NIỆM PHẬT PHÁP YẾU
念佛法要

  Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập
(惕園毛凌雲敬緝)
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

 

Lời Tựa

Con người có cùng một tâm, nhưng ai nấy ưa thích khác nhau. Do ưa thích khác nhau nên tạo nghiệp sai khác, nhưng đều bận rộn tạo nghiệp như nhau. Kẻ thích giết chóc, tà dâm, trộm cướp, dối trá thuần là ác nghiệp. Kẻ ham công danh, học thuật thì hoặc là tạo ác hay làm lành. Chỉ có kẻ ưa làm điều lành ham bố thí là thuần thiện nghiệp. Tùy lòng ưa thích, ai nấy niệm niệm bận rộn tạo tác chẳng ngơi cho đến chết mới thôi, nhưng tâm với nghiệp vẫn chưa dứt.

Cổ đức nói: “Muôn thứ đều bỏ hết, chỉ mỗi nghiệp theo thân”. Theo nghiệp thọ báo: kẻ thiện sanh trong các đường lành trời, người, hết phước lại đọa xuống, khó được mà dễ mất; kẻ ác đọa trong các đường ác: ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục… trong thời gian lâu dài, chịu khổ nặng nề, dễ vào, khó ra. Luân hồi sáu nẻo chẳng lúc nào ngơi!

Ðấy đều là vì nhất niệm bất giác, mê chơn đuổi theo vọng, phát khởi mê hoặc, tạo nghiệp chịu khổ vô cùng.

Nếu một niệm mà giác ngộ thì sẽ niệm Phật, tâm ấy tương hợp tâm Phật, chuyển nghiệp đoạn hoặc, phản vọng quy chơn, viên thành Phật đạo, chứ chẳng phải chỉ nhanh chóng sanh về Cực Lạc, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi mà thôi đâu! Nếu có ai đã hiểu được lý này mà chẳng chịu niệm Phật thì thật là không bao giờ có!

Có ba cách niệm Phật:

1. Một là chuyên niệm Tự Phật, tức là Thật Tướng Niệm Phật như trong các kinh dạy: Dùng trí Bát Nhã chiếu soi Uẩn, Nhập, Xứ, Giới, các pháp đều là không, chứng đắc tánh Chơn Như mầu nhiệm mình sẵn có; cũng giống như phép Chỉ Quán của tông Thiên Thai, cách tham cứu hướng thượng của Thiền tông v.v… Ðó là niệm đức Phật mình sẵn có nơi tự tánh vậy.

Chơn lý ấy quá sâu, thật chẳng dễ tu hành vì chỉ cậy vào Tự Lực, hoàn toàn không có Tha Lực giúp đỡ. Nếu chẳng phải là hạng túc căn thành thục thì chỉ giải ngộ không thôi đã cực khó, huống hồ là thực chứng nổi!

2. Hai là chuyên niệm Tha Phật. Cần phải có lòng tin sâu dày, tâm nguyện thiết tha thì mới cảm ứng đạo giao với Phật, mới được Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc, một đời thành Phật.

Cách tu này lại gồm có ba phương pháp:

a) Một là Quán Tưởng Niệm Phật, tức là quán tưởng theo như Quán kinh đã dạy: hoặc là chuyên quán tướng bạch hào, hoặc chỉ quán thân Phật cao một trượng sáu, hoặc quán Pháp Thân to lớn. Nhưng [xét ra] chúng sanh huệ cạn, quán cảnh vi tế mà tâm lại thô tháp nên quán pháp khó thành tựu.

b) Hai là Quán Tượng Niệm Phật, tức là quán hình tượng Phật, tâm thường hệ niệm. Nhưng chúng sanh chướng nặng nên hễ rời tượng ra thì sự hệ niệm liền bị gián đoạn.c) Chỉ có mỗi cách thứ ba là Trì Danh Niệm Phật tức là nhất tâm chuyên niệm thánh hiệu của đức Phật A Di Ðà, hạ thủ dễ dàng, thành công mau chóng. Chỉ cần thâu tóm sáu căn, tịnh niệm liên tục, niệm đến khi toàn bộ tâm là Phật, toàn thể Phật là tâm, ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật chẳng có tâm, tâm lẫn Phật cùng hiển lộ mà cũng lại cùng mất cả thì diệu lý Thật Tướng sẽ hiển lộ toàn thể, y báo, chánh báo cõi Tây Phương sẽ phô bày trọn vẹn.

Ðấy chính là Trì Danh mà có thể thâm đạt Thật Tướng, chẳng cần phải tu Quán mà thấy thấu tột cõi Tây Phương; hiện tại đã chứng được Niệm Phật tam muội, lúc lâm chung quyết định vãng sanh Thượng Phẩm.

Nếu căn cơ yếu kém, chưa thể làm được như vậy thì cứ dùng tín nguyện trì danh như con nhớ mẹ, niệm luôn luôn không gián đoạn cho đến lúc lâm chung thì quyết sẽ nhờ vào sức từ bi của Phật, được mang nghiệp đi vãng sanh.

Pháp Trì Danh này phổ độ khắp các căn cơ, lợi ích sâu rộng, thật ích lợi cho kẻ độn căn thời Mạt Pháp, phơi bày trọn vẹn bổn hoài xuất thế của đức Như Lai. Vì thế, vạn người tu, vạn người vãng sanh.

3. Ba là kiêm niệm tự tha Phật, tức là Thiền Tịnh Song Tu. Nếu ai có đủ tín nguyện cầu sanh thì tham Thiền chính là hạnh Tịnh Ðộ, hễ có nghi thì tham Thiền, không nghi thời niệm Phật, tự châm chước cách hạ thủ công phu.

Nếu chuyên tham cứu câu “người niệm Phật là ai?” để mong minh tâm kiến tánh, chẳng màng đến tín nguyện cầu sanh thì đúng là có Thiền nhưng không Tịnh. Nếu như có chút tơ tóc hoặc nghiệp nào chưa đoạn sạch thì sẽ bị đi theo nghiệp, không cách nào thoát khỏi nổi! Vì thế, cách này chẳng bằng được với cách chuyên trì danh hiệu, thâm nhập một môn!

Tôi do thiện nghiệp xa xưa nào mà nay được mang thân người, tuy ham thích chuyện vô ích, tạo nghiệp vô lượng; nhưng trong mạng sống thừa cuối kiếp này lại được Phật quang chiếu đến, bạn lành đề huề. Ðọc cuốn Long Thư Tịnh Ðộ Văn, tôi sanh ngay lòng tín nguyện, buông bỏ sạch hết những điều mình vốn ưa thích, chỉ còn thích niệm Phật.

Sau khi đến được Ðài Loan, tôi được đọc Ðại Tạng, lại được xem nhiều kinh sách Tịnh Ðộ. Cứ hễ đọc đến đoạn nào liên quan đến phương pháp tu trì Niệm Phật thì liền ghi lấy, cóp nhặt của báu, ghi thêm lời nhận định. Dẫu là lời lẽ chưa đạt nhưng lý chẳng ngoài những lời Phật dạy Tổ răn, tuyệt không một chữ nào phát xuất tự ý riêng mình để khỏi mắc lỗi hoại pháp, lầm lạc mình. Tôi tập hợp những lời dạy ấy ghép thành bốn quyển, đặt tên là Niệm Phật Pháp Yếu.

Sách này vốn là để giúp mình tự tu, lấy lời dạy của cổ đức làm thầy hòng khích lệ mình tinh tấn để khỏi tu mù luyện đui, hưởng quả quanh quẩn. Nhân có lời yêu cầu đăng tải của báo Sư Tử Hống, tôi trộm nghĩ đây chính là lúc thuận tiện, nhưng vừa mới đăng tải được một nửa thì đã được các vị đại đức trong ngoài nước quá ưu ái quyên tiền hối thúc ấn hành để sách được lưu truyền rộng khắp.

Phổ nguyện pháp giới chúng sanh những ai không có thời gian rảnh rỗi để tham học khắp các bậc minh sư hay thâm nhập kinh tạng sẽ nhờ cuốn sách này mà có được pháp yếu để làm chứng cứ, tuân theo lời dạy mà niệm Phật để cùng thoát khỏi khổ luân, đồng sanh Cực Lạc, đồng đoạn hoặc nghiệp, đồng chứng Bồ Ðề.

Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 55 (1966), cuối xuân Bính Ngọ, Bồ Tát giới ưu-bà-tắc Dịch Viên Mao Lăng Vân, nguyên quán tỉnh Hồ Bắc, kính ghi tại tịnh xá Tư Quy phụ cận thành phố Ðài Bắc

 

NIỆM PHẬT PHÁP YẾU

Quyển Thứ Nhất

 

Niệm Phật Chỉ Nam

Kinh Ðại Tập dạy: “Ðời Mạt Pháp ức ức người tu hành, hiếm một ai đắc đạo, chỉ có ai nương theo pháp Niệm Phật mới được thoát khỏi sanh tử”.

Ngài Linh Phong bảo: “Trong hết thảy pháp môn Niệm Phật, tìm lấy pháp giản dị nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất thì không có pháp nào bằng được pháp Tín Nguyện Chuyên Trì Danh Hiệu; chẳng nhọc công quán tưởng, chẳng cần phải tham cứu”.

Thế mà gần đây người niệm Phật thì nhiều, ít kẻ được vãng sanh; đều là do tín nguyện chẳng thiết, tạp tu chẳng chuyên, hoặc cầu phước báo trời, người nên vẫn cứ luân hồi như cũ!

Ở đây, tôi trích tuyển pháp ngữ của chư Tổ, chẳng chọn lấy những lời bàn luận cao xa về cách tham cứu, quán tưởng, chỉ chọn lấy những lời pháp yếu về cách Trì Danh để hành nhân thường dễ đọc đại lược hòng khích lệ mình tinh tấn; so với việc tham học thiện tri thức thì lại càng thiết thực hơn nữa.

1. Trích yếu lời phán định hai cách tạp tu và chuyên tu Tịnh nghiệp của đại sư Thiện Ðạo đời Ðường

Hỏi: Vì sao chẳng dạy tu quán mà chỉ dạy thẳng chuyên xưng niệm danh hiệu?

Ðáp: Chúng sanh chướng nặng, cảnh vi tế mà tâm thì thô phù, thần thức lao chao nên khó thành tựu pháp quán. Vì thế, đức Ðại Thánh bi mẫn khuyên ngay nên chuyên xưng danh hiệu, chính là vì danh hiệu dễ xưng, hễ niệm liên tục liền vãng sanh.

Nếu có thể niệm niệm liên tục, lấy lúc hết mạng làm hạn thì mười người tu mười người được vãng sanh, trăm người tu trăm người được sanh. Vì sao vậy?

Do vì không có tạp duyên bên ngoài nên được chánh niệm, vì tương ứng với bổn nguyện của Phật, vì chẳng trái giáo pháp, vì thuận theo lời Phật.

Nếu bỏ chuyên niệm để tu tạp nghiệp thì trong trăm kẻ hiếm có một hai [người được vãng sanh], trong cả ngàn người hiếm được ba bốn.

Vì sao vậy? Vì tạp duyên loạn động, đánh mất chánh niệm; vì chẳng tương ứng với bổn nguyện của Phật; vì trái nghịch giáo pháp, vì chẳng thuận lời Phật; vì hệ niệm chẳng tương tục (tiếp nối); vì tâm chẳng liên tục nghĩ báo ân Phật; vì tuy tu hành mà thường tương ứng danh lợi; vì ưa gần tạp duyên gây chướng ngại chánh hạnh vãng sanh của mình lẫn người.

Xin hết thảy mọi người khéo tự suy nghĩ. Ði, đứng, nằm, ngồi đều phải chú tâm khắc kỷ, ngày đêm đừng quên. Trong niệm trước vừa mạng chung thì trong niệm sau liền sanh, vĩnh viễn hưởng pháp lạc vô vi cho đến khi thành Phật, há chẳng phải là vui sướng lắm ư?

Nhận định:

Ấn Quang đại sư nói:

“Hòa Thượng Thiện Ðạo là hóa thân của Phật A Di Ðà, ngài dạy về chuyên tu nghĩa là: thân nghiệp chuyên lễ (phàm nhiễu Phật và trong hết thảy mọi nơi, thân chẳng phóng dật đều là thân nghiệp chuyên lễ cả); khẩu nghiệp chuyên xưng (hễ khi nào tụng kinh trì chú mà có thể chí tâm hồi hướng thì đều có thể gọi là chuyên xưng cả); ý nghiệp chuyên niệm thì vãng sanh Tây Phương, trong cả vạn trường hợp chẳng sót trường hợp nào!

Tạp tu nghĩa là kiêm tu nhiều pháp môn và hồi hướng cầu vãng sanh. Do tâm chẳng thuần nhất nên khó có lợi ích. Ðấy là lời thành thật phát xuất từ miệng vàng, là khuôn phép ngàn xưa chẳng thay đổi được!”

Xin các hành nhân một dạ chuyên tu, lấy trọn đời làm hạn để cầu quyết được vãng sanh.

2. Trích yếu sách Vạn Thiện Ðồng Quy của đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ đời Tống

* Theo đoạn kinh giảng về chín phẩm vãng sanh trong Quán kinh thì sở dĩ có sự thăng – giáng, phẩm vị thượng, hạ là vì chẳng ngoài hai tâm sau đây:

1. Một là Ðịnh Tâm như tu Ðịnh, tập Quán.

2. Hai là Chuyên Tâm: Chỉ niệm danh hiệu, dùng các điều lành hỗ trợ, vun bồi; hồi hướng, phát nguyện nhưng phải trọn đời quy mạng, suốt đời chuyên tu.

Trong lúc nằm, ngồi, thường hướng về phương Tây. Trong lúc đi kinh hành, lễ kính và khi niệm Phật, phát nguyện phải khẩn thiết, siêng gắng, dốc trọn lòng thành, không có niệm gì khác, giống như lúc sắp bị xử chém, hoặc đang trong vòng tù tội, hoặc đang bị oán tặc truy đuổi, hoặc đang bị nước, lửa bức bách, nhất tâm cầu được cứu độ, nguyện thoát nỗi khổ, mau chứng vô sanh, rộng độ hàm thức, thiệu long Tam Bảo, thề báo tứ ân. Chí thành như thế ắt sẽ chẳng luống công!

Nếu như lời nói chẳng tương xứng việc làm, tín lực hời hợt, chẳng có tâm luôn giữ cho niệm niệm tiếp nối, ý nhiều phen gián đoạn; lại toan cậy vào sự tu tập lười biếng thế ấy mà mong lúc lâm chung được vãng sanh thì chỉ e rằng sẽ bị nghiệp chướng ngăn trở, khó gặp được thiện hữu, bị gió, lửa bức bách, chẳng giữ nổi chánh niệm!

Vì sao thế? Lúc hiện tại là nhân, lúc lâm chung là quả. Nhân có chắc thật thì quả mới chẳng hư dối. Nếu muốn được lâm chung mười niệm thành tựu thì phải dự bị sẵn phương tiện, tom góp công đức để hồi hướng về lúc đó; niệm niệm chẳng thiếu sót thì lúc ấy mới không luống uổng vậy!

* Hoặc có kẻ hỏi: Công đức của việc đi kinh hành niệm Phật và ngồi niệm Phật như thế nào?

Ðáp: Ví như căng buồm đi ngược nước dù là cũng có thể đến nơi được, nhưng so với việc thuận nước căng buồm thì biết ngay khó – dễ. Ngồi niệm Phật một tiếng đã tiêu trừ được tội lỗi trong cả tám mươi ức kiếp thì công đức đi kinh hành niệm Phật còn biết đến đâu? Vì thế có bài kệ rằng:

Kinh hành năm trăm vòng
Niệm Phật một ngàn tiếng
Thường tu hành như thế
Tự thành Phật Tây phương

Nếu lễ bái thì khuất phục được vô minh, thâm nhập bến Giác, mạng chung vãng sanh, mau chứng Niết Bàn.

* Thiền Tịnh Tứ Liệu Giản

Có Thiền, không Tịnh Ðộ
Mười người, chín chần chừ
Nếu ấm cảnh hiện tiền.
Chớp mắt đi theo nó.
 
Không Thiền, có Tịnh Ðộ
Vạn người tu, vạn đỗ
Chỉ được thấy Di Ðà
Lo chi chẳng khai ngộ.
 
Có Thiền, có Tịnh Ðộ
Khác nào hổ thêm sừng
Ðời này làm thầy người
Ðời sau thành Phật, Tổ.
 
Không Thiền, không Tịnh Ðộ
Giường sắt và cột đồng
Muôn kiếp với ngàn đời
Trọn không ai nương dựa

Nhận định:

Ấn Quang đại sư nói:

“Có Thiền là tận lực tham cứu, niệm bặt tình mất, thấy tột cùng vẻ mặt sẵn có trước khi được cha mẹ sanh ra, minh tâm kiến tánh.

Có Tịnh Ðộ là chơn thật phát Bồ Ðề tâm, sanh lòng tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây phương.

Nếu như tham Thiền chưa ngộ hoặc ngộ chẳng triệt để thì đều chẳng được gọi là ‘có Thiền’.

Nếu niệm Phật mà thiên chấp duy tâm, chẳng có tín nguyện, hoặc có tín nguyện nhưng chẳng chơn thành, thiết tha, chỉ hờ hững, lững lờ, hành qua loa cho có; hoặc hành tuy tinh tấn nhưng tâm mê đắm trần cảnh, hoặc cầu đời sau sẽ sanh trong nhà phú quý, hưởng vui ngũ dục; hoặc cầu sanh lên trời để hưởng vui phước trời; hoặc cầu đời sau xuất gia làm Tăng nghe một ngộ cả ngàn, đắc đại Tổng Trì, hoằng dương pháp đạo, phổ lợi chúng sanh thì đều chẳng đáng gọi là ‘có Tịnh Ðộ’ vậy!

Còn bảo kẻ ‘không Thiền, không Tịnh’ là nói đến kẻ vùi đầu tạo nghiệp, chẳng tu thiện pháp thì thật là lầm lẫn lớn!

Pháp môn vô lượng nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là thích ứng với các căn cơ nhất. Kẻ nào chưa triệt ngộ mà lại chẳng cầu vãng sanh, cứ loay hoay tu đủ các pháp môn khác thì chẳng những đã không thể giữ cho Ðịnh và Huệ được cân bằng hòng đoạn hoặc, chứng chơn; mà lại còn chẳng nương theo Phật lực để đới nghiệp vãng sanh! Ðem công đức tu trì trọn đời mong cảm lấy phước báo trời – người, cậy phước làm ác, sẽ đọa địa ngục; muốn có lại thân người thì thật là khó nhất trong những sự khó vậy! Câu “trọn không ai nương dựa” vẫn chỉ là lời nói còn nhẹ lắm do bị hạn cuộc trong âm vận bài kệ đó thôi! Ðại sư (Tổ Vĩnh Minh) sợ đời chẳng hiểu nên đặc biệt viết bài liệu giản này để chỉ dạy đời tương lai’.

Xin các hành nhân chuyên tâm trì danh, cầu sanh Tây Phương thì mới chẳng uổng phí.

3. Trích yếu sách Vãng Sanh Tịnh Ðộ Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức đại sư đời Tống

* Phàm là kẻ bận việc công hay làm chuyện tư, bận rộn công việc, tuy làm việc mà trong tâm vẫn thường chẳng quên Phật, luôn nhớ Tịnh Ðộ. Giống như người đời có chuyện quan trọng phải bận tâm, tuy tính toán, nói năng, nằm, ngồi, làm đủ các sự, nhưng chẳng ngại chi việc thầm nhớ, chuyện bận tâm trên vẫn còn y nguyên! Phải nên có tâm niệm Phật như thế! Nếu lỡ quên mất thì phải nhiều lần gom tâm lại, lâu ngày sẽ thành tánh, luôn nghĩ nhớ tùy ý.

Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa; chẳng nhọc phương tiện, tâm tự khai ngộ”. Ràng buộc tâm như thế thì sẽ luôn ngăn ngừa các ác một cách tùy ý. Giả sử muốn làm ác thì do nhớ đến Phật nên ác chẳng thể thành. Dù cho có lúc ngả theo điều ác mà làm ác thì tâm cũng luôn rụt rè, giống như thân có mùi thơm sẽ tự nhiên xa lìa chỗ hôi thối.

Hơn nữa, nếu biết tâm vừa mới khẽ khởi ác niệm thì liền nhớ đến Phật. Do Phật lực nên ác niệm tự dứt như kẻ gặp nạn cầu đến cường viện sẽ được thoát khỏi. Lại như lúc thấy người khác chịu khổ thì do tâm niệm Phật sẽ xót thương kẻ ấy, mong kẻ ấy thoát khổ.

Nếu phải xét xử án tù thì do niệm Phật nên sanh lòng thương xót, tuy vẫn tuân phép vua, nhưng nên thầm nguyện rằng: “Tôi tuân hành vương pháp chứ chẳng phải bổn tâm muốn thế. Nguyện khi tôi sanh về Tịnh Ðộ sẽ cứu vớt người!”

Khi trải qua hết thảy hoàn cảnh dù thiện hay ác thì do tâm nhớ Phật nên đều tâm niệm phát nguyện. Vì thế, đại nguyện vương của đức Phổ Hiền: “Làm hết thảy ác đều chẳng thành tựu; nếu làm thiện nghiệp thảy đều hòa hợp” phát xuất chính từ ý nghĩa này. Trong tâm luôn niệm Phật liên tục như thế thì có thể thành tựu hết thảy công đức nhân duyên Tịnh Ðộ.

Nhận định:

Môn Hệ Duyên này có lợi ích rất lớn, giữ sao cho trong tâm luôn hệ niệm chẳng quên đức Phật; trong hết thảy hoàn cảnh thiện ác đều nguyện và khi làm các việc đều mật trì danh hiệu Phật chẳng sót thì có thể nói là chẳng hề lìa Ðạo trong khoảnh khắc nào.

4. Trích yếu sách Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự của đại sư Phổ Chiếu Trung Phong Minh Bổn đời Tống

* Giáo nghĩa của Tịnh Ðộ là ngưỡng thừa bốn mươi tám nguyện lực đại từ đại bi sâu nặng của đức A Di Ðà Phật nhiếp thủ mười phương chúng sanh. Hễ ai có đủ tín tâm thì đều được vãng sanh.

1. Tín là tin có Tây Phương Tịnh Ðộ, tin có việc đức A Di Ðà Phật nhiếp thủ chúng sanh, tin bọn chúng sanh chúng ta có phần vãng sanh. Tuy nói là A Di Ðà Phật nhiếp thủ chúng sanh nhưng cần phải tin rằng đấy chỉ là tùy tâm tự hiện, cảm ứng đạo giao, xét đến rốt ráo chẳng phải là có tự bên ngoài. Tin được như thế thì gọi Chơn Tín. Tín mà không hạnh thì chẳng thành Tín.

2. Hạnh là như kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Kinh A Di Ðà dạy: “Nghe nói đức A Di Ðà Phật liền chấp trì danh hiệu trong một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn”. Hành như thế gọi là Chánh Hạnh. Hạnh mà thiếu Nguyện thì Hạnh chẳng thành.

3. Nguyện phải tương ứng mỗi nguyện trong bốn mươi tám nguyện của đức A Di Ðà. Ðấy là Ðại Nguyện. Ba thứ: Tín, Hạnh, Nguyện như ba chân của cái đỉnh, thiếu một thứ chẳng được. Nên biết rằng: Một niệm hiện tiền vốn tự viên thường. Tín – Hạnh – Nguyện nguyên vốn là tánh đức vốn tự sẵn có như thế, nay chỉ là bổn tánh hiển hiện quang minh mà thôi.

* Ngay trong lúc vọng tâm tạp loạn nếu có thể khởi lên một niệm như đối trước đấng Từ Tôn, nắm vững sáu chữ hồng danh, mỗi câu niệm ra thấu vào tai thì cái tạp loạn ấy sẽ tự nhiên tịch tĩnh theo câu niệm. Từ một niệm ấy cho đến mười niệm, thậm chí niệm niệm chẳng dời đổi; đấy chính là điều kinh gọi là “tịnh niệm tiếp nối”.

Người niệm Phật tín tâm cần phải khẩn thiết, chánh nhân lẫm lẫm, đặt nặng nỗi buồn sanh tử luân chuyển, nhàm chán sâu xa nỗi đau trần lao vấn vít để khởi lên một tiếng niệm Phật. Ngay khi đó không còn nghĩ gì khác, thẳng đến khi nhất tâm bất loạn, Năng lẫn Sở cùng mất thì chẳng cần phải nhắc lại lời nói đề cập đến con đường về nhà nữa, chẳng cần phải mất công nhai nhải chuyện đi trên con đường tắt. Pháp môn này đáng bảo là cách thức tu hành thần diệu, là đường chánh siêu việt phương tiện vậy.

Nhận định:

Câu: “Ngay trong lúc vọng tâm tạp loạn nếu có thể khởi lên một niệm niệm Phật; mỗi câu niệm thốt ra thấu vào tai thì cái tạp loạn ấy sẽ tự nhiên tịch tĩnh theo câu niệm” chính là yếu quyết để trừ vọng niệm, nguyện các hành nhân hãy thiết thực hành trì. Dùng Tín để nhập đạo, lấy Nguyện để dẫn đường, chẳng thể khuyết một thứ nào.

5. Trích yếu sách Liên Tông Bảo Giám của Hổ Khê Tôn Giả Ưu Ðàm Phổ Ðộ đại sư đời Nguyên

* [Trong các pháp để] nhiếp tâm niệm Phật muốn được mau thành tam muội, đối trị hôn trầm, tán loạn thì pháp Sổ Tức (đếm hơi thở) là quan trọng nhất. Hễ lúc nào muốn tịnh tọa thì trước hết phải tưởng thân mình ở trong Viên Quang [của Phật], lặng nhìn chót mũi, theo dõi hơi thở ra vào. Mỗi hơi thở thầm niệm một tiếng A Di Ðà Phật. Phương tiện điều hòa hơi thở chẳng nhanh, chẳng chậm; tâm và hơi thở nương theo nhau.

Ði, đứng, nằm, ngồi đều có thể thực hành theo cách nương theo hơi thở ra vào chẳng để gián đoạn. Luôn tự miên mật hành trì cho đến lúc thâm nhập Thiền Ðịnh, cả hơi thở lẫn câu niệm cùng mất thì thân tâm này giống như hư không. Lâu ngày thuần thục tâm nhãn khai thông, tam muội đột nhiên hiện tiền. Ðấy chính là “duy tâm Tịnh Ðộ”.

* Luận Bảo Vương chép: “Tu trì Nhất Tướng Niệm Phật tam muội là ngay trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, luôn hệ niệm chẳng quên. Dù có ngủ nghỉ, khi thức dậy là liền hệ niệm tiếp”, chẳng để các nghiệp khác gây gián đoạn, chẳng để tham, sân, si cách ngăn. Hễ phạm liền sám hối ngay chẳng để quá một niệm, chẳng nghĩ gì khác, chẳng để cách ngày, cách quãng thời gian. Niệm niệm thường chẳng rời Phật; niệm niệm thanh tịnh viên minh, chính là đắc Nhất Tướng tam muội.

* Bồ Tát tại gia thờ Phật giữ giới, suốt ngày lo liệu gia duyên chưa thể nhất tâm tu hành thì sáng dậy nên đốt hương, lễ bái Tam Bảo, tùy ý niệm Phật. Mỗi lúc hoàng hôn cũng lễ niệm như thế; lấy đó làm thường khóa. Nếu như ngày nào bỏ sót thì ngày hôm sau nên đối trước Phật bày tỏ sám hối. Pháp môn này cốt yếu chẳng gây trở ngại đến công việc mình: chẳng trở ngại kẻ sĩ đọc sách luyện văn, chẳng trở ngại nhà nông cấy cày, chẳng ngại kẻ làm thợ làm lụng, chẳng trở ngại thương gia bán buôn.

Ngoài việc sáng lễ, chiều lạy, trong mười hai thời nên dành chút công phu niệm trăm câu, ngàn câu danh hiệu Phật, lấy chí thành làm công lao để cầu sanh Tịnh Ðộ.

* Phàm là người tu Tịnh Ðộ thì rõ ràng là phải chống chọi sanh tử, chứ chẳng phải nói xuông rồi thôi. Hãy nghĩ tới vô thường nhanh chóng, thời gian chẳng đợi ai, phải hoàn thành sự nghiệp cho xong. Nếu đã tin tưởng được rồi thì từ ngày nay trở đi phải phát đại dũng mãnh, tinh tấn, chẳng cần biết là hiểu hay chẳng hiểu, kiến tánh hay chưa kiến tánh, chỉ chấp trì một câu Nam Mô A Di Ðà Phật giống hệt như dựa vào một tòa núi Tu Di, dẫu lay lắc cũng chẳng động.

Chuyên tâm, nhất ý để hoặc là tham niệm, hoặc quán niệm, hoặc ức niệm, hoặc thập niệm, hoặc thầm niệm, chuyên niệm, hệ niệm, lễ niệm. Niệm ở đâu chú tâm vào đó, thường nhớ thường niệm. Sáng cũng niệm, tối cũng niệm. Ði cũng niệm, ngồi cũng niệm. Tâm niệm chẳng để luống qua, niệm Phật chẳng lìa tâm. Ngày ngày giờ giờ chẳng muốn buông bỏ, miên miên mật mật như gà ấp trứng luôn giữ cho hơi ấm được liên tục. Ðấy chính là “tịnh niệm tiếp nối” .

Lại còn vận dụng trí để quán chiếu biết Tịnh Ðộ chính là tự tâm. Ðấy chính là công phu tấn tu của bậc thượng trí. Giữ được Ðịnh, làm chủ được hành động, đạt được chỗ nương dựa ổn thỏa, thích đáng như thế thì dù có gặp cảnh giới khổ, vui, thuận, nghịch xảy ra cũng chỉ niệm A Di Ðà Phật, không hề có một niệm sanh tâm biến đổi, tâm thối đọa, tâm tạp tưởng. Cho đến hết đời, trọn không có niệm nào khác thì sẽ quyết định sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Nếu có thể dụng công như thế thì vô minh, nghiệp chướng sanh tử trong bao kiếp sẽ tự nhiên tiêu sạch, trần lao tập lậu tự nhiên hết sạch, được gặp Phật Di Ðà, chẳng lìa bổn niệm; công thành, hạnh mãn. Nguyện lực hỗ trợ nhau, khi lâm chung quyết sẽ sanh trong Thượng Phẩm.

* Nếu người niệm Phật còn chưa sạch trần cấu, khi ác niệm nổi lên thì nên tự kiểm điểm. Nếu như mình có tâm keo tham, tâm sân hận, tâm si ái, tâm ganh ghét, tâm khinh dối, tâm hợm mình, tâm kiêu căng, tâm dua vạy, tâm tà kiến, tâm khinh mạn, tâm năng sở, và khi gặp phải hết thảy hoàn cảnh thuận – nghịch liền thuận theo nhiễm cấu phát sanh hết thảy các tâm bất thiện; nếu khi các tâm như vậy phát khởi thì nên mau lớn tiếng niệm Phật, gom ý niệm về chỗ đúng đắn, đừng để cho tâm ác tiếp nối. Niệm miết cho đến khi ác niệm hết sạch, vĩnh viễn không còn sanh lại nữa.

Thường phải nên thủ hộ tất cả tâm thâm tín, tâm chí thành, tâm phát nguyện hồi hướng, tâm từ bi, tâm khiêm hạ, tâm bình đẳng, tâm phương tiện, tâm nhẫn nhục, tâm trì giới, tâm hỷ xả, tâm thiền định, tâm tinh tấn, tâm Bồ Ðề và hết thảy thiện tâm. Lại nên xa lìa những điều trái với phạm hạnh, thực hành những luật nghi dứt ác, đừng nuôi dưỡng gà, chó, lợn, dê; những việc như săn bắn, đánh cá đều chẳng nên làm. Nên học đòi theo Phật, nên lấy việc bỏ ác làm lành để răn xét mình!

* Bậc tin chơn thật tu hành chỉ cốt nhớ được một câu A Di Ðà Phật này trong mỗi ý niệm, đừng để cho quên mất, niệm niệm thường hiện tiền, niệm niệm chẳng lìa tâm. Vô sự cũng niệm như thế, hữu sự cũng niệm như thế. An vui cũng niệm như thế, bịnh khổ cũng niệm như thế. Sống cũng niệm như thế, chết cũng niệm như thế. Một niệm phân minh bất muội như thế thì cần gì phải hỏi người khác đường lối tu hành để được vãng sanh nữa?

Nhận định:

Ðối với thường khóa sớm tối, người tại gia niệm Phật nhất định chẳng thể bỏ sót. Nếu như có lúc bỏ sót thì sao chẳng ngủ trễ, dậy sớm? Ðừng vin vào đó để gián đoạn thường khóa. Chỉ khi nào bận rộn suốt tối hôm trước thì sáng hôm sau mới đối trước Phật bày tỏ, sám hối, niệm bù. Thường nhật nên dùng thời gian rảnh rang để niệm Phật, niệm càng nhiều càng hay, cũng chẳng hạn định trong trăm câu, ngàn câu. Lâu ngày thuần thục thì tam muội sẽ dễ hiện tiền.

6. Trích yếu sách Tịnh Ðộ Hoặc Vấn của đại sư Duy Tắc Thiên Như đời Nguyên

* Người sanh trong đời có được mấy chốc? [Ðời người như] lửa xẹt từ đá, như ánh chớp nháng lên, chớp mắt đã hết. Giành ngay lúc chưa bệnh, chưa già đây, dốc trọn tinh thần, vứt bỏ sự đời; cứ mỗi một ngày trôi qua là một ngày niệm danh hiệu Phật, được một thời công phu, tu một thời Tịnh nghiệp. Do đấy, lúc mạng lâm chung, dù là chết nhẹ nhàng hay chết đau khổ thì những cái ta vương vấn đã được giải quyết xong, tiền trình của ta đã ổn thỏa, thích đáng rồi!

* Người bị ràng buộc trong lưới đời nếu đau đáu nghĩ đến vô thường, dụng tâm chơn thành, thiết tha thì chẳng luận là khổ, vui, thuận, nghịch, tịnh, ồn, rảnh, bận, mặc lòng công chuyện hoàn tất hay chưa, dù tiếp tân, đãi khách, vạn duyên rối bời, dẫu phải ứng phó mọi mặt mà việc đời và việc niệm Phật vẫn chẳng trở ngại gì nhau cả!

Nếu ai bận khá nhiều việc đời, sức dù có hơi kém thì cũng vẫn nên tìm lấy thời gian rảnh rang giữa lúc bận rộn, tìm lúc yên tịnh giữa chốn huyên náo để mỗi ngày niệm ba vạn câu, hoặc một vạn câu, hoặc ba ngàn câu, một ngàn câu. Lấy đó làm nhật khóa nhất định, chẳng bỏ suông ngày nào! Lại ngay cả khi bận rộn hết sức không có lúc nào rảnh rang thì mỗi ngày vào lúc sáng sớm nên hành pháp Thập Niệm. Lâu ngày tích tụ thành công lao cũng chẳng luống uổng. Ngoài lúc niệm Phật ra thì hoặc là niệm kinh, lễ Phật, hoặc sám hối phát nguyện, làm đủ các thứ kết duyên tạo phước, tùy sức bố thí, tu các việc lành để hỗ trợ thêm. Với bất cứ điều lành mảy may nào đều phải hồi hướng Tây Phương.

Dụng công như thế chẳng những sẽ quyết định vãng sanh mà còn khiến cho phẩm vị được thêm cao nữa!

* Chuyên trì danh hiệu hoặc còn lễ bái, sám hối thêm thì rất hợp với thuyết Chuyên Tu Vô Gián của ngài Thiện Ðạo. Chuyên Tu Vô Gián là thân phải chuyên lễ A Di Ðà Phật, chẳng lễ xen lẫn các vị khác; miệng chuyên niệm A Di Ðà Phật chẳng niệm các thánh hiệu khác, chẳng tụng các kinh khác; ý phải chuyên tưởng A Di Ðà Phật, chẳng tưởng vị nào khác. Nếu tham, sân, si xen tạp thì cứ hễ phạm liền sám, chẳng để cách ngày, cách đêm hay cách giờ; thường giữ cho thanh tịnh thì cũng gọi là Vô Gián.

