SỐ 194
NHỮNG KINH DO TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP THÀNH
Hán dịch: Phù Tần, Kế Tân Tam tạng Tăng Già Bạt Trừng
Việt dịch: Thích Chánh Lạc 

 

QUYỂN THƯỢNG

Bài tựa và Quyển thượng 

Tăng Già La Sát, người nước Tu Lại. Sau khi đức Phật nhập diệt 700 năm, ngài sanh ở nước này, xuất gia học đạo, du hành, giáo hóa các nước, cho đến lãnh thổ nước Kiền Ðà Việt, làm thầy của vua Chân Ðà Kề Nị. Ngài là bậc cao minh tuyệt thế, có nhiều dịch thuật và sáng tác. Tại nước đó, ngài tập thành kinh ” Tu Hành Kinh ” và ” Ðại Ðạo Ðịa Kinh “. Ngài lại trước tác Hiến chương của kinh này rằng: ” Ðức Thế Tôn từ lúc mới thành đạo đến nay bị chìm đắm hư vô, sở hành không có lớn, nhỏ, phải theo sự việc mà luận bàn, từ việc du hóa, hạ tọa an cư, không việc gì mà không thiếu sự khúc chiết. Tuy bổn hạnh chiếu khắp, vấn đề độ đời như các kinh chép. Ðức Phật lúc đi, lúc ở thì hết sức bất ngờ. Nay xem kinh này mà nhiều người được ngộ đạo, truyền bá cho đến nay. Cho dù ta có được sức lực của đại lực sĩ, chân thật không hư dối, đứng ở dưới cây này, tay vịn lá cây mà bỏ thân mạng. Cho dù có thế lực to lớn của con đại tượng cũng không thể di chuyển được ta tí nào. Ngay lúc trà tỳ cũng không đốt lá cây này, nhưng sau đó ta liền đứng mà mạng chung. Vua Kế Nị Tự đến nhưng không thể lay động được. Vua liền dùng voi lớn kéo nhưng vẫn bất động, đến chỗ trà tỳ, hơi nóng bốc lên mà lá vẫn không thương tổn. Ta liền bay lên cõi trời Ðâu Thuật, cùng đàm luận điều cao xa trong của đạo sĩ Di Lặc, lá vị Phật sắp bổ xứ vào thời Hiền kiếp thứ tám “.

Vào năm 20 niên hiệu Kiến – Nguyên, Sa môn Tăng Già Bạt Trừng, người nước Kế Tân mang kinh này đến Trường An, Thái thú Võ Oai là Triệu Văn Nghiệp xin phép được xuất bản. Ngài Phật Niệm phiên dịch, ngài Huệ Trung làm Bút thọ, chính lúc ngài Mộ Dung gặp nạn ở ngoài thành (cận giao), nhưng dịch phẩm không ổn (?). Tôi cùng với Pháp Hòa đối chiếu để kiểm định, đến ngày 30 tháng 11 mới xong. Năm này xuất bản 60 quyển kinh A Hàm, 46 quyển kinh Tăng Nhất A Hàm, trong lúc đánh trống (phạt cổ), gõ mõ (kích thác) để phổ cáo, xuất bản hơn 100 quyển kinh này. Dù lúc cùng đường hay thông suốt vẫn không biến đổi, há chẳng phải là di tích xưa của tiên sư đó sao?”.

 

TỲ KHEO TĂNG GIÀ LA SÁT
THÀNH KINH PHẬT HẠNH.

Bấy giờ Bồ tát lúc mới tu hành, vì thương xót thế gian nên phát tâm với đạo. Vì Ngài xuất gia cho nên thực hành nhẫn nhục; vì không tương ứng nên tâm Tam muội bị đoạn; vì vô trí nên hành trí huệ Kim-cang ; vì để trừ bỏ sự đùa giỡn, hành chơn đế, cho nên từ bỏ ý ô uế ; vì trực hạnh nên hành khổ hạnh; vì có lòng từ hiếu với cha mẹ cho nên kiên cố không bỏ thệ nghiện. Vì ly dục cho nên làm theo điều nhiêu ích ; vì đã niệm báo ân cầu giải thoát cho nên mặc áo cà sa; vì muốn tịch tĩnh ở nơi núi rừng cho nên không để ý mọi việc ; vì hành giả tìm hiểu nơi người thân cho nên biết thân mình là sự trói buộc ; vì miệng thực hành không nói dối cho nên đối với tất cả gốc khổ, ý không niệm nhưng không xả hiện hữu vậy.

Hoặc lại lúc Bồ tát thực hành trí huệ, nhờ những điều đã biết cho nên gọi là trí huệ, luôn luôn trong mọi hành động của Ngài và sự không hiểu sâu nghĩa lý của các chúng sanh, Ngài mãi mãi khuyến hóa, phân biệt bằng trí tuệ xác quyết của Ngài: đây là sâu, đây là cạn, thanh tịnh, rất có lợi; đây là ác, đây là xấu, thân cận thiện tri thức; pháp này không loạn, vô lượng vô hạn, cũng không tăng giảm. Giống như cái kiếm, cái kích đã chặt thì đứt, trí huệ của Ngài cũng lại như vậy. Vì hiện đệ nhất nghĩa cho nên có trí huệ sáng suốt ; vì ý mình tối tăm, bế tắc cho nên mở cái thấy tương ứng với sự sáng suốt ; nhờ có cái hạnh nên căn môn đầy đủ. Vì không khiếp nhược cho nên thể hiện oai lực của mình, vì muốn đoạn tài nghiệp bất thiện nên hiện ra có tài nghiệp; bất thiện là không thể nắm bắt được, cho nên hiện ra trân bảo như vậy; vì đoạn mạng cho nên hiện ra thọ mạng; vì đoạn các kiết sử cho nên ra sức quán sát việc lâu xa; cùng người phân biệt đều khiến cho họ giải quyết rỏ ràng để cứu mạng họ khỏ bị nguy khốn; vì sự ưu sầu cho nên khởi tâm hoan hỷ; vì để dứt ý không khởi cho nên lìa pháp ác mà thành tựu thiện pháp; vì bỏ tà theo chánh, nhờ vậy cho nên Ngài thành tựu sức mạnh trí tuệ. Vì sự sanh tử cho nên muốn đoạn vọng kiến, đến chỗ giải thoát. Vì dạo khắp thế gian cho nên tu hành tất cả cảnh giới. Cứu cánh của nhất thiết trí và để đạt đến vô vi (Niết-bàn).

Khéo đứng không di động
Liền đến cõi Bất hoàn
cả trăm kiếp tu hành
Không có tưởng ba đời
Không có sợ sanh tử
Tiêu diệt hết ba cõi
Muốn thanh tịnh chúng sanh
Ngài không còn hy vọng.

Bấy giờ, khi Bồ tát tu hành chân đế, tên của chân đế đó là tâm không hư vọng. Không nói hai lời, thường vui thích việc đó, cũng không có bỉ – thử, luôn luôn vui thích sự thật ấy; trong lúc thức hay ngủ, chưa từng đù giỡn, cũng không thích nói dối.

Lại nghe: Ngày xưa có một vị Vua tên là Tu Ðà Ma, ở trong cung vua có chế ra loại trống pháp để thống lãnh 4 cõi, khi đánh lên thì quần thần, nhân dân không ai không nghe. Vị Vua có đức như vậy, đi đến ao nước để tắm rửa, cởi lên xe Vũ Bảo, muốn ra khỏi thành. Bấy giờ có một Bà la môn nhan sắc đoan chánh, thông minh trí tuệ, muốn đến chỗ Vua để xin châu báu. Bà la môn liền tâu với Vua, tự xưng tên họ, đưa tay lên, nói lời cầu xin.

Bấy giờ nhà vua nghe tiếng nói người hành khất liền hoan hỷ, mới bảo rằng:

– Thôi đi, thôi đi, này Tôn giả ! Chờ ta về nước sẽ cứu tế cho.

