Trên tòa hoa sen ở trong hư không có vô lượng Hóa Phật. Tất cả thế giới, bên trong cũng đầy những vị Hóa Phật. Vua rồng vui mừng phát đại thệ nguyện rằng:

–Nguyện cho con đời vị lai được thành Phật như thế này!

Đức Phật nhận lời thỉnh của vua trải qua bảy ngày rồi. Vua sai một người cỡi con voi đi tám ngàn dặm, đem những đồ cúng đi khắp tất cả nước, cúng dường chúng Tăng. Đến đâu cũng đều thấy có Phật Thích-ca Văn. Tin tức hồi báo, bạch với vua rằng: “Đức Như Lai Thế Tôn chẳng chỉ ở nước này mà nước khác cũng có. Các Đức Phật ở nước khác cũng nói khổ, không, vô thường, vô ngã, sáu pháp Ba-lamật.” Nhà vua nghe lời nói này thì bỗng nhiên tâm ý khai mở, được Nhẫn vô sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thu nhiếp thần túc lại, từ hang đá hiện ra, cùng các vị Tỳ-kheo đi hành hóa. Đức Phật đời trước khi làm Bồtát, có chỗ bố thí hai đứa trẻ, chỗ thì gieo thân cho cọp đói, chỗ thì dùng đầu bố thí, chỗ thì khoét thân làm một ngàn ngọn đèn, chỗ thì móc mắt bố thí, chỗ thì cắt thịt thay cho chim câu… Những chỗ như vậy, rồng đều đi theo. Lúc đó, Long vương nghe Đức Phật trở lại đất nước, kêu khóc, nước mắt như mưa mà bạch rằng:

–Bạch Thế Tôn! Con thỉnh Đức Phật thường trụ, tại sao Đức Phật bỏ con? Con mà chẳng thấy Đức Phật thì sẽ làm việc ác, bị đọa vào đường ác!

Lúc ấy, Đức Thế Tôn an ủi vua rồng rằng:

–Ta nhận lời thỉnh của ngươi, ngồi trong hang động của ngươi trải qua một ngàn năm trăm năm.

Các con rồng nhỏ chắp tay, vòng tay cầu thỉnh Đức Thế Tôn vào lại trong hang. Các rồng thấy Đức Phật đã ngồi trong hang rồi, trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, biến hiện mười tám cách. Rồng nhỏ thấy rồi lại càng tăng tiến đạo tâm kiên cố. Đức Thích-ca Văn Phật vọt thân vào đá giống như gương sáng thấy bóng dáng mặt người. Các rồng đều thấy Đức Phật ở bên trong đá ánh hiện ra bên ngoài.

Bấy giờ, các rồng chắp tay vui mừng, chẳng cần ra khỏi ao rồng mà vẫn luôn thấy mặt trời Phật.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn ngồi kiết già bên trong vách đá. Khi chúng sinh nhìn từ xa thì thấy, đến gần thì biến mất. Hàng trăm ngàn chư Thiên cúng dường ảnh Phật. Ảnh Phật cũng nói pháp. Vua trời Phạm chắp tay cung kính, dùng kệ khen rằng:

Như Lai vào hang đá
Ở trong đá hiện thân
Như mặt trời không ngại
Đủ tướng sáng vàng ròng
Con cúi đầu kính lễ
Đấng Mâu-ni Thế Tôn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn hóa ra năm trăm xe báu. Đức Phật ngồi

trong xe, phân thân thành năm trăm. Khi ấy, xe báu trụ trong hư không, xoay trở tự tại. Ở vùng trục vành xe có trăm ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng có vô số hóa Phật, chẳng chuyển chẳng động, đi đến thành Ca-tỳ-la. Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử như đang nhập vào Tam-muội. Trong mỗi lỗ chân lông có một Đức Phật xuất hiện. Trong mỗi lỗ chân lông lại có một Đức Phật nhập vào. Ra, vào như vậy đầy trong hư không, vô lượng vô biên vị Hóa Phật ngồi kiết già. Đó gọi là cảnh giới khi Đức Như Lai ngồi.

Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu muốn biết Phật đi thì như trên đã nói, còn nếu muốn biết Phật ngồi thì phải quán tưởng ảnh Phật. Quán tưởng ảnh Phật thì trước tiên phải quán tượng Phật, khởi tưởng về thân một trượng sáu, ngồi kiết già, trải cỏ làm tòa, thỉnh tượng Phật đặt ngồi. Hành giả thấy Phật ngồi rõ ràng, lại phải khởi ý tưởng, làm một hang đá cao một trượng tám, sâu hai mươi bốn bộ, bằng đá trắng trong suốt. Quán tưởng như vậy thành rồi thì thấy tượng Phật ngồi trong hư không, dưới chân có mưa hoa, lại thấy ý tưởng vào trong hang đá. Vào rồi, lại khiến cho hang đó trở thành tưởng về núi bảy báu. Tưởng núi bảy báu này thành rồi, lại thấy tượng Phật vọt vào vách đá, vách đá không chướng ngại giống như tấm gương sáng. Tưởng này thành rồi thì như trước, trở lại quán tưởng ba mươi hai tướng tốt. Từng tướng, từng tướng quán tưởng cùng cực làm cho tỏ rõ. Tưởng này thành rồi thì thấy các vị Hóa Phật ngồi kiết già trên hoa báu lớn, phóng ra ánh sáng nơi thân chiếu soi khắp tất cả. Trong mỗi lỗ chân lông của Đức Phật ngồi, mưa xuống vô số các lá cờ bằng bảy báu. Đầu mỗi lá cờ báu có trăm ngàn phướn báu. Lá phướn nhỏ nhất, dọc ngang bằng nhau, cũng bằng cả núi Tu-di. Trong phướn báu này lại vô số trăm ngàn vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật đều vọt thân vào trong hang đá này và hiện bày ảnh Phật. Khi tưởng này xuất hiện thì như đã nói ở phần tim Đức Phật. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, người theo đúng lời ta nói mà quán tưởng ảnh Phật thì đó gọi là quán tưởng chân chánh về sự ngồi của Như Lai. Người quán tưởng sự ngồi của Như Lai thì như người thấy được thân Phật không có gì khác, tiêu trừ được trăm ngàn kiếp tội sinh tử. Nếu quán chẳng thấy được thì phải vào tháp, quán tất cả tượng. Thấy tượng Phật ngồi rồi, sám hối tội chướng. Nhờ công đức nhân duyên quán tượng nên khi Đức Di-lặc ra đời, người này thấy Đức Phật Di-lặc đầu tiên ngồi kiết già ở dưới gốc cây Long hoa. Thấy rồi, người ấy rất hoan hỷ, đối với ba loại Bồ-đề đều theo nguyện hiểu biết rõ.

Sao gọi là quán tưởng Đức Như Lai, khi đi đến thành Câu-thina hàng phục các lực sĩ?

Đức Phật nói với vua cha:

–Như Lai chẳng bao lâu nữa sẽ ở nước đó vào Bát-niết-bàn.