* Pháp Hệ Niệm là chẳng cần biết đến là đang đi, đứng, hay nằm, ngồi, chẳng cần phải niệm ra tiếng tốn hơi; chỉ cốt chí thành, thầm tưởng thầm niệm, niệm niệm liên tục, tâm không gián đoạn. Tôi dám hứa là nhục nhãn của hành nhân trong hiện đời sẽ thấy Phật, hoặc thấy quang minh, hoặc được Phật xoa đảnh v.v… chứ chẳng cần phải đến lúc lâm chung!

Ðây là một pháp môn đường tắt, giản dị nhất, thiết yếu nhất, cực kỳ linh nghiệm.

Nhận định:

Mẹ của Ðại Sư tuổi gần bảy mươi; ngài sợ niệm Phật ra tiếng tốn hơi nên ngầm sai em là ngài Hành Viễn khuyên mẹ tu pháp môn Hệ Niệm. Nếu có thể niệm Phật ra tiếng thì sẽ dễ xưng danh hơn, dễ giữ được niệm niệm liên tục. Vì thế, sách Tịnh Ðộ Hoặc Vấn quy kết về việc chuyên trì danh hiệu.

7. Trích yếu sách Tịnh Ðộ Pháp Ngữ của đại sư U Khê Truyền Ðăng Vô Tận đời Minh

* Dương Thứ Công nói: “Ái chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà; niệm chẳng nhất, chẳng sanh Tịnh Ðộ”.

Nếu đối với Sa Bà mà có một Ái chẳng nhẹ thì lúc lâm chung sẽ bị cái Ái đó lôi kéo nên chẳng được vãng sanh; thế thì có nên lắm ái hay không?

Nếu đối với Cực Lạc có một niệm chẳng chuyên nhất thì lúc lâm chung sẽ bị cái niệm ấy xoay chuyển, chẳng được vãng sanh; vậy thì có nên có lắm niệm hay không?

Do vì Ái có nặng, nhẹ, dày, mỏng: chánh báo, y báo bày đầy trước mắt nên chẳng thể lãng quên nổi cha mẹ, vợ con, đồ đệ, bạn bè, công danh, phú quý, văn chương, thi phú, đạo thuật, kỹ nghệ, y phục, thức ăn, nhà cửa, ruộng vườn, rừng, suối, đồng hoa, trân bảo, ngoạn vật… Hễ còn một vật chẳng quên nổi thì là Ái; còn có một niệm chẳng thể bỏ đi thì là Ái. Hễ còn giữ một niệm Ái trong lòng thì niệm chẳng thể chuyên nhất; còn một niệm chẳng quy nhất thì chẳng được vãng sanh.

Nếu hỏi: Có cách nào làm nhẹ ái chăng?

Xin thưa: Làm nhẹ ái không gì hơn là nhất niệm.

Có cách nào để nhất niệm không?

Xin thưa: Ðể đạt nhất niệm, không có gì bằng làm nhẹ ái.

Bởi vì niệm bất nhất là do tâm tán loạn, duyên khác [xen vào] khiến tâm tán loạn như thế. Duyên khác làm tán tâm là do rong ruổi theo cảnh nên trở thành như thế. Sa Bà có một cảnh thì chúng sanh có một tâm. Chúng sanh có một tâm thì Sa Bà có một cảnh.

Duyên chất chứa chao động bên trong, hướng ra ngoài loạn động, tâm – cảnh theo đuổi nhau, ái nhiều như trần sa. Vì thế muốn nhẹ ái thì không gì bằng phải ngăn lấp cảnh! Các cảnh đều không, vạn duyên đều tịch thì nhất niệm tự thành. Nếu nhất niệm thành thì ái duyên đều tận!

Có cách nào ngăn lấp các cảnh không?

Xin thưa: Ngăn lấp các cảnh nào phải đâu là trừ sạch vạn hữu, cũng chẳng phải là nhắm tịt mắt chẳng nhìn, mà chính là hiểu rõ cảnh là hư giả; thể hội cái gốc để thấy cái ngọn là không. Vạn pháp vốn tự chẳng có. “Có” là do tình thức phát khởi nên hễ tình thức còn thì vật còn, tình không vạn vật không. Vạn pháp không nhưng bổn tánh hiện; bổn tánh hiện nhưng tình niệm dứt; tự nhiên như thế chẳng cần phải miễn cưỡng!

Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Kiến và kiến duyên đều là tướng được tưởng giống như hoa đốm trên hư không vốn chẳng có gì. Kiến và duyên ấy vốn là diệu tịnh minh thể của Bồ Ðề thì làm sao lại có đúng hay sai trong đó được?”

Vì vậy, muốn ngăn lấp cảnh thì không gì bằng hiểu rõ vật là hư huyễn. Hiểu mọi vật là hư huyễn thì tình thức tự nhiên tuyệt. Hễ tình tuyệt thì ái chẳng sanh, duy tâm hiện nên ý niệm chuyên nhất sẽ thành. Bởi thế, kinh Viên Giác dạy: “Biết huyễn liền lìa, chẳng dùng phương tiện. Lìa huyễn chính là giác, cũng chẳng theo thứ tự nào cả!”

Một bỏ, một giữ, chẳng thể thay đổi, công hiệu mau chóng phù hợp khít khao như dùi đánh xuống, trống liền vang tiếng; kẻ học đạo phải nên tận tâm thực hành cách tu tập này!

* Ðạo lý Nhất Niệm gồm ba điều là Tín, Nguyện, Hạnh.

1. Chẳng nghi là Tín, nếu có nghi thì tâm chẳng chuyên nhất. Vì thế, cầu sanh Cực Lạc phải lấy Tín làm đầu. Cần phải đọc khắp các kinh điển Ðại Thừa, rộng học các lời dạy của chư Tổ. Hễ sách nào chỉ dạy pháp Tịnh Ðộ thì đều phải tìm đọc hết cả để giải ngộ rằng Cực Lạc vốn là Tịnh Ðộ duy tâm của ta đó thôi, chứ chẳng phải cõi nào khác; hiểu rõ Di Ðà vốn là vị chơn Phật nơi bổn tánh của ta, chứ chẳng phải là đức Phật nào khác. Có hai điều quan trọng nhất:

– Giải ngộ Diệu Hữu trọn khắp cả, đầy đủ tất cả; lấy đó làm gốc cho việc ưa Tịnh.

– Giải ngộ Chơn Không rời lìa một cách viên mãn, giải thoát một cách viên mãn hầu lấy đó làm cơ sở để lìa Uế.

Tín giải đã đầy đủ thì hãy nên niệm Phật tu hành.

2. Về Hạnh, có hai điều: một là Chánh Hạnh, hai là Trợ Hạnh.

b.1. Chánh Hạnh lại gồm hai thứ: một là Xưng Danh, hai là Quán Tưởng.

Xưng Danh là như kinh Tiểu Bổn Di Ðà dạy bảy ngày trì danh, nhất tâm bất loạn. Có Sự Nhất Tâm và Lý Nhất Tâm. Miệng xưng danh hiệu Phật, chú tâm nơi duyên, tiếng niệm tiếp nối, tâm tâm chẳng loạn. Nếu như tâm duyên theo ngoại cảnh thì nhiếp tâm trở lại. Cách này đòi hỏi phải sanh tâm quyết định, đoạn trừ ý niệm nghĩ đến những chuyện sẽ xảy ra sau này, vứt bỏ thế sự, buông bỏ tâm duyên theo cảnh khiến cho niệm tâm dần dần tăng trưởng từ chốc lát đến lâu ngày, từ nhiều đến ít, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày cốt sao thành tựu được nhất tâm bất loạn mới thôi. Ðó là Sự Nhất Tâm.

Nếu đạt được như vậy thì thành tựu Tịnh nhân sanh về Cực Lạc; lúc lâm chung tất nhiên giữ được chánh niệm, thân không bịnh khổ, chẳng bị sự ác trói buộc, biết trước giờ chết, thân tâm hoan hỷ, qua đời một cách tốt lành: ngồi tịch hay đứng mất, diện kiến đức Di Ðà phóng quang tiếp dẫn, chắc chắn sanh về Tịnh Ðộ!

Lý Nhất Tâm cũng chẳng khác gì, chỉ là ngay trong Sự Nhất Tâm: trong mỗi mỗi niệm hiểu thấu suốt tâm niệm Phật và đức Phật được niệm suốt ba đời đều bình đẳng, mười phương chứa đựng lẫn nhau, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải Tự, chẳng phải Tha, không đến, không đi, chẳng sanh, chẳng diệt.

Cái tâm nhất niệm hiện tiền chính là cảnh Tịnh Ðộ trong vị lai. Niệm mà không niệm, không niệm nhưng niệm, vô sanh mà sanh, sanh nhưng vô sanh. Ở ngay trong cái chẳng thể niệm ấy lại sốt sắng niệm, ngay trong cái vô sanh ấy lại sốt sắng cầu sanh. Ðấy là ngay trong Sự Nhất Tâm hiểu rõ Lý Nhất Tâm.

Nếu như trong bốn oai nghi chẳng hề gián đoạn việc tu Tịnh Ðộ thì vãng sanh Tịnh Ðộ là chuyện tất nhiên!

b.2. Trợ Hạnh cũng gồm hai thứ:

– Một là hạnh thế gian như hiếu dưỡng cha mẹ, làm điều nhân từ thế gian, từ tâm chẳng giết, trọn đủ các giới luật, làm hết thảy việc lợi ích. Nếu có thể hồi hướng những việc ấy về Tây Phương thì không việc gì lại chẳng phải là hạnh trợ đạo.

– Hai là hạnh xuất thế như Lục Ðộ, vạn hạnh, các thứ công đức, đọc tụng kinh Ðại Thừa, tu các sám pháp; cũng cần phải dùng tâm hồi hướng để trợ tu thì không gì chẳng phải là hạnh Tịnh Ðộ.

Lại còn một thứ Trợ Hạnh vi diệu nữa: Ðối với mỗi thứ cảnh duyên phải trải qua, lúc nào cũng dụng tâm.

Chẳng hạn như khi thấy quyến thuộc thì nên tưởng họ là pháp quyến ở Tây phương, dùng pháp môn Tịnh Ðộ để khai ngộ, chỉ bảo khiến cho họ mỏng nhẹ ái kiến để được nhất tâm nhằm làm cho họ vĩnh viễn trở thành vô sanh quyến thuộc trong tương lai.

Nếu lúc sanh ý tưởng ân ái thì hãy nghĩ quyến thuộc Tịnh Ðộ chẳng có tình ái; để được sanh về Tịnh Ðộ thì nên xa lìa tình ái đó.

Nếu như khi sanh tâm sân hận thì hãy nghĩ đến quyến thuộc Tịnh Ðộ chẳng hề có xúc não. Ðể được sanh về Tịnh Ðộ thì nên xa lìa sự sân hận đó.

Nếu lúc chịu khổ thì nên nghĩ đến cõi Tịnh Ðộ chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng những điều vui.

Nếu khi hưởng các điều vui hãy nghĩ đến niềm vui trong Tịnh Ðộ không thể tính biết nổi.

Hễ gặp cảnh duyên đều dùng ý ấy để suy xét kỹ càng thì trong mọi nơi, mọi lúc, không có gì chẳng phải là hạnh Tịnh Ðộ!

2. Nguyện có thông, biệt, rộng, hẹp, trọn khắp hay hạn cuộc.

Thông là như những bài phát nguyện hồi hướng của các vị cổ đức đã soạn ra.

Biệt là ai nấy tùy theo ý mình [mà phát nguyện].

Rộng là Tứ Hoằng Nguyện: thượng cầu hạ hóa.

Hẹp là nói đến khả năng, quyết chí vãng sanh.

Hạn cuộc là khóa tụng có giờ giấc nhất định, phát nguyện cùng đại chúng.

Trọn khắp là lúc nào cũng phát nguyện, chỗ nào cũng bày tỏ tâm nguyện.

Nguyện chỉ cốt phù hợp Tứ Hoằng Nguyện, đừng móng tâm vọng lập. Xét chung các thứ nguyện đã phát thì biệt nguyện thù thắng hơn thông nguyện vì sợ khi đọc thông nguyện chỉ thuận miệng đọc theo lời văn của người khác; còn biệt nguyện thì tự mình nêu bày tấm lòng. Nếu như tuy đọc những bài phát nguyện chung nhưng quyết chí thì Thông lại trở thành Biệt. Còn nếu đọc lời văn phát nguyện của riêng mình mà tâm lan man thì Biệt lại trở thành Thông.

Nguyện rộng tốt hơn nguyện hẹp vì nguyện rộng thì phát đại tâm nên đạt quả thù thắng, phát nguyện hẹp thì bi nguyện nông cạn nên đạt quả kém hơn. Phát nguyện trọn khắp lại tốt hơn phát nguyện hạn cuộc vì phát nguyện hạn cuộc hay bị gián đoạn, phát nguyện trọn khắp thì niệm niệm viên thành.

Có thể dùng ba pháp như vậy để cầu sanh Tịnh Ðộ, mau được thân cận Phật Di Ðà, hết thảy các pháp môn Tịnh Ðộ không có pháp nào ra ngoài được ba điều này.

Nhận định:

Ðạo lý mỏng nhẹ ái và nhất niệm vừa dạy hoàn toàn nằm trong ba pháp Tín, Hạnh, Nguyện, thật là tinh diệu, thỏa đáng. Nhưng Chánh Hạnh chỉ là chuyên trì danh, chứ chẳng cần phải quán tưởng. Trong hết thảy thiện hạnh thế gian và xuất thế gian, hễ khi nào ta hồi hướng về Tây phương thì khi đó nó là Trợ Hạnh. Ðấy chính là vạn thiện đồng quy, phước huệ song tu vậy.

8. Trích yếu sách Tử Bách Lão Nhân Tập của đại sư Tử Bách Ðạt Quán đời Minh

* Sư hỏi vị tăng Hải Châu: “Niệm Phật có thường gián đoạn chăng?”

Tăng đáp: “Hễ nhắm mắt ngủ liền quên mất”.

Sư nghiêm mặt, quở:

– Nếu nhắm mắt liền quên thì niệm Phật như vậy dù có niệm một vạn năm cũng vô ích! Từ nay trở đi, ông cần phải trong lúc ngủ cũng niệm Phật chẳng gián đoạn thì mới có phần thoát khổ nổi! Nếu trong giấc ngủ chẳng niệm Phật được, quên mất đi thì khi mở mắt ra liền buồn khóc, nhỏm dậy ngay, đến ngay trước đức Phật dập đầu đến chảy cả máu, hoặc niệm ngàn tiếng, vạn tiếng, dốc cạn hết sức chính mình mới thôi. Làm như thế chừng hai ba chục lần thì tự nhiên trong khi ngủ mê mệt, niệm Phật cũng chẳng bị gián đoạn.

Người đời niệm Phật hoặc là hai, ba chục năm hoặc suốt đời niệm Phật mà đến lúc lâm chung lại thành vô dụng là do lúc ngủ nghỉ chẳng hề có ý niệm nhớ đến Phật.

Người sống như đang tỉnh, người chết như mộng; bởi vậy, người nào trong mộng vẫn niệm Phật thì lúc lâm chung tự nhiên chẳng loạn vậy!

* Muốn khám nghiệm một cách chính xác xem mình niệm Phật có chơn thật hay không thì chỉ cần quan sát lúc mình hoan hỷ và phiền não thì biết rõ ràng ngay là tâm mình chơn thật hay giả dối.

Ðại để, người chơn tâm niệm Phật dù là lúc hoan hỷ hay phiền não thì tất nhiên vẫn niệm niệm chẳng gián đoạn vì phiền não chẳng lay động người đó nổi, hoan hỷ cũng chẳng lay động người đó được. Phiền não lẫn hoan hỷ đều đã chẳng lay động nổi người đó thì trong cảnh sanh tử sẽ tự nhiên chẳng hoảng sợ. Nay người niệm Phật vừa mới gặp phải chút vui mừng, giận hờn đã vứt A Di Ðà Phật ra sau ót thì sao mà niệm Phật được linh nghiệm cơ chứ? Nếu làm theo cách niệm Phật của tôi, thật sự có thể chẳng quên mất câu A Di Ðà Phật trong lúc yêu ghét, thế mà chẳng được lợi ích gì trong cuộc sống hằng ngày cũng như khi lâm chung chẳng được vãng sanh thì cái lưỡi của tôi ắt sẽ bị gãy nát vậy!

Nhận định:

Pháp này rất diệu, muốn khám nghiệm tâm niệm Phật là chơn thật hay giả dối chỉ cần xét trong lúc hoan hỷ hay phiền não. Nếu như trong giấc ngủ, việc niệm Phật bị gián đoạn thì hãy nên dũng mãnh tinh tấn làm theo cách này thì hiện tại sẽ được lợi lạc, lâm chung tự được vãng sanh.

9. Trích yếu sách Vân Thê Pháp Vựng của đại sư Liên Trì Châu Hoằng đời Minh

* Tâm vốn vô niệm, hễ có niệm khởi lên là sai; nhưng chúng sanh từ vô thỉ đến nay quen thói vọng tưởng khó lòng thay đổi ngay được. Nay dạy họ niệm Phật chính là dùng độc trị độc, dùng quân dẹp quân. Một pháp Niệm Phật lại có nhiều môn. Nay pháp Trì Danh đây là đường tắt nhất trong các đường tắt. Bởi vì đức Phật có vô lượng đức nên bốn chữ danh hiệu đã bao gồm trọn cả.

A Di Ðà chính là toàn thể nhất tâm, tâm bao gồm mọi đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Bổn Giác, Thỉ Giác, Chơn Như, Phật Tánh, Bồ Ðề, Niết Bàn. Trăm ngàn vạn danh hiệu đều được chứa đựng bất tận trong một danh hiệu này.

Chúng sanh học Phật cũng có vô lượng hành pháp, nhưng một pháp Trì Danh đây đã bao gồm trọn tất cả vì Trì Danh chính là trì một tâm đây. Tâm đã gồm trăm hạnh, Tứ Ðế, Lục Ðộ cho đến tám vạn bốn ngàn hằng hà sa vi trần hết thảy pháp môn, bao gồm hết cả không còn sót gì!

* Có nhiều cách trì danh:

1) Một là Minh Trì, nghĩa là xưng niệm ra tiếng.

2) Hai là Mặc Trì, nghĩa là niệm thầm không ra tiếng.

3) Ba là Bán Minh Bán Mặc Trì, nghĩa là chỉ khẽ động môi lưỡi để niệm. Cách này được những người tụng chú gọi là Kim Cang Trì.

Lại còn có cách niệm ghi số hoặc niệm chẳng ghi số, tùy ý dùng cách nào cũng được!

Cách trì niệm nào cũng chia ra làm Sự và Lý: Ức niệm chẳng gián đoạn thì gọi là Sự Trì; thể cứu đến cùng tột chẳng hề gián đoạn thì gọi là Lý Trì.

“Ức niệm” là nghe nói đến danh hiệu Phật thì luôn nhớ tới, luôn nghĩ tới, tâm duyên theo từng chữ rõ ràng; câu trước, câu sau liên tiếp chẳng gián đoạn. Ði, đứng, nằm, ngồi chỉ có mỗi một niệm này, không có niệm thứ hai; chẳng bị tạp loạn bởi các niệm tham, sân, si phiền não đúng như kinh Thành Cụ Quang Minh Ðịnh Ý dạy: “Nhất tâm nơi vắng vẻ, tịch mịch; nhất tâm giữa các phiền não; cho đến giữa những cảnh khen, chê, lợi, tổn, thiện, ác v.v… đều nhất tâm”.

Do mặt Sự đã đạt, nhưng chưa thấu triệt mặt Lý, chỉ đạt được Tín lực, chưa thấy Ðạo nên gọi là Sự Nhất Tâm. “Thể cứu” là nghe danh hiệu Phật thì không những chỉ ức niệm mà còn trở lại quán sát ngay cái niệm ấy, suy lường, thẩm định tìm tòi đến tận cùng cội rễ. Thể cứu đến cùng tột thì đột nhiên sẽ khế hợp bổn tâm. Trong đây lại gồm có hai loại:

1. Một là “như – trí bất nhị”:

– Ngoài cái tâm năng niệm chẳng hề có đức Phật để mình niệm. Ðấy là ngoài Trí chẳng có Như.

– Ngoài đức Phật được niệm chẳng hề có cái tâm năng niệm để niệm Phật. Ðó là ngoài Như không có Trí nên chỉ có nhất tâm.

2. Hai là Tịch Chiếu Nan Tư:

Nếu bảo là Có thì bản thể của cái tâm năng niệm tự nó là Không, trọn chẳng thể có được đức Phật được niệm.

Nếu bảo là Không thì cái tâm năng niệm vằng vặc chẳng mờ mịt, đức Phật được niệm đành rành phân minh.

Nếu bảo là “chẳng có chẳng không” thì cả hữu niệm lẫn vô niệm đều mất.

Nếu bảo là “chẳng phải có chẳng phải không” thì hữu niệm lẫn vô niệm cùng tồn tại.

“Chẳng phải có” là thường tịch; chẳng phải không là thường chiếu. “Chẳng có chẳng không” và “chẳng phải có chẳng phải không” là chẳng tịch, chẳng chiếu nhưng vừa chiếu, vừa tịch. Không cách gì để diễn tả, suy lường được, chẳng thể gọi tên được nên chỉ có Nhất Tâm. Ðó chính là Năng lẫn Sở đều tiêu, kiến giải Hữu lẫn Vô cùng mất. Thể vốn sẵn thanh tịnh thì còn có pháp gì tạp loạn được nó. Do vì thấy một cách đúng đắn như thế nên gọi là Lý Nhất Tâm.

Nhưng, Sự nương theo Lý mà khởi, Lý được tỏ bày bởi Sự; Sự và Lý hỗ trợ nhau, chẳng thể phế bỏ một bên nào. Dẫu chấp Sự nhưng niệm đến mức liên tục thì vẫn chẳng mất phần dự vào các phẩm vị; còn nếu chấp Lý nhưng tâm chưa minh thật sự thì sẽ biến thành cái họa lạc vào Không kiến.

* Niệm Phật to tiếng dễ mất sức, niệm thầm dễ bị hôn trầm. Chỉ cốt niệm miên miên mật mật, tiếng niệm đọng nơi răng, môi, tức là Kim Cang trì. Nhưng lại chẳng nên chấp chặt. Nếu biết mình đã mệt thì niệm thầm cũng chẳng trở ngại gì. Nếu biết mình hôn trầm thì chẳng ngại gì niệm lớn tiếng. Hiện tại, người niệm Phật chỉ là liên tay khua mõ, miệng ong óng gào theo cho nên chẳng được lợi ích gì. Cần phải niệm sao cho từng câu thoát ra khỏi miệng vọng vào tai, từng tiếng đánh thức tự tâm ví như người đang ngủ mê mệt, có ai gọi lớn tên lên thì kẻ đó sẽ thức giấc. Bởi vậy, điều quan trọng nhất trong việc niệm Phật là nhiếp tâm.

* Tạp niệm là bịnh, Niệm Phật là thuốc. Niệm Phật chính là để trị tạp niệm, nếu chẳng trị nổi tạp niệm là do niệm Phật chẳng tha thiết. Lúc tạp niệm khởi lên liền dốc sức ra công; mỗi chữ, mỗi câu tinh nhất chẳng xen tạp thì tạp niệm tự dứt.

* Trong mỗi niệm luôn niệm Phật không có tạp niệm thì gọi là Nhất Tâm. Nhất tâm niệm Phật mà còn nhất tâm tu các pháp môn khác thì là Nhị Tâm! Không tạp niệm mới chỉ là Sự Nhất Tâm, thế mà nay ta còn làm chưa được huống hồ là Lý Nhất Tâm? Vì vậy, niệm Phật phải giữ chí đừng để nhị tâm, đừng vì lẽ tam muội khó thành bèn vội đổi sang tu các hạnh khác!

* Kẻ mới học sanh sau vừa mới lấy câu niệm Phật đặt nơi tâm thì vọng tưởng, suy nghĩ nổi lên tơi bời, đè lấp cả cái giác bèn cho rằng công phu niệm Phật chẳng thể nhiếp tâm nổi. Chẳng hề biết rằng mình làm sao đoạn ngay nổi nguyên do sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay cho được? Ngay trong lúc vạn niệm vần vũ chính là lúc để ra sức công phu, [mặc cho] định tâm, tán tâm nhoang nhoáng. Lâu ngày công phu thuần thục, tự nhiên vọng niệm chẳng khởi. Các ông coi những vọng niệm mình nhận biết được đó là nặng, cho nên bèn lơ là câu niệm Phật này. Còn như lúc chẳng niệm Phật, vọng niệm bồng bột tơi bời chẳng ngưng nghỉ trong một sát na nào hết thì các ông làm sao biết được?

* Cổ nhân dạy thân cận minh sư, cầu thiện tri thức, nhưng thật ra thiện tri thức chẳng thể dùng miệng truyền tâm, trao pháp môn bí mật được, họ chỉ giúp người khác gỡ niêm cởi trói. Ðấy chính là “bí mật”!

Nay chỉ tám chữ “chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn” chính là pháp môn bí mật để gỡ niêm cởi trói, là đường lớn thênh thênh để thoát sanh tử. Sáng niệm, chiều niệm, đi niệm, ngồi niệm, niệm niệm liên tục tự thành tam-muội, chứ đừng có cầu cái gì khác nữa!

* Tâm vốn chẳng sanh, do duyên hợp mà sanh. Tâm vốn chẳng chết, do duyên tan lìa nên chết. Tựa hồ có sanh tử, nhưng vốn chẳng đến đi. Lãnh hội được điều này thì sanh thuận, tử an, thường tịch, thường chiếu. Nếu như chưa làm được như thế thì hãy nên buông bỏ toàn thân, khăng khăng trì một câu A Di Ðà Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Giả sử các duyên chưa hết, thọ mạng chưa dứt thì càng phải nên niệm Phật, sẽ có lợi ích lớn. Cổ đức bảo: “Pháp môn Niệm Phật là thuật trường sanh của đấng Kim Tiên”.

* Sanh tử chẳng lìa nhất niệm, thậm chí vạn hạnh dù thế gian hay xuất thế gian đều chẳng lìa khỏi một niệm. Nay dùng cái niệm ấy để niệm Phật thì sẽ thiết tha, gần gũi, tinh chuyên, chơn thật xiết bao? Nếu truy xét chỗ bắt nguồn của cái niệm ấy thì nó chính là tự tánh Di Ðà, chính là ý sang Tây của Tổ Sư. Dù cho chẳng ngộ được, cứ nương theo nguyện lực vãng sanh Cực Lạc, cắt ngang sanh tử, chẳng thọ luân hồi thì rốt cục sẽ đại ngộ!

Xin hãy buông bỏ vạn duyên, trong mười hai thời, niệm niệm khăng khăng thì đấy chính là điều tôi rất mong mỏi.

* Bảy mươi tuổi từ xưa đã hiếm, sống trăm năm có được mấy người! Nay trong lúc tuổi xế chiều đây chính là lúc buông bỏ hoài bão, thấy rõ thế gian hệt như một trường hý kịch, chẳng hề chơn thật. Chỉ còn một câu A Di Ðà Phật để đắp đổi tháng ngày, chỉ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới làm quê nhà mình: nay ta niệm Phật, mai sau sanh về Tây phương. Còn gì hay hơn, hãy nên vui mừng lớn lao, đừng sanh phiền não!

Giả sử gặp phải chuyện chẳng như ý hãy liền xoay chuyển ý niệm, gấp rút đề cao câu niệm Phật này, hồi quang phản chiếu: ta là người sống trong thế giới của Phật A Di Ðà lẽ nào còn thấy biết như người trong thế gian mà nóng giận, vui vẻ; chỉ nhất tâm niệm Phật. Ðấy chính là pháp môn đại an lạc, đại giải thoát của những người trí huệ.

* Nguyên do của bịnh tật phần nhiều là do sát sanh; bởi thế, ta nên thiên trọng phóng sanh. Bên ngoài càng thêm sám, trong tâm tự hối, công đức rất nhiều. Xin hãy để tâm trống trải, quét sạch hết thảy các duyên. Trong cái tâm rỗng rang đó chỉ niệm một câu A Di Ðà Phật.

Nói niệm Phật đó thì bất tất phải nhếch mép, động lưỡi; chỉ lặng lẽ dùng tâm nhãn phản chiếu từng chữ phân minh, từng câu tiếp nối từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, tâm tâm chẳng hề gián đoạn. Nếu có đau khổ thì cứ nhẫn nại, nhất tâm nghĩ đến câu niệm. Kinh dạy: “Chí tâm niệm Phật một tiếng diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”; bởi thế, công đức niệm Phật rất lớn lao vậy.

* Kẻ học Phật chẳng cần phải trang nghiêm hình dáng, chỉ quý tu hành chơn thật: Hàng tại gia cư sĩ chẳng cần phải áo sồng, khăn đạo. Người còn để tóc có thể mặc thường phục niệm Phật, chẳng nhất thiết phải gõ mõ, đánh trống. Người thích yên tịnh có thể tự lặng lẽ niệm Phật, chẳng nhất thiết phải quây quần lập hội. Người ngại việc cứ tự đóng cửa niệm Phật, chẳng cần phải vào chùa nghe kinh. Người biết chữ có thể tự tuân theo giáo pháp niệm Phật. Ngàn dặm thiêu hương chẳng bằng ngồi yên trong nhà niệm Phật. Cung phụng thầy tà chẳng bằng hiếu thuận mẹ cha niệm Phật. Giao du rộng rãi với bè bạn ma chẳng bằng một thân thanh tịnh niệm Phật. Gởi tiền kho kiếp sau chẳng bằng hiện đời làm phước niệm Phật. Van vái, cầu đảo chẳng bằng hối lỗi sửa mình niệm Phật. Tu học theo kinh sách ngoại đạo chẳng bằng một chữ không biết nhưng niệm Phật. Vô tri bàn xằng lẽ Thiền chẳng bằng ròng chắc, già dặn trì giới, niệm Phật. Mong cầu yêu mỵ linh ứng chẳng bằng chánh tín nhân quả niệm Phật.

Nói tóm lại, đoan chánh tấm lòng, diệt ác thì người niệm Phật như thế gọi là thiện nhân. Nhiếp tâm trừ bỏ tán loạn thì người niệm Phật như thế gọi là hiền nhân. Ngộ tâm đoạn hoặc thì người niệm Phật như thế gọi là thánh nhân.

* Khuyên người cực nhàn hạ hãy niệm Phật: cưới gả đã xong, con cháu đã yên bề gia thất, an nhàn vô sự; đây đúng là lúc nên tận tâm, tận lực mỗi ngày niệm mấy ngàn câu cho đến cả vạn câu.

Khuyên người lúc bận lúc rảnh hãy niệm Phật: xong việc một nửa hay chưa xong, dù bận hay rảnh, tuy chưa cực nhàn, vẫn có thể lúc bận thì lo lắng công việc, lúc rảnh bèn niệm Phật. Mỗi ngày niệm mấy trăm câu, cho đến mấy ngàn câu.

Khuyên người bận rộn cùng cực hãy niệm Phật: siêng lo việc nước, bôn ba gia nghiệp, dẫu chẳng có lúc thảnh thơi, nhưng cần phải dành lấy dịp rảnh rang trong khi bận rộn để niệm Phật. Mỗi ngày sáng sớm hành Thập Niệm cho đến niệm mấy trăm câu trong cả ngày.

* Pháp môn Niệm Phật bất luận nam, nữ, Tăng, tục, quý, hèn, hiền, ngu, không có một ai là chẳng niệm Phật được!

Nếu là người phú quý, của cải dư dả thì đúng là phải niệm Phật.

Nếu là kẻ bần cùng, nhà hẹp, của ít thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu là người có con cháu, việc cúng bái tổ tiên đã có chỗ nhờ cậy thì rất nên niệm Phật.

Nếu là người không con, trơ trọi một thân tự do thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai có con hiếu thuận, yên hưởng con cái phụng dưỡng thì rất nên niệm Phật.

Nếu ai có con ngỗ nghịch, chẳng sanh lòng yêu thương thì thật đúng là phải niệm Phật.

Nếu ai vô bịnh, thân thể khỏe mạnh thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai có bịnh, rất gần cơn vô thường thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai già cả, tháng ngày chẳng còn mấy thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai tuổi trẻ tinh thần sáng suốt thì thật là rất tốt để niệm Phật.

Nếu ai an nhàn, tâm không bị sự gì khuấy động thì thật đúng là nên niệm Phật.

Nếu là người bận rộn, được đôi lúc nhàn rỗi giữa khi bận rộn thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu là người xuất gia, tiêu dao ngoài cõi đời thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu là kẻ tại gia biết cõi đời đúng là nhà lửa thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai thông minh, thông hiểu Tịnh Ðộ thì rất nên niệm Phật.

Nếu là kẻ ngu si, thô lỗ, không làm gì khác nổi thì thật đúng là nên niệm Phật.

Nếu ai trì luật mà Luật lại do Phật chế ra; vì thế, rất nên niệm Phật.

Nếu ai đọc kinh thì kinh là do Phật dạy, càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai tham thiền, do Thiền là tâm Phật nên càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai ngộ đạo thì ngộ cần phải được Phật chứng cho nên càng phải niệm Phật.

Khuyên khắp mọi người hãy cấp bách niệm Phật. Chín phẩm vãng sanh, hoa nở thấy Phật, gặp Phật nghe Pháp, rốt ráo thành Phật mới biết rằng tâm vốn dĩ là Phật.

* Chỉ cần niệm Phật, tôn xưng đã thành quy kính. Sáu chữ, bốn chữ thật chẳng sai khác gì. Có điều là do pháp truyền lâu ngày hóa tệ, biến thành lê thê: khua chiêng, thúc trống, như xướng, như ca, thổn thức, rên siết như gào, như quát; thiên nhĩ nghe thấy chẳng buồn bã hay sao? Nhưng dù là xưng danh một cách hoan hỷ hay nóng nảy cũng vẫn gieo trồng nhân lành, quả báo tương lai chẳng thể nghĩ bàn. Kẻ phàm tình mê muội chứ người trí thì biết rõ!

Nhận định:

Người biết chữ có thể tự tuân theo giáo pháp niệm Phật, chẳng luận là sự trì hay lý trì, chỉ cốt chuyên chí bất nhị, niệm niệm tiếp nối thì sẽ tự thành tam muội, chẳng cần phải cầu được khẩu truyền, tâm truyền; nhưng chẳng được chấp lý phế sự, chiêu cảm cái họa đọa lạc!

10. Trích yếu Mộng Du Tập của đại sư Hám Sơn Ðức Thanh đời Minh

* Phật dạy pháp tu hành thoát sanh tử có nhiều môn phương tiện, chỉ có pháp Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Ðộ là thiết yếu, nhanh tắt nhất.

Kinh dạy: “Muốn tịnh cõi Phật thì nên tịnh tự tâm” nên nay tu hành Tịnh nghiệp phải lấy tâm trong sạch làm gốc. Muốn tịnh cái tâm mình thì điều trước tiên là giới căn phải thanh tịnh vì ba điều ác nơi thân, bốn điều ác nơi miệng, ba điều ác nơi ý chính là mười nghiệp ác tạo thành khổ nhân của tam đồ.

Ðiểm cốt yếu của trì giới là trước hết phải tam nghiệp thanh tịnh thì tự tâm thanh tịnh. Thân chẳng giết, trộm, dâm thì thân nghiệp sẽ thanh tịnh. Miệng chẳng nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, ác khẩu thì khẩu nghiệp sẽ thanh tịnh. Ý chẳng tham, sân, si thì ý nghiệp sẽ thanh tịnh. Dứt vĩnh viễn mười điều ác như thế thì tam nghiệp trong suốt như băng. Ðấy là yếu quyết để tịnh tâm. Trong cái tâm thanh tịnh ấy, nhàm chán nỗi khổ Sa Bà, phát nguyện vãng sanh An Dưỡng, lập chánh hạnh Niệm Phật.