Phàm phép của Vua là không nói hai lời. Nhà vua liền đến ao nước tắm rửa. Tắm rửa xong liền muốn trở về nước. Bây giờ có con quỷ có cánh bay (Sí-Phi) tên là Yết-Ma-sa-ba-la, hiện tướng khủng bố, tay cầm thân Vua. Khi ấy nhà vua liền tự rơi nước mắt. Lúc đó con quỷ quán thấy tâm của nhà vua như vậy, liền hỏi:

Tại sao Ðại vương ? Vì sao Ngài lại khóc, có tâm ưu sầu thế này?

Bây giờ Bồ tát trả lời:

– Ta không có cái tưởng về thân ta. vì ta có hứa cho của báo cho vị Bà la môn cho nên ta mới ôm lòng sầu lo như vậy.

Khi ấy con quỷ nói với nhà vua:

– Tôi chưa bao giờ nghe chuyện hết sức kỳ quặc như vậy. Thế gian rất hiếm có. Nếu vì nhân dân của Ngài, vậy tôi cũng đến để xem thử. Nay nếu tôi thả Vua ra, vậy Vua có trở lại chăng ?

Bây giờ Vua hết sức sung sướng.

Khi ấy con quỷ có hai cái cánh, nó bay lên hư không, quán xét lời nói của Vua, liền thả Vua ra.

Bây giờ Bồ tát trở về nước, hoan hỷ lấy của cho Bà la môn ấy. Ðó chính là lời nói sự bố thí không hu vọng, không hối hận, có sự thẩn xét chân thật.

Khi ấy vị quốc vương liền trở lại chỗ con quỷ, tự xưng tên họ nói:

– Ta đã đến đây.

Bây giờ con quỷ thấy hình mạo của nhà vua liền kinh sợ, vì Vua đã nói lời thành thật. Nhan sắc của Vua không thay đổi, trừ bỏ sân hận, không có ý sát hại. Nó liền nói:

– Thật là chuyện hết sức kỳ dặt, ta chưa từng nghe bao giờ.

Nó nói bài kệ:

Ta thà uống chất độc
Dao bén cắt thân thể
Phước xưa sanh vương tộc
Dũng mãnh không hư dối
Nay tôi tôn kính Vua
Cải hối, tu hạnh thiện
Nước đồng sôi đổ miệng
Ai dám hại Pháp vương ?!
Ðức Ngài không ai bằng.
Nên theo với quốc vương
Theo Vua, không giết nữa.
Cúng sanh được an lạc.

Bây giờ khi Bồ tát tu hạnh nhu hòa, tâm Ngài nhu hòa, có danh tiếng tốt, lời nói không thô bạo. Vì muốn cầu pháp nên thường gìn giữ ý, chưa từng sanh lòng oán ác, không sanh hy vọng, miệng không nói lời ác; vì người ngu si nên hiện tướng trí huệ ; vì từ tâm cấu uế nên ai cũng khen ngợi, không có ý tưởng tự cao, không tùy thuận các điều hư huyễn. Nhờ chư Phật ủng hộ nên đạt được cái đức như vậy. Ngài cũng không có điều gian ngụy. Những ô uế như vậy thảy đều tránh xa. Bên trong Ngài có được tâm nhu hòa, thiện căn vốn đầy đủ, mọi người đều mến yêu; Ngài không tiếc thân mạng nên thần tiên đều khen ngợi. Ngài có sự nhu hòa như vậy thì có thể quán biết quả báo thiện ác của Ngài. Trí huệ công đức của Ngài đầy đủ như đã nói trên. Gốc thiện cũng không đoạn mất khi bần cùng. Ngài bố thí vàng bạc, châu báu để trừ bỏ các ô uế. Lúc Ngài thọ 10 tuổi, gặp điều ách nạn, vì muốn tự tại sống còn nhưng Ngài cũng không sát sanh. thân tạo nghiệp lành, tâm sanh của cải, miệng thì truyền giáo. khi hành động tạo nghiệp, Ngài trừ khử những điều ô uế ngăn che.

Bây giờ, này các Tỳ Kheo, người ở thế gian có thân đã được dừng nghỉ, nó không phải là sở hữu của thiện ác, những ý tưởng sở hữu đã chất dứt hoàn toàn, nhờ đã chấm dứt hoàn toàn nên xa lìa sự nhiễm trước mà đời trước đã tạo ra. Khi nhiễm trước đã đoạn, đã hết nên không tạo ra nữa, nên đoạn trừ gốc khổ, hết sự bại hoại.

Nói như vậy xong, làm pháp trụ này, ở trong diệu pháp tâm sâu ấy, như tay cầm bánh xe 6 tháng mà không giãi đãi.

Các đức Phật Thế tôn đều biết rỏ hết, đều thành tựu hết. Bây giờ liền nói bài kệ:

– Không tạo ý dua nịnh
Nên không tạo nghiệp ấy
Ý dũng mãnh như biển
Ðầu mặt con đảnh lễ
Biết rõ nghiệp tà pháp
Luôn quán sát như vậy
Nhu hòa không thô bạo
Vô trước, đời hiếm có.

Bây giờ, lúc Bồ tát từ hiếu đối với cha mẹ, tâm Ngài có sự báo ân, cung kính, thừa sự, xa điều ác, theo điều thiện, tùy thời cúng cấp, tối ngủ dậy sớm thăm dò ý cha mẹ, không việc gì mà không làm. Những điều cha mẹ giáo huấn, ngăn cấm, chưa từng vi phạm. Ngài có tâm nhu hòa như vậy cho nên mới có việc làm như vậy. Tâm Ngài đã tu hành, thường tự quán sát, nên làm việc gì, những điều đã nghe giáo huấn liền biết rõ. Tâm thường hoan hỷ, ái kính tất cả. Nhớ nghĩ, biết rỏ tâm của cha mẹ nên thường nghĩ việc muốn báo ân. Ðiều này không bao giờ có: đó là không nói lời thô bạo.

Lại nghe, ngày xưa, lúc Ngài chưa thành Bồ tát, còn làm con đại tượng vương, đoan chánh vô song, đầu,mắt, da, lông thảy đều đoan chánh, ai xem cũng không chán, tai dầy, sung mãn hơn các con voi khác, răng dài, móng vuông vức, có tâm vui thích, môi răng đều đỏ, đầu tai đều tròn trịa. Hình thể vuông vức, hết sức to lớn, cao rộng, giống như hòn núi cao, bước đi chững chạc, bảy chỗ đầy đủ, giống như hoa sen xanh, bước đi vững vàng không có trở ngại, do long nữ sanh ra, rong chơi trong núi đầm, sắc như tuyết trắng. Khi bị thợ săn bắt được, dắt đi, bấy giờ cây cối, núi rừng thảy đều nghiên mình buồn thảm, nước tự dâng lên chỗ voi ở, Thợ săn đem dâng các đồ ẩm thực ngon ngọt, nhưng voi vũng không chịu ăn.

Bấy giờ người huấn luyện voi đến trước, quỳ dài chắp tay nói với con voi ấy bằng bài kệ:

– Tôi vốn tạo thiện tâm
Sao lại không chịu ăn
Mời voi thần đến đây
như có tâm oán hận ?

Bấy giờ voi thần liền nói kệ đáp lại:

– Mẹ tôi bị mù mắt
Nhớ mẹ không thể ăn
Già yếu thêm sầu não
Cho nên xin tha mạng.

Ở trong núi sâu kia, mẹ tôi không ăn, đói khát, chắc chắn sẽ bị chết, việc này hết sức độc hại, thống khổ làm cho mẹ con phải ly biệt. Vì sự sầu lo ấy nên tôi không thể ăn được. Không có quả ngon để dâng cho mẹ tôi, như vậy, cả tôi và mẹ tôi đều chết.

Con voi thần nói những lời chua cay ấy xong, lúc ấy người thợ săn liền hoan hỷ thả voi ra.