Lúc ấy, năm trăm lực sĩ đang dẹp tảng đá chẹn đường đi. Họ dùng hết sức lực sĩ cũng chẳng thể dời được. Khi ấy, Đức Thế Tôn hóa làm vị Sa-môn, dùng tay gạt tảng đá, tảng đá liền bay lên ở giữa hư không. Đám lực sĩ kinh sợ, giả sử tảng đá này mà rơi xuống thì không biết chạy trốn vào đâu. Họ ngước lên xem thì tảng đá trên đã hóa thành vị Hóa Phật, giống như núi vàng có các Đức Phật vây quanh. Lực sĩ thấy rồi, lòng rất hoan hỷ. Vị hóa Sa-môn nằm dựa dưới gốc cây như người ngủ ngày, có ánh sáng mặt trời từ hông trái phát ra như có trăm ức mặt trời vào trong hông phải. Trong mỗi mặt trời có hai cây báu, có giường báu lớn, bên trên có các Đức Phật nằm. Ánh sáng như vậy soi khắp vô lượng thế giới ở mười phương. Mỗi thế giới có vô lượng các Đức Phật ngồi tựa dưới gốc cây và đều có ánh sáng từ hông phải vào theo hông trái mà ra. Ánh sáng như vậy biến thành đài báu. Hành giả thấy tất cả mỗi thế giới mười phương đều có một đài báu. Trên đài báu này có một vị Phật lớn thân bằng mười phương, nằm tựa bên đài. Lúc ấy, Đức Phật đó, hông bên trái tuôn ra nước như ngọc lưu ly, mỗi viên ngọc báu lớn như núi Tu-di. Bên trong mỗi núi có trăm ngàn Đức Phật nằm. Mỗi vị Phật nằm phóng ra ánh sáng lớn… cũng như trên đã nói. Hông bên phải Đức Phật đó lại phát ra vạn ức dòng sữa chảy rót xuống, từng giọt từng giọt hóa thành trăm ngàn hóa hoa. Mỗi hoa có hóa Phật nằm ở trên hoa sen, đều dùng tay phải rót cam lồ xuống như mưa khiến cho tất cả mọi người đều được uống, chúng sinh ngạ quỷ khi thấy tướng này thì tự nhiên no đủ.

Bấy giờ, trong hư không có âm thanh vi diệu khen ngợi bốn Tâm vô lượng, sau đó, phân biệt cảnh giới rỗng không, cảnh giới tịch diệt không có tâm và tâm tưởng. Người quán tưởng như vậy gọi là quán tưởng sự nằm của Như Lai. Quán sự nằm của Như Lai, trước tiên phải quán tượng Phật nằm. Hành giả thấy tượng nằm rồi thì phải nghĩ rằng: “Khi Đức Phật còn ở đời, thân thể các Đức Phật Như Lai không hề mệt mỏi, sở dĩ Phật hiện thân nằm chỉ vì điều phục các lực sĩ cương cường và những chúng sinh tà kiến bất thiện. Hoặc vì thương xót các vị Tỳ-kheo nên hiện thân nằm nghiêng về hông phải. Như Lai nằm chính là nằm đại Bi. Muốn quán Phật nằm phải tu hành tâm Từ.”

Người tu hành tâm Từ, khi duyên đến tất cả chúng sinh thấy họ chịu khổ thì chẳng tiếc thân mạng, làm cho chúng sinh chịu khổ được thành tựu đầy đủ và an lạc, khiến cho họ không bị hoạn nạn.

Người có tâm đại Bi, khi thấy chúng sinh chịu khổ não thì như thấy chính cha mẹ, sư trưởng, bạn lành của mình bị khổ sở, nên sinh lòng thương cảm, nước mắt rơi như mưa. Lòng bình đẳng như vậy gọi là đại Bi.

Thấy người khác được an vui mà sinh lòng vui mừng như vị Tỳkheo được thiền thứ ba thì đó gọi là Hỷ.

Xả là tất cả không có tướng chúng sinh. Khi khởi sự quán tưởng đó, trước hết hành giả quán tưởng thân mình.

Địa đại là chúng sinh sao? Thủy đại, hỏa đại, phong đại là chúng sinh sao? Sắc là chúng sinh sao? Thọ, tưởng, hành, thức là chúng sinh sao? Không là chúng sinh sao? Chẳng phải không là chúng sinh sao? Như là chúng sinh sao? Chẳng phải Như là chúng sinh sao? Thật tế là chúng sinh sao? Chẳng phải thật tế là chúng sinh sao? Hữu vi “không” là chúng sinh sao? Vô vi “không” là chúng sinh sao? Khi lý giải phân biệt như vậy mà chẳng thấy chúng sinh, chẳng được chúng sinh, không có tưởng về chúng sinh, lòng không hề tham đắm, cũng không mong cầu. Hiểu rõ được pháp thanh tịnh như vậy… thì gọi là tu hành Xả.