Ðiều cốt yếu của Niệm Phật là tâm thiết tha: trước hết phải đoạn ngoại duyên, chỉ vâng giữ nhất niệm, lấy một câu A Di Ðà Phật làm mạng sống, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm chẳng đoạn. Trong mười hai thời, đi, đứng, nằm, ngồi, cầm muỗng, co tay, gập, xoay, cúi, ngửa, động, tịnh, rảnh, bận, trong hết thảy lúc chẳng ngu, chẳng muội, không có các duyên khác. Dụng tâm như vậy lâu ngày thuần thục; thậm chí trong mộng cũng chẳng quên mất. Ngủ hay thức giống hệt nhau thì công phu miên mật đúc thành một khối. Ðấy là lúc đã đắc lực vậy.

Nếu niệm đến mức nhất tâm bất loạn thì khi mạng chung, cảnh giới Tịnh Ðộ hiện tiền, tự nhiên chẳng bị sanh tử giam cầm nên cảm được Phật A Di Ðà phóng quang tiếp dẫn. Ðấy chính là cách hiệu nghiệm để nhất định được vãng sanh.

* Tu Huệ bằng quán tâm; tu phước nơi vạn hạnh. Quán tâm lấy niệm Phật làm quan trọng nhất, vạn hạnh lấy hạnh cúng dường làm đầu. Hai điều ấy bao gồm hết thảy.

Trong hết thảy những việc làm hằng ngày của chúng ta, khởi tâm động niệm đều là vọng tưởng, là gốc sanh tử; cho nên chiêu lấy quả khổ. Nay đem cái tâm vọng tưởng chuyển thành tâm niệm Phật thì mỗi niệm trở thành cái nhân Tịnh Ðộ, tạo thành quả vui. Nếu niệm Phật tâm tâm chẳng dứt thì vọng tưởng tiêu diệt, tâm quang phát lộ, trí huệ hiện tiền, trở thành Pháp Thân của Phật.

Sở dĩ chúng sanh bần cùng không phước huệ là do đời đời, kiếp kiếp chưa từng một niệm cúng dường Tam Bảo để cầu phước huệ, chỉ lăm lăm vì cái thân sanh tử khổ sở, niệm niệm mong cầu sự vui ngũ dục để vun bồi cội khổ. Nay đem cái tâm tham cầu cho mỗi một mình ta chuyển thành tâm cúng dường Tam Bảo, đem cái thân mạng hữu hạn nương theo sức mạnh của tâm cúng dường mười phương thì dù chỉ cúng một nén hương, một cành hoa, một hạt gạo, một cọng rau, phước ấy cũng vô tận! Vì vậy, cảm được Phật quả, Hoa Tạng trang nghiêm tạo thành cảnh thọ dụng của chính thân mình trong tương lai. Bỏ qua những điều này thì không hạnh mầu nhiệm nào khác để thành Phật nữa cả!

* Niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ là muốn rốt ráo đại sự sanh tử. Nếu chẳng biết cội gốc sanh tử thì biết hướng về đâu để giải quyết trọn vẹn cho được? Cổ nhân nói:

Nghiệp chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà;

Ái chẳng đoạn chẳng sanh Tịnh Ðộ.

Thì biết là Ái chính là cội rễ của sanh tử. Từ khi có sanh tử đến nay, đời đời kiếp kiếp xả thân, thọ thân đều là trôi lăn theo ái dục.

Nay niệm Phật thì trong từng niệm phải đoạn ái căn ấy; tức là trong những cảnh duyên tiếp xúc hiện hữu hằng ngày, người tại gia niệm Phật mắt nhìn thấy con cái, cháu chắt, gia duyên, tài sản, không gì là chẳng yêu mến; không một niệm nào, không một sự gì chẳng phải là kế sách để tăng trưởng sanh tử.

Ngay trong lúc niệm Phật nếu trong tâm chưa từng có một niệm buông bỏ được ái căn thì như vậy chỉ càng niệm Phật, ái chỉ càng thêm lớn. Nếu như có lúc khởi tâm quyến luyến con cái thì hãy hồi quang xem xét một câu niệm Phật có thật sự địch nổi ái niệm ấy hay không? Có thật sự đoạn nổi ái đó hay không? Nếu chẳng thể thật sự đoạn nổi ái ấy thì làm sao rốt ráo thoát khỏi sanh tử được nổi?

Do ái duyên quen thói đã từ nhiều đời, còn niệm Phật thì chỉ mới phát tâm nên còn sơ sài. Lại do niệm Phật chẳng chơn thật, thiết tha nên chẳng đủ sức. Nếu chẳng thể khống chế nổi ái cảnh hiện tiền thì lúc lâm chung sẽ chỉ thấy sanh tử ái căn hiện tiền, trọn chẳng thể làm chủ cảnh duyên được nổi! Vì thế khuyên người niệm Phật:

Ðiều quan trọng nhất là tâm sanh tử tha thiết. Muốn thiết tha đoạn cái tâm sanh tử tha thiết, trong mỗi niệm phải đoạn dần gốc sanh tử thì mỗi niệm đều là lúc liễu sanh tử. Nghĩa là: Những việc trước mắt đều là chuyện sanh tử, trước mắt thấu rõ sanh tử là không.

Niệm niệm chơn thành, thiết tha như thế; [giống như] từng nhát dao cắt xuống đều tuôn máu. Nếu [tu tập như thế mà] chẳng được thoát khỏi sanh tử thì chư Phật đều mắc tội vọng ngữ hết!

* Học đạo chẳng có tài khéo chi khác, chỉ cốt biến cái sống thành cái chín, biến cái chín thành cái sống; lâu ngày thuần thục đúc thành một khối: niệm niệm Di Ðà, khắc khắc Cực Lạc. Kẻ học đạo hiểu biết thiển cận chỉ biết tham cầu lẽ huyền diệu, chẳng biết hướng ngay đến chỗ căn bổn để dốc cả tánh mạng ra hạ thủ công phu. Gặp phải cảnh vinh, nhục, họa hoạn, sanh tử liền thấy chân tay cuống quít. Ðấy chẳng những là đã dối người mà còn là tự lừa mình nữa! Cội gốc của sanh tử chính là các thứ vọng tưởng hằng ngày của chúng ta: ta – người, ghét, yêu, tham, sân, si v.v… Các nghiệp phiền não nếu còn mảy may chưa dứt thì sẽ trở thành cội gốc sanh tử.

Nếu ai muốn tham thiền đốn ngộ giải thoát sanh tử thì xin hãy tự xét sức mình có thể thật sự trong một niệm đoạn ngay được phiền não trong bao kiếp như cắt đứt mớ tơ rối hay không? Nếu chẳng đoạn nổi phiền não thì dù có đốn ngộ cũng trở thành ma nghiệp, há có nên xem thường ư!

Xét ra, chư Tổ đốn ngộ đều là do đã tích lũy công hạnh, tu hành dần dần trong nhiều đời nên mới đốn ngộ một chốc. Nói dễ chứ thật rất khó, chứ nào có phải là một dạ công phu trong vòng hai, ba mươi năm là sẽ có thể ngay trong phiền não nhất niệm đốn ngộ được đâu! Cần phải biết rõ căn khí của mình như thế nào.

Còn như một môn niệm Phật thì người đời chẳng biết chỗ nhiệm mầu của nó, coi là thiển cận, chứ thật ra môn niệm Phật bước nào cũng đạp lên Thật Ðịa! Vì sao vậy? Do vì bọn ta từ lúc có cuộc sống đến nay, niệm niệm vin níu vọng tưởng, tạo nghiệp sanh tử, chưa hề một niệm hồi quang phản chiếu tự tâm, chưa hề có một niệm chịu đoạn phiền não. Nay nếu thật có thể chuyển cái tâm vọng tưởng thành tâm niệm Phật thì niệm niệm đoạn trừ phiền não. Nếu niệm niệm đoạn được phiền não thì niệm niệm thoát sanh tử. Nếu thật sự có thể nhất niệm niệm Phật chẳng thay đổi, nhất tâm bất loạn thì so ra còn hơn là tham thiền vì tham Thiền còn có thể bị đọa lạc.

Nói chung, chỉ cốt ở chỗ nhất niệm chân thành, thiết tha mà thôi!

Nhưng tham Thiền thì nhất định phải diệt sạch cái tâm thế gian, chẳng dung một niệm vọng tưởng. Còn niệm Phật là dùng tịnh tưởng để hoán chuyển nhiễm tưởng, dùng tưởng trừ tưởng. Căn khí của bọn chúng ta có thể thực hành pháp thay đổi này dễ dàng!

* Tu Tịnh Ðộ bất tất cầu minh tâm ngộ tánh, chỉ chuyên lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh. Lại lấy bố thí, trai Tăng, công đức tu các phước để giúp trang nghiêm cõi Phật.

Trong tâm niệm Phật, tuy phải phát nguyện vãng sanh, nhưng nếu biết đoạn cái gốc sanh tử trước thì mới có công năng mau chóng. Gốc sanh tử chính là lòng tham đắm các thứ thọ dụng trong thế gian, sắc đẹp, tiếng dâm, vị ngon sướng miệng, hết thảy đều là gốc khổ; cũng như hết thảy các tâm sân nộ, phẫn hận, chấp trước, si ái.

Ðối với hết thảy pháp tà giáo do bọn thầy ma tà ngoại đạo rao truyền đều phải tận tình mửa ra hết, chỉ dốc lòng tin một môn niệm Phật. Mỗi ngày tụng kinh A Di Ðà hai lượt, niệm Phật mấy ngàn câu; hoặc chẳng kể đến số, chỉ tâm tâm chẳng quên Phật hiệu.

Phật là Giác. Nếu niệm niệm chẳng quên Phật thì niệm niệm minh giác. Nếu tâm quên Phật thì là bất giác. Nếu niệm đến mức trong mộng vẫn niệm Phật thì chính là thường giác bất muội. Nếu hiện tại tâm này bất muội thì lúc lâm chung tâm này bất muội, tức là những cảnh lầm lạc của tâm này sẽ bị rơi rớt mất.

Nay việc nước đa đoan vạn mối quyết định chẳng thể tham thiền, chỉ có niệm Phật là tốt nhất, chẳng nệ nhàn, bận, động, tịnh, ở hết thảy chỗ nào cũng niệm được. Chỉ là nhất tâm chẳng quên chứ không có cách hay khéo nào khác cả!

* Tham Thiền cần phải lìa tưởng; niệm Phật lại chuyên tưởng. Vì chúng sanh trầm luân trong vọng tưởng đã lâu nên lìa vọng tưởng thật khó. Nếu có thể biến đổi nhiễm tưởng thành tịnh tưởng thì đó là dùng độc trị độc, là cách thay đổi mà thôi. Vì thế, tham cứu khó ngộ, niệm Phật dễ thành. Nếu tâm thật sự khẩn thiết vì lẽ sanh tử, dùng cái tâm tham cứu niệm Phật thì còn lo chi trong một đời chẳng giải thoát nổi sanh tử nữa?

* Niệm Phật chính là tham thiền, nào phải là hai pháp. Nghĩa là:

Trong lúc niệm Phật, trước hết, tưởng hết thảy phiền não, vọng tưởng, tham, sân, si, ái, các thứ ý niệm tạp loạn trong lòng mình đều buông bỏ hết, buông bỏ đến mức không còn gì để buông bỏ nữa. Chỉ đề khởi mỗi một mình câu A Di Ðà Phật vằng vặc phân minh chẳng đoạn trong tâm giống như sợi chỉ xuyên suốt qua từng hạt châu. Lại giống như mũi tên khi cắm ngập [vào đích] chẳng hở trống mảy may nào!

Dốc sức vào định như thế, trong hết thảy nơi chẳng bị cảnh duyên lôi kéo, đánh mất. Ðối với mọi sự động tịnh hằng ngày chẳng bị tạp loạn, ngủ thức đều giống hệt như nhau. Niệm cho đến lúc lâm chung, nhất tâm bất loạn thì chính là lúc siêu sanh Tịnh Ðộ vậy.

* Trong pháp môn này:

– Thứ nhất là chí phải quyết định.

– Thứ hai là phải buông xuống được.

– Thứ ba là thuận theo duyên, tùy duyên mới an mạng được.

– Thứ tư là phải thật sự nhẫn nại thì mới chẳng bị lầm lạc.

– Thứ năm là phải khẩn thiết chán khổ. Tâm khẩn thiết chán khổ thì dục niệm mới tự trừ, chẳng bị lui sụt.

Ðấy chính là năm bí quyết để giữ vững mỗi một mình nhất niệm.

* Cách thức tu hành cũng có thứ tự giống như thời khóa công phu của chư Tăng vậy; nhưng chẳng cần phải rập theo khuôn sáo: Lấy niệm Phật làm chính; mỗi ngày sáng dậy lễ Phật liền tụng một cuốn kinh Di Ðà, lần chuỗi niệm danh hiệu Phật ba hoặc năm ngàn tiếng, hoặc một vạn tiếng. Niệm xong đối trước Phật hồi hướng, phát nguyện vãng sanh cõi kia. Ðó là khóa tụng buổi sáng; buổi chiều cũng giống như vậy.

Hằng ngày lấy đó làm định khóa, nhất định chẳng để sót. Dùng pháp này dạy người trong nhà để cùng tu hành đúng pháp rất hay. Ðó là Thường Hạnh.

Nếu để lo cho đại sự sau cùng thì càng phải ra sức công phu khẩn thiết: Mỗi ngày trừ hai thời công khóa ra, trong mười hai thời, chỉ giữ một câu A Di Ðà Phật ngang ngực, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm bất muội. Chẳng nghĩ ngợi gì đến hết thảy việc đời, chỉ lấy một câu Phật hiệu làm mạng sống của chính mình, cắn chặt nơi hàm răng quyết chẳng buông bỏ.

Thậm chí, trong lúc ăn uống, đứng lên, ngồi xuống, đi, đứng, nằm, ngồi, một câu Phật hiệu này luôn luôn hiện tiền. Dù gặp phải hoàn cảnh thuận, nghịch, vui, giận, phiền não, hay lúc tâm bất an, vẫn đem câu Phật hiệu ra ứng phó thì ngay khi ấy phiền não sẽ tự tiêu diệt.

Do phiền não trong mỗi niệm chính là gốc khổ sanh tử nên nay dùng niệm Phật để tiêu diệt phiền não thì đó chính là Phật độ chúng sanh thoát khỏi chốn khổ! Nếu niệm Phật tiêu được phiền não thì sẽ giải thoát sanh tử, chứ còn pháp nào khác đâu!

Nếu niệm Phật đến mức làm chủ được phiền não thì sẽ làm chủ được mộng mị. Nếu đã làm chủ được mộng mị thì sẽ tự chủ được trong khi bịnh khổ. Nếu đã tự chủ được trong khi bịnh khổ thì lúc lâm chung sẽ phân minh rành rẽ biết mình được sanh về đâu.

Làm được việc này chẳng khó, chỉ cốt một dạ khẩn thiết vì sanh tử, nương tựa một cách quyết định duy nhất vào câu Phật hiệu, không còn mong mỏi, nghĩ đến gì khác! Lâu ngày thuần thục, tự nhiên được đại an lạc tự tại, được đại hoan hỷ thọ dụng, ngũ dục thế gian không thể nào sánh được.

Ngoài cách này thì không còn cách nào ngắn gọn, thẳng tắt hơn được nữa!

Nhận định:

Muốn rốt ráo sanh tử, tâm cần phải khẩn thiết lo sanh tử mà trước hết là cần phải đoạn trừ cội ái của sanh tử. Nhưng ái là thói quen của nhiều đời nên chẳng dễ đoạn; người nhập môn hạ thủ công phu cần phải biến chỗ sống thành chỗ chín, biến chỗ chín thành chỗ sống. Lâu ngày thuần thục thì niệm cực, tình không, ái căn tự đoạn. Các cội gốc sanh tử khác như các thứ vọng tưởng hằng ngày, các phiền não nghiệp như: ta, người, đúng, sai, tham, sân, si, mạn v.v… chẳng mong đoạn trừ mà tự nhiên đoạn trừ!

11. Trích yếu sách Linh Phong Tông Luận của đại sư Ngẫu Ích Trí Húc đời Thanh

* Niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ là một môn bao hàm trọn vẹn trăm ngàn pháp môn, chứ chẳng phải là đề cao một môn, phế bỏ trăm môn khác. Nhưng cần phải thâm nhập một môn, lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh, còn hết thảy các môn Giới, Ðịnh, Huệ khác là Trợ Hạnh.

Thực hành cả Chánh lẫn Trợ giống như thuyền đã đi thuận gió, còn kéo căng giây lèo, chóng đến được bờ.

Pháp Niệm Phật tuy nhiều, nhưng Trì Danh là giản tiện nhất. Pháp Trì Danh cũng nhiều, nhưng pháp Trì Danh Nhớ Số là ổn đáng. Người thực hành chơn thật, thuần thục nào có mong làm khác kẻ ngu phu, ngu phụ đâu?

* Ðể thoát khỏi nhà lửa tam giới có hai đường dọc và ngang:

1. Dùng tự lực để đoạn hoặc, vượt khỏi sanh tử thì gọi là vượt tam giới theo chiều dọc (thụ xuất tam giới), khó tu, kết quả chậm chạp.

2. Nương Phật lực tiếp dẫn sanh về Tây phương thì gọi là vượt khỏi tam giới theo chiều ngang (hoành xuất tam giới); dễ hành, kết quả nhanh chóng.

Tổ Huệ Viễn nói: “Có công hiệu cao, dễ tấn tu thì niệm Phật làm đầu”. Kinh dạy: “Ðời mạt ức ức người người tu hành, hiếm có một ai thành đạo. Chỉ có ai tu theo pháp Niệm Phật mới có thể được độ thoát”như giong thuyền vượt biển, chẳng mất công sức.

Ai có thể dốc lòng tin tưởng vào đường tắt Tây Phương, chí thành phát nguyện, nhất tâm niệm Phật cầu vãng sanh thì thật đúng là bậc đại trượng phu. Còn nếu như lòng tin chẳng chơn thật, nguyện chẳng khẩn thiết, hành chẳng tận sức, dẫu Phật đã sắp sẵn thuyền đại từ nhưng chúng sanh chẳng chịu xuống thuyền thì Phật còn biết làm thế nào được nữa?

* Muốn mau thoát nỗi khổ luân hồi thì không có chi bằng pháp Trì Danh Niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc. Muốn quyết định sanh về thế giới Cực Lạc thì lại không có chi bằng lấy Tín để dẫn đường, dùng Nguyện để thúc đẩy.

Tin quả quyết, nguyện khẩn thiết thì dù tán tâm niệm Phật cũng chắc chắn được vãng sanh. Tin chẳng chơn thật, nguyện chẳng mạnh mẽ thì dù có nhất tâm bất loạn cũng chẳng được vãng sanh!

1. Thế nào là Tín?

– Một là tin vào nguyện lực của Phật A Di Ðà.

– Hai là tin lời dạy của Phật Thích Ca Văn.

– Ba là tin lời khen ngợi của sáu phương chư Phật.

Nếu chẳng tin nổi những điều ấy thì thật chẳng còn cách nào cứu nổi. Vì thế, trước hết phải sanh lòng tin sâu xa, chớ khởi nghi hoặc.

2. Thế nào là Nguyện?

Trong mọi lúc đều nhàm chán nỗi khổ sanh tử cõi Sa Bà, hoan hỷ ngưỡng mộ niềm vui Bồ Ðề chốn Cực Lạc. Hễ làm việc gì hoặc thiện hoặc ác; nếu thiện thì hồi hướng cầu vãng sanh, còn ác thì sám nguyện cầu vãng sanh, không còn chí nào khác. Ðấy gọi là Nguyện.

3. Tín Nguyện cùng đủ rồi thì lấy niệm Phật làm Chánh Hạnh, lấy cải ác tu thiện làm Trợ Hạnh. Tùy theo công sức cạn hay sâu sẽ chia thành chín phẩm, bốn cõi Tịnh Ðộ, chẳng sai sót mảy may! Chỉ nên tự mình suy xét lấy, chẳng cần phải hỏi người khác nữa! Nghĩa là:

Tin sâu, nguyện thiết niệm Phật mà lúc niệm Phật tâm hay tán loạn thì sẽ đạt hạ phẩm hạ sanh.

Tán loạn giảm thiểu thì là hạ phẩm trung sanh.

Không còn tán loạn sẽ là hạ phẩm thượng sanh.

Niệm đến mức Sự Nhất Tâm Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si thì thuộc về ba phẩm trung sanh.

Niệm đến mức Sự Nhất Tâm Bất Loạn, trong ba thứ kiến hoặc, tư hoặc và trần sa hoặc, tùy ý đoạn trước một thứ và cũng đoạn trừ được vô minh thì sẽ sanh trong ba phẩm thượng sanh.

Vì vậy, tín nguyện trì danh niệm Phật sẽ thuộc trong chín phẩm là điều đích xác chẳng sai!

Thêm nữa, tín nguyện trì danh: tiêu trừ nghiệp chướng, mang theo hoặc chướng đi vãng sanh chính là Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ.

Ðoạn sạch kiến hoặc và tư hoặc mà vãng sanh thì chính là Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ.

Phá nát một phần vô minh mà vãng sanh thì chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ.

Trì đến mức rốt ráo, đoạn sạch vô minh rồi vãng sanh thì chính là Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.

Vì thế, Trì Danh có thể đạt đến bốn cõi Tịnh Ðộ cũng là chuyện đích xác chẳng sai lầm!

Hỏi: Trì danh như thế nào để có thể đoạn được vô minh?

Ðáp: Ðối với danh hiệu của đức Phật được trì, chẳng cần biết là ngộ hay chưa, không gì chẳng phải là nhất cảnh tam đế. Cái tâm trì niệm chẳng cần biết là đã đạt hay chưa, không gì chẳng phải là nhất tâm tam quán. Chỉ vì chúng sanh vọng tưởng chấp trước, tình kiến phân biệt nên mới chẳng thể khế hợp Viên Thường; họ nào biết Năng Trì (tâm trì niệm danh hiệu Phật) chính là Thỉ Giác, Sở Trì (đức Phật được ta trì niệm) chính Bổn Giác.

Nay cứ thẳng một bề trì niệm, ngoài việc trì niệm nào có đức Phật, ngoài đức Phật nào có trì niệm, Năng lẫn Sở bất nhị thì Thỉ Giác khế hợp Bổn Giác, gọi là Cứu Cánh Giác.

* Pháp môn Niệm Phật chẳng có gì là kỳ đặc, chỉ quý ở chỗ tin tới nơi, giữ cho ổn, cứ thẳng một đường mà niệm, hoặc là ngày đêm niệm mười vạn tiếng, hoặc năm vạn, ba vạn, lấy con số nhất định chẳng khuyết làm chuẩn. Trong suốt một ngày, niệm ra tiếng đến tàn một cây hương, rồi niệm thầm đến tàn một cây hương. Cứ xoay vần không gián đoạn [như thế], lấy Nhất Tâm Bất Loạn làm hạn. Suốt cả đời này thề không biến cải. Nếu chẳng được vãng sanh thì tam thế chư Phật đều nói dối. Một khi đã được vãng sanh sẽ vĩnh viễn không bị thối chuyển, các thứ pháp môn đều được hiện tiền.

Kỵ nhất là hôm nay Trương Tam, ngày mai Lý Tứ, gặp người tu theo Giáo môn liền toan tầm chương trích cú. Gặp kẻ tu Thiền bèn nghĩ chuyện tư duy, tham cứu, vấn đáp. Gặp người trì Luật lại nghĩ chuyện đắp y, trì bát. Ðấy chính là kẻ chẳng rõ đầu mối, chẳng tỏ lớp lang, chẳng hề biết rằng niệm A Di Ðà Phật đến mức thuần thục thì giáo lý tối cực thuộc mười hai bộ của Tam Tạng đều nằm gọn trong ấy, một ngàn bảy trăm công án là cơ quan để hướng thượng cũng nằm gọn trong ấy, ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ luật nghi cũng nằm gọn trong ấy.

Có thể thật sự niệm Phật, chẳng khởi tham, sân, si nữa thì đó chính là Ðại Trì Giới. Chẳng phân biệt ta-người, đúng-sai chính là Ðại Nhẫn Nhục. Chẳng chút gián đoạn, lai tạp chính là Ðại Tinh Tấn. Chẳng còn rong ruổi theo vọng tưởng chính là Ðại Thiền Ðịnh. Chẳng bị các thứ ngoắt ngoéo mê hoặc chính là Ðại Trí Huệ.

Hãy thử tự kiểm điểm: Nếu thân, tâm, thế giới còn chưa buông xuống được, tham, sân, si còn tự phát khởi, thị-phi nhân-ngã còn ôm giữ; gián đoạn, xen tạp còn chưa trừ sạch, vọng tưởng rong ruổi còn chưa vĩnh viễn diệt hết, các thứ ngoắt ngoéo khác vẫn còn mê hoặc được ý chí thì chẳng phải là chơn thật niệm Phật.

Muốn đạt đến cảnh giới Nhất Tâm Bất Loạn thì biện pháp ban đầu là dùng xâu chuỗi để ghi nhớ phân minh, khắc định thời khóa quyết định chẳng thiếu. Lâu ngày thuần thục chẳng niệm mà tự niệm thì sau đấy nhớ số cũng được, chẳng nhớ số cũng xong.

Nếu là kẻ sơ tâm mà lại thích bàn chuyện khán thoại đầu, muốn chẳng chấp tướng, muốn học viên dung tự tại thì toàn là kẻ tin chẳng sâu, hành chẳng tận sức, dẫu có giảng được mười hai phần kinh giáo, hiểu nổi một ngàn bảy trăm chuyển ngữ (công án Thiền) thì cũng đều là chuyện thuộc về sanh tử, lúc lâm chung cũng nhất định vô dụng mà thôi!

Nhận định:

Tổ đã minh thị: Tín Nguyện Trì Danh sẽ đạt đến cửu phẩm và bốn cõi Tịnh Ðộ. Nếu như Tín chẳng chơn thật, Nguyện chẳng mạnh mẽ thì dù Nhất Tâm Bất Loạn cũng chẳng được vãng sanh.

Lời dạy này thật là thiết yếu; hãy nên tín sâu, nguyện thiết để thẳng đường mà niệm. Niệm đến mức rốt ráo thì vô minh đoạn sạch sẽ vãng sanh về cõi Thường Tịch Quang.

12. Trích yếu sách Tịnh Ðộ Cảnh Ngữ của đại sư Triệt Lưu Hành Sách đời Thanh

* Niệm Phật cần phải có lòng tin chơn thật:

1. Một là tin rằng tâm, Phật, chúng sanh, cả ba thứ không sai biệt. Ta là Phật chưa thành, Phật Di Ðà là vị Phật đã thành, giác tánh vô nhị. Ta tuy hôn mê, điên đảo, sai lầm nhưng giác tánh chẳng hề mất. Ta tuy luân chuyển bao kiếp nhưng giác tánh chưa hề động. Vì thế mới nói: “Ðừng khinh kẻ chưa ngộ, nhất niệm hồi quang sẽ cùng chứng đắc cái ta sẵn có”.

2. Kế đến, cần phải tin rằng ta là Lý Tánh Phật, danh tự Phật; Di Ðà là Cứu Cánh Phật, tánh tuy không hai, nhưng địa vị sai khác một trời, một vực!

Nếu chẳng chuyên niệm đức Phật kia để cầu sanh về cõi ngài ắt sẽ bị lưu chuyển theo nghiệp, chịu khổ vô lượng. Nói cách khác: Pháp Thân lưu chuyển trong năm đường chẳng được gọi là Phật, mà gọi là chúng sanh!

3. Ba là cần phải tin rằng ta tuy chướng sâu nghiệp nặng, ở trong khổ thành đã lâu, nhưng là chúng sanh ở trong tâm của đức Di Ðà; Di Ðà tuy là vạn đức trang nghiêm ở xa ngoài mười vạn ức cõi nhưng vẫn là đức Phật trong tâm ta.

Tâm, tánh đã là vô nhị thì tự nhiên cảm ứng đạo giao, tâm khổ thiết của ta ắt cảm, tâm từ bi của Phật ắt ứng như nam châm hút sắt, chẳng còn ngờ chi.

Ðầy đủ những lòng tin chơn thật như vậy thì dù một mảy thiện, một phước nhỏ như hạt bụi đều có thể đem hồi hướng về Tây Phương, trang nghiêm Tịnh Ðộ. Huống hồ là trì trai, giữ giới, phóng sanh, bố thí, đọc tụng Ðại Thừa, cúng dường Tam Bảo, các thứ hạnh lành lại chẳng đủ để làm tư lương Tịnh Ðộ hay sao?

Chỉ vì tin chẳng chơn thật nên bị chìm trong hữu lậu. Vì thế, ngày nay tu hành chẳng có yếu thuật nào khác cả; chỉ cốt trong mười hai thời, thêm vào ba thứ lòng tin chơn thật ấy thì chẳng cần phải thay đổi hết thảy điều gì mình đang tu tập cả.

* Nếu luôn luôn nghĩ lo việc Sa Bà, một ngày nóng mười ngày lạnh, tâm chẳng chuyên dốc, lúc gặp ngũ dục thì như keo như sơn, gặp phải nghịch cảnh bèn kết oán, ôm hận. Ðến lúc mạng chung sẽ ngả theo chỗ mình coi nặng, vì Tịnh nhân nhỏ yếu nên khó thoát khỏi chốn khổ. Ðấy chỉ là do chẳng thể bỏ xuống những cái mình xem nặng.

Ai nấy nên đau đáu nghĩ đến Sa Bà hiểm ác, sớm cầu xuất ly. Bò lê trong lục đạo, tiêu dao nơi chín phẩm, [hai đường] lợi – hại [khác xa nhau] một trời một vực. Hãy nên tu tập nỗ lực, mạnh mẽ tỉnh ngộ! Ắt nên sanh lòng chán, ưa lớn lao, bỏ uế lấy tịnh; tin rằng sự lấy bỏ này và sự chẳng lấy bỏ vốn chẳng khác gì nhau.

Ðừng chuộng hư danh, đừng chấp Không Kiến, chớ để kẻ học Thiền có danh phận nhưng chỉ chứng đắc tam-muội nơi cửa miệng làm ta lầm loạn. Chớ cầu sự linh nghiệm ngay trong sớm tối, vọng cầu ngoài tâm có Phật đến đón khiến ma sự phát động. Luôn lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh, siêng tu các điều thiện làm Trợ Hạnh.

Lại còn quyết ý mài giũa tham, sân, si, khiến cho chỗ nặng biến thành chỗ nhẹ, chỗ sống chín dần, tịnh niệm nối tiếp, nguyện – hạnh hỗ trợ nhau thì tự nhiên trăm ngàn phần ổn thỏa, thích đáng vậy!

* Kính khuyên các bạn: Cần phải có đủ nguyện chơn thật, phát tâm ưa – chán, coi tam giới như lao ngục, coi nhà, vườn như gông cùm, coi thanh sắc như chất độc của loài chim Trầm, coi danh lợi như dây cương, ống khóa, coi mấy mươi năm thời vận cùng thông như giấc mộng đêm qua, coi một kỳ thọ báo trong cõi Sa Bà như ngụ trong quán trọ: vừa hết đêm đã rời đi. Chỉ lấy việc trở về nhà làm trách nhiệm. Như ý cũng được, bất đắc ý cũng xong, chẳng bỏ lỡ tấc bóng, nhất tâm niệm Phật.

Nếu thật sự có thể làm được như thế mà chẳng sanh về Tịnh Ðộ thì chư Phật đều thành nói dối. Xin hãy cùng gắng lên!

* Bảy ngày trì danh quý ở chỗ Nhất Tâm Bất Loạn, không gián đoạn, không xen tạp, chứ chẳng phải là niệm nhanh, niệm nhiều là hay!

Chỉ nên chẳng rề rà, chẳng gấp gáp, trì danh nghiêm mật khiến cho câu Phật hiệu phân minh vằng vặc trong tâm. Mặc áo, ăn cơm, đi, đứng, nằm, ngồi; một câu hồng danh miên mật chẳng đoạn giống như thở ra, hít vào. Chẳng được tán loạn, nhưng cũng chẳng để chìm mất. Trì danh như thế thì đáng gọi là đạt nhất tâm tinh tấn về mặt Sự!

* Hiện thời, Tịnh nghiệp học nhân suốt ngày niệm Phật, sám hối tội lỗi, phát nguyện mà Tây phương vẫn cách xa là do chưa thể giữ sao cho ngoài chuyện vãng sanh không còn nghĩ chuyện gì khác, chưa nhổ được gốc ái, để dây tình còn lôi kéo vậy!

Nếu có thể coi chuyện ân ái cõi Sa Bà như nhai sáp; chẳng quản bận, rảnh, động, tịnh, khổ, sướng, buồn, vui, cứ dựa vào một câu Phật hiệu hệt như dựa vào núi Tu Di thì hết thảy cảnh duyên chẳng lay động nổi.

Nếu lúc nào biết mình đang mệt mỏi, lười biếng hoặc là tập khí hiện tiền hãy nên mạnh mẽ phát khởi một niệm như tuốt thanh trường kiếm Ỷ Thiên khiến ma quân không chỗ ẩn trốn, cũng như hỏa lò rực lửa khiến cho vô thỉ tình thức tiêu tan không sót! Người ấy tuy đang ở trong chốn ngũ trược mà thân đã nghiễm nhiên ngồi trong cõi Liên Hoa, nào còn phải đợi đức Di Ðà xòe tay, đức Quán Âm khuyên mời mới tin là mình đã vãng sanh nữa!

Nhận định:

Trì danh chẳng cốt niệm nhanh, niệm nhiều là hay, nhưng chẳng nên [nại cớ đó để] tà tà, lơi là. Cổ đức trì danh ngày đêm cả một vạn biến, há chẳng phải là niệm nhanh, niệm nhiều đó sao? Câu “chớ cầu chóng có linh nghiệm, đừng vọng cầu ngoài tâm có Phật đến đón khiến ma sự phát động” để dạy riêng người tu quán tưởng. Nếu gặp phải ma sự thì nên đề khởi chánh niệm, thầm trì Phật hiệu, vì tà chẳng thắng nổi chánh nên ma sự ắt tiêu diệt, chẳng cần lo sợ.

13. Trích yếu Pháp Ngữ của đại sư Phạm Thiên Tỉnh Am Tư Tề đời Thanh

* [Trích từ] thư viết cho cư sĩ Mâu Tịnh Viễn:

“Cư sĩ dựng cầu xong có thể nói là không công nào lớn hơn, nhưng tâm cư sĩ ham làm lành không chán; vừa xong một việc lành này đã làm ngay việc lành khác, đã hay càng hay hơn! Còn việc lớn sanh tử thì như thế nào? Nếu chẳng coi việc lớn sanh tử là gấp, cứ cắm cúi làm lành thì sự lành dù to như núi Tu Di cũng đều là nghiệp duyên sanh tử cả, biết đến ngày nào xong? Thiện sự càng lắm, sanh tử càng rộng! Một niệm ái tâm bao kiếp trói buộc, có đáng sợ chăng?

Cư sĩ tham cứu thấu đạt công án thế gian từ lâu, đã tu tập Tịnh nghiệp Tây Phương từ lâu, nhưng cái tâm sanh tử chẳng thiết, gia duyên chưa buông xuống được, tạ tuyệt nhân tình chưa nổi, tâm niệm Phật chẳng chuyên là vì sao vậy? Vì gốc lợi danh chưa đoạn chăng? Vì ái niệm lôi kéo, ràng buộc chăng?

Ðối với hai điều ấy, ông nên để tâm suy xét kỹ. Nếu như chẳng thể chặt đứt hết thảy gia duyên, thế sự, tận lực vâng giữ sáu chữ hồng danh mà mong thoát khỏi Sa Bà, mong sanh về An Dưỡng thì khó lắm đấy!

Chẳng sanh về An Dưỡng mà muốn thoát khỏi sanh tử; đã chẳng thoát khỏi sanh tử mà muốn khỏi bị đọa lạc thì xét ra càng khó hơn nữa! Ví dù một đời, hai đời chẳng đánh mất thân người, liệu có kham nổi mãi không?