Bấy giờ ở nước Câu Tát La có một trụ xứ ở ẩn của một học sĩ tên là Diễm Thí. Vị này tu hành thập thiện đầy đủ công đức, ôm bát đi lấy nước. Khi ấy quốc vương nước Câu Tát La xuất hành để đi săn, đuổi theo con nai từ trong núi phóng ra. Nhà vua liền buông tên, lỡ bắn trúng Diễm Thí. Bấy giờ Diễm Thí kêu la, lo cho cha mẹ, nói:

– Tôi giống như con chim mà không có hai cánh, Cha mẹ tôi tuổi già, mù lòa không thấy đường, nay tôi bị trúng tên độc, đều sẽ phải chết. Cha mẹ tôi thì tu Tứ đẳng tâm.

Liền nói bài kệ:

– Vì cha mẹ tôi già
Khi cha mẹ sanh con
Tự giác và giác tha
Như sắc, thinh và văn
Tối thắng thương quần sanh
Phát tâm đều diệt độ
Mắt mù không thấy đường
Muốn được nhờ sức con
Tất cả đồng tự tướng
Người trí tự dứt ý
Ðều đưa đến đạo tràng
Tối diệu nghĩa thế gian.

Lúc mới phát tâm thì gọi là Bồ Tát, có các hạnh như vầy: tiêu diệt vô minh, mà không có khả năng trừ vô minh. Vì muốn hiện trí tuệ sáng suốt để tu hành nên trừ bỏ cái sở giác. Bồ Tát quán sát như vầy: Bấy giờ đối với các loại chúng sanh, thiện ác thực hành lòng đại bi.Vì thương xót thế gian cho nên phát tâm đến với đạo. Chúng sanh đều là ái trước, cũng không tự dùng năng lực để trừ sở giác. Bồ Tát quán sát như vậy. Bấy giờ đối với các loài chúng sanh mà khởi lòng đại từ. Chúng sanh bị sắc trói buộc, bị dục ái trói buộc, không ai có thể hiểu sắc, ngoại trừ người trí tuệ.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi lòng đại từ. Ðó là: Chúng sanh bị hai ý niệm oán và ghét giao nhau, trói buộc, không ai có thể biết được điều ấy, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với loài chúng sanh mà khởi tâm đại từ, đó là: Chúng sanh bị gánh nặng khổ, bị khổ làm hại, không ai có thể vượt qua gánh nặng khổ này, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với loài chúng sanh mà phát sanh đại từ, là: Loài chúng sanh thường ôm lòng sợ hãi, trăm thứ khổ cùng lúc ập đến, không ai có thể trừ được sự sợ hãi này, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với loài chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Loài chúng sanh bị sự đói kém, khát ái áp bức, không ai có thể trừ được đói kém này ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với lòng chúng sanh khởi lòng đại từ, đó là: Loài chúng sanh bị bệnh khốn bức bách, một bệnh chuyển động thì trăm thứ bệnh tăng, không ai có thể thoát khỏi bệnh này, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi lòng đại từ, đó là: Loài chúng sanh bị sanh, già, bệnh, chết thường theo đuổi thân mà bị tai hoạn. Không ai có thể thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết để được vô vi ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Loài chúng sanh mọi việc đều trở thành bỉ ổi, đắm trước tưởng hữu tường, không ai trừ được sự kết thúc bỉ ổi đó, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với loài chúng sanh khởi lòng đại trừ, đó là: đối với chúng sanh có việc không làm được nên chí tánh hoang mang, hỗn loạn, không ai có thể làm việc ấy rốt ráo được, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi lòng đại từ, đó là: Chúng sanh tham trước một chút mùi vị mà phải trải qua các thứ khổ, không ai có thể thoát khỏi khổ não này, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Chúng thường ôm lòng do dự, mong mỏi điều xa sự chánh, gần sự tà. Không ai có thể đoạn trừ sự hồ nghi ấy, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi lòng đại từ, đó là: Chúng sanh có bao nhiêu kiến thú (quan niệm thú hướng), không ai có thể bạt trừ kiến thú này, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ: Những trần cấu chúng sanh đắm trước, không thể vượt qua bỉ ngạn, không ai có thể đạt đến bỉ ngạn, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ. Ðó là chúng sanh bị ba thứ lửa hẩy hừng thiêu đốt, không ai có thể thoát khỏi chúng, cũng không ai có thể dùng pháp vũ để tiêu diệt chúng, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Chúng sanh bị luân chuyển trong vòng sanh tử, không bao giờ dừng nghĩ, cũng không ai có thể đạt đến bỉ ngạn, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Chúng sanh bị hành động ô uế, nhiễm trước làm tăng trưởng gốc sanh. Không ai có thể thoát khỏi sự sanh tử này, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ. Ðó là chúng sanh thân thì bị sự hiểm nghèo lớn, tay thì vịn dây nguy khốn, không ai có thể thoát khỏi sợi dây nguy khốn ấy, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ. Ðó là chúng sanh như tằm ăn dâu, bị hành động xua đuổi, bức bách. Cũng không ai có thể thoát khỏi dòng thác ấy, ngoại trừ người có trí.

Bồ Tát quan sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ. Ðó là: Chúng sanh thường ôm lòng hy vọng hướng tới sự sanh tử lớn, cũng không có thể đình chỉ làm cho nó trở lại, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy, đó là: Chúng sanh hướng tới ác đạo, thường có tưởng dục hạnh, không ai có thể an xử chánh đạo, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ. Ðó là: Chúng sanh mãi mãi trong tối tăm, vô trí, không ai có thể thoát khỏi con đường tà này để được chánh trí, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy, nên đối với chúng sanh phát tâm đại phát (từ), đó là: Chúng sanh không chiếu soi để thấy cứu cánh, thấy Hiền thánh đế. Không ai có thể làm cho mình thấy được Hiền thánh đế, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Chúng sanh mãi mãi ở trong sự lưu động đình trệ, không ai có thể thoát khỏi sự lưu trệ ấy, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh đại từ. Ðó là: Chúng sanh không có nhàn tịnh, cùng tương ưng với các thú. Không ai có thể đạt được sự nhàn tịnh ấy, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Chúng sanh mãi mãi bị nhiễm trước bởi tham trước kiết sử, không ai có thể diệt trừ được kiết sử ấy, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Chúng sanh gặp điều khổ nạn, chí tánh mê man, tán loạn, không ai có thể làm cho họ đến chỗ giải thoát, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ. Ðó là: Chúng sanh cho dục là thanh tịnh, bên trong dẫy đầy hôi thối, không ai có thể thoát khỏi ái dục này, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy cho nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Chúng sanh cho dục là vui nên bị các ấm làm khổ hoạn, không ai có thể hiểu được Ðệ Nhất Nghĩa để đạt đến Niết-Bàn, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Chúng sanh chấp trước cái tưởng ” Hữu Thường “, cho là không di động, không ai có thể chỉ con đường Niết-Bàn, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Chúng sanh chấp tưởng về ngô – ngã (ngã tưởng), không hiểu pháp số, không ai có thể phân biệt pháp, ngoại trừ người có trí.

Bồ tát quán sát như vầy nên đối với chúng sanh khởi tâm đại từ, đó là: Chúng sanh không được cứu hộ, chán ghét Niết – Bàn, giống như loài chó thường giữ tử thi, chạy Ðông chạy Tây không bao giờ dừng nghĩ. Nay người ngu si hành động cũng lại như vậy, không khác gì con chó ấy, tự mình không có tánh hạnh, chạy Ðông chạy Tây không hiểu ý nghĩa Niết – Bàn, bị ấm cái ngăn che, không thể quán sát.

Bồ tát khởi ý dõng mãnh làm cho chúng sanh đến đạo Niết – Bàn, liền nói bài kệ:

– Có nhiều loại chúng sanh
Thấy khổ gian nan này
Bị mây ấm ngăn che
Bậc trí hiện thế gian
Lưu chuyển trong sanh tử
An xứ ở Niết – Bàn
Sống tối tăm, quờ quạng
Trừ mây, ánh sáng hiện.