Đức Phật bảo A-nan rằng:

–Nếu có chúng sinh ưa quán tưởng sự nằm của Phật thì đó là

quán tưởng chân chánh về định Từ thanh tịnh. Nếu có chúng sinh nghe pháp Phật nằm và các Tỳ-kheo thuận theo lời dạy của Đức Phật, chẳng phá bỏ oai nghi, nằm nghiêng về hông phải, nên biết những người đó mặc áo tàm quý, uống thuốc nhẫn nhục. Như Tỳkheo này ở đời hiện tại ngồi thiền thì thấy chư Phật mười phương vì mình nói pháp lớn. Nếu họ chẳng ngồi thiền mà chẳng phạm giới nên ở đời vị lai được thấy chư Phật mười phương. Các Đức Phật mười phương sẽ vì họ giảng nói pháp lớn. Họ nghe pháp được dễ dàng giác ngộ, giống như khoảnh khắc người tráng sĩ co duỗi cánh tay, ngay tức thời được đạo A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu Thông và tám Giải thoát. Sự nằm của Như Lai đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh. Do đem lại lợi ích nhiều nên gọi là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Bốn pháp này sinh ra các Đức Phật, là mẹ của các vị Bồ-tát.

Khi nói lời đó rồi, ở giữa đại chúng, toàn thân Đức Phật phóng ra ánh sáng. Phía trước tám muôn bốn ngàn, bên phải tám muôn bốn ngàn, bên trái tám muôn bốn ngàn, phía sau tám muôn bốn ngàn, trên cổ tám muôn bốn ngàn là những lỗ chân lông. Mỗi lỗ chân lông mọc ra một sợi lông xoắn. Đầu mỗi sợi lông có trăm vạn ức hoa sen nhiều như bụi trần. Trên mỗi hoa sen có vô lượng vô số hóa Phật nhiều như bụi trần. Thân các vị Hóa Phật cao lớn trang nghiêm như ngàn vạn ức núi Tu-di. Trong rốn của mỗi vị Phật có năm trăm vạn ức con sư tử. Mỗi con sư tử phun ra năm trăm vạn ức phẩm vật cúng dường. Mỗi phẩm vật cúng dường có năm trăm vạn ức đám mây hoa bảy báu. Mỗi đám mây hoa báu có năm trăm vạn ức âm thanh những lời kệ tụng. Từng tiếng từng tiếng tiếp theo nhau giống như những giọt mưa rơi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại hiển hiện rõ tám mươi vẻ đẹp. Ánh sáng màu vàng từ tướng Bạch hào phát ra. Mỗi ánh sáng soi khắp mười phương, hóa thành những vị Phật. Những vị Thế Tôn đó, vô số vị đi, vô số vị đứng, vô số vị ngồi, vô số vị nằm. Các vị Hóa Phật đó nói về đại Từ bi, nói về ba mươi bảy Phẩm trợ Bồ-đề, nói về sáu pháp Ba-la-mật, nói về mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của Phật Như Lai. Khi tướng này hiện, có một ức người dòng họ Thích, lòng không còn chấp thủ, ngộ pháp Nhẫn vô sinh. Đức Phật vì họ thọ ký: Vào đời vị lai, qua vô số kiếp, sẽ được thành Phật, hiệu là Tam-muội Thắng Tràng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, theo thứ lớp thành Phật có đến một ức vị. Khi những Đức Phật đó xuất hiện thì thế giới Ta-bà thanh tịnh trang nghiêm giống như cõi của Đức Phật Quang Minh ở thế giới Thánh phục tràng không khác. Các vị Bồ-tát đó khi được Phật đạo thì cõi nước không có những tên gọi như phá hủy giới cấm, tán loạn tâm ý, bất thiện, toàn là Bồ-tát, tuy có Thanh văn nhưng chẳng hủy báng Đại thừa. Các Thích tử nghe Đức Phật thọ ký, lòng rất vui mừng, đều cởi chuỗi ngọc tung lên trên Đức Phật. Những chuỗi ngọc đó đang trụ bên trên Đức Phật hóa thành cây hoa. Mỗi cây hoa đều có hoa nhiều như cát sông Hằng. Trên mỗi hoa có các lầu báu nhiều như cát sông Hằng. Trong mỗi lầu có các vị Hóa Phật nhiều như cát sông Hằng. Mỗi vị Hóa Phật diễn nói tám muôn bốn ngàn pháp Ba-lamật.