Than ôi! Cư sĩ huệ tâm lanh lợi, sáng suốt như thế, gia duyên sung túc như thế, con cháu hiền năng như thế, việc gì cũng vừa ý mà còn chẳng thể buông nổi vạn duyên, nhất tâm niệm Phật thì là trời phụ người hay người đã phụ trời vậy? Chẳng lấy việc niệm Phật làm gấp, chỉ lấy chút điều lành nhỏ trong đời làm gấp, chẳng lấy việc lớn sanh tử làm đầu, chỉ coi phước báo nhân thiên là trọng thì là hạng chẳng hiểu trước, sau vậy!

Tuy cư sĩ chẳng cầu phước nhưng thường làm phước, tuy muốn thoát sanh tử nhưng lại bị trở vào trong sanh tử đều là do ông chẳng biết rằng mình đã lơ là cõi kia, đặt nặng cõi này đến nỗi bánh xe đã xoay ngang mà vẫn cứ mong tiến lên được! Bây giờ, việc chính của cư sĩ là nên tạ tuyệt việc đời, nhất tâm niệm Phật, kèm thêm hai chữ “trì trai” mới thật là tận mỹ!

Nói chung, chẳng thể dùng tán thiện khơi khơi để đạt đến cõi Phật Tây Phương, chẳng thể cậy vào lười biếng để thoát khỏi vạn kiếp sanh tử được! Vô thường nhanh chóng, ngày đêm tới ngay, há chẳng sớm lo liệu hay sao?

Nhận định:

Tạ tuyệt việc đời nhất tâm niệm Phật kiêm thêm hai chữ “trì trai” chính là nhiệm vụ quan trọng nhất của hạng người già niệm Phật chúng ta vậy!

14. Trích yếu Ngữ Lục của đại sư Mộng Ðông Triệt Ngộ đời Thanh

* Hết thảy pháp môn lấy minh tâm làm chính, hết thảy hạnh môn lấy tịnh tâm làm trọng.

Cách trọng yếu để minh tâm không gì bằng Niệm Phật. Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại, tương lai nhất định thấy Phật. Chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai. [Như vậy], niệm Phật chẳng phải là cách trọng yếu để minh tâm hay sao? Cách trọng yếu để tịnh tâm cũng không gì bằng Niệm Phật. Một niệm tương ứng một niệm Phật; niệm niệm ứng với niệm niệm Phật.

Thanh châu gieo vào nước đục, nước đục chẳng thể không trong. Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể không thành tâm Phật. Như vậy, Niệm Phật chẳng phải là cách trọng yếu để tịnh tâm hay sao? Một câu Phật hiệu gồm đủ những điểm cốt yếu của cả hai môn Ngộ và Tu. Ðối với Ngộ thì tin ở trong ấy; đối với Tu thì chứng cũng ở trong ấy. Gồm đủ cả Tín, Giải, Tu, Chứng; những điểm cốt lõi của hết thảy các kinh Ðại Thừa, Tiểu Thừa không gì là chẳng vét sạch. Một câu Di Ðà chẳng phải là đạo chí yếu hay sao?

* Cái tâm trong một niệm hiện tiền của chúng ta là toàn chơn thành vọng, toàn vọng chính là chơn, trọn ngày bất biến, trọn ngày tùy duyên, chẳng nương theo duyên của Phật giới để nghĩ đến Phật giới thì lại nghĩ đến cửu giới. Chẳng nghĩ đến Tam Thừa sẽ nghĩ đến lục phàm. Chẳng nghĩ đến trời, người thì sẽ nghĩ đến tam đồ. Chẳng nghĩ đến quỷ, súc sẽ nghĩ đến địa ngục.

Hễ đã có tâm thì chẳng thể vô niệm. Tâm thể vô niệm chỉ có mình đức Phật chứng được; từ bậc Ðẳng Giác trở xuống thảy đều hữu niệm. Hễ khởi lên một niệm ắt sẽ lạc vào mười giới, mà chẳng có niệm nào ra ngoài mười giới vì không có gì ngoài mười pháp giới cả. Mỗi một niệm khởi lên là một duyên để thọ sanh. Nếu thực sự biết lý ấy mà chẳng niệm Phật thì có đời nào có!

Nếu tâm này có thể tương ứng với đại từ, đại bi, bình đẳng, công đức của y báo, chánh báo và tương ứng với vạn đức hồng danh thì đó chính là niệm Phật pháp giới.

Nếu có thể tương ứng với Bồ Ðề tâm, lục độ, vạn hạnh thì chính là niệm Bồ Tát pháp giới.

Nếu có thể tương ứng với tâm Vô Ngã và Thập Nhị Nhân Duyên thì là niệm Duyên Giác pháp giới.

Nếu có thể tương ứng với tâm Vô Ngã, quán sát Tứ Ðế thì là niệm Thanh Văn pháp giới.

Nếu có thể tương ứng với Tứ Thiền, Bát Ðịnh và Thập Thiện thượng phẩm thì là niệm Thiên pháp giới.

Nếu tương ứng với Ngũ Giới thì là niệm Nhân pháp giới.

Nếu có thể tu các pháp: Giới, Thiện v.v… nhưng còn ôm lòng sân hận, kiêu mạn, thắng bại sẽ lạc vào Tu La pháp giới.

Nếu tâm nghĩ đến mười điều ác thuộc phẩm hạ một cách thong thả, nhẹ nhàng thì lạc vào Súc Sanh pháp giới.

Nếu tâm nghĩ đến mười điều ác bậc trung nửa do dự, nửa hăng hái thì đọa vào Ngạ Quỷ pháp giới.

Nếu tâm tương ứng với Thập Ác bậc thượng một cách mạnh mẽ, hùng hổ thì đọa vào Ðịa Ngục pháp giới.

Thập Ác là giết, trộm, dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, tham, sân, tà kiến. Trái nghịch với mười điều này là Thập Thiện.

Hãy nên tự ngầm kiểm điểm những ý niệm phát khởi hằng ngày xem chúng tương ứng với pháp giới nào nhiều nhất, tương ứng với pháp giới nào mạnh mẽ nhất thì còn cần gì phải nhọc công hỏi người khác chỗ nào để ngày sau an thân lập mạng nữa!

* Một niệm hiện tiền của chúng ta duyên sanh vô tánh, vô tánh duyên sanh, nếu chẳng sanh Phật giới sẽ sanh trong cửu giới.

Nếu xét về duyên sanh vô tánh thì chúng sanh và Phật bình đẳng, là một, là không. Nếu xét về vô tánh duyên sanh thì mười giới sẽ hơn kém thật khác xa nhau!

Vua A Kỳ Ðạt lúc lâm chung bị người hầu [chuyên giữ việc] đuổi ruồi dùng phất trần phất qua mặt, vì khởi lên một niệm sân hận nên bị đọa làm rắn độc.

Một người đàn bà vượt sông, xẩy tay, đứa con rơi xuống nước; do cứu con nên cùng bị chìm. Vì bà từ tâm nên được sanh lên trời.

Chỉ do một niệm Từ hay Sân mà phân ra trời và súc sanh. Như vậy, há đâu chẳng dè dặt một niệm duyên sanh lúc lâm chung sao? Nếu như đem tâm này duyên niệm đức Phật Di Ðà, cầu sanh Tịnh Ðộ thì lẽ đâu chẳng được thấy Phật vãng sanh? Nhưng nhất niệm ấy chẳng thể cầu may mà có được, cần phải dốc tấm lòng thành, giữ cho tinh thuần.

Vì vậy, chúng ta phải ngàn niệm, vạn niệm một câu A Di Ðà này, niệm suốt ngày, suốt năm, không gì là chẳng vì để một niệm này được thuần thục mới thôi. Nếu quả thật đã đạt một niệm thuần thục thì lúc lâm chung sẽ chỉ có một niệm này, không còn niệm nào khác.

Trí Giả đại sư nói: “Hễ lâm chung tâm tại định thì tâm ấy là tâm thọ sanh Tịnh Ðộ”. Chỉ một niệm này, không niệm nào khác, há chẳng phải là tâm định hay sao? Nếu quả thật niệm được như thế mà chẳng thấy A Di Ðà Phật thì sẽ thấy ai đây? Chẳng sanh Tịnh Ðộ sẽ sanh cõi nào đây? Chỉ sợ chúng ta chẳng tự tin nổi đấy thôi!

* Thật vì sanh tử, phát Bồ Ðề tâm, dùng tín nguyện sâu để trì danh hiệu Phật. Mười sáu chữ ấy chính là một đại cương tông của pháp môn Niệm Phật.

Nếu chẳng phát khởi nổi tâm thật sự vì sanh tử thì hết thảy khai thị đều thành hý luận. Hết thảy sự khổ nặng nề trong thế gian không gì hơn được sanh tử. Không kết thúc được sanh tử thì sanh tử, tử sanh, sanh sanh, tử tử, ra khỏi bào thai này, vào trong bào thai khác, bỏ cái đãy da này để lấy cái đãy da khác, khổ chẳng kham nổi! Huống hồ, chưa ra khỏi luân hồi thì khó tránh khỏi đọa lạc: hễ một niệm sai lầm ắt lại vào trong nẻo ác. Tam đồ dễ vào, khó ra. Thời gian trong địa ngục dài lâu, khổ sở nặng nề.

Mỗi phen nghĩ đến, ngũ tạng như nung. Vì thế ta nay nên xót đau nghĩ đến sanh tử như làm tang cho cha mẹ, như cứu đầu cháy. Nhưng, ta có sanh tử, ta cầu xuất ly; hết thảy chúng sanh đều ở trong sanh tử, đều phải nên xuất ly. Bọn họ cùng ta vốn đồng một thể, đều là cha mẹ nhiều đời của ta, là chư Phật trong vị lai. Nếu chẳng nghĩ cách phổ độ họ, chỉ cầu tự lợi thì về lý đã khiếm khuyết mà tâm cũng chưa an.

Huống hồ, đại tâm chẳng phát thì ngoài chẳng thể cảm thông chư Phật, trong chẳng thể khế hợp bổn tánh, trên chẳng thể viên thành Phật đạo, dưới chẳng thể lợi khắp quần sanh thì ân ái từ vô thỉ làm sao giải thoát nổi, oan khiên từ vô thỉ làm sao cởi mở nổi? Tội nghiệp bao kiếp khó nỗi sám trừ, thiện căn bao kiếp khó bề thành thục. Tu hành điều gì cũng gặp nhiều chướng duyên mà dù có thành được cái gì thì cũng biến thành thiên tiểu. Vì thế, cần phải phát đại Bồ Ðề tâm tương xứng với tánh.

Ðại tâm đã phát thì nên tu đại hạnh. Nhưng trong hết thảy các hạnh môn, tìm lấy cách thực hành giản dị nhất, dễ thành tựu nhất, ổn thỏa, thích đáng tột bực nhất, viên đốn chí cực thì không có gì bằng dùng lòng tín nguyện sâu xa trì danh hiệu Phật vậy.

Tín vừa nói đó nghĩa là: lời nói phạm âm của đức Thích Ca Như Lai quyết không dối trá, tâm đại từ bi của đức Di Ðà Thế Tôn quyết chẳng nguyện xuông. Hễ lấy niệm Phật cầu sanh làm nhân ắt sẽ cảm quả gặp Phật vãng sanh giống như trồng dưa được dưa, gieo đậu được đậu; tiếng vang phải vọng theo tiếng, bóng phải nương theo hình. Nhân chẳng bỏ luống thì quả chẳng lỡ làng. Như vậy chẳng cần phải đợi hỏi Phật mới có thể tự tin.

Huống hồ tâm tánh một niệm hiện tiền của chúng ta suốt ngày tùy duyên, suốt ngày bất biến, ngang thì trọn khắp, dọc thì tột cùng, đương thể vô ngoại, Tịnh Ðộ Di Ðà đều ở trong ấy. Dùng cái tâm sẵn có Phật của mình để niệm đức Phật sẵn có trong tâm ta thì đức Phật sẵn có trong tâm ta lại chẳng tương ứng với cái tâm sẵn có Phật của ta hay sao? Vãng Sanh Truyện đã ghi đầy dẫy những tướng lành lúc lâm chung, há nào lừa dối ta ư?

Tin như thế rồi, tự mong muốn, ưa thích thiết tha. Từ sự vui trong cõi ấy, ngoái nhìn nỗi khổ trong Sa Bà thì lòng chán nhàm càng sâu, như lìa hầm xí, như ra khỏi lao ngục. Từ nỗi khổ Sa Bà, vọng trông niềm vui trong cõi kia, vui mừng, ưa thích càng thêm thiết tha như quay về cố hương, như rảo chân đến chỗ có của báu. Nói tóm lại là như khát nghĩ đến uống, như đói mong ăn, như bệnh khổ ước ao thuốc hay, như trẻ thơ mong nhớ mẹ, như tránh kẻ oan gia vác dao bức bách, như ngã vào nơi nước lửa mong gấp được kéo lên. Nếu quả thật có thể khẩn thiết như thế thì hết thảy cảnh duyên chẳng thể dẫn dắt, xoay chuyển được!

Sau đấy, dùng cái tâm tín nguyện ấy chấp trì danh hiệu. Trì một tiếng là thành một hạt giống cho chín phẩm sen. Niệm một câu là chánh nhân để vãng sanh. Phải sao cho tâm tâm tiếp nối, niệm niệm chẳng sai, chỉ một mực chuyên cần, chẳng tạp, chẳng gián đoạn, càng lâu càng vững, càng trì càng thiết tha, lâu ngày tự thành một khối, nhập nhất tâm bất loạn.

Nếu thật sự như thế mà chẳng được vãng sanh thì Thích Ca Như Lai hóa ra nói dối, Di Ðà Thế Tôn chỉ nguyện xuông; có lẽ nào như thế?

* Nơi ải đầu sanh tử của chúng ta chỉ có hai thứ lực:

1. Một là tâm tình lắm mối, thiên đọa chỗ nặng. Ðó là tâm lực.

2. Hai là như người mắc nợ, kẻ nào mạnh hơn sẽ kéo đi trước. Ðấy là nghiệp lực.

Nghiệp lực rất lớn, nhưng tâm lực càng lớn hơn vì nghiệp không có tự tánh, hoàn toàn nương vào tâm. Tâm có thể tạo nghiệp, tâm có khả năng chuyển nghiệp. Vì thế, cái gì tâm đặt nặng, nghiệp lực nào mạnh nhất sẽ quyết định việc thác sanh.

Nếu tâm chú trọng tu Tịnh nghiệp thì Tịnh nghiệp sẽ mạnh. Tâm nặng, nghiệp mạnh thì chỉ có hướng thẳng về Tây Phương, ngày sau báo hết mạng tận, quyết định sẽ vãng sanh Tây Phương, chẳng sanh vào chỗ nào khác nữa. Giống như cây to, tường to, lúc bình thường đã ngả về phía Tây thì đến ngày nào nó đổ xuống quyết sẽ chẳng ngã sang chỗ nào khác!

Thế nào là tâm chú trọng? Chúng ta tu tập Tịnh nghiệp thì cốt sao tin cho sâu, nguyện cho thiết. Do tín nguyện thâm thiết nên hết thảy tà thuyết chẳng thể lay động, lầm loạn đuợc; hết thảy cảnh duyên chẳng thể dẫn dắt, xoay chuyển được. Nếu ngay đang lúc tu Tịnh nghiệp, đại sư Ðạt Ma chợt hiện ra trước mặt bảo:

– Ngươi nên bỏ niệm Phật để thọ trì pháp Thiền Trực Chỉ Nhân Tâm Kiến Tánh Thành Phật.

Thì cũng nên hướng về Tổ làm lễ, thưa:

– Con đã thọ pháp môn Niệm Phật của đức Như Lai, phát nguyện thọ trì, trọn đời chẳng đổi, chẳng dám tự trái bổn thệ.

Dẫu cho đức Thích Ca Như Lai chợt hiện thân dạy:

– Trước đây ta nói pháp môn Niệm Phật chỉ là phương tiện nhất thời, ngươi hãy để pháp môn Niệm Phật lại, ta sẽ vì ngươi giảng pháp môn thù thắng.

Thì cũng hướng về Phật, dập đầu lễ, bày tỏ:

– Con trước đã bẩm thọ pháp môn Niệm Phật của Thế Tôn, phát nguyện hễ còn một hơi thở quyết chẳng đổi thay, chẳng dám tự trái nghịch bổn nguyện.

Dù Phật, Tổ hiện thân còn chẳng thay đổi niềm tin của mình, huống là những tà thuyết hư vọng của ma vương, ngoại đạo lại có thể lung lạc, lầm loạn mình được ư? Tin như thế mới đáng gọi là sâu. Dẫu cho bánh xe sắt nung đỏ xoay vần vũ trên đỉnh đầu, cũng chẳng vì nỗi khổ ấy mà thối thất ý nguyện vãng sanh. Dù cho ngũ dục thắng diệu của Luân Vương hiện tiền, cũng chẳng vì sự vui đó mà thối thất ý nguyện vãng sanh.

Thuận – nghịch tột bậc như thế vẫn chẳng đổi ý nguyện huống là những hoàn cảnh thuận nghịch nhỏ nhặt của thế gian lại có thể lay chuyển nổi hay sao? Nguyện như thế mới đáng gọi là thiết tha!

Tin sâu, nguyện thiết mới gọi là tâm đặt nặng để tu Tịnh nghiệp thì Tịnh nghiệp ắt sẽ mạnh mẽ.

Do tâm đặt nặng nên dễ thuần; do nghiệp mạnh nên dễ chín. Khi Tịnh nghiệp Cực Lạc đã chín thì nhiễm duyên Sa Bà liền hết nên khi lâm chung dù có muốn cảnh giới luân hồi tái hiện trước mắt, Tịnh Ðộ Di Ðà chẳng hiện diện thì cũng chẳng thể được!

Nhưng tín nguyện như thế cần phải gìn giữ cho thuần thì lúc lâm chung mới chẳng lạc vào ngõ rẽ.

* Biển cả Phật pháp, do Tín thì được vào. Trong pháp môn Tịnh Ðộ, Tín càng trọng yếu. Xưa kia, Vương Trọng Hồi hỏi Dương Vô Vi: “Niệm Phật như thế nào để khỏi bị gián đoạn?” Ông Dương đáp: “Hễ một phen tin rồi thì chẳng còn nghi nữa!”. Ông Vương vui vẻ ra đi. Lâu sau, ông Dương mộng thấy ông Trọng Hồi đến cảm tạ: “Nhân được ngài chỉ dạy, tôi được đại lợi ích, nay đã vãng sanh Tịnh Ðộ”.

* Một là lấy thật vì sanh tử phát Bồ Ðề tâm làm đường lối chung cho việc học đạo.

Hai là lấy tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật làm Tịnh Ðộ chánh tông.

Ba là lấy nhiếp tâm chuyên chú mà niệm làm phương tiện để thực hành.

Bốn là lấy việc chiết phục phiền não hiện hành làm trách vụ trọng yếu để tu tâm.

Năm là lấy việc giữ vững tứ trọng giới pháp làm căn bản để nhập đạo.

Sáu là lấy các thứ khổ hạnh để làm trợ duyên tu đạo.

Bảy là lấy nhất tâm bất loạn làm chỗ quy túc của Tịnh hạnh.

Tám là lấy các thứ tướng lành để chứng nghiệm việc vãng sanh.

Tám điều này ai nấy đều nên hiểu biết tường tận. Người tu Tịnh nghiệp chẳng thể chẳng biết.

* Chấp trì danh hiệu là phải khư khư ôm giữ, giữ chắc trong tâm chẳng hề tạm quên, hễ hơi có một niệm gián đoạn hoặc xen tạp thì chẳng phải là chấp trì. Niệm niệm liên tục chẳng hở, chẳng tạp là chơn tinh tấn. Tinh tấn chẳng thôi mới dần dần chứng nhập Nhất Tâm Bất Loạn, viên thành tịnh nghiệp. Nếu đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn mà vẫn tinh tấn chẳng ngơi thì sẽ thấy mình khai trí huệ, phát biện tài, đắc thần thông, thành Niệm Phật tam muội; cho đến các thứ tướng lành linh dị đều hiện tiền cả! Nhưng hành nhân chớ nên mang lòng cầu được chứng nghiệm, chỉ nên tận sức cho đạt tới Nhất Tâm Bất Loạn mà thôi!

* Lúc niệm Phật nên buông xuống vạn duyên, chỉ đề giữ một niệm như cứu đầu đang bị cháy, như làm ma chay cho bố mẹ, như gà ấp trứng, như rồng dưỡng châu, chẳng cầu điều chứng nghiệm nhỏ nhặt, chẳng cầu mau thành, chỉ nhất tâm thường nương theo niệm. Ðấy gọi là vô thượng thâm diệu Thiền. Như vậy thì căn, thân, thế giới đều ngầm biến chuyển theo tâm mình trong mỗi niệm, phàm tâm, nhục nhãn làm sao thấy biết được nổi!

Ðến lúc báo hết, mạng tận, Di Ðà và thánh chúng chợt hiện trước mặt, hoặc thấy mùi hương lạ, nhạc trời, các tướng thiêng lành; người đời mới cho là Tịnh nghiệp thành thục, nhưng có phải là Tịnh nghiệp đến lúc đó mới thành đâu?

* Niệm Phật nên sanh bốn tâm:

– Một là từ vô thỉ đến nay tạo nghiệp dường ấy, nên sanh hổ thẹn.

– Hai là được nghe pháp môn này nên sanh tâm vui mừng.

– Ba là vô thỉ nghiệp chướng, pháp này khó bề gặp gỡ, nên sanh tâm đau xót.

– Bốn là Phật từ bi như thế nên sanh tâm cảm kích.

Có được một trong bốn tâm này thì Tịnh nghiệp mới có thể thành tựu.

Niệm Phật phải lâu bền, không được gián đoạn. Gián đoạn thì Tịnh nghiệp chẳng thành được nổi!

Hãy nên dũng mãnh, chẳng nên lười mỏi; lười mỏi thì Tịnh nghiệp cũng chẳng dễ thành. Nếu lâu dài mà chẳng dũng mãnh thì sẽ thối thất. Dũng mãnh mà chẳng lâu bền thì chẳng tiến triển nổi!

* Trong lúc niệm Phật chẳng tưởng đến gì khác. Chẳng tưởng đến điều gì khác chính là Chỉ. Trong lúc niệm Phật nên rành rẽ phân minh; có thể rành rẽ phân minh thì chính là Quán. Trong một niệm đủ cả Chỉ lẫn Quán, không cần có Chỉ – Quán nào khác. Chỉ là nhân của Ðịnh; Ðịnh là quả của Chỉ. Quán là nhân của Huệ; Huệ là quả của Quán. Một niệm bất sanh, rành rẽ phân minh chính là Tịch mà Chiếu. Rành rẽ phân minh, một niệm chẳng sanh chính là Chiếu mà Tịch.

Có thể làm được như vậy thì Tịnh nghiệp ắt thành. Thành được như vậy thì là thượng phẩm. Từ một người cho đến trăm, ngàn, vạn, ức người tu như thế thì đều thành tựu như thế. Người niệm Phật chẳng nên lưu tâm hay sao?

Nhận định:

Ðại Sư ngàn lời muôn lẽ chỉ nhằm dạy ta thật vì sanh tử, phát Bồ Ðề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật. Trong lúc niệm Phật nên buông xuống vạn duyên, chỉ giữ mỗi một niệm, chẳng cầu sự chứng nghiệm nhỏ nhặt, chẳng cầu chóng thành tựu, chỉ nhất tâm dựa vào niệm, niệm đến mức không còn tưởng gì khác thì đó là Chỉ. Niệm đến mức rành rẽ phân minh thì đó là Quán.

Trong một niệm đủ cả Chỉ lẫn Quán, Tịch, Chiếu không hai. Nếu làm được như vậy thì ắt sanh trong Thượng Phẩm. Xin từ đây mà vào, nhiếp tâm chuyên chú mà niệm, chẳng hở, chẳng tạp, tinh tấn chẳng ngơi.

15. Trích yếu các sách Tịnh Nghiệp Tri Tân và Niệm Phật Bách Vấn của đại sư Ngộ Khai Khoát Nhiên đời Thanh

* Mở mắt niệm Phật, tâm dễ tán động nên có thể nhắm mắt niệm. Trong lúc niệm Phật, để tâm rỗng rang, đề khởi Phật hiệu, vừa niệm liền nghe, nghe rồi liền niệm, liên miên chẳng tuyệt. Thực hành lâu ngày ắt sẽ có lúc tương ứng. Chỉ cốt từng chữ chắc thật phát xuất từ ý niệm; từng câu phát sanh từ nơi cầu sanh Tây Phương.

Lại có một pháp hệ niệm: Lúc không niệm Phật thì thường gởi ý niệm nơi thân Phật A Di Ðà, tâm thường thanh tịnh, chẳng động, chẳng lay thì sẽ có công hiệu.

* Hỏi: Tạp niệm từ đâu đến?

Ðáp: Thân người chỉ có một niệm, ý niệm niệm Phật là nó mà ý niệm [xen lẫn] tạp niệm cũng là nói, vì một niệm ấy chẳng thể hoàn toàn quy về niệm Phật, nên có chưa hoàn toàn thuộc về Phật

Hỏi: Làm thế nào để trừ được tạp niệm?

Ðáp: Chẳng tiêu trừ được. Chỉ nên tự phấn chấn tinh thần, đem một niệm ấy hoàn toàn hướng đến Phật thì tạp niệm tự mất.

Hỏi: Nhưng nếu tinh lực yếu mệt chẳng thể khiến cho tạp niệm mất được thì lại nên làm như thế nào?

Ðáp: Ðạo lực chưa đầy đủ nên hay có nhiều tán loạn, thâu nhiếp lục căn dần dần quy về thanh tịnh. Lúc tạp niệm khởi, chẳng cần quan tâm đến chúng, ta chỉ biết đến niệm này, lại càng chăm chú nhìn vào tượng Phật, hoặc chú tâm nghĩ nhớ tượng Phật thì tạp niệm tự mất.

Nhưng lâu dần tạp niệm lại khởi, thậm chí vấn vương, quấy nhiễu chẳng cởi bỏ được thì bất tất phải nóng nảy, cứ lắng trong tâm tư khiến cho sáu chữ hồng danh: mỗi chữ theo ý niệm khởi lên thốt ra từ miệng, tai lắng nghe tiếng niệm rõ ràng, rồi lại từ trong tâm niệm lưu xuất. Tuần hoàn đan kín như thế chẳng để gián đoạn thì tạp niệm tự mất.

Nếu có kẻ độn căn chẳng làm được như thế thì sáu chữ Nam Mô A Di Ðà Phật, cứ hễ niệm một tiếng liền nhớ chữ Nam, niệm hai chữ nhớ chữ Mô, rồi đến chữ A, chữ Di, chữ Ðà, chữ Phật, rồi lại chữ Nam. Liên hoàn ghi nhận chẳng dứt thì hết thảy tạp niệm không còn chỗ nào để phát khởi được!

Nhận định:

Nhắm mắt, trống lòng, niệm ra liền nghe, thâu nhiếp sáu căn, dần dần quy về thanh tịnh thì tạp niệm liền mất. Nương theo thứ tự để ghi nhớ từng chữ cũng như phép “mười niệm nhớ số” của Tổ Ấn Quang đều là những phép nhiếp tâm rất tuyệt, càng làm thử càng thấy hiệu nghiệm!

17. Trích yếu sách Bốn Mươi Tám Pháp Niệm Phật của đại sư Diệu Không đời Thanh

* Quán đã chẳng dễ thành, Giới cũng chẳng dễ giữ hoàn toàn; các phước chẳng thể mong đạt được trong một sớm một chiều. Diệu ngộ chẳng phải là điều kẻ độn căn đạt nổi. Ðại nguyện kiên cố càng hãn hữu. Nếu lại chẳng biết nương vào việc thật thà, chất phác trì danh để ngoi đầu lên thì sẽ phải chìm đắm dài lâu trong biển khổ, mãi mãi chịu luân hồi, ngàn đức Phật từ bi cũng khó thể cứu độ.

Thật thà, chất phác trì danh là chẳng cầu danh lợi, cũng chẳng phô phang tài năng, ngoài bốn chữ A Di Ðà Phật chẳng có thêm một mảy vọng tưởng nào nữa!

* Ðã dùng tâm ấy niệm Phật thì đối với hết thảy những sự tạp thiện, tạp ác, chẳng cần phải bận tâm đến nữa; tức là: đối với những việc bất đắc dĩ để ứng phó vạn duyên trong hằng ngày hễ làm xong liền buông bỏ, chẳng để chúng vương vấn chướng ngại tâm niệm của mình.

Ðã dùng cái miệng này để niệm Phật thì chẳng để hết thảy những chuyện giết, trộm, dâm, dối bén mảng nơi cửa miệng. Nếu trót bàn đến, liền nghĩ: người niệm Phật chẳng nên như thế, mạnh mẽ niệm Phật mấy câu, dùng sự cảnh tỉnh ấy để tẩy rửa sạch sẽ. Đã dùng cái thân này để niệm Phật thì đi, đứng, nằm, ngồi phải thường giữ cho đoan chánh. Thân nếu đoan chánh thì tâm thanh tịnh.

Niệm Phật một tiếng, tay lần qua một hạt. Chỉ niệm bốn chữ, chớ xen lẫn sáu chữ vì niệm bốn chữ dễ thành một khối. Hoặc là niệm đến chữ A thì lần qua một hạt, hoặc niệm đến chữ Ðà thì lần qua hạt khác. Hoạch định khuôn phép chớ để lầm loạn. Ðấy là cách mượn xâu chuỗi để thúc liễm cái tâm.

Nếu khi thần trí hôn trầm hoặc vọng tưởng bừng bừng nổi lên thì phải phấn chấn tinh thần, lớn tiếng niệm Phật vài trăm câu để tự thay đổi hoàn cảnh.

Vả lại, nhĩ căn là lanh lợi nhất, ngoại duyên dễ xâm nhập, tiếng cảm tâm động, tạp niệm tơi bời. Chỉ có cách lớn tiếng niệm Phật mới có thể khiến cho nhĩ căn lay động tâm linh, tâm nghe tiếng chính mình, từng tiếng rõ ràng thì hết thảy sự đúng, việc sai tự nhiên mất đi.

Nếu tinh thần tán loạn hoặc lúc quá mệt nhọc thì chẳng cần niệm lớn tiếng, chỉ cần thâu liễm tâm trí, niệm khe khẽ, đợi khi hơi thở sung mãn trở lại, tinh thần hưng phấn mới lớn tiếng niệm Phật.

Nếu tâm và hơi thở chẳng phù hợp nhau, hoặc gặp chỗ không thuận tiện thì chỉ động môi lưỡi, dùng phép Kim Cang Trì, chẳng nệ nhiều, ít, cốt sao mỗi chữ từ trong tâm phát ra. Tâm nhớ đến rồi mới động lưỡi, lưỡi động rồi lại trở về tâm. Lưỡi đã phát ra tiếng, tai lại tự nghe. Ðấy là tâm niệm, tâm nghe vậy.

Tâm niệm tâm nghe là mắt chẳng nhìn bậy, mũi chẳng ngửi xằng, thân chẳng vọng động, vị chủ nhân ông được bốn chữ A Di Ðà Phật mời xuất hiện ra.

Nếu hiềm pháp Kim Cang Trì còn thấy có dấu vết thì tự xưa có phương tiện cực khéo: chẳng cần động miệng thốt ra tiếng, chỉ cần buộc tâm vào một duyên, khẽ động lưỡi cho chạm vào răng cửa, tâm và niệm ứng theo nhau, âm thanh rành rẽ, tiếng niệm chẳng thoát qua kẽ răng. Tánh nghe dung thông bên trong: Tâm in theo cuống lưỡi; cuống lưỡi lôi kéo niệm căn, từ nghe nhập lưu, xoay trở lại nghe nơi tự tánh.

Ba thứ ấy dung hội lẫn nhau, niệm niệm viên thông, lâu dần sẽ thành duy tâm thức quán.

* Nếu lắm hôn trầm thì nên vừa đi kinh hành vừa trì. Nếu lắm tán loạn thì ngồi ngay ngắn mà trì, hoặc là quỳ, hoặc đứng, thậm chí là tạm nằm cũng đều làm đủ mọi phương tiện, tùy theo sức trì danh để tự cứu. Cốt sao bốn chữ hồng danh chẳng chịu tạm quên trong một niệm. Ðó chính là thuật trọng yếu để hàng phục tâm ma.

Chẳng luận là chỗ sạch hay chỗ dơ, rảnh rang hay bận rộn, cao hứng hay thất ý, chẳng cần biết là niệm được hay niệm chẳng được, chỉ thề rằng cái tâm niệm Phật này cho đến chết cũng chẳng dứt niệm ấy. Vì sao vậy? Nếu hễ một niệm niệm Phật đứt một cái thì hết thảy các tạp niệm: thiện, ác, vô ký lại phát sanh.

Dẫu cho lúc đang đại tiểu tiện, lúc đàn bà đang sanh nở vẫn chỉ biết đến cái niệm. Càng khổ càng niệm, càng đau càng niệm. Sáng cũng niệm, chiều cũng niệm, vô sự cũng niệm, hữu sự cũng niệm, chỗ tịnh cũng niệm, chỗ uế cũng niệm. Chẳng có một niệm nào chẳng phải là Phật thì dù có lúc gián đoạn việc niệm Phật khi phải đối phó việc hằng ngày thì cũng chỉ là gián đoạn việc niệm ra lời, chứ chẳng gián đoạn mạng mạch thật sự. Công phu đến mức như thế thì tâm dễ thành một phiến.

* Hai thời sáng tối, hoạch định thường khóa, từ nay đến chết chẳng tăng, chẳng giảm. Ngoài ra, trong mười hai thời, hễ có thể niệm được một câu liền niệm ngay một câu; có thể niệm được mười câu thì niệm ngay mười câu. Chỉ cốt sao giữa trăm điều bận rộn, hễ rảnh được một khắc liền buông thân tâm xuống, trì tụng rành rẽ, cốt sao miên mật, liên tục, phấn chấn, thâu liễm thì mới chẳng lỡ uổng tấc bóng.

Nếu cứ niệm qua quít, chẳng thể chu toàn sự tu tập, luống uổng ngày tháng dần trôi, cô phụ tứ ân thì một mai vô thường chợt tới, biết ứng phó ra sao?

* Lúc đối trước tượng thì coi tượng ấy là đức Phật thật, hãy nên mặt đối mặt, tâm tưởng niệm, thành kính. Thành kính tột bậc ắt sẽ linh cảm. Nếu lúc không có tượng Phật thì nên ngồi ngay ngắn, mặt hướng về phương Tây. Lúc khởi tâm động niệm thì nên nghĩ quang minh của đức A Di Ðà Phật ngưng tụ trên đầu mình; từng chữ, từng câu chẳng để luống uổng thì cũng có thể tiêu diệt được hắc nghiệp.

* Phàm gặp hết thảy cảnh vui mừng, sung sướng xảy tới thì nên biết những điều vui ấy là hư huyễn, chẳng thường hằng. Nhân lúc tốt đẹp ấy, hãy hồi quang niệm Phật, nương theo quang minh của Phật hòng thuận theo cảnh đó trừ khử ít nhiều ác niệm [để được] cát tường liên miên, tu hành như ý; thẳng đến khi lâm chung vãng sanh Cực Lạc, há chẳng phải là vui sướng lắm sao?

Phàm khi gặp hết thảy nghịch cảnh xảy tới thì đều coi chúng là những duyên mạnh mẽ mình phải đối diện, chẳng nên tái khởi ác niệm, chỉ thuận theo mà chịu đựng. Cái gì tránh được thì tránh, tiêu được cái gì thì tiêu, chỉ thuận theo nhân duyên, chớ quên niệm Phật. Ðược Phật quang gia hộ thì cảnh duyên sẽ xoay chuyển. Mỗi khi ác quả trong đời này hay đời trước thành tựu thì khổ báo ắt phải xảy đến. Vì vậy, khổ một phần chính là ác một phần; đừng phó mặc vận mạng rồi chẳng tu tập, chỉ nên thẹn mình chẳng sớm tu hành.