Bấy giờ Bồ Tát thực hành Ðàn (thí) này, lúc ban đầu hưng khởi pháp tưởng, dùng đồ ăn ngon ngọt, thơm ngon để làm lợi ích chúng sanh, tùy thời cung cấp, cùng tương ưng với Ðệ Nhất Nghĩa, tâm không tham tiếc mùi vị, thành tựu sung mãn, trừ bỏ cái trói buộc, cũng không xa lìa, ai đến xin gì cũng cho, khi cho xong không có tâm hối tiếc. Tất cả đều do trước kia Ngài đã làm các công đức, khiến cho tâm không còn bị trói buộc. Ngài vì mọi người mà gánh nặng cho họ, khiến họ đều bỏ hết kiết sử. Như bố thí ngày hôm nay, thành tựu đều mong ước, Ngài muốn khiến cho chúng sanh thảy đều đạt được đều ưa thích. Từ nhỏ đến lớn Ngài không có các thứ làm tổn hại, Ngài nhẫn các thứ uế ô, tai hoạn, thi hành công đức, dần dần đạo đức càng dày, để hướng dẫn nhân dân mà làm bậc thuyền sư. Ngài luôn luôn không phế bỏ sự bố thí, thường ưa huệ thí. Bên trong thì tự thanh tịnh, bên ngoài hiện tướng ô uế; không xa lìa tất cả, nghĩa là đối với tất cả chúng sanh trừ khử tâm kiêu mạn, không có tâm lười biếng, tâm bố thí đã tăng trưởng, nhan sắc hòa duyệt, không có oán hận. Không tự khen mình, củng không hạ mình, yêu thích chúng sanh, tất cả của cải đều đem huệ thí. Vì nghĩa đã thành biện nên tập hợp nhân dân, luôn luôn huệ thí không có tâm hối tiếc. Tâm ý vui vẻ, khen ngợi bố thí, quả báo thấu triệt sâu xa. Ngài lấy kim ngân, châu báu, xa cừ, mã não, xe cộ, nam nữ, thành quách… tất cả thảy đều đem huệ thí. Bên trong Ngài không có lòng xan tham tật đố, yêu thương kẻ được thí, muốn làm cho họ sung mãn, đầy đủ hy vọng, muốn cho quả báo kẻ được thí đều được kiên cố, muốn làm cho kẻ cỡi thuyền được đến mục đích. Ngài vì kẻ ấy bố thí, cho nên đầy đủ nghĩa này.

Nhờ quán sát quả báo của sự bố thí nên trừ bỏ các kiết, trừ khử sự tham trước của chúng sanh khiến cho không có tà kiến; trừ khử xan tham, tùy thời sanh sống. Nhờ mua pháp thấm nhuần cho nên mới quy mạng.

Thí vàng bạc, trân bảo
Trông Ngài không biết chán
Voi, ngựa và vàng ròng
Hay thí nhan sắc vui
Xe báo là thứ nhất
Nhan sắc thật hòa duyệt
Bất vàng chứ đầy bạc
Kẻ ấy hoan hỷ thí
Tự thí bằng hòa duyệt
Hoan hỷ mà huệ thí
Nam nữ thật mỹ miều
Vì đời mà huệ thí
Ðàn thí không gì hơn
Giống như thượng nhân kia
Ngọc xa cừ mã não
Nay lạy Thích sư tử
Sắc tốt đẹp đệ nhất
Cúi lạy bật giải thoát
Ngọc anh lạc trân bảo
Vợ con và nam nữ
Hoặc là chứa đầy vàng
Ai hơn tỷ sa môn ?
Như quả đầy ngon ngọt
Ðầy tràn cả ba cõi
Thân vợ và đầu mắt
Ai thí bằng vị ấy ?
Trời người không theo kịp
Ý, đại hải không đáy.

Khi Bồ tát tu hành giới thì đối với giới giới chứ không phải vô giới và thân, khẩu hành động, tâm khởi pháp cam lồ. Giống như hoa quả kia, nhờ che chở gốc mà sanh quả tốt, nhờ đó mà việc làm của người thành tựu. Giống như kẻ kia sát sanh, không cho mà lấy, dâm dật và các thứ buông lung.

Bồ tát không uống rượu, đối với các giới, trí tuệ, thảy đều đầy đủ, trừ khủ phi giới, đối với đạo tràng thường hành Tam muội. Xa lìa phạm giới, cũng không có ý sát hại. Thọ nhận đồ tín thí cúng dường, tâm vật đều thanh tịnh, luôn luôn có vị đáng ưa cũng không vi phạm, bên trong không sứt mẻ, bỏ hữu lậu không theo, cũng không bày vẻ; dựa vào quan điểm (kiến) không hư hại, không uế, không tạo quả ô uế mới, đã trồng giống thiện mới, ngủ hay thức không sầu muộn. Chúng sanh ấy có sắc đệ nhất.

Do công đức ấy cho nên hương lành bay xa; nhờ thọ dụng của tín thí nên ý thường kiên cố. Nhờ các căn đầy đủ nên không bị tán hoại. Nhờ trí tuệ vững chắc không lay động nên không có gì mà không hủy hoại được. Nhờ vậy người ấy có sự tăng ích, vì vậy người ấy có thể gánh gánh nặng khổ não. Nhờ có thiện pháp cho nên bất cứ ở đâu cũng không sầu não, cũng không nhiễm trước.

Vì hình dáng cho nên có phục sức. Bởi vậy người ấy có của tài bảo vô hạn, vô lượng, vô cùng tận.
Từ lúc Ngài mới phát tâm vẫn chưa từng thay đổi, hối hận, huống chi cấm giới của Bồ tát đã thành thành tựu ? Bấy giờ liền nói kệ này:

– Trên, dưới và bốn phương
Tất cả đều đầy đủ
Thân cận thiện tri thức
Sắc đẹp không ai bằng
Các uế thảy đều trừ
Nhiều lắm sau bảy lần
Các cõi nghe giới hương
Lìa dục là tối yếu
Người thiện tạo công đức
Giới hương, phước số một
Biết ngã là vô ngã
Con nay xin đảnh lễ

Nếu lại khi Bồ tát thực hành tin tấn thì tâm vị ấy không duyên vào tâm, cũng không giãi đãi. Xuất gia không vì chướng đoạn, vì chúng sanh nên xuất gia. Vì không di động cho nên có lực duyên. Tất cả chúng sanh có sự tinh tấn này cũng không hơn Ngài được, nên có tâm nhẫn. Vì có điều tăng ích nên thị hiện thế gian. vì có công đức nên thị hiện chúng sanh. vì nhiếp tâm ý nên ý vị ấy không di động. Vì làm thuyền sư cho nên được đến bờ bên kia. nhờ định cho nên không loạn, phát tâm bước tới nên được vượt qua. Nhờ chúng sanh nên thành tựu nguyện mình. Vì muốn thành đạo nên bố thí voi, ngựa, xe báu.

Bấy giờ Bồ tát đối với các chúng sanh có sự tinh tấn này, nên ai nghe tiếng tin tấn của Ngài liền phát tâm đến với đạo. Trong một thân đã làm công đức không thể tính lường, huống chi lại đức Như Lai đã tạo công đức trong số A tăng kỳ kiếp ? Lúc Ngài ngồi nay thẳng ở đạo tràng, hàng phục ngoại đạo, trải qua sanh tử nhờ ý tin tấn nên trừ hết các ưu sầu.

Tinh tấn là số một
Với Phật khéo tự giác
Ngài tối tôn đệ nhất
Với giác ngộ, tự giác
Cúi lạy Vua Pháp Vương
Nay con lạy vô đẳng
Tiếng trống pháp vang xa
Cho nên con cúi lạy

Hoặc lại khi Bồ tát thực hành nhẫn nhục thì vô úy, không sợ hãi, không đám trước, không quán xem quả báo của kẻ khác. Ngài có năng lực ủng hộ chúng sanh, thư thường xa lìa điều ác, chí tánh luôn luôn kiên cường, tự tĩnh biết lỗi mình. Tất cả chúng sanh đều ôm lòng sợ hãi thì làm cho họ không sợ hãi, chỉ cho họ tu giới luật. Cũng vì tất cả chúng sanh hàng phục điều thô ác, bỏ lời nói bất thiện, thương yêu chúng sanh, dựa theo lời nói vô lượng, vô hạn của Ngài, hoặc vị ấy có nghe và được các con đường chí đạo, vi diệu đệ nhất, giống như hoa quả chua từng nở hoa mà bị gió thổi động. Hang sâu trong núi Ngài hái các thứ hoa có hương vị, có nhiều màu. Ngài là chỗ âm hưởng phức đức, tất cả chúng sanh thảy đều thích nghe. Giống như ong chúa hút vị hoa dùng để làm mật, và các ong con cũng đều làm mật, các nguồn suối nơi nơi chảy tràn, và các vườn Na-đà vui sướng không bằng, dù có chửi mắng cũng đều nhẫn được. Ðối với các người cầu mong sự chú thuật thì Ngài chỉ sự tàm quý cho họ. Chúng sanh hành đạo bị ách nạn thì được Ngài cứu hộ, gọi Ngài là Nhẫn nhục Tiên nhân.