Lại có vị Hóa Phật dạy các Thanh văn phép Sổ tức An ban, tuôn ánh sáng vào xương trắng, xương trắng tỏa ra ánh sáng, tưởng về tâm tịnh, tưởng về tâm bất tịnh, khởi tưởng về kết sử, diệt tưởng kết sử, đoạn tưởng về chi phần kết sử, diệt tưởng về gốc rễ kết sử… Chín mươi ức bụi trần những tưởng như vậy. Như nói Sổ tức An ban thì đó gọi là pháp Thanh văn. Còn pháp Bồ-tát thì chỉ có bốn pháp. Những gì là bốn?

  1. Ngày đêm sáu thời nói lên tội lỗi để sám hối.
  2. Thường tu niệm Phật chẳng lừa dối chúng sinh.
  3. Tu sáu pháp hòa kính, lòng chẳng sân nhuế kiêu mạn.
  4. Tu hành sáu niệm như cứu lửa cháy trên đầu.

Đức Phật nói với vua cha rằng:

–Như vậy… gọi là Tam-muội quán Phật đời vị lai, cũng gọi là phân biệt thân Phật, cũng gọi là biến sắc tướng của Phật, cũng gọi là Tam-muội Niệm Phật, cũng gọi là ánh sáng chư Phật che chở chúng sinh.

Khi Phật nói lời đó, Trời, Rồng, Dạ-xoa, tám bộ quỷ thần, mười hai ức chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và phát thệ nguyền rằng: “Nguyện đời sau thường nhập vào Tammuội, thấy sắc thân Đức Phật như hôm nay không khác.”

Phạm thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, vô số Thiên tử đảnh lễ Phật, quỳ gối chắp tay, bạch Đức Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay được thấy hình sắc tối thượng trong mọi hình sắc của Đức Như Lai! Nguyện xin cho chúng sinh đời trược ác vị lai giữ chánh niệm, tư duy thấy sắc thân của Đức Phật! Nếu nguyện này chẳng hư dối, lời nói của con và sự nhìn thấy của con hôm nay chân thật chẳng hư dối thì nguyện xin cho con và các thiên chúng giống như thân Phật.

Khi chư vị nói lời đó, họ tự thấy trong lòng có trăm vạn ánh sáng phát ra. Mỗi ánh sáng hóa thành vô lượng trăm ngàn vị Hóa Phật. Họ tự thấy thân mình là thân màu vàng ròng giống như Nanđà… không khác.

Các Phạm thiên bạch Đức Phật rằng:

–Đấng Thế Hùng Như Lai xuất hiện ở đời, nhất định sẽ đem lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lời thề nguyền rộng lớn xưa, hôm nay đã được viên mãn, chẳng bỏ chúng sinh. Lời nói này chẳng hư dối nên con tự thấy tâm tưởng cảnh giới chúng sinh đời vị lai cũng sẽ như vậy mà quán tưởng thân chân thật của Đức Phật.

Đức Phật bảo Phạm thiên rằng:

–Đúng như lời nói của ông, chân thật chẳng hư dối! Chúng sinh đời vị lai chỉ khởi ý niệm đó thì đã được phước không lường, thân tướng đầy đủ, huống gì là nhớ tưởng.

Khi Đức Phật nói lời đó, vua Tịnh Phạn và các Thích tử, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-di đồng thời đều đứng dậy đảnh lễ Đức Phật mà lui ra.