Mỗi khi nghĩ đến điều ấy, lông trên thân dựng cả lên, ngũ tạng tựa hồ rách toạc, bi thương phẫn uất, đau đớn chẳng muốn sống nữa. Ðược như vậy thì mỗi chữ đều từ gan, tủy tuôn ra; vậy mới là niệm Phật chơn chánh.

* Hễ thấy kẻ khổ não thì trước hết phải an thân họ, rồi mới chỉ dạy, khai phát tâm họ, khuyên họ niệm Phật. Nói cách khác: cứu khổ một lúc thì bố thí là cần kíp nhất, nhưng để cứu nỗi khổ bao kiếp thì niệm Phật là trọng yếu nhất.

Hoặc nếu thấy người hay vật mắc nạn, sức mình chẳng cứu nổi thì nên gấp rút vì họ niệm Phật để an ủi hồn thức của họ.

Hoặc trong đêm thanh, tụng chú lớn tiếng để thí cho quỷ thần. Phàm năm nào có cuộc chiến lớn, hay dịch bịnh to thì suốt năm canh trì tụng danh hiệu Phật để tiêu tan oán thù, dịch lệ.

Hãy nghĩ rằng một tiếng niệm A Di Ðà Phật của mình trên thì thấu tới trời Hữu Ðảnh, dưới suốt tột phong luân; chúng sanh nhiều trong các cõi nước nhiều như số bụi trần đều được lợi ích. Sự bố thí ấy chẳng thể nghĩ bàn được!

* Tiếng niệm Phật đã thuần thục, trong Lục Trần chỉ có Thanh Trần [mạnh mẽ nhất], công dụng của sáu căn toàn nhờ vào tai. Thân cũng chẳng tự nhận biết nó xoay chuyển như thế nào, lưỡi cũng chẳng tự nhận biết nó chạm, đụng ra sao, ý cũng chẳng tự nhận biết nó phân biệt thế nào, mũi chẳng tự biết nó hô hấp ra sao, mắt cũng chẳng tự biết nó nhắm mở ra sao. Hai thứ viên thông của ngài Quán Âm và Thế Chí chỉ là một. Căn tức là Trần, Trần tức là Căn. Căn hợp với Trần là Thức. Mười tám giới hòa tan thành một giới. Lúc mới thì chưa điều hòa được, lâu ngày sẽ tự nhập.

Phàm khi niệm Phật thì chọn chỗ đất sạch rộng chừng bốn năm thước, đi kinh hành xoay theo chiều phải một vòng, sau đó mới từ từ cất tiếng niệm, dần dần niệm lớn hơn.

Niệm như thế hết ba vòng xong, tự biết tiếng phát xuất từ tâm mình thấu suốt tâm linh, xoay chuyển khắp hư không, bao trùm trọn vẹn mười phương, trọn khắp pháp giới. Ðấy là an trụ thân, tâm và thế giới trong câu niệm Phật. Ðây là an trụ thân, tâm và thế giới trong câu niệm Phật để niệm Phật vậy. Ðây là một cảnh thù thắng để diệt trừ những cấu nhơ trong tâm, hãy nên siêng tu tập.

Tiếng là tiếng của tâm (tâm thanh), ánh sáng cũng là ánh sáng của tâm (tâm quang). Chỗ tâm thanh vang vọng cũng chính là chỗ tâm quang chiếu thấu. An trụ trong tâm thanh niệm Phật chính là an trụ trong quang minh niệm Phật. Ðây cũng là cảnh giới thù thắng có thể diệt được cấu nhơ trong tâm, hãy nên siêng tu tập.

Tâm thanh xoay chuyển, tâm quang chiếu rực, tâm thể tự nhiên hiển lộ. Một phiến chơn tâm này như bức gương tròn lớn, suốt tỏ không gì che lấp. Mười phương, ba đời, ta, Phật, chúng sanh, đời trược, chốn khổ, cõi tịnh, đài sen đều là hình ảnh in bóng trong gương. Thanh ở trong quang, quang lại phát xuất từ gương. Ðây là cảnh giới thù thắng nhất có thể vĩnh viễn diệt trừ được cấu nhơ trong tâm, càng phải nên lưu tâm tu tập.

* Chẳng tạp là Chỉ, Chỉ là cơ sở của Ðịnh vì tạp niệm dứt thì chánh niệm hiển hiện.

Tạp niệm có ba loại: một là thiện niệm, hai là ác niệm, ba là vô ký niệm (không thiện, không ác). Trừ sạch ba thứ ấy thì mới là chẳng tạp.

Tâm phải vắng lặng, có vắng lặng thì thiện niệm, ác niệm mới chẳng sanh. Tâm cần phải tỉnh thức, tỉnh thức thì vô ký niệm mới chẳng sanh.

Ngoài Phật không có niệm nên thường vắng lặng; trong niệm có Phật nên thường tỉnh thức.

Chẳng trụ là Quán. Quán là cốt lõi của Huệ. Một câu trước đã qua, một câu sau chưa tới, một câu hiện tại cũng chẳng trụ, phân minh rành rành nhưng bất khả đắc; tuy bất khả đắc nhưng phân minh rành rành.

Nếu khi niệm Phật chẳng hôn trầm, chẳng tán loạn thì Chỉ, Quán, Ðịnh, Huệ viên thành trong mỗi niệm.

Trì giới cấm của Phật để trị thân, trì danh hiệu Phật để trị tâm. Trì lâu ngày thì tâm thuần, trì lâu ngày thì tâm rỗng không; tánh của niệm và tánh của giới chẳng có hai vậy. Khư khư trì giới chẳng để sơ xảy, khắng khít niệm Phật thì lúc lâm chung sẽ đánh nát Quỷ Môn Quan, trốn khỏi tam giới. Nếu trì giới đến mức sâu dày thì đem [công đức ấy] hồi hướng Tây Phương, ắt sanh Trung Phẩm. Nếu chưa làm được như vậy thì hãy siêng niệm Phật như cứu đầu cháy.

Phải biết rằng người niệm Phật thì tâm kẻ ấy chính là tâm từ của Phật, hành bi hạnh của Phật, phát nguyện rộng lớn tế độ chúng sanh, vì khắp hết thảy các cấu nhiễm oán triền mà sám hối, hết thảy công đức dù nhỏ nhặt hay to lớn đều hồi hướng Tây Phương. Như vậy mới là chánh nhân của Niệm Phật vậy.

* Một việc vừa xong, một lời vừa dứt, còn chưa niệm Phật ngay mà bốn chữ danh hiệu Phật đã cuồn cuộn hiện ra thì đó là dấu hiệu tam muội dễ thành. Trì danh chẳng lười nhác, khoan khoái lại càng khoan khoái hơn. Lúc niệm Phật trì rành rẽ bốn chữ này, ý niệm chẳng chuyển. Bốn chữ bỗng nhiên tạm dừng, nhưng cũng chẳng có niệm nào nghĩ đến bốn chữ này, mà cũng chẳng có niệm nào rời khỏi bốn chữ này, cũng chẳng có niệm nào ra ngoài bốn chữ này. Như vậy, có thể nói là tạm đắc cảnh giới thù thắng, chứ chưa phải là chơn tâm rỗng không.

Nhưng cứ chăm chỉ niệm Phật thì cảnh ấy sẽ càng hiện, tâm dần dần trống không. Nếu như một niệm tâm trống không rồi dần dần hôn trầm thì là vô huệ.

Phải biết là tâm càng trống không thì niệm càng nhạy, tâm càng không thì niệm càng tịnh; vì ta ở trong tâm Phật niệm đức Phật trong tâm của ta, không với chẳng không còn ở chỗ nào đây? Giống như mặt trời và mặt trăng xoay chiếu thế gian; diệu giác viên minh hệt như thế ấy.

* Trong khi hoạn nạn mà phát tâm niệm Phật ắt sẽ có linh ứng lạ lùng. Tuy khắp nơi giặc giã, cả làng tật dịch mà cầu Phật gia hộ cho thì một người niệm, một người an, trăm người niệm, trăm người an. Không phải là Phật có lòng riêng tư, lúc nào ngài cũng ở trong ánh sáng bình đẳng, vô tâm ứng hiện. Vì cớ sao? Vì động niệm ra tiếng thì cảm được quang minh của Phật chiếu trên đỉnh đầu mình, tự nhiên niệm niệm đầy đủ, niệm niệm bền chắc, niệm niệm dài lâu, được quang minh của Phật gia bị, thiện thần ủng hộ, tự có thể lìa nạn. Chớ nên thay đổi niệm.

* Lúc lâm chung nếu có thể niệm lớn thì niệm lớn tiếng, chỉ có thể niệm nhỏ tiếng thì niệm nhỏ tiếng. Hoặc nếu như niệm lớn, niệm nhỏ cũng đều chẳng nổi thì hãy đem bốn chữ [Phật hiệu] thầm nhớ trong lòng, chớ để quên mất. Người hầu hạ chung quanh nên luôn luôn dùng bốn chữ ấy để nhắc nhở, cảnh tỉnh. Phải biết là trăm kiếp, ngàn đời ta bị lạc lối toàn là do lúc ấy chẳng giữ được một niệm phân minh. Vì sao vậy? Luân hồi sáu nẻo đều là do một niệm làm chủ. Nếu một niệm chuyên chú nơi Phật thì dù thân xác tan hoại, thần thức vẫn chẳng tán loạn, liền nương theo một niệm mà vãng sanh Tịnh Ðộ vậy!

Than ôi! Chỉ cốt phải nhớ bốn chữ A Di Ðà Phật đừng quên!

Nhận định:

Miệng niệm tai nghe, tâm niệm tâm nghe, thần thức niệm thần thức nghe chính là bí quyết niệm Phật gồm mười hai chữ của Ðại Sư.

Xin hãy thực hành tai nghe từ miệng niệm sao cho rành rẽ phân minh, chẳng tán loạn, chẳng hôn trầm thì đó là cảnh giới bất loạn. Tạm đạt được mức chí tâm niệm và nghe thì là đã thâu nhiếp sáu căn. Còn nếu đạt đến mức thần thức niệm thần thức nghe thì chẳng phải là Tịch đến cùng tột, Chiếu đến cùng tột hay sao?

Chỉ niệm bốn chữ vì dễ thành một phiến; nhưng ở chỗ bẩn thỉu và lúc đại tiểu tiện thì chỉ nên niệm thầm hoặc tâm niệm. Niệm ra tiếng là chẳng cung kính. Lúc đàn bà sanh nở nên niệm rõ ra tiếng vì niệm thầm thì do tâm lực ít nên cảm ứng cũng nhỏ, hoặc đến nỗi do nín hơi nên mắc bịnh vậy!

17. Trích yếu Ngữ Lục của đại sư Trác Tam Ðế Nhàn thời Dân Quốc

* Trì danh niệm Phật thì cần phải tin chơn thành, nguyện thiết tha, hạnh thuần thục. Trước hết phải buông bỏ những tư tưởng hồ đồ, lộn xộn, hết thảy tạp niệm, chỉ giữ chánh niệm, đem bốn chữ Phật hiệu hệ niệm trong tâm.

Chẳng cần phải niệm lớn tiếng một lúc lâu, chỉ e tổn thương nguyên khí đến nỗi bị đau họng. Nếu lúc bị hôn trầm, buồn ngủ thì nên niệm lớn tiếng để trừ hôn ám. Cũng chẳng nên niệm Phật nhỏ tiếng một thời gian dài, e dễ bị tán loạn, hôn trần, kẻo lo nghĩ lại nổi lên. Nếu lúc các ý nghĩ khởi lên thì tự biết tâm chẳng quy nhất, nên gom tâm về chánh niệm, niệm lầm thầm. Câu niệm từ miệng thoát ra, tai đón nghe lấy thì gọi là tai miệng truyền nhau, tự – tha chẳng cách trở.

Cách này dễ thực hành nhất, lại dễ thuần thục, lâu ngày thành Niệm Phật Tam Muội.

Nhận định:

Kinh Văn Thù Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã chép: “Như người học bắn, tập lâu ngày thành khéo. Sau này tuy vô tâm mà bắn ra phát nào cũng trúng”.

Xin hãy chỉ giữ chánh niệm, âm thầm mà niệm, lâu ngày thuần thục tự thành tam muội như tập bắn lâu ngày thành quen, dẫu vô tâm vẫn bắn trúng.

18. Trích yếu sách Văn Sao Chánh Tục Tam Biên đại sư Ấn Quang Thánh Lượng thời Dân Quốc

* Hữu tình phàm phu nghe nói pháp môn Tịnh Ðộ này thì hãy nên tin Sa Bà rất khổ, Tây Phương cực vui, phải tin rằng từ nhiều kiếp đến nay, ta nghiệp chướng sâu nặng, nếu chẳng nhờ vào Phật lực khó lòng xuất ly; phải tin hễ cầu vãng sanh thì đời này sẽ quyết định được vãng sanh, phải tin niệm Phật quyết định là được Phật từ bi nhiếp thọ.

Do tin như vậy, kiên định nhất tâm nguyện lìa Sa Bà như tù nhân muốn thoát khỏi lao ngục, không hề có tâm luyến tiếc. Nguyện sanh Tây Phương như lữ khách mong trở về cố hương, há có ý niệm chần chừ. Từ đấy, tùy phận, tùy sức chí tâm trì niệm thánh hiệu A Di Ðà Phật chẳng luận là nói năng, im lặng, động, tịnh, đi, đứng, nằm, ngồi, đón khách, tiễn khách, mặc áo, ăn cơm, chăm chắm sao cho Phật chẳng rời tâm, tâm chẳng rời Phật.

* Nếu niệm Phật mà tâm khó quy nhất thì nên nhiếp tâm niệm khẩn thiết sẽ tự có thể quy nhất. Cách để nhiếp tâm không có gì hơn được chí thành, khẩn thiết; tâm chẳng chí thành thì không cách chi nhiếp nổi!

Nếu đã chí thành mà chưa thuần nhất thì nên thường lắng tai nghe, chẳng luận là niệm ra tiếng hay niệm thầm đều phải là niệm phát xuất từ tâm, tiếng phát xuất từ miệng, âm nhập vào tai; tâm và miệng niệm sao cho rành rẽ rõ ràng, tai nghe sao cho rành rẽ, rõ ràng. Nhiếp tâm như thế thì vọng niệm tự dứt.

Nếu như sóng vọng niệm vẫn còn trào dâng thì dùng cách mười niệm nhớ số, dốc toàn bộ tâm lực vào trong từng câu Phật hiệu, tuy vọng niệm có muốn khởi cũng chẳng có sức. Ðây chính là diệu pháp rốt ráo để nhiếp tâm, càng làm thử càng thấy hiệu nghiệm.

Lúc niệm Phật thì từ một câu đến mười câu sao cho niệm được phân minh, ghi nhớ phân minh. Niệm mười câu xong lại từ một câu niệm đến mười câu, chẳng được niệm đến câu thứ mười hai hay mười ba. Niệm đến đâu, nhớ đến đấy; chẳng được dùng chuỗi để nhớ mà phải dụng tâm nhớ.

Nếu thấy niệm suốt mười câu là khó thì chia thành hai hơi: từ câu một đến câu năm và từ câu thứ sáu đến câu thứ mười.

Nếu vẫn chẳng đủ sức thì từ câu một niệm đến câu thứ ba, từ câu thứ tư niệm đến câu thứ sáu, từ câu thứ bảy niệm đến câu thứ mười, tức là ba hơi.

Niệm đến mức rõ ràng, ghi nhớ phân minh, nghe cho rõ ràng, vọng niệm không còn chỗ để bén chân thì nhất tâm bất loạn lâu ngày sẽ tự đạt được.

Nhưng lúc làm lụng nếu khó nhớ số thì cứ khẩn thiết mà niệm xuông. Làm xong việc, lại nhiếp tâm nhớ số thì cái tâm lông bông, lăng xăng sẽ tụ về chuyên chú nơi nhất cảnh Phật hiệu.

* Nhiếp tâm niệm Phật chắc chắn chẳng phải là chuyện dễ dàng, nhưng trong các pháp nhiếp tâm thì chỉ có mỗi cách xoay trở lại nghe tiếng niệm thật là bậc nhất.

* Pháp môn Bảo Vương nương theo hơi thở bao gồm cả Ngũ Ðình Tâm Quán. Nếu có thể niệm Phật theo hơi thở thì là đã tu kèm cả hai pháp quán Sổ Tức và Niệm Phật. Nhiếp tâm niệm Phật thì nhiễm tâm dần dần đoạn tuyệt, lòng nóng giận ắt chẳng còn bừng bừng nữa. Một khi hôn trầm, tán loạn đã hết thì trí huệ hiển hiện, cũng phá được ngu si. Ðấy lại là pháp môn “nhiếp trọn sáu căn” của đức Ðại Thế Chí.

Nay người niệm Phật lơi là thì có lẽ chẳng nên áp dụng cách này, sợ vì chẳng kể số nên sẽ trở thành lười nhác.

Còn người đã cam tâm niệm Phật, nếu chẳng tuân theo pháp này thì tam muội khó thành. Nếu là bậc lợi căn thì trong một thất hay hai thất, quyết sẽ đắc Nhất Tâm; còn như kẻ tối tăm, chậm lụt, tâm tưởng yếu kém, nông cạn thì phải tám năm, mười năm mới có thể chẳng loạn!

* Niệm Phật bằng cách truy đảnh dễ mắc bịnh. Niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, kim cang trì hay niệm thầm tùy theo tinh thần của mình mà vận dụng cho phù hợp; chớ nên chấp chết vào một cách để đến nỗi bị bệnh ư?

Niệm theo hơi thở chẳng bằng lặng lẽ lắng nghe vì nếu chẳng khéo niệm theo hơi thở sẽ bị bịnh, lặng lẽ lắng nghe chẳng bị mắc bịnh.

* Cảnh tướng của tam muội chỉ có chứng rồi mới hiểu rõ nổi. Nếu bàn đến pháp ấy thì ngay trong lúc niệm Phật, ngay mỗi niệm xoay trở lại quán sát chuyên chú vào một cảnh, chẳng rong ruổi ra ngoài cảnh, niệm niệm soi thấu nguồn tâm; tâm tâm khế hợp Phật thể. Niệm trở lại cái niệm của chính mình, quán ngược lại cái quán của mình. Vừa niệm liền quán, vừa quán liền niệm; cốt sao toàn niệm là quán, ngoài niệm không quán, ngoài quán không niệm.

Tuy quán và niệm đã hòa hợp như nước với sữa nhưng chưa thấu đáo nguồn cội, cần phải hướng đến một niệm Nam Mô A Di Ðà Phật bao lượt suy xét đến tột cùng, khắng khít gạn lọc, càng suy xét càng thiết tha, càng gạn lọc càng thân thiết, cho đến lúc tận lực công thuần, đột ngột ý niệm rơi mất, chứng nhập cảnh giới “vô niệm, vô bất niệm”.

Câu nói: “Linh quang độc diệu, thoát khỏi căn trần, thể lộ chơn thường, chẳng nệ văn tự, tâm tánh vô nhiễm, vốn tự viên thành, chỉ lìa vọng niệm tức Như như Phật” đã diễn tả cảnh giới ấy. Công phu đến bực ấy thì chứng đắc pháp Niệm Phật, cảm ứng đạo giao, thật khéo ra sức. [Người ấy] hiện tại còn chưa ra khỏi Sa Bà nhưng đã thường ở sẵn trong Hải Hội. Lâm chung vượt ngay lên Thượng Phẩm, đốn chứng Phật thừa.

* Niệm Phật thì đừng nên dùng pháp quán tâm mà hãy dùng pháp nhiếp tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Ðại Thế Chí dạy: “Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc tam ma địa; ấy là bậc nhất”.

Lúc niệm Phật, cái niệm trong tâm (ý căn) cần phải rõ ràng, phân minh, câu niệm nơi miệng (thiệt căn) phải phân minh, rõ ràng; tai (nhĩ căn) phải nghe sao cho rõ ràng, phân minh. Ba căn: tai, miệng, lưỡi, căn nào cũng dốc hết vào câu Phật hiệu thì mắt chẳng thể lườm Ðông, nguýt Tây, mũi chẳng thể ngửi các mùi hương khác, thân chẳng thể lười biếng, giải đãi. Ðấy là “nhiếp cả sáu căn”.

Nhiếp cả sáu căn thì dù chưa thể hoàn toàn hết vọng niệm nhưng so với kẻ chẳng nhiếp sáu căn thì tâm thanh tịnh hơn rất nhiều. Vì thế gọi là “tịnh niệm”. Nếu có thể giữ cho tịnh niệm thường liên tục, chẳng có lúc gián đoạn thì tâm sẽ tự có thể quy về một chỗ, cạn thì đắc Nhất Tâm, sâu thì đắc tam muội. Nếu thật có thể nhiếp cả sáu căn mà niệm thì nghiệp chướng quyết định tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, chẳng cần phải quán tâm mà tâm tự thanh tịnh, minh bạch, đâu lại đến nỗi mắc phải căn bịnh tâm hỏa nóng nảy?

Quán tâm là cách tu quán căn bản của bên Giáo, chẳng thích hợp với căn cơ người niệm Phật. “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” mới là pháp thâm diệu thích hợp với hết thảy các căn cơ: thượng, trung, hạ, hoặc thánh hoặc phàm.

Cần phải biết là việc “nhiếp trọn” đó chuyên chú nơi cái nghe, tức là niệm thầm trong tâm cũng phải nghe vì trong tâm khởi niệm là đã có thanh tướng. Tự tai mình nghe tiếng của chính tâm mình, nhưng phải sao cho rành rẽ, rõ ràng, sao cho thật sự nghe được từng chữ, từng câu rõ ràng thì lục căn mới quy về một chỗ.

So với tu những các pháp quán khác thì cách tu này ổn thỏa, thích đáng nhất, ít tốn sức nhất nhưng lại khế lý, khế cơ nhất.

* Tuy niệm Phật quý ở chỗ tâm niệm, nhưng chẳng thể bỏ miệng tụng vì ba thứ: thân, khẩu, ý hỗ trợ nhau. Nếu tâm có thể ức niệm, nhưng thân chẳng lễ kính, miệng chẳng trì tụng thì cũng khó được lợi ích. Vì thế, kinh Ðại Tập có dạy: “Ðại niệm thấy đại Phật, tiểu niệm thấy tiểu Phật”. Cổ đức bảo niệm Phật lớn tiếng thấy thân Phật lớn, niệm nhỏ tiếng thấy thân Phật nhỏ!

Phàm phu đầy dẫy triền phược tâm lắm hôn trầm, tán loạn, nếu chẳng nhờ vào sức lễ, tụng của thân, miệng mà muốn đắc Nhất Tâm thì không có cách nào được!

* Pháp môn Niệm Phật chú trọng Tín, Nguyện. Có Tín, Nguyện thì dù chưa được Nhất Tâm vẫn được vãng sanh. Dù đắc Nhất Tâm, nhưng thiếu Tín, Nguyện thì cũng chẳng được vãng sanh!

Người đời hay chú trọng vào Nhất Tâm, chẳng đặt nặng Tín, Nguyện. Ðã bỏ mất điều trọng yếu, lúc sống lại chẳng đạt Nhất Tâm, sợ rằng bị trở ngại, chẳng được vãng sanh toàn là vì trái nghịch với điều kiện: tin chơn thành, nguyện thiết tha vậy. Do vậy, càng phải tăng thêm tín nguyện để đạt Nhất Tâm thì mới là suy nghĩ đúng lối.

Nếu vì chẳng đạt được Nhất Tâm nên thường cứ nghĩ mình chẳng thể vãng sanh thì sẽ thành ra ý nghĩ bại hoại. Chẳng thể chẳng biết điều này!

* Niệm Phật cốt yếu là để thoát sanh tử, mà đã vì sanh tử thì nên tự sanh tâm nhàm chán nỗi khổ sanh tử, tự sanh tâm ưa thích sự vui nơi Tây Phương. Có như thế thì hai pháp Tín và Nguyện thường được trọn vẹn.

Lại thêm chí thành, khẩn thiết như con nhớ mẹ thì ba pháp: Phật lực, Pháp lực, tự tâm tín nguyện công đức lực hiển hiện trọn vẹn như mặt trời rực rỡ trên không, dù có sương dày, băng đóng tầng tầng thì cũng chẳng bao lâu sẽ biến mất ngay!

* Muốn tâm chẳng tham sự việc bên ngoài chỉ chuyên niệm Phật, người chẳng chuyên muốn cho được chuyên, người chẳng thể niệm muốn cho niệm được, người chưa được nhất tâm muốn họ đắc nhất tâm v.v… cũng chẳng có cách nào áo diệu, lạ lùng, đặc biệt chi cả! Cứ lấy một chữ Chết dán chặt lên trán, cho phủ xuống tận lông mày, tâm thường niệm rằng:

“Tôi tên là… từ vô thỉ cho đến đời hiện tại này đã tạo ác nghiệp vô lượng, vô biên. Giả sử ác nghiệp mà có thể tướng thì mười phương hư không chẳng chứa đựng hết được. Ðời trước có may mắn chi mà nay được thân người, lại được nghe Phật pháp. Nếu chẳng nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì khi một hơi thở không hít vào được nữa, quyết định sẽ phải thọ khổ nơi vạc sôi, lò than, rừng gươm, núi đao nơi địa ngục. Dù thoát được địa ngục, lại đọa trong ngã quỷ, súc sanh. Dù được làm người thì ngu si tạo nghiệp nên lại đọa lạc, trải qua kiếp số nhiều như vi trần luân hồi sáu nẻo, dù muốn xuất ly vẫn chẳng thể được”.

Niệm được như thế, cầu được như trên thì ngay khi đó sẽ tu tập. Vì thế trong kinh nhắc đi, nhắc lại: “Nghĩ khổ địa ngục, phát Bồ Ðề tâm”. Ðấy chính là điều khai thị tối thiết yếu của đấng Ðại Giác Thế Tôn.

Lúc niệm Phật phải thường nghĩ đến lúc chết phải đọa địa ngục thì chẳng khẩn thiết cũng sẽ tự khẩn thiết, chẳng tương ứng cũng tự tương ứng. Dùng cái tâm sợ khổ để niệm Phật chính là pháp mầu bậc nhất để thoát khổ, đó cũng là pháp mầu tùy duyên tiêu nghiệp bậc nhất.

* Người niệm Phật chẳng được lạm tu cách tham cứu của nhà Thiền vì tham cứu hoàn toàn chẳng chú trọng đến tín, nguyện cầu sanh. Dù có niệm Phật cũng chỉ chú trọng khán câu “người niệm Phật là ai?” để cầu khai ngộ mà thôi!

Nếu khai ngộ mà hoặc nghiệp đã hết sạch thì có thể liễu sanh thoát tử; còn nếu hoặc nghiệp chưa tận thì chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh tử.

Lại vì không có tín nguyện nên chẳng thể nương vào Phật lực để liễu sanh tử. Cả tự lực lẫn Phật lực đều chẳng nhờ cậy được thì muốn thoát luân hồi có được hay chăng?

* Người niệm Phật chẳng được bắt chước kẻ ngu làm các “Phật sự” như: đốt hình nhân thế mạng, gởi tiền kho [Âm Phủ] v.v… vì: hình nhân thế mạng chẳng phát xuất tự kinh Phật mà do người đời sau ngụy tạo; gởi tiền kho là nguyện sau khi chết làm quỷ, trữ sẵn làm của tiêu dùng trong Quỷ đạo. Ðã có ý nguyện làm quỷ thì khó vãng sanh.

Nếu trót đã làm thế, hãy nên bẩm rõ với Phật: “Ðệ tử tên là… cầu vãng sanh, trước đây đã gởi tiền kho để tiêu xài trong cõi âm. Nay xin chẩn tế hết cho cô hồn” thì mới chẳng chướng ngại việc vãng sanh.

* Người niệm Phật nên ăn chay trường. Nếu như chẳng ăn nổi thì nên giữ sáu ngày chay, hoặc mười ngày chay. Mồng tám, mười bốn, mười lăm, hăm ba, hăm chín, ba mươi là sáu ngày chay. Thêm vào đó ngày mùng một, mười tám, hăm bốn, hăm tám là thành mười ngày chay. Gặp tháng thiếu thì ăn lên ngày hôm trước.

Lại trong ba tháng chay là tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín nên ăn chay trường, tạo các công đức, giảm dần dần cho đến hoàn toàn vĩnh viễn đoạn ác thì mới hợp lý. Dẫu còn ăn mặn nhưng nên mua thịt làm sẵn, kiêng hẳn sát sanh trong nhà.

* Niệm Phật cần nhất phải tận hết sức mình giữ đạo đức, ngăn tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, giữ tấm lòng lành, nói lời lành, làm việc tốt: việc gì mình làm được thì nhận biết đúng đắn mà làm; việc gì làm không nổi thì cũng nên phát thiện tâm hoặc khuyên người có khả năng hãy làm. Hoặc là thấy ai làm được thì sanh lòng hoan hỷ, thốt lời khen ngợi thì cũng thuộc về công đức nơi tâm và miệng.

Nếu tự mình chẳng làm nổi, thấy người khác làm được lại sanh lòng đố kỵ thì thành ra tâm hạnh của kẻ tiểu nhân gian ác, quyết bị giảm phước, tổn thọ, chẳng có kết quả tốt. Hãy nên thống thiết dè chừng!

* Người niệm Phật cần phải hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp. Lại cần phải cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tôi tớ trung thành, dốc trọn phận mình. Chẳng cần biết là người khác đối xử với mình có hết lòng hay không, ta cứ luôn tận hết sức mình, tận sức tận tâm đối với gia đình và xã hội. Như vậy gọi là thiện nhân. Thiện nhân niệm Phật cầu sanh Tây Phương, nhất định khi lâm chung liền được vãng sanh vì tâm người ấy tương hợp tâm Phật nên cảm Phật từ tiếp dẫn.

Lại phải nên khuyên cha mẹ, anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, xóm giềng, bạn bè đều thường niệm Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi ngày niệm một vạn câu Phật, rồi niệm năm ngàn câu Quán Âm. Niệm nhiều ít cứ chiếu theo đó mà gia giảm). Ðó là vì việc này có lợi ích rất lớn, nỡ nào để người sanh ra ta cùng quyến thuộc, thân hữu của ta chẳng được hưởng lợi ích này hay sao?

Vả lại, khuyên người khác niệm Phật cầu sanh Tây Phương chính là thành tựu phàm phu thành Phật, công đức rất lớn. Ðem công đức ấy hồi hướng vãng sanh ắt sẽ mãn nguyện. Hễ tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối và cứu nạn, giúp nghèo, làm các thứ công đức thì đều nên hồi hướng vãng sanh Tây Phương, tuyệt đối chẳng được cầu hưởng phước báo đời sau trong đường trời, người. Hễ có tâm ấy thì chẳng có phần vãng sanh.

Nếu sanh tử chưa hết thì phước càng lớn nghiệp càng to, thêm một đời nữa khó tránh khỏi đọa trong ba ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, muốn lại được thân người, lại gặp pháp môn Tịnh Ðộ hòng thoát sanh tử thật khó như lên trời vậy!

* Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện sâu rộng, theo tiếng kêu mà cứu khổ. Nếu gặp phải các tai nạn: đao binh, nước lửa, đói kém, nạn châu chấu – sâu rầy, ôn dịch, hạn hán, lụt lội, giặc cướp, oan gia, ác thú, độc xà, ác quỷ, yêu quái, bịnh tật do oán nghiệp, tiểu nhân hãm hại v.v… mà nếu có thể sửa lỗi làm lành, sanh tâm lợi mình, lợi người, chí thành khẩn thiết niệm Quán Thế Âm, niệm niệm chẳng gián đoạn quyết sẽ được ngài từ bi che chở, chẳng có nguy hiểm, tai ách gì nữa!

Nhưng nếu vẫn giữ tâm bất thiện, dù có xưng niệm thì chẳng qua chỉ tạm gieo căn lành trong đời sau, chẳng được cảm ứng ngay trong hiện thời vì Phật, Bồ Tát đều thành tựu cho thiện niệm của con người, chứ tuyệt đối chẳng thành tựu cho người ác niệm. Nếu mơ tưởng niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát để thành tựu ác sự cho mình thì nhất định chẳng được cảm ứng, chớ có sanh tâm điên đảo như thế!

* Chỉ nên chơn thật, thiết tha niệm Phật để tự nương vào từ lực của Phật thoát khỏi binh đao, nước, lửa là những thứ do túc nghiệp tạo thành, cũng như chuyển báo nặng địa ngục trở thành báo nhẹ trong đời này. Gặp phải những tai nạn ấy thì thường ngày đã có lòng tin chơn thật, nguyện thiết tha, quyết định sẽ được Phật tiếp dẫn trong lúc ấy.

* Trong lúc có kinh nguyệt, nữ nhân có thể giảm bớt lễ bái, còn thì cứ niệm Phật, tụng kinh đúng như thường lệ. Phải nên thường thay, giặt vải dơ. Nếu tay chạm phải vải dơ thì nên rửa tay sạch, chớ dùng tay dơ lật kinh, thắp hương.

Lúc sanh nở tuy trần truồng, bất tịnh nhưng là vì không còn cách nào khác, chứ chẳng phải tự ý buông tuồng đến nỗi ấy; nếu có thể chí thành, khẩn thiết niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát ra tiếng rõ ràng thì chẳng bị đau đớn, sanh khó cũng như bị băng huyết sau khi sanh, đứa con bị các chứng kinh phong v.v… Dẫu cho khó sanh cùng cực, người đã sắp chết, bèn dạy sản phụ ấy cùng những người săn sóc chung quanh cùng cất tiếng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Người nhà tuy ở phòng khác vẫn có thể niệm giúp, quyết định chẳng đến một khắc công phu liền được sanh nở bình an. Không những chỉ không có tội lỗi gì mà còn khiến cả mẹ lẫn con gieo đại thiện căn.

Nhưng không được niệm thầm trong tâm vì niệm thầm tâm lực nhỏ nhoi cho nên cảm ứng cũng nhỏ. Hơn nữa, lúc ấy cần phải dùng sức để rặn đứa bé ra, nếu niệm thầm thì rất có thể do vì nín hơi nên sẽ mắc bịnh.

* Một câu Phật hiệu miên miên mật mật thường luôn ức niệm. Hễ khi nào giận dữ, dâm dục, hiếu thắng, gắt gỏng v.v… vừa mới nhen nhúm thì hãy liền nghĩ rằng: “Ta là người niệm Phật, lẽ nào lại có phát khởi ý niệm này?” thì niệm vừa khởi lên liền dứt.

Tập lâu ngày thì hết thảy những ý niệm khiến nhọc lòng tổn xác đều không có cách chi phát khởi được; trọn ngày được công đức bất khả tư nghị của Phật gia trì thân tâm, tôi dám bảo đảm là chẳng cần đến mười ngày đã thấy hiệu nghiệm lớn.

Nếu chỉ tình cờ niệm một hai câu mà muốn thấy ngay kết quả thì là dối mình, lừa người, tuy có công đức nhưng muốn do đó mà lành bịnh thì quyết chẳng thể được!

* Niệm Phật ắt phải chí thành, nếu như có lúc trong tâm chợt sanh đau xót thì đó là dấu hiệu thiện căn phát hiện, nhưng chớ có nên thường như thế, nếu không ắt sẽ bị loài ma đau thương dựa. Hễ có chuyện gì thích ý chẳng được hoan hỷ quá mức, nếu không sẽ bị loài ma hoan hỷ dựa.

Lúc niệm Phật mắt nên nhìn xuống, tinh thần chẳng nên căng thẳng quá mức khiến cho tâm hỏa bốc lên, rất có thể sẽ bị các bịnh vặt như đỉnh đầu nổi mụn nhọt, đau nhức v.v…

Nên giữ sao cho ở mức vừa phải, lúc niệm lớn tiếng chớ nên quá sức kẻo mắc bịnh. Lần chuỗi niệm ngừa được tật lười biếng, nhưng lúc tịnh tọa chẳng được lần chuỗi, vì lần chuỗi thì ngón tay động nên tâm chẳng định, lâu ngày ắt sẽ bị bịnh.

Lúc nằm chỉ nên niệm thầm bốn chữ để tránh nhiều chữ khó niệm. Nếu niệm ra tiếng thì một là chẳng cung kính, hai là dễ bị tổn khí.