Bấy giờ vua Ca-Lam-Phù đi vào núi sâu muốn săn hưu nai. Vừa vào trong núi thấy vị Nhẫn nhục Tiên nhân ấy, liền đến trước quỳ hỏi rằng:

– Ngài ở trong núi sâu này để cầu đạo gì ?

Ðáp rằng:

– Cầu tu đạo nhẫn nhục.

Bấy giờ Ðại vương không tự quán sát, cũng không quán sát hạnh dục, muốn thí nghiệm Tiên nhân, liền nói rằng:

– Nay tôi sẽ chặt đứt tay chân Ngài.

Nhà Vua liền chặt tay chân Tiên nhân. Lại hỏi rằng:

– Nay Ngài cầu đạo gì ?

Bấy giờ Tiên nhân đáp:

– Tôi cầu đạo nhẫn nhục.và Tiên nhân khen ngợi cái đức nhẫn nhục.

Khi ấy Ðại vương càng thêm sân hận, muốn giết Tiên nhân. Bấy giờ Tiên nhân đã bị chặt đứt tay chân, liền thề nguyện rằng:

– Hãy khiến cho ta đời đừng sân hận, cũng không có tâm sân hận đối với Ðại vương ; hiểu rỏ tất cả pháp thảy đều hư không.

Lại có vị tiên khác, có người đến chỗ vị tiên hỏi:

– Tại sao thần tiên không khởi tâm sân hận đối với vị Vua kia ?

Ðáp rằng:

– Nếu khi thực hành sự nhẫn nhục này, có năng lực đại nhẫn nhục này, nên ngay lúc đó không khởi ý sân hận. Nếu quán như vậy thì sắc mặt cũng không thay đổi.

Bấy giờ Hộ Thế Tứ Vương đi đến chỗ của vị Tiên nhân ấy, khi ấy Ðề Ðầu Lại tra, đầu mặt đảnh lễ Tiên nhân hỏi:

– Nay chúng con muốn giết Vua Ca La Phù, có nên chăng ?

Họ nói như vậy xong, khi ấy Tiên nhân im lặng không trả lời. Khi ấy Ðệ Nhị Thiên Vương lại hỏi rằng:

– Nay tôi sẽ giết sạch trai gái, lớn nhỏ và nhân dân trong thành quách này, được chăng ?

Nói như vậy xong, khi ấy Tiên nhân vẫn im lặng không trả lời.

Bấy giờ Vua Tỳ Lâu Bì Xoa lại hỏi rằng:

– Tôi đem tất cả nhân dân trong nước này giết hết, xin Ngài cho phép chứ ?

Bấy giờ Tiên nhân vẫn im lặng không trả lời. Khi ấy Tỳ Sa môn vương hỏi rằng:

– Tôi muốn đem cảnh giới nước này đến phương khác, xin Ngài chấp thuận ?

Bấy giờ Tiên nhân hoan hỷ khen ngợi đức tính nhẫn nhục, liền nói bài kệ:

– Chặt đầu, mắt, tay, chân
Tất cả đều đem cho
Không khởi tâm oán hận
Huống chống lại thế gian ?

Bấy giờ Hộ Tế Thiên vương lại hỏi:

– Muốn để cho thân Vua
Vua ấy tuy hung bạo
Không bị báo ác hạnh.
Lo người không lo cho mình.

Nếu khi Bồ tát tu hành Tam muội, giả sử lúc nhập Tam muội ấy, có tâm sở duyên, chưa từng quên mất, cũng không phóng dật, giữ tâm chuyên nhất. Nếu lại không ân cần cầu phương tiện, cũng không thọ các hành, hiểu các pháp vị, không đắm vào pháp, trong tâm vị ấy cũng không bị kiết sử. trong Tam muội ấy thanh tịnh không tỳ vết, hàng phục kẻ địch bên ngoài không hiếp nhược. Nhất tâm hiểu được khí vị, tâm không đắm trước, hàng phục chí tánh, chưa từng giãi đãi, thành tựu sở hành, được Tam muội, căn tánh hoan hỷ, tinh tấn, không thay đổi tâm niệm, không thác loạn. Một kiếp đã tu, rõ biết Ðạo phẩm, tâm niệm hoan hỷ, đạt được dũng mãnh. Tất cả đều dùa vào trí, dần dần được đạt đến chỗ hoan lạc.

Song Bồ tát hạnh đối với Tam muội hạnh này, khởi Tam muội thiện hạnh rồi đạt được Tam muội thiện hạnh, lúc đi lúc đứng chưa từng quên mất. Vị ấy nhờ có hạnh này nên thiện pháp đầy đủ, khởi các thiện hạnh. Tất cả các điều cầu mong đều hiện ra trước mắt. Giả sử tâm có sầu muộn thì dần dần sẽ hàng phục tâm ấy khiến cho không quên mất, tư duy tăng ích, tăng ích điều thiện.

Nếu tâm buông lung, lại suy tư đến thiện pháp. nếu tâm bị ưu sầu trói buộc, liền có thể suy tư đến cái thiện giải thoát ấy, trong cảnh giới quan minh, oai nghi hoàn thiện, vì người diễn thuyết về uế bệnh, loạn tưởng và các Tam muội, các công đức đầy đủ Tam muội ở đấy. Ở đó, quả báo Tam muội là tối thiện hạnh.

Giống như cây gỗ xanh xanh hiện tịnh giải thoát và các màu khác như xanh, vàng đen, trắng, đều theo Tam muội ấy, đến đi không bị chướng ngại, muốn dùng năng lực Tam muội thì đống lùa, ánh sáng mặt thời không đâu không chiếu sáng. Người đắc thiên nhãn cũng lại như vậy, ngày đêm suốt chiều, cũng lại đắc thiên nhĩ nghe khắp, Ngài có năng lực như vậy.

Vị Bồ tát được Tam muội này, vô hạn, vô lượng, không thể xưng kể, đều do năng lực của Tam muội, cũng nhờ tư duy, nhờ không giải đãi, nhờ trí huệ sáng, biết lúc nào nắm, lúc nào thả, cũng nhờ (hy vọng) dục Tam muội, nhờ xa lìa ác tưởng, nhờ năng lực thuận nghịch của Tam muội. các tưởng như vậy là do Tam muội này sinh ra, các môn tổng trì, Thành tựu Tam muội, với chỗ thích hợp cũng không mệt mỏi ; cầu mong phương tiện, vì không kiên cố đối với Tam muội cho nên hành Tam muội ; vì tất cả dục cho nên hàng phục tâm ý, khéo ủng hộ, tư duy cũng không thác loạn, tùy ý tự tại, không nói lỗi của người, vô lượng, vô hạng không có cùng tận; nay đối với Tam muội đoạn hết hồ nghi, phóng vô số ánh sáng, dựa vào các thiện pháp mà thanh tịnh được các kiết sử, luôn luôn thực tập Tam muội, dựa vào các thiện pháp.
Bấy giờ liền nói bài kệ này:

– Ðược tâm giải thoát này
Mới đầu vào đại hải
Nếu trong ý có dục
Muốn đoạn cảnh giới nước
Ta ở trong trăm năm
nguyện ta vẫn không mãn
Ðược che chở mẹ cha
Ai biết rõ như vậy
Tam muội không chướng ngại
Nước xoáy khó kiềm chế
Tâm cũng không di chuyển
Ðều là gốc muôn hạnh
Gánh cha mẹ mà đi
Ðể báo ân cha mẹ
Chỉ thọ nơi cha mẹ
Là hy hữu thế gian.