Bấy giờ, Phụ vương trở về hoàng cung giảng nói cho các thể nữ về tướng tốt của Đức Phật. Một ngàn hai trăm năm mươi thể nữ nghe về tướng Bạch hào của Đức Phật, lòng vô cùng vui mừng, tiêu trừ được trăm vạn ức vô số tội sinh tử. Trong hư không, có tiếng bảo các thể nữ rằng:

–Các ngươi nghe tướng của Đức Phật tiêu trừ được các tội lỗi!

Hãy phát tâm Vô thượng Bồ-đề!

Nghe lời nói đó rồi, họ liền thấy trong hư không có vô lượng các Đức Phật. Thấy các Đức Phật rồi, họ đều đồng thời được định Niệm Phật. Các Tỳ-kheo-ni liền đứng dậy, kính lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, lui về đứng một bên.

Bấy giờ, A-nan sửa lại áo vai phải, chắp tay quỳ gối bạch Đức Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Đức Phật nói ba mươi hai tướng, mà còn một tướng vì sao Đức Như Lai chẳng nói rõ?

Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo ngồi xuống lại. Lúc ấy, Đức Thế Tôn tự hóa ra năm trăm ức núi báu ở bên trái, bên phải của Phật. Mỗi núi báu có bốn Đức Phật ngồi. Bốn Đức Phật Thế Tôn khen ngợi niệm Phật. Đức Phật liền mỉm cười, miệng có năm sắc ánh sáng, lưỡi có mười bốn ánh sáng. Các ánh sáng này đều hóa thành một Đức Phật. Trong rốn Đức Phật ấy tuôn ra năm dòng nước có màu sắc khác nhau. Trong mỗi màu có chín ức vị Bồtát.

Trên đỉnh đầu mỗi vị Bồ-tát đều có ánh sáng ngọc ma-ni cõi trời Phạm, trong ánh sáng có các Hóa Phật nhiều như cát sông Hằng. Trong rốn mỗi vị Hóa Phật cũng phát ra nước như vậy. Những dòng nước như vậy chảy vào rốn của Đức Phật. Các vị Hóa Phật và hóa Bồ-tát đó đều nhập vào rốn của Đức Phật.

Lúc đó, thân Đức Phật hiển hiện thanh tịnh hơn cả ngọc lưu ly thanh tịnh thù thắng vi diệu. Ở trong thân Đức Phật có tòa Sư tử. Mỗi tòa Sư tử lớn như núi Tu-di. Trên mỗi tòa có một Đức Như Lai, có chín mươi ức Bồ-tát làm thị giả. Trên đỉnh đầu các vị Bồ-tát đó có các Đức Phật lớn như núi Tu-di. Như vậy vô lượng các Đức Phật mười phương mà trong rốn tuôn ra nước đều cùng với nước vào hết trong rốn của Đức Phật Thích-ca Văn.

Các Đức Phật chẳng lớn, Đức Thích-ca cũng chẳng nhỏ. Đức Thích-ca chẳng lớn, các Đức Phật cũng chẳng nhỏ. Trong tim bên trong thân của Đức Phật Thích-ca Văn có vô lượng Đức Phật, các Đức Phật đều chẳng ngăn che nhau, lỗ chân lông của toàn thân giảng nói pháp niệm Phật. Các vị Hóa Phật đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu Tôn giả A-nan nói rằng:

–Ngươi nay khéo giữ gìn Tam-muội quán Phật, chớ để quên mất! Ngươi phải một lòng nhớ nghĩ, vì chúng sinh đời vị lai mở mắt ánh sáng!

Khi nói lời đó, hình tượng bảy Đức Phật đời quá khứ đứng ở trong hư không đều duỗi tay phải xoa đầu Tôn giả A-nan mà chúc lụy việc đó. Lúc đó, trong hư không, có vô số ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có vô số Hóa Phật đồng thanh chúc lụy pháp ấy.