* Niệm Phật nhắm mắt dễ bị hôn trầm. Nếu chẳng khéo dụng tâm, hoặc có lúc gặp cảnh ma: Niệm Phật mà trên đầu thấy có vật xoa vỗ hoặc lôi kéo v.v… Ðấy là do lúc niệm Phật, sóng tâm tưởng hướng lên trên quá đến nỗi tâm hỏa bốc lên.

Nếu sụp mí mắt xuống, hướng tâm nghĩ xuống dưới thì tâm liền chìm xuống chẳng còn bồng bềnh nữa, tâm hỏa chẳng bốc lên, căn bệnh ấy liền bị tiêu diệt.

Chớ lầm tưởng đấy là công phu chứng đắc, cũng đừng sợ là ma cảnh. Chỉ chí thành nhiếp tâm mà niệm và tưởng thân mình đang ngồi hoặc đứng trên hoa sen, nhất tâm tưởng nơi hoa sen mình đang ngồi thì tướng đó sẽ tự mau hết. Nếu chẳng dám tưởng mình đang đứng hay ngồi trên hoa sen vì sợ gặp phải ma sự thì chỉ tưởng ngọn lửa tâm hỏa nằm ở dưới bàn chân thì tâm hỏa sẽ chẳng thể sanh được nữa.

* Thấy Phật chẳng phải dễ dàng, trước khi đạt được Nhất Tâm, tuyệt đối chẳng được manh nha ý niệm thấy Phật. Ðã đạt được Nhất Tâm thì tâm hợp với Ðạo, tâm hợp với Phật, muốn thấy liền được thấy ngay, chẳng thấy cũng trọn chẳng trở ngại gì.

Nếu muốn gấp thấy Phật, tâm niệm rối bời, ý niệm muốn thấy Phật đóng cứng trong bụng dạ biến thành một căn bịnh lớn trong việc tu hành. Lâu ngày, oan gia nhiều kiếp thừa cơ nương theo tình ý vọng động ấy hiện thành thân Phật để báo oán xưa. Tâm mình không có chánh kiến, toàn thể đều thuộc về ma; một phen trông thấy liền sanh mừng rỡ. Bởi đó, ma nhập trong tim ruột, bị ma dựa phát cuồng, dẫu có đức Phật sống cũng chẳng biết làm cách nào được! Chỉ nên nhất tâm, cần gì phải so đo là thấy Phật hay không thấy Phật cơ chứ? Sau khi đạt Nhất Tâm, chẳng tự biết được lòng mình hay sao? Chẳng thấy Phật thì càng nên tăng tấn công phu; được thấy Phật thì càng nên lắng tâm chuyên tu thì trọn chẳng bị mắc lỗi lầm lạc, lại chỉ có cái lợi tăng tấn thù thắng.

* Ðóng cửa Phương Tiện, cự tuyệt các sự duyên không cấp bách thì rất có ích. Khi bế quan dụng công nên lấy việc chuyên chú, tinh thuần chẳng hai làm chính. Nếu tâm thật sự được chuyên nhất thì tự sẽ có sự cảm thông chẳng thể nghĩ bàn. Có cảm thông thì tâm càng lại càng tinh thuần, chuyên nhất. Nói cách khác: gương sáng đặt trên đài, gặp hình liền hiện bóng, tự các hình bóng ấy lăng xăng, ăn nhằm gì đến ta?

Lúc tâm chưa chuyên nhất, trọn chẳng nên dùng tâm tháo động, vọng tưởng để cầu cảm thông vì cái tâm cầu được cảm thông ấy lại là đại chướng cho việc tu đạo. Hơn nữa, vì tâm ấy tháo động, vọng tưởng mong ngóng hướng ra ngoài rất có thể khiến cho ma sự khởi lên phá hoại tịnh tâm.

* Gần đây, người tu hành hay bị ma dựa đều là do tâm tháo động, vọng tưởng cầu đạt cảnh giới thù thắng. Ðừng nói là cảnh ma, dù thật sự là thắng cảnh đi nữa nhưng nếu cả một đời tâm cứ tham chấp, hoan hỷ thì sẽ bị tổn hại, chẳng được lợi ích, huống hồ cảnh ấy chưa chắc đã là thắng cảnh ư?

Nếu như người ấy có công năng hàm dưỡng, không có tâm tháo động, vọng niệm, thấy các cảnh giới cũng hệt như chẳng thấy, chẳng sanh hoan hỷ, tham nhìn, hoảng sợ, kinh nghi thì đừng nói là thắng cảnh hiện đã có ích mà dù ma cảnh hiện cũng vẫn có ích. Vì sao vậy? Chẳng bị ma chuyển thì liền có thể tăng tấn hướng thượng vậy.

* Bóng đen chẳng phải là hình bóng của Phật, Bồ Tát, mà cũng chẳng phải hình bóng của oan gia đối đầu hiển hiện. Vì nếu Phật, Bồ Tát hiện ra thì sẽ thấy được mặt, mắt… rõ ràng; oán gia sẽ hiện tướng đáng sợ. Tướng bóng đen ấy chính là cô hồn có duyên với mình trong đời trước mong nhờ sức niệm Phật, tụng kinh được sanh vào đường lành.

Khi hồi hướng sau khóa tụng hãy nên chuyên vì họ hồi hướng để họ được tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn, vãng sanh Tây Phương khiến họ được lợi ích, chẳng uổng công họ đã một phen khổ sở hiện hình.

* Con người trong những đời trước có nghiệp nào là chẳng tạo. May được nghe Phật pháp thì hãy nên nhận chân tu trì, mới mong tiêu trừ túc nghiệp, siêu độ oan gia. Nếu [oan gia] khó bề tháo gỡ thì hãy nên phát Bồ Ðề tâm và thành tâm siêu độ thì không chi là chẳng giải oán kết được!

Niệm Phật mà nghẹn hơi thì chẳng phải là do thể chất yếu đuối mà chính là vì nghiệp chướng khiến ra như vậy, hãy nên khẩn thiết, chí thành niệm. Nếu như niệm chẳng ra thì trong tâm hãy nên thường tưởng nhớ; khi nào niệm được thì bèn dùng miệng niệm; khi nào niệm không được thì tâm nghĩ đến, tâm nhớ đến. Lâu ngày nghiệp ấy sẽ tiêu.

Từ đây về sau làm gì nên lưu tâm, phải ăn ở cho có hậu. Ăn ở có hậu thì được phước, bạc bẽo sẽ chẳng được phước. Nếu lại còn khắc nghiệt, hiểm độc, gian xảo hơn thì khác nào như đảnh núi cao vót trơ trọi, mưa dầm cách nào cũng chẳng thấm thì cây cỏ làm sao sanh trưởng được!

Nhận định:

Ðại Sư là vị Tổ đời thứ mười ba của Liên Tông, ngài minh thị: đừng dùng cách niệm Phật bằng quán tâm mà hãy dùng pháp niệm nhiếp tâm. Chỉ có xoay trở lại nghe là pháp nhiếp tâm tốt nhất. Một chữ, một câu chẳng để luống qua, lâu dần chẳng thối thất, tự được Nhất Tâm. Tin sâu, nguyện thiết, tận lực mà hành.

19. Trích yếu Pháp Vựng của đại sư Từ Châu Phổ Hải thời Dân Quốc

* Phật có đại trí, biết cơ, biết căn. Chết lòng niệm Phật thì trong bảy ngày là không có ai chẳng đạt Nhất Tâm Bất Loạn. Chẳng chịu chết lòng niệm Phật thì chẳng thể thành tựu được. Tâm vốn hoạt bát, linh thông sao lại bảo là “chết?” Là vì đem cái tâm nghĩ tưởng nhân tình ân ái, thị phi, danh lợi đổi lấy tâm niệm Phật. Cổ nhân từng bảo:

“Ðánh chết được vọng tưởng,
Cứu được Pháp Thân sống”.

Ví như kẻ làm giặc, cái tâm làm giặc đã chết rồi, một dạ làm người đàng hoàng. Nếu tâm thật sự chết rồi thì còn ai niệm Phật? Mong muốn niệm đến mức Nhất Tâm Bất Loạn thì lại phải nhất tâm bất loạn mà niệm.

* Niệm Phật cần phải dụng công thiết thực, niệm đến mức không có năng niệm lẫn sở niệm, cũng không có thân, tâm, thế giới, niệm chính là vô niệm. Tạp niệm một phen khởi lên liền thành chướng ngại. Há có phải là sáng niệm dăm câu, tối niệm vài câu là có thể niệm được thành hay sao? Cái niệm để niệm Phật đó phải giống như chổi sắt quét sạch hết thảy tạp niệm.

Tạp niệm dẫu nhiều nhưng chẳng ngoài: tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v… Dùng chổi sắt quét thô niệm xong rồi quét tế niệm. Dù chẳng thể quét sạch hết trong một lúc nhưng cũng giảm ít, lo quét sao cho hết thì mới thấy thái bình.

Cần phải tự mình xét nghiệm minh bạch coi mình niệm Phật mà đã có thể hay chưa thể quét sạch ân ái trói chằng, lôi kéo. Nếu quét chưa hết thì cần phải sanh lòng hổ thẹn lớn. Ðấy là nói: tin phải chơn thật, nguyện phải thiết tha, hạnh phải là thật hạnh thì mới đúng là dụng công chơn thật.

Nhận định:

Chữ “chết” trong câu “chết lòng niệm Phật” (tử tâm niệm Phật) tuyệt diệu nhất. Vọng tâm: tài, sắc, danh, ăn uống v.v… chưa chết thì làm sao đạt được nhất tâm bất loạn đây?

20. Trích yếu Pháp Vựng của đại sư Thao Quang Viên Anh thời Dân Quốc

* Một câu Phật danh trọn đủ các thần lực chẳng thể nghĩ bàn, trị được hết thảy tâm bịnh phiền não. Mỗi khi nghịch cảnh xảy tới, tâm sanh phiền não, hãy liền kinh hành niệm Phật, cứ bốn bước là một câu Phật hiệu, giáp vòng như thế. Niệm được mấy vòng thì sẽ dần dần thấy cõi lòng thanh lương, nhiệt não tự biến mất.

Có lúc lắm việc tâm bị khuấy động, đêm đã khuya vẫn chẳng ngủ được thì cũng nên chuyên xưng Phật hiệu, chừng khoảng chốc lát thân tâm an định sẽ ngủ được, không có các mộng tưởng.

Lúc đang chép kinh thì mỗi một nét bút là một câu Phật hiệu, tinh thần chẳng tán loạn, vọng niệm chẳng khởi, viết lâu cũng chẳng thấy khổ sở.

Nếu thật sự tin được một pháp Niệm Phật này, chuyên tâm xưng niệm chẳng hề gián đoạn, niệm đến mức tâm không, cảnh lặng thì phiền não không có cách nào phát sanh được!

* Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhiếp tâm là Giới”, Niệm Phật chính là pháp để nhiếp tâm vì lấy chánh niệm của việc niệm Phật để ngưng dứt các vọng niệm vin nắm. Nếu như dùng cái tâm thường vin nắm các duyên sắc trần để chuyên niệm A Di Ðà Phật, tịnh niệm tiếp nối thì sẽ tự chẳng bị sắc trần xoay chuyển, nhiếp quy về chánh niệm niệm Phật. Các duyên vin nắm theo thanh trần, hương trần v.v… đối với mỗi duyên đều giống như thế thì chẳng đến nỗi tự mình phá giới, làm ác!

Niệm Phật đến mức niệm nào cũng tương ứng với Phật thì lẽ đương nhiên các niệm chẳng khởi, liền có thể thanh tịnh ý nghiệp, tự nhiên đầy đủ các giới. Hai nghiệp thân, khẩu cũng đều do ý nghiệp phát khởi. Ý nghiệp chẳng nghĩ đến giết, trộm, dâm, chẳng tưởng đến nói dối, nói thêu dệt, nói ác, nói đôi chiều thì thân nghiệp, khẩu nghiệp chẳng phạm giới. Vì thế Niệm Phật là pháp môn thanh tịnh các nghiệp; một câu danh hiệu Phật thanh tịnh cả ba nghiệp. Ðiều này chứng tỏ một cách rõ ràng rằng Niệm Phật có đủ cả Giới Học.

Nhận định:

Niệm Phật thanh tịnh được cả ba nghiệp, trị hết thảy tâm bịnh phiền não. Xin hãy nhiếp tâm chuyên niệm, niệm đến mức tâm không cảnh lặng; phiền não, nghiệp chướng sẽ tự nhiên tiêu trừ.

21. Trích yếu các sách Pháp Vựng và Niên Phổ về đại sư Hư Vân Ðức Thanh Cổ Nham thời Dân Quốc

* Hết thảy các pháp môn: Tham Thiền, Niệm Phật, Trì Chú v.v… đều để dạy chúng sanh phá trừ vọng niệm, hiển lộ bổn tâm của chính mình. Phật pháp không có cao, thấp; nhưng căn cơ có lợi, độn. Trong các pháp môn ấy, pháp Niệm Phật thật là phương tiện ổn thỏa, thích đáng nhất.

Tịnh tọa là phương pháp phương tiện dạy người xoay trở lại quán sát tự tánh, cốt yếu là hệ niệm một câu Phật hiệu (hoặc A Di Ðà Phật, hoặc Quán Thế Âm Bồ Tát đều được). Tâm tâm khế hợp, niệm niệm tiếp nối, phát xuất từ nơi tâm, lọt vào tai chẳng để gián đoạn. Nếu thật có thể làm được như thế thì không còn có các tạp duyên khác xâm nhập được nữa.

Nếu có thể thực hành như vậy lâu ngày chẳng lui sụt, càng siêng, càng chuyên, càng trì càng thiết tha, chẳng phân biệt là đi, đứng, nằm, ngồi, thức, ngủ, động, tịnh, rảnh, bận thì sẽ thẳng bước về nhà, vĩnh viễn sanh trong An Dưỡng. Vừa biết có chút cảnh để chứng minh chắc chắn là mình đã quán triệt liền sanh tâm động niệm, chấp trước vào đó thì chẳng thể tiến bộ nổi!

Nếu tịnh tọa đúng pháp sẽ có thể điều hòa cả tứ đại. Muốn được khỏe mạnh thì phải giữ cho tự nhiên: thân thể có bịnh hãy nên điều dưỡng thích đáng, chẳng miễn cưỡng chống chọi; dụng công tu hành chẳng câu nệ vào đi, đứng, nằm, ngồi. Mục đích của tịnh tọa tu hành phải là nhằm giải thoát sanh tử.

Ăn mặn, giết chóc, tổn hại sanh vật rất trái nghịch với tông chỉ từ bi khiến cho người ta trí tối tăm, tinh thần hôn ám, tăng trưởng tham, sân, dâm dục, tăng thêm vô biên sanh tử, thân sau nghiệp chất như núi, oan oán đòi nợ có ngày nào xong. Bình thủng chứa dầu, nhọc nhằn tinh thần. Kẻ trí hãy nên tự suy xét đó!

* Người mới phát tâm thấy Tham Thiền và Niệm Phật là hai chuyện, nhưng người tu tập lâu chỉ thấy chúng là một.

Tham Thiền đề khởi một câu thoại đầu, cắt ngang dòng sanh tử, là phát xuất từ tín tâm kiên định. Nếu chẳng nắm chắc câu thoại đầu thì dù có tham Thiền cũng chẳng thành. Nếu tín tâm kiên định, ôm chết một câu thoại đầu mà tham cho đến lúc chẳng còn biết trà là trà, chẳng biết cơm là cơm nữa, công phu đã thuần thục, căn, trần rơi rụng, đại dụng hiện tiền, giống hệt như tịnh cảnh hiện tiền của người niệm Phật đã đạt đến mức thuần thục. Ðạt đến cảnh giới ấy, lý sự viên dung, tâm – Phật bất nhị, Phật như, chúng sanh như, nhất như, vô nhị như thì còn sai biệt ở đâu nữa?

Nhận định:

Ðại Sư là bậc Thái Sơn, Bắc Ðẩu đương đại của nhà Thiền, đã tự chứng công phu tham thiền đến chỗ thuần thục, đại dụng hiện tiền, chẳng khác gì tịnh cảnh hiện tiền của người niệm Phật thuần thục. Xin hãy liền ôm chết một câu Phật hiệu mà niệm, chẳng cần phải Thiền Tịnh Song Tu!

22. Trích yếu Di Trứ của đại sư Trí Quang Văn Giác thời Dân Quốc

* Lúc sống có ba điều quan trọng nhất:

1. Một là thuyết pháp ít, niệm Phật nhiều. Muốn làm việc gì thì nhanh chóng làm xong, việc gì cần giao phó thì gấp gáp giao phó. Ðừng lưu luyến phú quý cõi nhân gian, đừng hâm mộ sự khoái lạc trên trời. Ðặt nặng việc làm lành, khuyến hóa người khác khởi tín tâm, tùy phận tùy sức mà làm, chủ yếu là niệm Phật cầu sanh Tây Phương, thấy Phật, nghe Pháp.

2. Hai là lập chí quyết định, chẳng để người khác dùng miệng lưỡi lung lạc, chẳng để người khác xê dịch gót chân. Những việc tiếp đãi, thù tạc thói đời nên giảm bớt, chẳng cần phải phô diễn dằng dai. Tuổi già quang âm có hạn, chớ để luống qua nữa. Trong tâm có điều gì nghi ngờ hãy nên thưa hỏi minh bạch, chẳng nên hàm hồ tự mình lầm lạc.

3. Ba là luôn luôn tự hỏi chính mình: A Di Ðà Phật có ở trong tâm chăng? Tượng Phật có ở trước mắt chăng? Ði, đứng, nằm, ngồi có đều niệm Phật chăng? Dù nhàn hay bận đều chẳng quên hay không?

Phàm hết thảy những việc lành đã làm, các công đức như niệm kinh, niệm Phật, trì chú, lễ bái, tịnh tọa v.v… đều phát nguyện hồi hướng: hiện tại gia thuộc bình an, tương lai trang nghiêm Tịnh Ðộ; lại cầu lúc lâm chung biết trước thời khắc, tâm chẳng điên đảo, được Phật tiếp dẫn.

Nhận định:

Cả một đời Ðại sư hành theo kinh Hoa Nghiêm, ngài dạy ba việc trọng yếu lúc sanh tiền thật là tinh yếu, xác đáng. Xin hãy lập chí quyết định, đừng để người khác lung lạc, nói ít, niệm nhiều, rảnh bận chẳng quên, luôn luôn phản tỉnh, việc gì cũng hồi hướng quyết sẽ được Phật tiếp dẫn.

23. Trích yếu sách Long Thư Tịnh Ðộ Văn của cư sĩ Hư Trung Vương Nhật Hưu đời Tống

* Mạnh Tử nói: “Ai cũng có thể là Nghiêu, Thuấn”. Tuân Tử nói: “Người tàn ác cũng có thể trở thành ông Vũ”. Thường Bất Khinh Bồ Tát nói: “Tôi chẳng dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật” là vì ai cũng có thể là thánh hiền, cũng có thể thành Phật. Tây Phương Tịnh Ðộ chính là đường lối tắt trọng yếu, không ai chẳng tu được. Vì thế, khuyên khắp mọi người nên tu trì.

Kệ khuyên tu Tây Phương của Ðại Từ Bồ Tát có câu:

Khuyên được hai người tu,
Như chính mình tinh tấn
Khuyên được mười người khác
Phước đức đã vô lượng
Nếu khuyên trăm, ngàn người
Ðáng gọi chơn Bồ Tát
Lại khuyên hơn vạn người
Chính là Phật Di Ðà.

Xem đó thì biết thuyết Tây Phương chẳng phải là cái tâm quảng đại muốn cho người người cùng biết đến đạo này để tích tụ vô lượng phước báo hay sao?

Phàm đối với thầy, bạn, những bậc có ân, tính xuống cả tôi tớ đều nên lấy việc bảo cho họ biết về pháp Tịnh Ðộ để báo đáp. Phàm đối với hết thảy những ai dù biết hoặc không, hiểu hay chẳng hiểu, ta đều muốn dùng pháp này để giáo hóa khiến họ cùng sanh Tịnh Ðộ.

Hết thảy chim bay, thú chạy, thậm chí loài trùng bay, bò, cựa quậy, bất cứ loài nào có hình tướng thấy được, hễ ta trông thấy thì đều vì chúng niệm Phật vài tiếng, phát thiện nguyện rằng: “Nguyện các ngươi hết kiếp sống này sẽ sanh vào thế giới Cực Lạc. Sau khi ta đắc đạo sẽ độ hết các ngươi”.

Ðối với những loài ta chẳng thấy được hình tướng của chúng thì cũng nên phát nguyện như vậy.

Như thế thì thiện niệm mới chín muồi, đều có duyên đối với hết thảy chúng sanh, ắt sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh, mai sau hóa độ không ai chẳng vui thuận theo.

* Trai tăng cúng Phật, thắp hương, dâng hoa, treo phan, dựng tháp, niệm Phật, lễ sám là những cách để sùng phụng Tam Bảo, đem công đức ấy hồi hướng nguyện sanh Tây Phương cũng được. Hoặc là làm các thứ việc lành phương tiện lợi ích thế gian: Hoặc là hiếu dưỡng phụ mẫu, yêu mến bạn bè, con em, trong khuê môn hết sức làm lành, họ hàng hòa thuận, xóm giềng làng nước thân thiết, lấy lễ đãi nhau, làm ơn cho nhau.

Thờ vua thì dốc lòng son báo quốc, làm quan thì nhân từ lợi dân, khéo an quần chúng, chăm phục vụ cấp trên.

Hoặc dạy dỗ kẻ ngu mê, hoặc giúp người cô đơn, yếu đuối. Hoặc giúp kẻ mắc việc cấp bách, chu cấp người nghèo. Hoặc sửa cầu đào giếng, hoặc thí thuốc chia cơm, hoặc giảm việc phụng dưỡng chính mình để làm lợi người khác, hoặc bỏ tiền của giúp người.

Hoặc là tự tiết kiệm, giản ước, hoặc dạy người khác làm lành, hoặc khen thiện, ngăn ác. Tùy sức làm hết thảy việc lành. Dùng đó để hồi hướng nguyện sanh Tây Phương cũng được.

Hoặc làm hết thảy những việc lợi ích thế gian chẳng nệ là lớn, nhỏ, nhiều, ít.

Dù chỉ là thí một đồng hoặc một chén nước cho người, thậm chí với mảy may điều lành đều khởi niệm rằng: “Dùng thiện duyên này hồi hướng nguyện sanh Tây Phương”, thường khiến cho nhất niệm chẳng đoạn, niệm niệm hướng về đó ắt sẽ sanh trong Thượng Phẩm.

* Tu Tịnh Ðộ nên thuận theo địa vị của mình mà làm lành để giúp công cho việc tấn tu:

1. Tăng phải nên sớm tu Tịnh Ðộ để thoát ngay ra khỏi luân hồi, gặp gỡ Phật A Di Ðà thì mới là hoàn tất phận sự của người xuất gia. Hễ nhận lấy một đồng cúng thí của người khác, được cúng một bữa ăn đều phải nên vì người đó dạy cho pháp Tịnh Ðộ để báo đức. Dù kẻ ấy chẳng tin cũng khiến cho người ấy biết đến pháp này. Nghe quen tai dần, lâu ngày sẽ tự tin. Hãy nên thường giáo hóa người khác như thế thì hiện đời được người khác cung kính, thân sau ắt đạt Thượng Phẩm Thượng Sanh.

2. Kẻ sĩ phải nên chăm chỉ học hành, dốc lòng hiếu thuận, nghĩ xa đến đời ông tổ, ông sơ của mình nếu ai còn sống thì làm cho họ lưu tâm nơi đạo này.

3. Hàng quan lại phải tu phước, làm các phương tiện nhằm yêu người lợi vật. Dùng đấy để hồi hướng Tây Phương, thoát ngay ra khỏi luân hồi, thọ – lạc vô cùng.

4. Kẻ giàu nên tùy phận mà sống, giảm tiêu xài để giúp người, chẳng tiếc của làm lành, chẳng tham của làm ác, thường nghĩ phước thế gian có lúc hết. Nếu hồi hướng về Tây Phương thì sẽ vô tận.

5. Kẻ gặp lắm nỗi truân chiên đừng oán trời trách người, nên siêng sám hối, thường niệm Phật cho tiêu túc chướng, tăng trưởng thiện duyên.

Nếu có thể lần lượt giáo hóa người khác như thế khiến cho họ lại khuyến hóa người khác thì hiện đời có thể tiêu tai, được phước, thân sau ắt sanh trong Trung Phẩm, Thượng Phẩm.

* Nông, thương đều nên tự nghĩ: Cày cấy sát hại sanh mạng loài vật, mua bán sao khỏi có lúc dối trá, hãy nên tránh chuyện ngoắt ngoéo, sám hối làm lành. Kẻ làm thợ đừng mong mỏi quá đáng, nên làm việc tận tâm.

Ai nấy đều nên thường niệm Phật, nguyện thấy Phật đắc đạo rồi thì trước hết sẽ độ những kẻ mình trót đã sát hại từ khi sinh ra đến nay cũng như những chúng sanh mình từng giao thiệp. Kế đó, độ hết thảy kẻ oán, người thân và chúng sanh hữu duyên, vô duyên. Niệm niệm bất tuyệt như thế, niệm tự thuần thục, nhất định sanh về thế giới Cực Lạc.

Nếu ai nấy làm như thế để giáo hóa người khác, khiến cho họ lại khuyến hóa người khác thì hiện đời được phước, thân sau ắt sanh trong Trung Phẩm, Thượng Phẩm.

Kẻ chài lưới, săn bắn, đồ tể, đầu bếp và người mở tiệm ăn đều phải nên tự nghĩ: cá, tôm, cầm thú đều là tánh mạng mà mình sát hại, tội ấy vô lượng. Nếu có thể đổi nghề thì là tốt nhất. Còn nếu không đổi ngay được thì nên giảm bớt dần, chớ giết nhiều mạng những loài vật nhỏ và ốc, hến, lươn, ba ba v.v… là những con vật khó chết.

Thường niệm Phật sám hối, phát đại nguyện rằng: “Nguyện sau khi tôi thấy Phật đắc đạo, sẽ độ hết những kẻ bị tôi giết và bị tôi ăn thịt từ khi sanh ra đến nay khiến đều sanh Tịnh Ðộ”.

Niệm niệm bất tuyệt như thế, niệm tự thuần thục cũng sanh về thế giới Cực Lạc. Nếu giáo hóa người khác như vậy, khiến họ lại khuyến hóa người khác thì hiện thế sẽ tiêu tai diệt tội, thân sau cũng chẳng ở trong Hạ Phẩm Hạ Sanh.

* Kẻ trong chốn phong trần cũng nên tự tỉnh ngộ, đoạn trừ dâm nghiệp. Nếu chưa đoạn nổi thì thường niệm Phật, phát đại nguyện rằng:

“Nguyện ác nghiệp của con ngày một tiêu trừ, thiện nghiệp ngày một tăng trưởng, cơm áo tạm đủ, chóng thoát khỏi chốn này. Sau khi gặp Phật đắc đạo rồi sẽ độ cho hết thảy những người vì tôi mà làm chuyện dâm dục đều sanh Tịnh Ðộ”.

Kẻ tội ác bịnh khổ nên gấp sám hối, hồi tâm niệm Phật, thệ nguyện chẳng làm ác sát sanh nữa, chẳng còn lại não hại hết thảy chúng sanh nữa. Nguyện đời này sớm hết bịnh khổ; sau khi gặp Phật đắc đạo sẽ độ cho hết chúng sanh bị mình sát hại trong đời trước, đời này và hết thảy kẻ oán, người thân đều sanh Tịnh Ðộ.

Niệm niệm bất tuyệt, niệm tự thuần thục quyết định sanh về thế giới Cực Lạc. Nếu giáo hóa người khác như vậy, khiến họ lại khuyến hóa người khác thì hiện thế sẽ tiêu tai diệt tội, bịnh khổ ắt lành. Phước báo vô cùng, thân sau ắt sanh về thế giới Cực Lạc.

Nhận định:

Tịnh nghiệp học nhân xin hãy sùng phụng Tam Bảo, hành đủ các điều thiện, phát khắp các đại nguyện, độ hết chúng sanh khiến cho thiện niệm thuần thục sẽ được Thượng Phẩm Thượng Sanh.

Nếu sanh sống bằng ác nghiệp chẳng thể đổi nghề ngay thì cũng nên tùy phận làm lành, sám hối, phát nguyện, và lần lượt giáo hóa người khác khiến họ lại khuyến hóa người khác cùng sanh Tịnh Ðộ thì mới là chẳng phụ lời khuyên thống thiết, tấm lòng đăm đắm khuyên khắp mọi người tu trì của cụ cư sĩ này.

24. Trích yếu sách Tịnh Ðộ Thặng Ngôn của cư sĩ Tức Lư Thứ Dân Trương Quang Vỹ đời Thanh

* Miệng tụng Phật danh, mắt nhìn tượng Phật, tai lại nghe tiếng chính mình, âm thanh từ lưỡi phát ra, Thiền vị vui sướng tấm lòng, mũi ngửi mùi hương. Niệm Phật như thế là xoay sáu căn trở về một, làm sao loạn được?

Nay ta niệm Phật, thực hành một phương tiện: tự xem tâm này như một cái bình báu sạch, danh hiệu Phật như hạt gạo. Từng chữ, từng câu như gạo bỏ vào bình, rơi xuống như ngọc xâu thành chuỗi. Gạo đã vô tận mà bình cũng chẳng đầy, chẳng quăng một hạt nào ra ngoài bình.

Ðoái nghĩ cái bình này chẳng to đầy một tấc, bên trong chứa trọn tam thiên đại thiên thế giới, trăm ức vi trần số Phật, ba mươi sáu vạn ức, mười một vạn ức chín ngàn năm trăm vị Phật A Di Ðà đồng danh đồng hiệu an trụ trong ấy. Ta cũng ở chung với các ngài tại một chỗ, vui chơi an ổn. Ðấy mới là chỗ để ta an tâm lập mạng vậy.

* Từ trước đến nay, ta chỉ niệm Phật hời hợt thoáng qua. Bây giờ thì cần nên biết là mỗi chữ đều phát xuất từ trong tâm, lại còn phải biết là mỗi chữ đều nhập vào trong tâm. Trong lúc niệm Phật, trước hết nên nhắm mắt, ngồi ngay ngắn ngưng thần định lự, chẳng được có một mảy tâm tạp loạn, tâm tranh cạnh, tâm hôn trầm, lười biếng, mở miệng thốt ra tiếng sao cho tiếng từ tâm phát ra, tâm dựa vào miệng truyền. Thở điều hòa, tiếng nhịp nhàng, chẳng rề rà, chẳng gấp gáp, từng chữ phân minh, từng câu nối tiếp nhau.

Nếu tách ra thì từng chữ hệt như một câu, nếu gộp lại thì trăm ngàn câu hệt như một câu. Miên miên, mật mật từ một tiếng cho đến ngàn vạn tiếng, từ một khắc cho đến mười hai thời, chẳng gián đoạn, chẳng tiếp nối, chẳng khuyết, chẳng rỉ. Lâu dần thuần thục, hoa nở thấy Phật, đến lúc ấy tự chứng nghiệm.

Nhận định:

Những lời của cụ này đều là lời của bậc niệm Phật đã đạt mà có, thật là pháp niệm Phật rất hiệu nghiệm.

25. Trích yếu sách Khuyến Tu Tịnh Ðộ Thiết Yếu của cư sĩ Phục Trai Trần Hy Nguyện đời Thanh

* Niệm Phật chánh yếu là phải rèn luyện ở chỗ ồn ào: Chẳng nệ là đi, đứng, nằm, ngồi, trong chốn hỗn tạp nếu giữ được nhất tâm bất loạn thì tiếng nhỏ sẽ thắng tiếng lớn, như thường nói: tâm tịnh thì cõi nước tịnh vậy.

Tuy suốt ngày bận rộn nhưng lẽ nào chẳng có một khắc nhàn hạ? Sao chẳng nhân giây phút uống trà, tâm đừng rong ruổi theo bên ngoài để niệm Phật. Kẻ lao tâm có thể dùng cơ hội này để dưỡng tâm, kẻ lao lực cũng có thể nhờ đó để lại sức. Làm vậy chỉ có lợi chẳng tổn hại, có gì hơn được cách này nữa? Hãy nên gấp khởi tâm chơn thật, thiết tha, ra sức dũng mãnh, việc đời bỏ được việc gì liền bỏ ngay; nhân mạng chẳng thường còn, chớ có lưu luyến để rồi tự bị lầm lạc.

Dù có việc mình chẳng thể buông bỏ được, nhưng nào trở ngại mình niệm Phật; giống như lòng còn mang nặng chuyện khẩn thiết thì dù có phải lo liệu việc khác, tâm quên nổi chăng?

Nếu có thể niệm Phật như thế thì sẽ tự chẳng có tạp niệm, cũng chẳng đến nỗi một ngày nóng mười ngày lạnh đâu!

* Dù đã có lòng chơn thật, thiết tha, nhưng do xưa kia tội nghiệp sâu nặng nên bị ma nhiễu loạn. Nội ma là tâm có lúc tỉnh, lúc mê và hết thảy tham, sân, si, ái. Tâm này vừa mới lìa xong, tâm kia lại khởi lên. Ngoại ma là cảnh ngộ truân chiên, các thứ chướng duyên bức bách thân tâm chẳng được an ổn.

Hãy nên đối trước Phật phát nguyện, siêng cầu sám hối, phải buộc chặt ý niệm nơi tâm niệm Phật, chẳng để ma làm mình thối thất. Mặc kệ các thứ chướng duyên, một câu Phật hiệu trọn chẳng rời tâm. Sức ma tuy mạnh, nhưng cậy vào vạn đức hồng danh này để đối phó. Chẳng kể lợi – hại, sống – chết, chỉ biết niệm mà thôi, thề chẳng thối chuyển. Lâu dần ắt sẽ được Phật ngầm gia hộ, chướng duyên tự tiêu, tịnh duyên thành thục. Phật chẳng phụ người, ắt sẽ mãn nguyện.

* Pháp niệm Phật quý ở chỗ đóng cửa tiềm tu, chẳng luận là ngồi xếp bằng hay kinh hành mà niệm, niệm thầm hay niệm ra tiếng, cốt sao một dạ dựa chắc vào câu Phật hiệu, từng chữ phân minh.

Vừa biết mình hồ đồ liền gấp đề khởi giác chiếu; hoặc là thấy mình vừa lạc vào vô ký hoặc rơi vào vọng tưởng, vừa biết là liền đề cao câu niệm, đem một câu Phật hiệu này xông ép ý căn, lấp mất hai nẻo vọng niệm và hôn trầm. Ðấy là đường lối chánh để niệm Phật.

Chẳng nên niệm quá gấp vì gấp gáp thì khó niệm lâu được. Chẳng nên niệm quá thong thả, thong thả dễ tán loạn. Lại chẳng nên mong cầu nhập định, trọn chẳng tác ý. Nếu buông xuôi mà niệm theo miệng thì dễ bị rớt vào cảnh giới hôn trầm nhẹ.

Niệm Phật chú trọng ở chỗ Nhất Tâm Bất Loạn, lúc sắp dứt mạng sẽ nhờ vào cái niệm ấy để chóng nhập vào thai sen. Ðạt đến mức cùng cực của Nhất Tâm thì chẳng mong Thiền Ðịnh hiện tiền nó vẫn tự hiện. Như vậy, lúc công phu đã thuần thục và buông xuôi theo miệng mà niệm dễ bị hôn trầm nhẹ, rõ ràng chẳng giống nhau.

Thể cứu đến cùng tột thì niệm chính là vô niệm, chẳng phương ngại gì đến vô niệm mà niệm. Nhất niệm này chính là Tam Ðế: Không, Giả, Trung; chính là bốn Lý Sự Pháp Giới, chính là hai Quán: Duy Thức và Duy Tâm, chính là Thật Tướng, Vô Tướng, Niết Bàn, Diệu Tâm.