Bấy giờ, khi Bồ tát thực hành tam kiên cố, thâu nhiếp giải thoát, có phương tiện như vậy, Ngài có ý dõng mãnh, để việc làm không ngăn ngại, không bị người khác cấm chế, cho nên phải cầu phương tiện.

Ngày xưa nghe A Lan Ca Lan, khởi các thiền định, rồi xả các thiền ấy, lại cầu vô thượng đạo của Tam Da Tam Phật, liền đến một nữa do – tuần phía Nam, trong khi đến chỗ vắng vẻ ấy, làm các thứ khổ hạnh, ăn trái cây, uống nước, mặc áo da đen, ở dưới gốc cây, ngồi kiết già, hoặc có lúc uống nước, hoặc có khi ăn trái cây, hoặc có uống không khí, làm những khổ hạnh như vậy, nằm trên cỏ, hoặc lấy tro phủ lên, thích ở trong đấy trong ba đêm mà nhan sắc vẫn không thay đổi, trong chín ngày lễ bái thờ lửa. Các người phóng dật nghe theo lời dạy của vị ấy, hoặc khi thờ trời, đầu mắt dần dư thừa, hai tay đưa ra, hoặc xìa một chân ra, thân thể cong lại, mà không có tâm trộm cắp, lấy pháp tự vui, với người khổ hạnh cầu đạo, cũng không ăn uống, xương cốt liền nhau, ngày ngày thân chịu khổ, thân đen điu, sắc mặt vàng úa, giống như đàn không hầu, bên trong trống rỗng, gân cốt đều hiện ra, có trăm thứ biến hóa, không thể quán sát, tướng mạo của người trẻ vĩnh viễn không có như vậy, ví như voi già không thể nhậm thí, ngồi nằm đi đứng không có sức lực, cũng không thể nói năng. tuy có tham sống nhưng không tồn tại bao lâu.

Ngay sau đó, Thiên sứ đã đến chỗ vị ấy mới đạt phương tiện, có bao nhiêu biến hóa như vậy. Vị ấy vì pháp cho nên lúc thức hay ngủ, không mất thời tiết; cầu giải thoát như vậy, không đói đến thân mạng. Bấy giờ liền nói kệ:

– Dù ta bị hư nát
Tâm vẫn không sân hận
Trong ý đâu có tham
Nếu chấp có ngã tưởng
Thân người thành trăm mảnh
Chúng sanh sanh không khác
Khổ não nhiều vô số
Ngủ với chết đâu khác.

Bấy giờ Bồ tát tu hạnh đa văn, đó là chấm dứt tâm nghe danh tiếng, tư xưng dương đức của mình là đệ nhất, được mọi người kính mến,mong chờ. Nhờ quán sát nghĩa ấy nên tâm trừ khử sự kiêu mạn, có nghiệp như vậy cùng tương ưng với trí. Nay đều nghe biết, nhờ trí không giãi đãi, cung kính sư trưởng, mong được tự tại. Với người đói khổ thì khởi lòng từ bi, hàng phục ngoại đạo, không bị chướng ngại, cũng không có trần cấu. Với quốc độ khác hiện ra sự hành đạo, không bị ái dục nhiễm trước, khởi ý phương tiện, vì người thế gian muốn làm cho họ giải thoát. Bấy giờ Bồ tát có tâm từ, nhất thiết trí như vậy đều do phương tiện khởi ra. Bấy giờ liền nói kệ rằng:

Ngài nghe nhiều tiếng tốt
Vật kiên cố cũng hư
Ban đầu thọ pháp này
Liền sanh trí huệ lớn
Sắc mặt vẫn không đổi
Huống thân ta ngày nay
Có niềm tin Thế tôn
Trừ khử các kiết sử.

Bấy giờ khi Bồ tát thi hành ân đức, biết người ân đức, cũng không bao giờ quên mất, liền có trí huệ này, muốn báo ân đức, tạo ít công đức, cũng không cùng tận, cũng không quên mất. Giống như gieo ít hạt lúa, suốt đời vẫn không quên.

Ngày xưa, khi Bồ tát muốn cầu đạo vô thượng, ở một chỗ nhàn tịnh, có con chim Bồ tát Anh Võ thường ở trên cây kia. Bấy giờ có gió thổi cây ấy, các cây cọ vào nhau, vì cọ nhau cho nên phát ra lửa. lửa phát ra càng lúc càng mạnh, cháy tới hang núi. các cây xanh đều bị lửa đốt cháy. Lúc ấy có khói cuồn cuộn có đủ màu sắc, rất mạnh, không thể diệt được. giống như ánh sáng mặt trời, khói đất cùng khởi, các cây lớn nhỏ đều bị thiêu sạch. Ví như lúc đát trời hủy hoại, trong khoảnh khắc, người thấy, nghe hiện tượng ấy thảy đều hoảng hốt, các vật bị đốt, lúc đó cũng hết. các cây cối thảy đều cháy sạch.

Bấy giờ Bồ tát là thân chim Anh võ, trong một đêm liền nghĩ như vầy: ” Giống như chim bay ở trên cây này còn có tâm báo ơn, ta cũng vậy – liền khởi lên ý báo ơn – huống chi nay chúng ta luôn luôn ở trong này mà không thể làm tiêu diệt lửa này sao ? nay đã đúng lúc ta hiện oai lực của mình “. Nó vào trong đại hải, lấy hai cánh đựng nước đem về rưới đám lửa ấy, hoặc dùng cánh rưới, hay dùng miệng phun. Con chim chạy bên Ðông, bên Tây. Bấy giờ có một vị thần nói bài kệ:

– Lửa này hết sức mạnh
Tuy người có thiện tâm
Mây khói không thể gần
Cũng không thể dập tắt.

Bấy giờ Bồ tát Anh Võ nói với vị thần ấy:

– Tôi ở trong núi này
Sao lại bỏ mà đi
Nay tôi có sức lực
Ở núi này sao chẳng
Chưa bao giờ vong ân
Ðể lửa đốt rừng này
Ý muốn dập lửa này
Muốn được báo ân này?

Bấy giờ thọ thần lại nói bài kệ:

– Chim này có ân từ
Ðây là ứng nhân pháp
Màu sắc thật đoan chánh
Thế gian rất hy hữu.

Bấy giờ thiên thần suy nghĩ như vầy; liền nói với chim Bồ tát Anh Võ :

– Biết ngươi có từ ân
Thương người có tâm này
Bấy giờ có mây lớn
Nay ta diệt lửa này
Huống chi chim Anh Võ
Vì ngươi, ta dập lửa
Ta diệt lửa tức khắc
Vì thương chim Anh Võ
Khiến nguyện ngươi kết quả
Sẽ thành Ðẳng chánh giác.

Bấy giờ liền nói kệ rằng:

– Như Lai vào lúc đó
Chúng sang phát hoan hỷ
Có thể đến bờ kia
Tín tâm đã kiên cố
Có tâm tư ân này
Ðược trời, người cúng dường
Xa lìa sanh, lão, tử
Thống nhiếp cả mười phương.

Bấy giờ khi Bồ tát mặc áo cà sa, là vì làm quỷ tắc cho người đời, vì làm cho chúng sanh bỏ tục theo đạo, là cái lọng lớn. Như vậy Ngài bỏ quốc vương, vợ con, xuất gia học đạo để vượt qua các hồ nghi.

Bấy giờ khi Bồ tát khoác áo cà sa có công đức tăng ích như vậy. Ta từng nghe thời quá khứ, đức Thế Tôn du hành tại viên quán hoa quả sầm uất, cũng muốn xuất gia. Nhân dân du hành ở trong vườn ấy, thấy Phật xuất thế ngắm nhìn không chán. Nhân dân đông đảo ở trong vườn ấy, hoàn toàn im lặng, khoác áo cà sa, ba màu trong sáng, tai nghe lời giải thoát, âm thanh nhu hòa, tuổi thọ hữu hạn, tất cả đều tự quy y, vì tất cả khổ cho nên hàng phục sự sân giận sắc mặt như đồng đỏ, dùng hết sức thở nhanh làm khói, gió nổi lên. Thấy sắc như vậy liền nói rằng:

– Cùng tâm ta tương ưng, khởi tâm này thì ta giải thoát.

Bấy giờ giữ gìn cà sa có các công đức, xả các uế tạp, Ngài nói bài kệ:

– Cũng không tự biết tên
Cũng không khéo giặt rửa
Sớm hàng phục quả ấy
Miệng dạy lời nói lành
Tuy lại quán như vậy
Ta sẽ bố thí chúng
Cùng cái đó tương ưng
Hàng phục nên đến đây
Cắt thân không hối tiếc
Ăt phải tự bại hoại
Cùng ta nói nghĩa này
Nhẫn sự khổ não này.

Khi đã cắt bỏ thân thể để hàng phục tâm mình, liền nói lời này bằng bài kệ:

– Ðừng làm các khổ hoạn
Quả nó tuy rất nhỏ
Người xan tật như vậy
Nhưng ác báo vô lượng.

Bấy giờ khi Bồ tát ưa thích ở chỗ nhàn tịnh, ở yên lặng trong viên quán, thanh tịnh không náo loạn, cũng không đa sự. Nếu đến chỗ ấy thảy đều hãi hùng, nhưng trong tâm Ngài yêu thích. Ta từng nghe: Có một tiên nhân đã ở chỗ cực diệu, không đâu sánh bằng, rộng nói chỗ Tiên nhân ở như trên. Vị ấy có các sự việc đều diệt tận không còn. Lúc đi xa khỏi viên quán này, khi ấy chưa được quả A- duy- tam Phật Bồ tát (Vô thượng chánh giác) thì Ngài là thân con thỏ. Bấy giờ con thỏ nương tựa nơi vị tiên. Khi ấy con thỏ thấy vị tiên xuống núi, liền dùng kệ nói với Tiên nhân:

– Thân người ở thế gian
Ðã được sanh nhân gian
Lành thay, này Tiên nhân
Không có các uế ác
Tâm sát hại khởi lên
Tự hàng phục tâm mình
Vi diệu không gì bằng
Nên ở nơi núi rừng
Thân cận người sắc thiện
Tự mình điều phục tâm
Tự biết phải hạn chế
Không có tưởng cảnh giới.

Ngài đã bỏ cảnh giới có thể ăn được. Ta xuất gia là cầu đạo giải thoát, tâm ý quyết định, chớ bỏ cam lồ, hãy bỏ ý hy vọng, công đức, đồng ở núi rừng. Có ý Tam muội như vậy, không có các náo loạn. Vì đã ở trong núi rừng này, sẽ ưa thích núi rừng, như mặt trăng chiếu ban đêm, mặt trời chiếu ban ngày. Bậc năng nhân có ân từ nên ở nơi núi rừng này. Song, vị Tiên nhân lúc còn trẻ sống trong núi rừng này. Năm nay tuổi đã già, vì sao lại bỏ chỗ ấy ?

Khi ấy vị Tiên nhân liền nói lời này, tự hàng phục tâm mình, cáng thêm hoan hỷ mà nói lời ấy. Nếu Tiên nhân mà bỏ đi thì ai có thể thích sống ở đây được ?

Bồ tát liền nói kệ này:

– Nay ta không có đậu,
Tâm ta đã hàng phục
Lúa, thóc và ngũ cốc
Nguyện ở núi rừng này.

Bấy giờ Ngài thành bậc A Duy Tam Phật (Hiện giác) liền ở trong núi ấy, ánh sáng chiếu thế gian, thích ở chỗ ấy an nhàn, vì vậy thường ở núi rừng, rồi nói kệ này:

– Cảnh giới thật rõ ràng
Thường thích chỗ nhàn tịnh
Thân công đức giải thoát
Trí huệ rất vi diệu
Núi rừng hành nghiệp khổ
Tự tư duy hành động
Tâm ý thường hòa thuận
Nên sống gần núi rừng.

Bấy giờ Bồ tát có tâm thân hữu này, thường ôm lòng từ, tự tỉnh giác đời sống, sống như thật; như ngài đã nghe: ” Có khoảng đất rộng trong núi rừng, nói như khế kinh “, liền nghĩ rằng ” Núi rừng này không có các quả, các pháp giải thoát, nhờ lấy nhẫn làm pháp giải thoát “. Bấy giờ Bồ tát lúc nào cũng có từ tâm, các pháp giải thoát, không có xúc nhiễu với các dân chúng. Ngay khi Ngài đoan tọa, tư duy, không di động thì có một ổ chim ở trên đầu. Ngài biết con chim ở trên đầu đang ấp trứng, nó luôn lo sợ trứng rớt nên thân nó không lay động.

Bấy giờ Ngài liền quán sát để bỏ thân mà ở chỗ đó tu hành bất động, có sức ân cần khéo, sanh tâm ưa thích thu nhiếp tâm.

Bấy giờ con đã mọc lông cánh. Khi đã mọc lông cánh rồi nhưng chưa bay được, nên vẫn không bỏ chỗ ấy mà đi. Nay Ngài hành lòng từ này xong, có điều gì lạ mà Ngài vẫn không sợ hãi? Chúng sanh vẫn chưa làm như vậy, tự biết xong liền nói kệ này.

– Ngài hay biết việc này
Không xúc nhiễu kẻ khác
Cho nên đức Thế Tôn
Nên ở nơi đạo tràng
Vĩ đại trong loài người
Ðức Ngài không ai hơn
Có sức thần đệ nhất
Tự đầy đủ công đức.

Bấy giờ khi Bờ tát thực hành lòng từ, vì tự Ngài có thế lực, có thể gánh vác gánh nặng, cầu đạt mục đích: Tất cả chúng sanh ta sẽ độ thoát, tăng trưởng công đức; đối với người có các khổ não, vô lực thì ta trừ diệt ưu sầu cho thế gian. với người không ai cứu hộ, ta làm người cứu hộ, người không hy vọng làm cho họ hy vọng, người không thế lực, ta làm cho họ có thế lực. Các người có tật bệnh, ta làm Y vương cho họ. Với người già cả, ta chỉ cho họ ý trẻ trung. Với người trẻ trung, ta chỉ cho họ cách sống có năng lực.

Ta cũng nghe: ” Ðức Thế tôn khi hành đạo có vô số Tỳ kheo doanh vây trước sau. Khi ấy viên quán bị lửa cháy. Các Tỳ kheo thấy khói lửa bốc cháy, họ đều chạy đến chỗ Thế tôn. Hoặc có người tán thán Thế tôn, đến đứng trước Thế tôn.Các Tỳ kheo ấy đứng trước đức Như Lai quán sát Ngài “. Bấy giờ Ngài liền nói bài kệ:

– Như ta, chẳng ai bằng
Do nói lời thành thật
Ra đời, công đức đủ
Ðiều ác mau chấm dứt.

Nói như vậy xong thì đám lửa ấy liền dập tắt. Bấy giờ các Tỳ kheo khen là chưa từng có, đều là nhờ ân lực của Thế tôn. Họ hoan hỷ đối với Như Lai, mọi người đều khen bài kệ này là chưa từng có.

Ðức Thế tôn bảo rằng :

– Các Tỳ kheo! ta ở một chỗ vắng vẻ, an nhàn với các thứ cảnh giới, với bao nhiêu sắc, lúc đó, khi ta thực hành chánh đẳng chánh giác, bấy giờ ta là Chất Cốc La Cù. Từ lúc sanh đến nay, lúc nhỏ tự tại, ưa bố thí cho mọi người, cầu hạnh vi diệu. Ngay lúc đó, nhân dân của cõi nước Trại Trà thịnh vượng, đất đai phì nhiêu, có nhiều rừng trúc, lan, cây cối, núi cao. Khi ấy các khu rừng bị lửa cháy dữ dội, dần dần lửa lan đến núi đầm. Có biến cố như vậy, nói rộng như trong khế kinh.