Ðấy chính là pháp niệm Lý Nhất Tâm của bậc thượng căn, nhưng pháp này cũng chẳng ra ngoài cách dựa chắc vào câu Phật hiệu, từng chữ phân minh mà niệm. Ðó chính là khuôn phép của chánh hạnh Trì Danh vậy.

* Lại cần phải rộng tu các Trợ Hạnh:

a. Một là lễ kính Tam Bảo: Xem các hình tượng vẽ trên giấy, bằng gỗ khắc hệt như đức Phật thật, sáng lễ chiều bái, chí thành chí kính, ra vào vái, xá. Dù cách trăm dặm, ngàn dặm vẫn coi như ở trước mắt. Một miếng ăn, một thức uống đều cúng dường lên Phật trước.

b. Hai là sám hối nghiệp chướng: Do vô lượng kiếp đến nay, ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo tội đã sâu, thành ra các thứ chướng ngại cho nên gọi là nghiệp chướng. Sám hối thì chướng sẽ tiêu trừ, thân tâm thanh tịnh.

c. Ba là tránh ác, làm lành: Cứ hễ có tâm chẳng tốt khởi lên liền ra sức niệm Phật, nhất quyết dùng câu niệm đẩy lui cái tâm bất hảo ấy.

d. Bốn là cắt bỏ tình ái: Người ta thường hay yêu mến kẻ ruột thịt, tham tài như mạng. Trong đời trược, tình ý đặt nặng nơi những thứ này thì tự nhiên xem nhẹ bên Tịnh Ðộ. Lúc mạng chung, thần hồn ắt sẽ hướng về nơi tình ý mình xem trọng giống như cây đổ: tự nhiên nó sẽ ngã rạp về nơi nó đã nghiêng qua.

Ðến lúc ấy, vợ con, người ruột thịt duyên hết sẽ tan tác. Chia lìa xong chẳng hề biết đến nhau nữa. Như vợ con, cốt nhục trong nhiều đời đến nay, hiện thời họ ở đâu, sao còn yêu mến?

Nếu như ác duyên tụ hội thì quyến thuộc liền thành oan gia, bất giác ngầm mắc hại. Nghĩ đến đó, lòng chẳng thể không lạnh nhạt. Tài sản, các vật chớp mắt thành không; thật phải nên xét suy tường tận!

e. Năm là cởi gỡ các oán kết: Như các việc: sát sanh, trộm cắp, tà dâm v.v… và các tình chấp tham, sân, si… đều là những cái nhân kết thành oán cừu. Dè chừng thì oán cừu chẳng kết, lỡ đã kết thì nên cởi gỡ. Như quyến thuộc là oán cừu, cầm giáo chống chọi nhau, bị chó cắn, rắn mổ đều là có túc oán, hãy nên hoan hỷ chịu đựng, cởi gỡ oan kết với họ, quyết chẳng nên ăn miếng trả miếng, khiến oan cừu càng buộc càng sâu.

Hãy nên đối trước Phật phát nguyện, dùng công đức niệm Phật đây để lợi khắp hết thảy oan gia, cừu đối. Nếu như mình thành Phật sẽ độ loài chúng sanh này trước hết. Do nguyện lực từ tâm này, tự nhiên túc oán ấy tiêu trừ, hóa thù thành bạn.

f. Sáu là phát phẫn khởi hùng chí, miên mật tinh tấn, ắt phải chứng được cực quả mới thôi.

Ðây là một pháp rất thiết yếu để vãng sanh Tịnh Ðộ vậy.

Nhận định:

Tu luyện trong chỗ ồn ào chẳng bằng đóng cửa tiềm tu. Tuy có thể ngồi xếp bằng thầm niệm, nhưng chẳng được mong cầu nhập định, cứ buông xuôi theo miệng mà niệm rất dễ nhập cảnh giới hôn trầm nhẹ.

Cần phải nên đề khởi giác chiếu: dùng một câu Phật hiệu để xông ép ý căn, lấp mất hai nẻo hôn trầm và tạp niệm. Ðến lúc công phu thuần thục thì chẳng cầu Ðịnh mà Ðịnh tự hiện.

26. Trích yếu sách Tịnh Ðộ Di Tập của cư sĩ Nhân Sơn Dương Văn Hội đời Thanh

* Ðáp lời hỏi về cách niệm Phật, pháp sư Ðàm Loan có nói đến tâm vô hậu, tâm vô gián.

Tin rằng quang ảnh trong tâm dễ thay đổi, phải sớm lo liệu tiền trình chính là tâm hữu hậu. Mạng người trong hơi thở, lẽ nào còn giữ tâm hữu hậu này? Vô luận ngàn niệm, vạn niệm; chỉ dùng ngay một câu trong đương niệm để làm chánh nhân vãng sanh. Câu trước vừa qua, câu sau vừa xuất hiện cũng là trong “đương niệm”. Như vậy là tâm chẳng duyên vào quá khứ, chẳng duyên vào vị lai, chỉ chuyên chú một câu trong ngay đương niệm. Ðó là Sự Nhất Tâm. Chẳng cần biết lúc nào sẽ vãng sanh, lâu ngày thuần thục thì ngay cả đương niệm cũng mất, liền nhập Lý Nhất Tâm, ắt sanh trong cao phẩm. Tâm Vô Gián chính là cảnh giới thuần nhất của Vô Hậu Tâm.

* Nếu có kẻ vặn: Cầu sanh Tịnh Ðộ thì phải phát Bồ Ðề tâm, tu hạnh Lục Ðộ, chẳng phải là khó khăn lắm ư?

Xin đáp: Chẳng khó. Hễ tin vào pháp môn Tịnh Ðộ, phát nguyện tự độ, độ người cùng chứng Phật quả thì chính là Phát Bồ Ðề Tâm vậy!

Chuyên tu niệm Phật, thấy thế gian tài vật, hết thảy chẳng có gì đáng ưa, chẳng khởi lên ý tưởng tham keo là đã tương ứng với Thí Ðộ.

Chuyên tu niệm Phật, dù nghịch cảnh xảy tới chẳng sanh tâm nóng giận thì là tương ứng với Nhẫn Ðộ.

Chuyên tu niệm Phật, tâm chẳng tán loạn là tương ứng với Thiền Ðộ.

Chuyên tu niệm Phật, chẳng bị thế tục làm cho ngu mê là tương ứng với Trí Ðộ.

Lúc mới hành thì chỉ là chuyện tầm thường hằng ngày, nhưng lâu dần tăng tấn sẽ thành diệu hạnh của Bồ Tát.

Nhận định:

Chỉ cần tin sâu nguyện thiết, giữ chắc một câu trong đương niệm, chẳng duyên theo quá khứ, vị lai, cắt đứt tâm thức trước sau thì chính là Sự Nhất Tâm.

Tâm chẳng tán loạn, chẳng khởi tham, sân, si, nguyện tự độ, độ người cùng sanh Cực Lạc chính là tương ứng với phát Bồ Ðề tâm và tu hạnh Lục Ðộ.

27. Trích yếu tác phẩm Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của cư sĩ Thắng Quán Diệu Hú Giang Vị Nông thời Dân Quốc

* Một pháp Niệm Phật là phương tiện bậc nhất trong các phương tiện để dứt niệm. Chẳng niệm gì khác ngoài niệm Phật cũng là một cách để hoán chuyển mỗi ý niệm. Niệm Phật xem ra rất gần với quán tưởng.

Niệm Phật chính là tịnh niệm, đem một niệm thanh tịnh để đối trị các niệm nhiễm trược. Và nhất tâm mà niệm lại chính là dùng cái niệm thuần nhất để đối trị những niệm tạp loạn.

Vả lại, Phật là Giác, niệm niệm đều là Phật thì niệm niệm đều là Giác. Giác là biết tự tánh vốn vô niệm; vì thế bảo là càng thân thiết. Nhưng nếu có thể siêng năng, khẩn thiết Nhất Tâm thì sẽ có thể đạt tới mức niệm mà vô niệm. Phải biết rằng mục đích của niệm Phật phải quy về vô niệm, tức là quay về với Chơn Như, thì chẳng nói đoạn mà tự đoạn, chẳng cầu chứng mà tự chứng vậy. Phương tiện ấy hay đến mức như thế đó!

* Tuy công phu niệm Phật chưa thể đạt tới niệm mà vô niệm, nhưng nếu hạnh nguyện chơn thật, thiết tha, nương vào bi nguyện lực của Phật Di Ðà cũng sẽ được tiếp dẫn vãng sanh, liền giống như bậc A Tỳ Bạt Trí, Hán dịch là Bất Thối, tức là địa vị Sơ Trụ. Nếu tu các pháp khác thì cần phải trải qua nhiều kiếp số lâu xa, nay pháp này được thành tựu ngay trong một đời nên bảo là pháp phương tiện nhất trong các pháp phương tiện.

Nhưng để đúng là hạnh nguyện chơn thật, thiết tha thì ắt phải cả đời niệm Phật cầu sanh thì mới đúng là chơn thật, thiết tha. Nếu một mặt niệm Phật, một mặt lại khởi lên những ý tưởng trần trược thì hạnh nguyện chẳng chơn thật, thiết tha vậy.

Vì thế, người niệm Phật phải đoạn một tầng ý niệm. Nếu như chưa thể dễ dàng làm được thì phải nên cố thực hiện cho được hai câu: “Chẳng trụ vào sắc mà sanh tâm, chẳng trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm”.

Nếu chẳng được vậy thì nguyện chẳng thiết, hạnh chẳng chơn, làm sao được Phật tiếp dẫn đây? Trần trược khí nặng hết sức chẳng tương ứng với hai chữ Thanh Tịnh nên Phật cũng chẳng biết làm sao được nữa!

* Cần phải biết rằng khởi niệm chính là vọng, ý niệm niệm Phật cũng là vọng chứ chẳng phải là chơn, vì sao vậy? Vì tánh của Chơn Như vốn là vô niệm. Nhưng vì phàm phu nhiễm niệm chẳng hề ngơi nên bất đắc dĩ phải mượn tịnh niệm của việc niệm Phật để trị cái nhiễm niệm trụ trần.

Ấy là vì ý niệm niệm Phật tuy chẳng phải là bổn thể của Chơn Như, nhưng nó xu hướng diệu dụng của Chơn Như. Vì sao vậy? Chơn Như là tâm thanh tịnh, Phật niệm là thanh tịnh niệm, cùng là thanh tịnh cho nên được tương ứng. Bởi vậy, dùng ý niệm niệm Phật niệm niệm chẳng ngơi thì có thể đạt đến vô niệm, cho nên bảo là phương tiện thù thắng. Thế giới Cực Lạc cũng là huyễn tướng, nhưng chẳng thể không cầu nguyện vãng sanh vì tịnh huyễn chẳng giống như nhiễm huyễn. Vì sao thế? Cõi thanh tịnh vốn do tâm thanh tịnh hiển hiện, vì thế mới bảo là tâm tịnh thì cõi tịnh vậy.

* Cần phải biết rằng Di Ðà đến đón vốn chưa từng đến đón, vãng sanh Tây Phương cũng là chưa từng sanh qua. Tuy chưa từng sanh nhưng nào có trở ngại gì chuyện thị hiện đến đón, sanh về!

Vì sao vậy? Chẳng đến đón, chẳng sanh về là xét về Lý Thể; có đến đón, có sanh về là Sự Tướng. Lý – Sự vốn dĩ chẳng hai, phải hiểu tánh – tướng một cách viên dung thì dù cho chẳng đến đón, chẳng vãng sanh cũng chẳng ngại có đến đón, có vãng sanh. Dù có đến đón, có vãng sanh nhưng thật sự là chẳng có đến đón, chẳng có vãng sanh.

Ðiều tối khẩn yếu là phải nhận thức được không có đến đón, không có vãng sanh nơi chuyện có đến đón, có vãng sanh; và chuyện có đến đón, có vãng sanh chính là từ không đến đón, không vãng sanh mà thành. Ðấy chính là yếu quyết để niệm Phật cầu vãng sanh.

Hiểu được yếu quyết này thì sẽ nhất định vãng sanh gặp Phật. Chớ bảo là tu Tịnh Ðộ thì khỏi cần phải học Bát Nhã nữa; lại nghi Bát Nhã gây trở ngại cho Tịnh Ðộ hay sao?

Nhận định:

Vạn duyên buông xuống chính là chẳng trụ vào Có; nhất tâm niệm Phật chính là chẳng trụ Không, tức là: Bát Nhã và Tịnh Ðộ đồng tu. Tuy Bát Nhã là theo cửa Không mà vào, ly tướng, ly niệm để đạt đến vô niệm; Tịnh Ðộ theo cửa Có mà vào, dùng niệm để dứt niệm, niệm mà vô niệm, khác đường nhưng cùng về một chỗ. Chẳng phải là Bát Nhã chẳng hiển lộ được chỗ nhiệm mầu của Tịnh Ðộ, Tịnh Ðộ khó thành hạnh Bát Nhã đâu!

Vì thế, Quán kinh dạy bậc Thượng Phẩm Thượng Sanh phải đọc tụng kinh điển Ðại Thừa. Cụ cư sĩ đây cả một đời học đủ Giáo, Tông, Bát Nhã, nhưng hạnh đặt nơi Di Ðà, thật đáng là một cách tu học hữu hiệu.

28. Trích yếu sách Phật Pháp Yếu Lĩnh của cư sĩ Thù Nguyên Lưu Phục Lễ

* Niệm Phật có hai gia hạnh:

1. Một là đừng vọng tưởng. Phàm đối trước hết thảy cảnh giới đều coi là Không, chẳng được chấp trước kẻo khởi tưởng niệm. Thọ sanh trong thế gian đều là do vọng tưởng tạo thành. Ðây chính là cội rễ của sanh tử, chẳng thể không biết.

2. Hai là gắng lãnh đạm. Thế nhân tạo nghiệp đều là do chẳng cam lãnh đạm nổi. Ðã muốn thành bậc hiền thánh xuất thế mà còn tham đuổi theo ngũ dục chẳng khác gì thế tục, chẳng những không thành Phật mà lão già Diêm La cũng chẳng phải là gã mù! Sao lại duyên theo vọng tưởng chẳng cam lãnh đạm được? Ðấy là gốc bịnh lớn lắm.

Trước hết, nếu trừ được hai căn bịnh trên thì trong tâm tự tịch tĩnh, trí huệ tự quang minh, mới có phần tiến hướng đến Phật pháp được!

* Khi đang tu nhân, học Phật pháp quý ở chỗ chơn thật cầu liễu sanh tử thì mới là chánh nhân. Cầu quả báo thế tục là tà nhân. Cầu trì chú linh nghiệm, cầu thần thông cũng là tà nhân. Hãy dè chừng, hãy tránh! Hãy hỏi nhật khóa hạn định như thế nào? Nỗ lực niệm Phật đến tận cùng. Niệm bốn chữ hay sáu chữ đều được. Ngồi xếp bằng là tốt nhất. Rảnh rang thì niệm thêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Sanh kế chẳng khá, phải làm thêm việc khác cũng chẳng sao. Cho nên mới nói: “Làm lụng sanh sống chẳng ngại Viên Tông”; nhưng chẳng được phạm vào mười ác nghiệp.

Những tri kiến từ trước phải mong tảo trừ cho hết sạch. Ðối với những sách vở ngoại đạo ăn theo Phật pháp phải đem cất đi thật xa hoặc giao cho thần hỏa. Nhất tâm niệm Phật đừng cầu nghĩa giải.

Nhận định:

Tu nhân chẳng chơn, quả sẽ tà vạy. Vì thế, tu nhân niệm Phật cốt sao chơn thật. Lấy không vọng tưởng và nhẫn nại lãnh đạm làm gia hạnh thì mới có thể nhất tâm niệm Phật. Xin hãy toàn lực chuyên chú.

Niệm Phật Pháp Yếu

Quyển Thứ Nhất hết

(Phật lịch 2546, Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa kính dịch xong ngày 13 tháng 12 năm 2002)

 

Phụ Lục

 

1. Lời phổ khuyến đồng bào toàn cầu niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát của đại sư Ấn Quang

Quán Thế Âm Bồ Tát trong vô lượng kiếp trước đã thành Phật từ lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh. Nhưng vì tâm từ bi vô tận, từ thệ vô cùng nên ngài lại ở trong mười phương thế giới, hiện ra những thân Bồ Tát, trời, người, thánh, phàm v.v… ban cho sự không hãi sợ (Thí Vô Úy) ngõ hầu tế độ. Phẩm Phổ Môn có nói: Nên dùng thân nào để độ được thì Ngài liền hiện thân ấy để thuyết pháp cho. Không những chỉ hiện thân hữu tình, ngài cũng còn tùy cơ ứng hiện ra thân núi, sông, thuyền, bè, cầu, đường sá, dược thảo, cây cối, lầu, đài, điện, gác. Nói chung là những việc lìa khổ được vui, chuyển nạn thành yên. Hễ gặp đao binh, nước lửa, ác bịnh, ác thú, oán gia đối đầu, ác quỷ, độc xà, các thứ nguy hiểm, nếu thật có thể chí thành xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát thì liền được Bồ Tát gia bị chuyển nạn thành yên.

Hiện tại, sát kiếp tràn lan, khắp toàn cầu chẳng có chỗ nào an lạc, cũng chẳng có ai an lạc. Nguyện đồng bào trong nước, ngoài nước cùng niệm thánh hiệu Quán Âm, cùng lấy tâm cứu khổ cứu nạn của đức Quán Âm làm tâm mình, cùng lấy sự nghiệp lợi người lợi vật của đức Quán Âm làm sự nghiệp của mình thì ta người cùng không, việc đấu tranh sẽ dứt, tự có thể cùng hưởng thái bình, cùng vui tháng ngày.

Giả sử định nghiệp khó chuyển, táng thân mất mạng thì cũng nhờ sức Bồ Tát vãng sanh Tây Phương, ấy là do túc nghiệp nên mất thân mạng, nhưng do Phật lực thoát được khổ hải.

Kính mong đồng bào trong nước ngoài nước cùng soi xét tấm lòng thành ngu xuẩn của tôi.

Thích Ấn Quang kính bạch

2. Trích tuyển lời khai thị của đại sư Hành Sách

(lược dịch theo ấn bản Hành Sách Ðại Sư Cảnh Ngữ Thiên Hoa của Tịnh Tông Học Hội Dallas)

* Nếu không có lòng tin chơn thật thì dù có niệm Phật, trì trai, phóng sanh, tu phước vẫn chỉ là người lành trong thế gian, được quả báo sanh trong thiện xứ hưởng lạc. Lúc hưởng lạc sẽ tạo nghiệp mà đã tạo nghiệp thì ắt phải thọ khổ.

* Hòa Thượng Chơn Hiết nói: “[Ðiều mà] Phật Phật chuyền tay nhau, Tổ Tổ truyền nhau chỉ là một sự này chứ chẳng còn sự nào khác. Thế Tôn thuyết pháp hơn ba trăm hội trong bốn mươi chín năm cũng chỉ vì để nồng nhiệt tán dương, diễn giảng giáo pháp Tịnh Ðộ thật là con đường tắt siêu phàm nhập thánh vậy!”

* Nhất tâm niệm Phật để cầu chóng được sanh về An Dưỡng, sau đấy mới nương vào bổn nguyện, vận đại từ bi để phân thân biến hình khắp mười phương cõi nước tầm thanh cứu khổ như Quán Thế Âm Bồ Tát, thề làm trống rỗng địa ngục như đức Ðịa Tạng Vương. Dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, ban vui cho hết thảy chúng sanh, nhiếp thủ hết thảy chúng sanh cùng thân cận Phật Di Ðà, rốt ráo an ổn. Ðấy mới là trượng phu. Kính mong các thượng thiện hữu hãy suy xét kỹ cho!

* Cuối kinh Hoa Nghiêm dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc, mong sanh về thế giới An Dưỡng, mong nguyện thấy A Di Ðà Phật. Bao lượt Bồ Tát đinh ninh khẩn thiết khuyên lơn, phát khởi [được ghi] đầy đủ trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện!

* Thiện nam tử, thiện nữ nhân chuyên niệm Tây Phương A Di Ðà Phật, đem các thiện căn hồi hướng phát nguyện thì sẽ quyết định được vãng sanh, vĩnh viễn chẳng thối chuyển, thân cận Di Ðà.

* A Di Ðà Phật chính là Pháp Giới Tạng Thân. Thế giới Cực Lạc chính là Liên Hoa Tạng Hải. Thấy một đức Phật chính là thấy vô lượng Phật. Sanh trong một cõi chính là sanh trong vô lượng cõi. Niệm một đức Phật chính là niệm hết thảy Phật, chính là được hết thảy chư Phật hộ niệm vì Pháp Thân bất nhị, vì chúng sanh và Phật bất nhị, vì năng niệm và sở niệm bất nhị!

* Tôi thấy những người nay đang phú quý hiển đạt đều thì hoặc là tham đắm thanh sắc thô tệ chẳng biết cội khổ; hoặc mê chút hư danh nhỏ như sừng ốc, chẳng biết đó là hư huyễn; hoặc lại mê man của cải, toan tính kinh doanh. Hiện tại phí uổng một đời, tương lai sẽ lưu chuyển theo nghiệp, chẳng hay chẳng biết y báo, chánh báo trang nghiêm, vô lượng điều thắng diệu trong cõi nước đức Phật kia.

Từ lúc sống đến khi chết, chưa hề có một niệm nghĩ đến chuyện vãng sanh, thật chẳng bằng kẻ nghèo cùng, khốn khổ siêng năng niệm Phật từ chỗ tối vào chỗ sáng, chuyển sanh vào chỗ thù thắng!

* Muốn niệm Phật sao cho công hạnh chẳng luống uổng thì thân tâm phải siêng gắng, tiếc từng tấc bóng. Huống hồ, mạng trong hơi thở, nào có dài lâu? Như kẻ tù bị dắt ra chợ, mỗi bước càng gần đến cái chết, ngày đêm chăm chắm, lạnh nóng khăng khăng một câu hồng danh không lúc nào ngơi thì sẽ quyết định sanh về Tịnh Ðộ. Chớ có lúc đầu hăng hái, sau rồi biếng trễ.

* Chuyên cầu xuất ly, chẳng cầu phước báo thế gian, cũng chẳng cầu công đức, trí huệ, biện tài, ngộ giải; cũng chẳng nguyện đời đời làm Tăng để hưng hiển Phật Pháp v.v… Chỉ nguyện mạng chung được sanh về cõi kia, thoát khổ sanh tử. Nguyện này cần phải hiện diện trong từng khắc, chuyên niệm Di Ðà thì tự nhiên được sanh. Quý ở chỗ tin chắc chắn, tận lực tu hành cho chuyên nhất thì mới được cứu.

* Những vị đồng hạnh vãng sanh nên phòng thân, giữ miệng, khiêm cung tùy thuận, răn bảo lẫn nhau, làm gương cho nhau. Hằng khóa mỗi ngày chẳng được lười biếng, bỏ sót. Ði, đứng, nằm, ngồi chẳng quên niệm Phật. Ngoài lúc công phu, đừng buông lung thân tâm nơi chuyện vô ích, chẳng được chuyện gẫu, nói chơi, cười giỡn phóng dật, vừa hại mình vừa tổn người. Chớ nên phí công xem sách ngoài đời, ngâm thơ vịnh kệ, chẳng những chỉ uổng phí ngày giờ mà còn cô phụ kẻ đàn việt! Phải nên tự nghiêm, tự trọng, nỗ lực tinh tấn!

* Hiểu đến rốt ráo thì vạn pháp đều Như, chẳng có hai tướng, tức là: chúng sanh và Phật bất nhị, tự – tha bất nhị, nhân – quả bất nhị, y báo – chánh báo bất nhị, uế – tịnh bất nhị, khổ – vui bất nhị, ưa – chán bất nhị, lấy – bỏ bất nhị, Bồ Ðề – phiền não bất nhị, sanh tử – Niết Bàn bất nhị. Những cặp pháp ấy đều đồng một tướng, một đạo thanh tịnh. Suy xét đến cùng cực thì đột nhiên khế hợp bổn tâm, mới biết rằng mặc áo, ăn cơm đều là tam muội; vui cười, giận chửi không gì chẳng phải là Phật sự! Nhất tâm bất loạn rốt cục thành hý luận! Trong suốt mười hai thời, chẳng thể tìm được mảy lông tướng nào khác. Hiểu rõ như thế thì mới là chơn chánh học đạo, mới là nhất tâm tinh tấn trì danh! Cả hai thứ Nhất Tâm này đều thuộc về phận sự của phàm phu, hễ ai có tâm thì đều có thể tu học được!

* Một môn niệm Phật là nhờ vào nguyện lực của đức Phật kia, chẳng luận là kẻ hữu trí hay vô trí, là căn cơ thượng, trung, hay hạ, cứ chấp trì danh hiệu nhất tâm bất loạn trong bảy ngày hoặc dẫu chỉ một ngày thì đấy chính là nhiều thiện căn, phước đức nhân duyên, chính là được Phật Di Ðà và thánh chúng tiếp dẫn, chính là được mười phương hết thảy chư Phật hộ niệm. Ðấy chính là phương tiện lạ chẳng thể nghĩ bàn, chỉ vì do phương tiện ấy hay lạ nên mới thù thắng vậy!

* Cõi Phàm Thánh Ðồng Cư [là nơi] thánh hiền Quyền, Thật và kẻ phàm phu thấp sát đất cùng ở. Nhưng cõi Tịnh Ðộ ấy nhờ vào sức nhiếp thọ của chư Phật nên chẳng cần phải đoạn hoặc mà có thể mang nghiệp đi vãng sanh. Bậc thượng trí sẽ nhanh chóng viên chứng bốn cõi Tịnh Ðộ, kẻ hạ ngu cũng vượt ngang ra khỏi tam giới, chẳng cần phải tu theo thứ tự chín lớp, chẳng cần phải tu trọn ba A-tăng-kỳ. Ðấy là phương tiện lạ lùng chẳng thể nghĩ bàn cho nên thù thắng vậy!

* Pháp môn tối thắng lạ lùng duy nhất như vậy do đức Thích Ca ân cần khuyên lơn, chỉ dạy, hằng sa Như Lai dùng tướng lưỡi rộng dài tán dương, há có phải là lừa dối bọn ta đâu!

* Phật pháp có vô lượng môn, có pháp dễ, pháp khó. Muốn dễ hành mà chóng chứng thì phải nên niệm Phật. Xưng danh hiệu Phật A Di Ðà thì chóng đắc Vô Thượng Bồ Ðề.

* Ðời ác ngũ trược cầu A Bệ Bạt Trí rất khó. Nếu tin vào Niệm Phật Tam Muội, nương vào sức bổn nguyện nhiếp trì, tiếp dẫn của đức Phật kia thì quyết định vãng sanh, chẳng nhọc phương tiện mà tâm tự được khai ngộ, đời đời chẳng thối chuyển, có ngày thành Phật.

* Tịnh Ðộ rộng nhiếp các căn đều chứng Bất Thối. Theo kinh Ðại Bổn, thượng phẩm lấy việc giải ngộ làm chính, trung phẩm lấy giới thiện làm gốc; hạ phẩm thuần ác vô thiện chỉ lúc lâm chung gặp gỡ bạn lành, do nhất niệm tín tâm bèn diệt tội vãng sanh!

* Người đã giải ngộ mà cầu vãng sanh thì nhờ vào cảnh duyên Cực Lạc sẽ dễ đoạn kết tập, dễ tu tam muội, mau thành nhẫn lực, độ các chúng sanh. Kẻ chưa giải ngộ mà cầu vãng sanh thì do thân cận Di Ðà sẽ dễ kiến tánh. Ngài Vĩnh Minh từng bảo: “Chỉ cần gặp Di Ðà, lo gì chẳng khai ngộ!”

* Hai môn Thiền, Tịnh, môn nào cũng nên chuyên tu, chẳng cần phải kiêm tu. Nếu chê bai môn này, môn kia tức là hiểu lầm sâu đậm ý chỉ của Phật. Như kinh dạy: “Chẳng báng Ðại Thừa” thì thấy rõ là kẻ hủy báng sẽ chẳng được vãng sanh vậy.

* Kinh dạy: “Tu hành một ngày một đêm trong thế giới Sa Bà hơn hẳn tu Thập Thiện trăm năm trong cõi Cực Lạc”. Ðó là vì khó lòng tấn tu trong cõi này, còn trong cõi kia thì dễ dàng ra sức tu hành vậy.

Cứ dựa theo đó mà nói thì tu hành một ngày trên nẻo đường phong trần thế gian sẽ hơn hẳn tu hành trăm ngàn ngày nơi cảnh chùa thanh tịnh trong núi sâu, chẳng còn nghi ngờ gì nữa! Vì thế, có thể lẩn quẩn nơi kinh đô, có thể dấn thân vào chốn hồng trần, nhưng tịnh nguyện chẳng được quên, tịnh hạnh chẳng được khuyết!

Than ôi! Phong trần làm sao nhiễm trước con người cho nổi? Chỉ e con người tự nhiễm phong trần đấy thôi!

* Tâm làm xe chỉ nam (la bàn), nguyện làm người dẫn đường, chốn chốn đạo tràng, thời thời Phật sự. Tịnh nguyện, tịnh hạnh thường được hiện tiền, tự nhiên đạt được thượng bang Thanh Thái (Cực Lạc), gặp mặt đức thánh Vô Lượng Thọ.

* Nên nghĩ thời gian vùn vụt, mỗi ngày một già suy để đừng uổng phí thời gian. Ngoài thời khóa nhất định, cứ hễ lúc nào rảnh rỗi liền niệm thêm Phật hiệu. Dù là chú Lăng Nghiêm, hay chú Ðại Bi v.v… cũng đều là chuyện phụ, chẳng cần phải trì!

* Dù rảnh hay bận chẳng để lỡ thời gian, dù nghèo hay giàu vẫn thường tri túc, dù mạnh hay yếu vẫn siêng tinh tấn!

* Cổ đức nói: “Ái chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà”. Lại bảo: “Nếu nghĩ đến đạo giống như nghĩ đến tình ái thì thành Phật rất nhiều!” Từ bậc chứng Thánh Quả trở xuống mấy ai chẳng bị nó làm hệ lụy? Phiền não vô tận, mà xét về cội rễ sanh tử thì chỉ là do tham ái vùi lấp hành nhân, chướng ngại pháp vãng sanh! Hễ nhạt nhẽo một phần tình ái thì thành thục được một phần Tịnh nghiệp! Hãy gắng lên!

* Ðời Mạt Pháp bạc bẽo, con người ưa trá ngụy. Chỉ nên gởi tâm nơi Tịnh nghiệp thì mầm Huệ mới nảy nở, giống Ðạo mới thành thục. Ngày sau được ở trước Phật, liên hoa hóa sanh, trở thành người căn cơ thượng thượng vậy!

* Kinh dạy: “Biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ tâm tưởng sanh. Lúc tâm chúng sanh tưởng Phật thì tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Mấy câu ấy chính là cốt lõi bí mật của Niệm Phật tam muội. Hết thảy pháp quán không pháp nào là chẳng phát xuất từ đấy.

* Kinh Ðại Tập dạy: “Nếu ai chỉ niệm A Di Ðà Phật thì gọi là vô thượng thâm diệu Thiền”. Chí tâm tưởng tượng lúc gặp Phật chính là pháp bất sanh bất diệt.

* Thiền sư Trí Giác bảo: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.

* Phật là lý Bổn Giác, niệm là trí Thỉ Giác. Vì vậy, ngay trong lúc niệm Phật thì Thỉ hợp với Bổn, Lý – Trí ngầm khế hợp, năng lẫn sở cùng mất; tự – tha chẳng hai! Không có đức Phật nào ở ngoài niệm để được niệm bởi niệm đó. Không có niệm nào ở ngoài Phật để niệm đức Phật ấy. Siêu tình ly kiến, ly cú tuyệt phi, thẳng tắt, viên đốn, không chi hơn được! Trừ niệm Phật ra thì có diệu quán nào khác để thành tựu đâu?

* Tháng ngày tàn còn mấy? Con đường ổn đáng nhất, dễ dàng nhất chỉ là lấy câu chơn ngôn sáu chữ để khuyên lơn cố gắng. Ðấy chính là vị thuốc hay lấy từ biển để trị bịnh ngặt, trị bịnh từ ngọn đến gốc, bịnh cấp bách hay bịnh mạn tính đều thích hợp. Quý ở chỗ tin tưởng sâu xa, tận lực tu hành, chuyên trì mà thôi!

* Nếu tâm mình niệm niệm chán lìa ngũ dục, khắng khít tưởng nhớ Phật A Di Ðà, ưa thích nguyện được thân cận như con nhớ mẹ, chẳng bị nghiệp cảnh lôi kéo, chẳng bị kẻ khác làm mê lầm, quyết hướng đến Tây Phương thì nhất định sẽ liên hoa hóa sanh trong thế giới Cực Lạc, thấy Phật, [được Phật] thọ ký.

* Mắt thường ngắm hình tướng Phật, tai thường nghe lời Phật dạy, mũi thường ngửi mùi hương của Phật, lưỡi thường xưng niệm Phật hiệu, thân thường lễ tượng Phật, ý thường nghĩ đến Phật pháp. Cả sáu căn không căn nào chẳng chuyên chú vào Phật cảnh. Giữ liên tục như thế không gián đoạn, không xen tạp.

* Biết rõ chúng sanh và Phật như một, tâm và cõi nước chẳng hai, mượn y báo, chánh báo cõi kia để hiển lộ tâm tánh của mình. Ðã chẳng lầm tưởng ngoài tánh có Phật, mà cũng chẳng chấp cõi kia chẳng phải là tâm. Chẳng nhọc phương tiện mà tâm tự được khai ngộ. [Ðấy là] phương tiện tối thắng cực dễ để nhiếp khắp hành nhân quy về Tịnh Ðộ.

* Ðối với việc đối trị chướng nặng đời mạt thì phiền não tuy nhiều, nhưng chỉ riêng mình dâm dục chính là căn bản của sanh tử. Ðối với pháp vãng sanh, nó gây chướng ngại nặng nề nhất. Vì thế, khuyên hành nhân nên quán dâm hỏa nơi thân chính là chơn hỏa Tánh Không của Như Lai Tạng.

Hễ cứ khi nào nghiệp phát hiện thì bèn quán sát sâu xa cho đến khi giải ngộ, biến nó thành trí huệ quang. [Làm như vậy] thì chẳng những sự vãng sanh chẳng bị chướng ngại mà hành nhân còn được sanh lên thượng thượng phẩm.

Vì lẽ đó, kinh Tịnh Danh khen ngợi Dâm, Nộ, Si vì thể tánh của chúng chính là Tạng Tánh, còn công dụng nhiễm hay tịnh của chúng thì cũng giống như úp hay ngửa bàn tay mà thôi.

* Các kinh rộng khen Tịnh Ðộ nào là: công đức chẳng thể nghĩ bàn, nào là: pháp thế gian khó tin, hoặc là: hết thảy đức Phật hộ niệm, hoặc là vô thượng thâm diệu Thiền, hoặc là phương tiện hay lạ, hoặc là vua của các tam muội v.v… Cớ sao riêng đối với pháp môn Niệm Phật, chúng sanh lại hay khởi tâm nghi hoặc, thậm chí phá hoại niềm tin trong sạch của người khác, chướng ngại thiện hạnh của kẻ khác. Kẻ bạc phước trí kém thường quen thói như thế đó!

* Lặng lẽ như sống gửi, trường trai thờ Phật, đạm bạc vô dục, siêng tu học đạo.

* Sau khi vãng sanh, được chứng ngộ xong thì nên đoái tưởng Sa Bà, trở lại sống nhờ trong cõi này để giúp bạn lữ, khuyên dỗ quần mê; lại còn phân thân trong cõi nước khác trong những phương khác, ứng tích qua lại ba cõi, trọn chẳng hề nhọc mỏi.

* Minh là chẳng tối tăm, tịnh là chẳng tán loạn. Minh tịnh chính là kết quả của Chỉ -Quán, là thể của Ðịnh- Huệ mà cũng là bản thể của cái tâm. Chỉ – Quán là công phu, Ðịnh – Huệ là nhân hạnh, minh tịnh là công năng. Minh tịnh đến cùng cực thì liền khế hợp ngay với bổn thể. Nếu đạt được như vậy thì sẽ thành Phước Trí Nhị Nghiêm.

* Thân tâm tịch định là Chỉ. Quán tướng lông trắng giữa hai mày của Phật là Quán. Tướng bạch hào rạng rỡ là Minh. Giữ chắc chẳng động là Tịnh. Nghĩa là: nhờ vào thân tướng của Phật để huân tập tâm tánh của ta. Nếu quán trí thành tựu thì sẽ tự nhiên hiển hiện.

* Hễ tu Quán thì phải hiểu rõ vạn pháp duy tâm. Kinh dạy: “Tâm như thợ vẽ khéo, vẽ ra năm thứ ấm. Hết thảy trong thế gian, không gì chẳng tâm tạo!” không điều gì chẳng do tâm tạo. Vì thế, ta biết: tướng hảo của Phật Di Ðà tự nhiên tâm ta vốn sẵn đủ, [tướng hảo ấy] hiện ra trong khi ta nhập Ðịnh cũng chỉ là từ tâm ta phát sanh ra. Tâm này tạo thành tướng hảo, tâm này là tướng hảo, chẳng từ cái khác mà có, chẳng từ bên ngoài vào. Hiểu rõ được như thế thì mới đáng gọi là tu Quán đúng pháp.

* Cổ đức có bài kệ:

Cảnh là Diệu Giả, Quán là Không.
Quán, Cảnh cùng mất chính là Trung.
Nhất tâm dung, tuyệt không tung tích
Lặng chiếu chưa từng có trước sau

Diệu lý Cảnh-Quán viên dung được gói trọn không còn sót trong bốn câu kệ trên. Thấu hiểu được bài kệ trên sẽ hơn hẳn đọc cả mấy trăm quyển sách của tông Thiên Thai!

* Tịnh nghiệp hành nhân nhất tâm trì danh sẽ chắc chắn được vãng sanh. Nếu kiêm tu diệu quán thì phẩm vị còn cao hơn nữa.

* Một câu A Di Ðà Phật chẳng dứt nơi tâm lẫn miệng, tai thường nghe khiến cho tạp niệm không cách nào xen vào được, lũ ma không đường nào lấn vào. Tinh thần vui vẻ, mảy trần chẳng nhiễm, Tín-Nguyện kiên cố thì sẽ mừng gặp thắng duyên

3. Ðại sư Tuân Thức so sánh công đức Niệm Phật

(trích từ Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

Kinh Ðại Bát Niết Bàn chép:

“Giả sử có người trong vòng một tháng thường dùng y phục cúng dường hết thảy chúng sanh vẫn chẳng bằng được một phần mười sáu công đức của người niệm Phật trong một niệm.

Giả sử lấy vàng đúc thành hình người, dùng xe ngựa chuyên chở; cho đến các thứ bảo vật, thứ nào cũng đủ cả trăm món, đem ra bố thí thì vẫn chẳng bằng người phát tâm, giở một bước chân hướng đến chỗ Phật.

Giả sử có người dùng xe voi lớn chở hết các thứ trân bảo trong đại quốc và các thứ anh lạc, thứ nào cũng đủ cả trăm món dùng để bố thí thì vẫn chẳng bằng người phát tâm bước một bước hướng đến Phật.

Nếu dùng tứ sự cúng dường tất cả chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới thì vẫn chẳng bằng người phát tâm bước một bước hướng đến Phật. [Người ấy] đạt được công đức vô lượng vô biên”.

Khuyên khắp những thiện nam tử, thiện nữ nhân tại gia nếu chí tâm tin ưa thế giới Cực Lạc thì vào mỗi sáng sớm nên mặc áo, lắng lòng, chiêm lễ tượng Phật hệt như thấy đức Phật thật sự, chẳng đành để lỡ ngày nào. Nếu như việc công, chuyện tư bề bộn, gấp rút thì phải nên kiên định tâm ý; hễ rảnh lúc nào thì liền bước vào Phật đường thắp hương, đảnh lễ; chủ yếu là “bước một bước hướng đến Phật”! Nếu có lúc nhàn rỗi thì sáng tối đều chẳng bỏ uổng, chẳng quản là sáng hay tối luôn tinh tấn tu hành.

Xin hãy suy xét: công đức “niệm Phật trong một niệm” và “bước một bước hướng đến Phật” còn thù thắng đến như thế đó, huống là trong mỗi niệm, trong mỗi bước đều kinh hành niệm Phật thì sẽ diệt trừ tội chướng và đạt được công đức thật chẳng thể nghĩ bàn!

4. Thuật niệm Phật tu tâm theo pháp sư Sơn Ðường

(trích từ Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

Theo các kinh điển Ðại Thừa khuyên người vãng sanh Tịnh Ðộ, về mặt tu nhân thì có hai thứ: một là Ðịnh, hai là Tán.

1. Thứ nhất là Ðịnh Thiện, tức là dùng tâm quán tưởng A Di Ðà Phật, ức niệm y báo, chánh báo, giáo chủ và bạn lữ trong thế giới Tây Phương Cực Lạc đều chỉ là do tâm tạo, đều vốn tự sẵn có đủ. Do tánh của chính ngay cái tâm ấy là Không, cho nên A Di Ðà Như Lai vốn là Không. Do tâm ta chính là Giả nên A Di Ðà Phật hiển hiện rõ ràng. Tâm ta chính là Trung Ðạo nên A Di Ðà Phật dứt bặt đối đãi chẳng thể nghĩ bàn.

Hoặc là quán tưởng hoa sen nở ra hay còn búp và ta ở ngay trong hoa sen ấy. Hoa sen còn búp biểu thị Không, hoa sen nở biểu thị Giả. Thanh, sắc, hương, vị hình thể tương đồng biểu thị Trung Ðạo.

Vì thế, kinh điển ghi: “Chư Phật Như Lai là Pháp Giới Thân nhập trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh. Vì thế, lúc tâm các ông tưởng Phật thì tâm này là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo; tâm này làm Phật, tâm này là Phật’’.

Ðấy chính là đức Thích Ca Như Lai đích thân khai thị Duy Tâm tam muội, quán thể viên diệu thường trụ. Hiểu rõ chúng sanh, Phật Ðà, y báo, chánh báo, sắc pháp, tâm pháp cõi Tịnh Ðộ Cực Lạc đều là các công đức mà bổn tánh của tâm mình vốn sẵn có đủ, hết thảy cảnh giới chính là do bổn tâm mình quán tưởng ra. Ngoài tâm không có Phật, ngoài tự tánh không có cõi nước. Cứ quán chiếu như thế chẳng ngớt thì sẽ có thể chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn.

2. Thứ hai là Tán Thiện: Tấm lòng chơn thật thanh tịnh tin tưởng vào thế giới Tây Phương Cực Lạc, nhất tâm bất loạn, hệ niệm Phật A Di Ðà từ một ngày cho đến bảy ngày, tiếng niệm không ngớt, niệm niệm chẳng gián đoạn. Kinh dạy: “Chấp trì danh hiệu hoặc trong một ngày… hoặc trong bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì người ấy lúc sắp lâm chung, Phật A Di Ðà cùng các thánh chúng hiện ra trước mặt”. Ðây chỉ là nương vào sự tướng để ức tưởng cõi ấy, chẳng dùng đến ba phép quán Không, Giả, Trung cho nên gọi là Tán Thiện. Vì thế, chỉ cần tuân hành ba thứ Tịnh Nghiệp, hồi hướng phát nguyện được vãng sanh Tịnh Ðộ thì sẽ đều sanh về thế giới Cực Lạc.

Tổ sư Trí Giả đại sư dạy: “Do vì căn cơ có lợi, độn cho nên tu hành có Ðịnh và Tán sai khác”. Quán Phật tam muội gọi là Ðịnh, còn tu các thiện nghiệp khác thì gọi là Tán.

So ra, sức lực của Tán Thiện yếu hơn nên chẳng diệt trừ nổi tội Ngũ Nghịch, mà kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật lại dạy về Quán Phật tam muội nên có thể nhờ đó diệt trừ các tội Ngũ Nghịch, Thập Ác để vãng sanh. Do vậy, chẳng cần luận là Ðịnh Thiện hay Tán Thiện, chẳng luận là độn căn hay lợi căn, tất cả đều là nhân để vãng sanh Tịnh Ðộ, đều có thể xu hướng Vô Sanh, vĩnh viễn không thối chuyển!

5. Liên Trì đại sư Tây Phương Phát Nguyện Văn Giản Chú

(Chú giải sơ lược bài văn phát nguyện vãng sanh Tây Phương của đại sư Liên Trì)

(trích từ sách Phật Thuyết A Di Ðà Kinh Bạch Thoại Giảng Giải)

Tác giả: Lý Viên Tịnh

Ấn Quang đại sư giám định

Chánh văn:

Khể thủ Tây Phương An Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ

(Cúi lạy bậc đại đạo sư tiếp dẫn chúng sanh trong cõi nước An Lạc ở phương Tây; con nay phát nguyện, nguyện được vãng sanh. Kính xin đức Phật từ bi xót thương nhiếp thọ)

Chú giải:

Hai câu đầu bài kệ diễn đạt ý quy mạng nơi Phật; hai câu tiếp đó diễn tả ý cầu Phật gia hộ.

“Khể thủ” nghĩa là dập đầu sát đất. Dập đầu áp sát đất một lát rồi mới ngẩng đầu lên nhằm biểu thị sự cung kính đến cùng cực. Chơn thành và tôn kính thật sự là bí quyết tối diệu để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử.

“Phát” nghĩa là phát động mãnh liệt giống như mũi tên lìa khỏi dây cung, thế chẳng ngừng nghỉ giữa chừng. “Nguyện” nghĩa là mong cầu.

Ba điều Tín, Nguyện, Hạnh là cốt lõi của pháp môn Tịnh Ðộ. Hễ đã có nguyện thì ắt phải có Tín và Hạnh, chẳng được khuyết bất cứ một thứ nào! Ðầy đủ không thiếu sót ba điều này thì sẽ quyết định vãng sanh. Ðại sư Ngẫu Ích nói: “Ðược vãng sanh hay không hoàn toàn là do có hay không có Tín, Nguyện. Phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Lời dạy ấy chính là khuôn phép ngàn năm chẳng thay đổi nổi.

6. Phát Bồ Ðề tâm

Người tu Tịnh nghiệp trước hết phải phát Bồ Ðề tâm thì mới có thể tương xứng bổn nguyện của Phật. Vì thế, phải lấy phát Bồ Ðề tâm làm chánh nhân, dùng niệm Phật làm trợ duyên; sau đấy mới cầu sanh Tịnh Ðộ thì chỉ trong một đời ắt sẽ thành tựu. Nếu không phát Bồ Ðề tâm thì chỉ được hưởng quả báo nhỏ bé trong đường trời người!

Ghi chú: Trong phần chánh văn dưới đây, trong nguyên bản, tác giả Lý Viên Tịnh đã dùng những chữ số nhỏ để đánh dấu cách phân chia chánh văn thành từng câu nhỏ để tiện chú giải từng ý.

Chánh văn:

1Ðệ tử mỗ giáp phổ vị tứ ân tam hữu pháp giới chúng sanh 2cầu ư chư Phật Nhất Thừa Vô Thượng Bồ Ðề Ðạo cố; 3chuyên tâm trì niệm A Di Ðà Phật vạn đức hồng danh, 4kỳ sanh Tịnh Ðộ.

(Ðệ tử tên là… khắp vì tứ ân, tam hữu, pháp giới chúng sanh cầu đạo Bồ Ðề Vô Thượng Nhất Thừa của chư Phật, chuyên tâm trì niệm hồng danh vạn đức của Phật A Di Ðà, nguyện sanh Tịnh Ðộ).

Chú giải:

1. “Tứ ân” là ân cha mẹ, ân chúng sanh, ân Tam Bảo và ân đất nước. “Tam hữu” là Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. “Pháp giới chúng sanh” là hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới.

Hai câu này đều nói về cảnh sở duyên; đây là vì tâm này phải có chỗ nương tựa vào thì mới phát khởi nổi, nhưng cảnh lại có rộng, hẹp, xa, gần sai khác. Tứ ân là gần nhất, hẹp nhất; pháp giới chúng sanh là xa nhất, rộng nhất; tam hữu ở vào khoảng giữa. Bởi thế, phát tâm từ thân đến sơ, từ gần đến xa.

2. Chúng ta phát tâm niệm Phật chẳng phải chuyên vì tự lợi, mà còn phải mong tứ ân, tam hữu, pháp giới chúng sanh đều được độ thoát, cùng chứng đắc Nhất Thừa Vô Thượng Bồ Ðề đạo.

Câu này nói đến cái tâm phát nguyện.

3. “Chuyên tâm” là trong tâm không hề có tạp niệm. “Trì niệm” là niệm niệm chẳng hề quên mất. “Vạn đức hồng danh” nghĩa là một danh hiệu có đủ cả vạn đức.

Câu này nói đến đức Phật được niệm.

4. Câu cuối nói đến nơi chốn mình mong cầu.

7. Sám hối ba chướng:

Ðoạn này tiếp nối ý đoạn trước: Tuy đã niệm Phật phát tâm cầu sanh Tịnh Ðộ, nhưng vì chúng sanh đời mạt căn cơ hèn kém, chậm lụt như vậy nên cần phải gấp rút sám hối những tội chướng ấy. Trừ được chướng ngại thì ắt được vãng sanh. Nếu như chẳng trừ được nghiệp chướng của một trong ba độc thì sẽ phải chịu ác báo trong tam đồ.

Chánh văn:

1Hựu dĩ, nghiệp trọng phước khinh, chướng thâm huệ thiển, nhiễm tâm dị xí, tịnh đức nan thành. 2Kim ư Phật tiền, kiều cần ngũ thể, phi lịch nhất tâm, đầu thành sám hối. 3Ngã cập chúng sanh khoáng kiếp chí kim, mê bản tịnh tâm, túng tham, sân, si nhiễm uế tam nghiệp vô lượng vô biên; sở tác tội cấu vô lượng vô biên; sở kết oan nghiệp nguyện tất tiêu diệt.

(Lại vì nghiệp nặng, phước nhẹ, chướng sâu, huệ cạn, tâm nhơ dễ nẩy nở, đức sạch khó thành. Nay đối trước Phật, năm vóc siêng lạy, dốc sạch một lòng, chí thành sám hối. Con cùng chúng sanh bao kiếp đến nay mê lầm tịnh tâm sẵn có, để tham, sân, si ô uế ba nghiệp, vô lượng vô biên tội cấu đã tạo, vô lượng vô biên oan nghiệp đã kết nguyện đều tiêu diệt)

Chú giải:

1. “Nghiệp” chính là Thập Ác. Thân có ba điều, tức là: giết, trộm, dâm. Miệng có bốn điều là nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều và ác khẩu. Ý có ba điều là tham, sân, si.

“Nghiệp nặng” nghĩa là phạm đủ Thập Ác, hoặc là một lòng một dạ nghĩ tưởng chuyện làm ác.

“Phước” là Thập Thiện, tương phản của Thập Ác. “Phước nhẹ” nghĩa là chỉ tu có mỗi một điều thiện, hoặc chỉ làm lành qua loa. Hoặc là như vừa mới niệm Phật đã than khô họng; vừa mới lễ Phật đã kêu đau lưng! Ðấy đều là những duyên của “phước nhẹ”.

“Chướng” có hai thứ:

a. Trần duyên bức bách và ma tà, ngoại đạo trói buộc; đó là chướng từ bên ngoài.

b. Bịnh tật, chết yểu và ngu si, điên đảo là chướng phát khởi từ bên trong.

“Chướng sâu” là nội chướng lẫn ngoại chướng cùng công phá mình: chẳng hạn như, vừa nghĩ đến chuyện tu hành thì bị bịnh ngặt, vừa hướng đến đạo đã gặp phải tà sư v.v…

“Huệ” gồm có Phương Tiện Huệ (Văn, Tư, Tu) và Chơn Thật Huệ (Kiến Ðạo…). “Huệ cạn” là nghe nhiều chỉ hiểu được đôi chút, hoặc chưa chứng Nội Phàm đã bảo mình đạt tới Phật địa; vừa hiểu biết đôi chút sự việc thế gian đã khoe mình chứng ngộ.

“Nhiễm tâm” chính là tham, sân, si. “Dị xí” nghĩa là: tâm tham luyến khác nào những sợi tơ trong ngó sen cứ kéo dài mãi chẳng đứt; tâm sân nộ như ngọn lửa dễ cháy bùng lên; tâm ngu si như lưới đan mau mắt càng quấn càng dày. Lại có hạng người vừa gặp phải chuyện nhỏ nhặt đã ghim trong lòng bao năm tháng, nghe lời không vừa ý liền kết oán suốt đời; há chẳng phải là “nhiễm tâm dị xí” hay sao?

“Tịnh đức” chính là Giới, Ðịnh, Huệ. “Khó thành” nghĩa là: về Giới thì đối với các luật nghi, giữ được thì ít, vi phạm thì nhiều; về Ðịnh thì đối với Thiền Na dù lớn hay nhỏ, chẳng hề tu tập, hiểu biết; về Huệ thì đối với những Diệu Trí dù Quyền hay Thật thường chẳng có cách nào chứng ngộ được. Hoặc là vừa mới lãnh thọ giới phẩm đã phá ngay giới tướng; vừa vào Thiền đường đã hôn trầm, lao chao. Ðấy chẳng phải là “tịnh đức nan thành” hay sao? Nếu như đã hiểu rõ những điều ấy thì phải nên sanh tâm thẹn hổ sâu xa, thống thiết tự trách, khẩn khoản sám hối thì mới hợp đạo lý vậy!

Cả bốn câu này nói lên nguyên do sám hối, tức là lý do vì sao chúng ta cần phải sám hối.

2. “Ngũ thể” (năm vóc) chính là hai khủy tay, hai gối và trán. Do vì từ thân này tạo ra các nghiệp nên phải dùng ngũ thể rạp lạy để sám hối; làm như vậy nhằm để biểu thị sự cung kính bên ngoài.

“Phi lịch” chính là mở toang ra, tẩy rửa sạch sẽ. Ðấy là do từ ý khởi lên tham sân, cho nên ngày nay cần phải nhất tâm, dốc trọn tấm lòng sám hối. Làm như vậy để biểu thị sự cung kính trong nội tâm.

“Ðầu thành” (gieo tấm lòng thành) nghĩa là đem trọn tấm lòng thành của mình hướng đến Phật. Sám hối là để đoạn cái tâm tiếp nối (tương tục tâm).

Cả bốn câu này nói lên phương pháp sám hối, tức là chúng ta phải nên sám hối như thế nào.

3. “Con cùng chúng sanh” ý nói chẳng phải chỉ có mỗi một người, “từ bao kiếp đến nay” ý nói chẳng phải chỉ mỗi một đời này. Cần nên biết rằng: chúng sanh tạo ra tội nghiệp từ vô thỉ đến nay; đời đời kiếp kiếp lần lượt làm quyến thuộc, chủ bạn, lần lượt giúp đỡ, dắt dẫn nhau gây tạo. Ðã cùng nhau tạo nghiệp thì tất nhiên phải cùng nhau sám hối.

“Vô lượng vô biên” hàm ý chẳng phải chỉ có một chỗ. Vô lượng vô biên lại bao gồm năm ý nghĩa:

– Một là ước về tâm: Một niệm trần lao đã có đủ tám vạn [phiền não], huống hồ là niệm niệm tiếp nối.

– Hai là ước về cảnh: Gây tạo nghiệp trong một chỗ đã là vô lượng, huống hồ là tạo nghiệp khắp cả mười phương.

– Ba là ước về sự: Một nghiệp nếu thành tội đã không ngằn mé, huống hồ là có các nghiệp.

– Bốn là ước về thời: Chỉ một đời đã tạo nghiệp vô lượng, huống hồ là trong cả bao kiếp.

– Năm là ước về người: Một người tạo nghiệp đã là vô lượng, huống hồ là chúng sanh!

Vì thế, nếu như nghiệp chướng có hình trạng thì khắp cả hư không cũng chẳng chứa đựng được nổi!

Câu “mê bổn tịnh tâm” (mê lầm tịnh tâm sẵn có) thể hiện ý sám hối phiền não chướng; câu “nhiễm uế tam nghiệp” diễn tả ý sám hối nghiệp chướng; câu “sở kết oán nghiệp” là sám hối báo chướng. “Nguyện tất tiêu diệt” là nguyện ba thứ chướng trên đây đều tiêu diệt.

8. Lập tứ hoằng thệ:

Nếu tu hành mà chẳng có thệ nguyện thì chỉ e sẽ bị thối thất nên phải dùng bốn pháp này để chế ngự cái tâm. Nếu thiếu sót bốn pháp này thì dễ bị biếng nhác.

Chánh văn:

1Tùng ư kim nhật, lập thâm thệ nguyện: viễn ly ác pháp, thệ bất cánh tạo; 2cần tu thánh đạo, thệ bất thối đọa; 3thệ thành Chánh Giác, 4thệ độ chúng sanh.

(Từ nay trở đi, lập thệ nguyện sâu: xa lìa ác pháp, thề chẳng tạo nữa; siêng tu thánh đạo, thề chẳng lui đọa; thề thành Chánh Giác, thề độ chúng sanh)

Chú giải:

Câu đầu tiên chính là “phiền não vô biên thệ nguyện đoạn”. Ấy là do xem thấy chúng sanh bị tham, sân, si, tà kiến não hại mà mình chẳng cứu độ được cho nên lập ra thệ nguyện này; đấy là nương theo Tập Ðế mà phát tâm.

Câu thứ hai chính là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Do xem thấy lục độ, vạn hạnh… hằng hà sa pháp môn có đủ vô lượng điều xứng tánh khoái lạc mà chúng sanh chẳng tu tập, trái lại còn tạo đủ các điều tội nghiệp, cho nên lập ra thệ nguyện này. Ðây là nương theo Ðạo Ðế mà phát tâm.

Câu thứ ba “thệ thành Chánh Giác” chính là “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Do vì quán sát Phật đã diệt sạch phiền não, chứng đắc niềm vui giải thoát, nhưng chúng sanh bất giác bất tri, phải lầm chịu đủ điều khổ sở, cho nên phát ra lời nguyện này. Ðây chính là y theo Diệt Ðế mà phát tâm.

Câu thứ tư: “Thề độ chúng sanh” chính là “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Do xem thấy chúng sanh bị sanh, lão, bịnh, tử bức bách chịu đại khổ não nên phát ra lời nguyện này. Ðây chính là y theo Khổ Ðế mà phát tâm.

4. Cầu sanh Tịnh Ðộ

Do phát khởi các tâm nguyện như trên, cả hoặc lẫn nghiệp cùng tiêu tan cho nên tam muội mới thành, mới dễ sanh trong chín phẩm hoa sen. Bởi vậy, cần phải cầu sanh Tịnh Ðộ. Nếu không phát nguyện cầu sanh, khó lòng thoát khỏi luân hồi.

4.1. Cầu Phật gia hộ

Chánh văn:

1A Di Ðà Phật dĩ từ bi nguyện lực đương chứng tri ngã, đương ai mẫn ngã, đương gia bị ngã. 2Nguyện Thiền Quán chi trung, mộng mị chi tế, đắc kiến A Di Ðà Phật kim sắc chi thân, đắc lịch A Di Ðà Phật bảo nghiêm chi độ, đắc mông A Di Ðà Phật cam lộ quán đảnh, quang minh chiếu thân, thủ ma ngã đầu, y phú ngã thể.

(Xin A Di Ðà Phật do từ bi nguyện lực nên chứng biết cho con, nên thương xót con, nên gia hộ con. Nguyện trong khi Thiền Quán, hay trong lúc mộng mị được thấy thân sắc vàng của Phật A Di Ðà, được dạo qua cõi báu trang nghiêm của Phật A Di Ðà, được Phật A Di Ðà dùng cam lộ rưới đảnh, quang minh chiếu đến thân, tay Phật xoa đầu con, y ngài trùm thân con)

Chú giải:

Do tâm Phật từ bi vô lượng nên Phật có nguyện lực. Do có nguyện lực nên sẽ chứng biết. Do chứng biết nên sẽ xót thương. Do xót thương nên sẽ gia hộ. Cả bốn câu này diễn tả tấm lòng mong Phật hộ niệm.

Những câu kế tiếp đó diễn tả các cách đức Phật hộ niệm chúng ta.

 

4.2. Chánh phát nguyện

4.2.1. Phát nguyện trong đời hiện tại

Chánh văn:

Sử ngã túc chướng tự trừ, thiện căn tăng trưởng, tật không phiền não, đốn phá vô minh, viên giác diệu tâm, khuếch nhiên khai ngộ, Tịch Quang chơn cảnh thường đắc hiện tiền.

(Khiến con túc chướng tự trừ, căn lành tăng trưởng, chóng sạch phiền não, mau phá vô minh, đột nhiên khai ngộ viên giác diệu tâm, Tịch Quang chơn cảnh thường được hiện tiền)

Chú giải:

Do được Phật dùng cam lộ quán đảnh nên ba thứ túc chướng: hoặc, nghiệp, khổ tự diệt trừ. Do được quang minh của Phật chiếu đến thân nên ba thứ căn lành: Giới, Ðịnh, Huệ tự được tăng trưởng.

Chữ “phiền não” chỉ kiến hoặc và tư hoặc. Phiền não làm loạn tâm thần. Chữ “vô minh” chỉ căn bản hoặc, chẳng ngộ được Ðệ Nhất Nghĩa Ðế. Do được đức Phật dùng tay xoa đảnh đầu nên mau chóng phá sạch các phiền não, vô minh.

“Viên giác diệu tâm” là Năng Chứng Trí. “Tịch Quang chơn cảnh” là lý sở chứng. Do được đức Phật dùng y trùm lên thân ta, đột nhiên ta khai ngộ được Viên Giác diệu tâm cho nên chơn cảnh Tịch Quang thường hiện tiền.

4.2.2. Lâm chung nguyện

Chánh văn:

Chí ư lâm dục mạng chung dự tri thời chí, thân vô nhất thiết bịnh khổ ách nạn, tâm vô nhất thiết tham luyến mê hoặc. Chư căn duyệt dự, chánh niệm phân minh, xả báo an tường như nhập Thiền Ðịnh.

A Di Ðà Phật dữ Quán Âm, Thế Chí, chư thánh hiền chúng phóng quang tiếp dẫn, thùy thủ đề huề. Lâu, các, tràng phan, dị hương, thiên nhạc, Tây phương thánh cảnh chiêu thị mục tiền linh chư chúng sanh kiến giả, văn giả hoan hỷ cảm thán, phát Bồ Ðề tâm.

(Cho đến lúc mạng sắp chấm dứt, biết trước sắp đến lúc. Thân không có hết thảy bịnh khổ, nạn ách; tâm không có hết thảy tham luyến, mê hoặc. Các căn vui sướng, chánh niệm phân minh. Bỏ xác thân một cách an lành như đang nhập Thiền Ðịnh.

A Di Ðà Phật và Quán Âm, Thế Chí, các bậc thánh hiền phóng quang tiếp dẫn, đưa tay dắt dìu. Lầu, gác, tràng phan, hương lạ, nhạc trời. Thánh cảnh Tây phương hiện rõ trước mắt khiến các chúng sanh: kẻ thấy, người nghe mừng rỡ, khen ngợi, phát Bồ Ðề tâm)

Chú giải:

Biết trước ngày mất ba ngày hoặc bảy ngày thì gọi là “dự tri thời chí” (biết trước sắp đến lúc vãng sanh).

“Bịnh khổ” là tứ đại nơi thân chẳng điều hòa. “Nạn ách” là các nạn: nước, lửa, đao binh, độc dược…

“Tham luyến” là chẳng hạn như ăn chay lâu năm, lúc lâm chung lại ngã mặn; hoặc đang một dạ niệm Phật, khi lâm chung chợt sợ chết; hoặc vì ân ái vấn vương thậm chí khó lòng chia tay, buông bỏ nổi; hoặc là hứa nguyện, van vái, cam tâm cầu thần, chạy thuốc v.v…

“Mê hoặc” là tự nghi mình nghiệp chướng sâu nặng, hoặc nghi công hạnh cạn mỏng, hoặc nghi Phật chẳng đến rước v.v…

“Các căn vui sướng” là năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân không bịnh, không nạn. “Chánh niệm phân minh” chỉ căn thứ sáu tức là ý căn không tham, không lầm lạc.

“Bỏ xác thân một cách an lành” là buông bỏ cái thân mình đã thọ đây chẳng hề lo lắng, chẳng hề mê loạn. “Như nhập Thiền Ðịnh” là hoặc ngồi mà tịch, hoặc đứng mà thác.

Từ câu “A Di Ðà Phật” trở đi nói rõ về sự cảm ứng đạo giao. Còn từ câu “khiến các chúng sanh” trở đi là nói đến sự lợi ích do thấy và nghe.

4.2.3. Vãng sanh nguyện

Chánh văn:

Ngã ư nhĩ thời thừa kim cang đài tùy tùng Phật hậu; như đàn chỉ khoảnh sanh Cực Lạc quốc: thất bảo trì nội, thắng liên hoa trung. Hoa khai kiến Phật, kiến chư Bồ Tát, văn diệu pháp âm, hoạch Vô Sanh Nhẫn.

Ư tu du gian, thừa sự chư Phật, thân mông thọ ký. Ðắc thọ ký dĩ, tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, vô lượng bách thiên đà ra ni môn, nhất thiết công đức giai tất thành tựu.

(Con trong khi ấy nương đài kim cang theo sau đức Phật. Như trong khoảng khắc vừa khảy ngón tay sanh cõi Cực Lạc trong ao bảy báu, trong hoa sen diệu. Hoa nở thấy Phật, thấy các Bồ Tát, nghe tiếng pháp mầu, đắc Vô Sanh Nhẫn.

Chỉ trong khoảnh khắc thờ kính chư Phật, liền được thọ ký. Ðược thọ ký xong, ba thân, bốn trí, ngũ nhãn, sáu thông, vô lượng trăm ngàn đà-ra-ni môn, hết thảy công đức thảy đều thành tựu)

Chú giải:

Câu “như đàn chỉ khoảnh” (như trong khoảng khảy ngón tay) ngụ ý vãng sanh cực kỳ mau chóng. “Ðắc Vô Sanh Nhẫn” là hiểu rõ các pháp vốn bất sanh bất diệt.

“Tam thân” là Pháp Thân, Báo Thân và Hóa Thân. “Tứ trí” là Ðại Viên Kính Trí, Bình Ðẳng Tánh Trí, Diệu Quán Sát Trí, Thành Sở Tác Trí.

“Ngũ nhãn” là nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.

“Lục thông” là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông và lậu tận thông.

“Ðà ra ni” dịch nghĩa là Tổng Trì, tức là: bao gồm hết thảy các pháp, nắm giữ vô lượng nghĩa.

Từ câu “thờ kính chư Phật” trở đi diễn tả rõ hình tướng của các công đức ấy.

5.5 Trở vào Sa Bà

Chánh văn:

Nhiên hậu, bất vi An Dưỡng, hồi nhập Sa Bà, phân thân vô số biến thập phương sát, dĩ bất khả tư nghị tự tại thần lực, chủng chủng phương tiện độ chúng chúng sanh hàm linh ly nhiễm, hoàn đắc tịnh tâm, đồng sanh Tây Phương, nhập Bất Thối địa.

(Sau đó, chẳng lìa An Dưỡng, trở vào Sa Bà, phân thân vô số khắp mười phương cõi, dùng sức thần lực chẳng thể nghĩ bàn, các thứ phương tiện độ các chúng sanh khiến đều ly nhiễm, khôi phục tịnh tâm, cùng sanh Tây Phương, chứng đắc Bất Thối)

Chú giải:

“Chẳng lìa An Dưỡng” là Pháp Thân bất động. “Phân thân vô số” là Hóa Thân ứng hiện. “Khắp mười phương cõi” là chẳng phải chỉ thấy hiện hữu trong một cõi nước.

“Phương tiện độ sanh” là dùng tài thí để nhiếp phục kẻ tham lam, dùng ái ngữ nhiếp phục kẻ ương ngạnh; dùng lợi ích nhiếp phục kẻ làm lành; dùng đồng sự nhiếp phục kẻ làm ác.

“Ly nhiễm” là ba thứ hoặc chướng chẳng khởi; “tịnh tâm” là chứng trọn vẹn ba đức. Bất Thối gồm có ba loại:

a.Vị Bất Thối: Trọn chẳng lui sụt xuống phàm phu, Nhị Thừa.

  1. Hạnh Bất Thối: Trọn chẳng lui sụt hạnh nghiệp đã tu.
  2. Niệm Bất Thối: Quyết không có một niệm nào lầm lạc, quên mất.

“Nhập Bất Thối địa” còn có nghĩa là một khi đã sanh về Tây Phương thì dù có sanh trong Biên Ðịa, Nghi Thành đi nữa, quyết cũng chẳng đọa trong tam đồ.

Hai câu “khiến đều ly nhiễm…” đều nói về lợi ích trong hiện đời. Còn câu “cùng sanh Tây phương” nói đến lợi ích trong đời sau.

Chánh văn:

Như thị đại nguyện, thế giới vô tận, chúng sanh vô tận, nghiệp cập phiền não nhất thiết vô tận, ngã nguyện vô tận.

(Ðại nguyện như thế, thế giới vô tận, chúng sanh vô tận; nghiệp và phiền não hết thảy vô tận, con nguyện vô tận).

Chú giải:

Ðoạn văn này để tổng kết các đoạn trên.

6. Hồi hướng khắp cả

Chánh văn:

1Nguyện kim lễ Phật, phát nguyện, tu trì công đức, hồi thí hữu tình, tứ ân tổng báo, tam hữu tề tư. 2Pháp giới chúng sanh đồng viên Chủng Trí.

(Nguyện công đức lễ Phật, phát nguyện, tu trì hiện tại hồi hướng hữu tình, báo trọn bốn ân, giúp khắp ba cõi. Pháp giới chúng sanh cùng được viên mãn Nhất Thiết Chủng Trí)

Chú giải:

Hồi hướng có ba loại:

1. Một là hồi kỷ hướng tha: Do vì từ vô thỉ đến nay, chúng sanh làm các nghiệp lành gì cũng chỉ nghĩ đến bản thân và quyến thuộc mà thôi nên nay xoay cái tâm ấy hướng đến khắp các chúng sanh, đem những việc mình đã tu thí hết cho họ, chỉ nguyện người khác được lợi, chứ chẳng mong bản thân mình hưởng an lạc.

Ðấy cũng là “báo trọn bốn ân, giúp khắp ba cõi”.

2. Hai là hồi nhân hướng quả: Từ vô thỉ đến nay, chúng sanh chỉ biết mong cầu phước báo trong đường trời, người; chẳng biết mong cầu thánh quả xuất thế nên nay xoay cái tâm ấy hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề: đem hết thảy các thiện nghiệp mình đã tu để trọn trang nghiêm Phật quả.

Ðây chính là hồi hướng “pháp giới chúng sanh cùng được viên mãn Nhất Thiết Chủng Trí”. “ChủngTrí” chính là trí huệ của Phật.

3. Ba là hồi sự hướng lý: Cả hai loại hồi hướng trên đều là sự tướng; nhưng Lý vốn nằm trong Sự nên cả ba thứ hồi hướng đều được trọn vẹn; do đó, chẳng cần phải nói rõ.

Hồi sự hướng lý là năng tu (người tu), sở tu (công đức, thiện nghiệp do người ấy tu tạo), tâm năng hướng (tâm hồi hướng), sở hướng (công đức được mình đem hồi hướng) xét trong Thật Tế (Lý Nhất Thể) thì những cặp khái niệm nhị nguyên ấy đều tiêu diệt hết, không còn có các tướng sai biệt.

Thêm nữa, người tu Tịnh nghiệp làm được điều lành gì đều trước hết hồi hướng về Tây phương. Do tâm ấy, sẽ chuyển hóa phước ấy hướng theo chánh lộ vãng sanh Tây Phương.

Nếu chẳng hồi hướng chỉ e tâm bị phước ràng buộc, lại sanh trong tam giới, phải hiểu rõ điều này!

 

Trang: 1 2 3 4