Bấy giờ có bầy chim đến khu rừng sinh các con chim non. Các con chim non ấy chúng chưa có lông cánh, hoặc có con có cánh thì sống còn, hoặc có con rơi xuống đất, hoặc có con bể đầu, sứt đuôi, chúng cũng không thể bay được, hoặc có con bị đói khát, thấy lửa cháy dữ dội chúng đều muốn bay thoát. Ngay lúc ấy ta thấy ngọn lửa này ta cũng lo thân mình, nhờ công đức trong vô số trăm ngàn kiếp, có sự bảo hộ như vậy. Ngay lúc đó ta ở nơi thanh tịnh, liền phát tâm này, khiến chúng sanh kia thoát khỏi đại hoạn ấy. Bấy giờ ta liền dập tắt ngọn lửa và ngọn lửa liền tắt. Ngay lúc đó ta dập tắt ngọn lửa trong nước ấy, thực hành lòng từ bi này. Huống chi hôm nay ta đã thành tựu tâm đại bi. Hôm nay lửa sẽ diệt.

Bấy giờ đức Thế tôn liền nói kệ này:

– Do sống từ lúc nhỏ
Tất cả đều hủy hoại
Vốn quán pháp vô thường
Xót thương các chúng sanh.

Ngọn lửa ấy liền được dập tắt. Khi lửa tắt chưa lâu, ta dùng trí huệ sáng ngời diệt trừ lửa của người đời. Bấy giờ Bồ tát vì sự sanh tử, nên khi Bồ tát muốn sanh, cứu tế chúng sanh, quán sát nguồn gốc của sanh là khổ. Ta từng nghe: ở trong núi rừng không tịch có các con quạ, nai, bồ câu, rắn ở một bên, ở đó có một vị tiên nhân Bồ tát thường ở trong đó ăn quả cây, uống nước suối.

Bấy giờ con quạ đến bên vị tiên, đứng qua một bên, nói như vầy :

– Thế gian có cái gì khổ?

Khi ấy con quạ lại nói:

– Cái đói là khổ nhất. Nhưng do nhân duyên gì mà có khổ này? Tất cả chúng tôi đều tự trình bày ý kiến của mình: thân thể mệt mỏi, bị đốt cháy, các căn bất định, miệng không thể nói, tai không thể nghe, thường ôm lòng suy nghĩ. Cho nên đói là khổ số một. Khổ hoạn này làm cho lửa đốt thân. Do vì đói khát, bệnh ấy khó trị, tướng khổ liên tục. Có cái khổ như vậy.

Bấy giờ con nai liền nói rằng:

– Sợ hãi là khổ. Cái gọi là sợ hãi đó là: thân ở chỗ vắng vẻ, thấy người thợ săn nên thường ôm lòng sợ hãi. Thân tâm ô uế, thường sợ không có thân này. Lại sợ thợ săn muốn giết hại mình. Thân này đâu có bền chắc gì, nó ở trong vô thường, dong ruổi Ðông, Tây. Sự sợ hãi này do đâu sanh ra? Thường có ý nghĩ đó, tất cả cái ấy đều có hành nghiệp, xả ly tất cả thân, vì tất cả chúng ta có thân này nên thường ôm lòng sợ hãi, không an ổn dù trong khoảnh khắc, đều do chúng ta đã tạo cái khổ bại hoại này nên có sự 1sợ hãi như vậy. Do vậy, sợ hãi là khổ.

Bấy giờ con chim bồ câu liền nói:

– Dục là khổ số một. Do tâm xúc bên trong cảnh giới sạch sẽ, tư duy chỗ ấy cho nên không thoát khỏi tai hoạn của dục. Dục này giống như lửa, giống như dầu bơ bỏ vào hủ, nhưng bị lửa dữ đốt cháy, nếu có nói điều gì thì bị nhiễm trước trong tâm. Lửa dục cũng lại như vậy. Vì dục nhiễm trước trong tâm nên thiêu đốt hình hài, tăng thêm sự trói buộc. Tu vô số kiếp bị dục mê hoặc, hội hợp đốt cháy thân thể con người. Vì vậy, dục là khổ số một.

Bấy giờ con rắn liền nói:

– Sân hận là khổ số một. Cái gọi là sân hận đó làm thương hại mạng người, nó không có lớn nhỏ, làm tăng thêm các gốc tội, làm thân thể, nhan sắc thường bị biến đổi. Hễ động tâm là có ý sát hại, trở thành đỏ mắt, bức xúc, nghiến răng, ai cũng không muốn nhìn, lắc đầu, động thân, thở dài, mửa chất độc, thân thể, da thịt đỏ rực một màu sân hận. Tất cả mọi người ai cũng không muốn nhìn, thường nằm trong hang, đói cũng sân, no cũng sân, mắt nhìn không thiện cảm. Có sự biến hoại như vậy, nó giống như lửa thiêu đốt núi đầm. Cái lửa sân hận này cũng lại như vậy.

Vì vậy cho nên sân hận là khổ.

Bấy giờ Bồ tát có trí tuệ thậm thâm tư duy việc này, liền nói bài kệ:

– Tất cả đều là khổ
Sanh ra phải bị khổ
Giống tai hoạn lớn này
Tất cả sanh căn này
Gần gũi với nhan sắc
Nay hãy nghe ta nói
Khổ não không hạn lượng
Là sanh chẳng phải chơn.

Nếu có người đã thành Bồ tát đạo rồi, lưu chuyển trong sanh tử, lấy tâm từ bi hoan hỷ để che chở thương yêu tất cả chúng sanh, nhờ trí huệ bén nhạy nên không bị chướng ngại, có ý dũng mảnh, tu tất cả trí. Không có tâm giãi đãi nên khi giáo hóa không có sự hoài nghi, thường có cái thấy bình đẳng nên chí tánh kiên cố, không có trở ngại. Ðược khí vị ấy nên không mất ý chí, có năng lực kham nhận phân biệt các pháp, cũng không phá hủy, rơi rớt. Vị ấy thành bậc đại trí huệ, tâm bố thí giải thoát, không có tâm thay đổi, hối hận. Tất cả huệ thí, như quốc vương Thấp Tỳ thường tu tịnh hạnh, chưa từng giãi đãi. Như vua Ma Ða Ðề Bị, có đầy đủ nhẫn lực, như thần tiên nhẫn, giới không sứt mẻ, như học sĩ Bố Lai Ða thường thích xuất gia, nhan sắc hòa duyệt, hoặc lại được ái kính mà ý không nhiễm trước; như vua Ðại Tu Ðạt, Thí Na du hóa thế tục, vua Cù Tần Ðà yêu thích chánh pháp, như Ma Nạp Uất Ða La thích ở chỗ vắng vẻ an nhàn, dùng tiếng kỹ nhạc mà được thấu triệt (lẽ đạo), như Bồ tát Thiện Giác ở trong đại chúng làm sư tử rống, tất cả vị ấy đều được giải thoát, đến cảnh giới Niết- Bàn, đầy đủ các công đức, thành tựu càng ích lợi với đạo. Các vị ấy đã thành Bồ tát đạo. Bấy giờ liền nói bài kệ :

– Càng không ý giết hại
Chí tánh đã kiên cố
Yêu thích pháp như vậy
Thương xót người thế gian
Công đức Bồ tát tịnh
Như mặt trời chiếu sáng
Phước điền không ô uế
Nên nói nghiệp như vậy.

Bấy giờ Bồ tát không hề sợ hãi, từ cung trời. Ðâu Thuật giáng thần, quán các hành hữu vi là vô thường, tâm không hạn tưởng, thường tự quán sát, biết mình từ đâu sanh đến, cũng lại tự biết không còn thọ thai, có chơn đế này, cứu cánh cội nguồn, tâm không nhiễm trước, lúc vào trong thai mẹ, an trụ trong đó cũng không loạn tưởng, mới quán phạm giới là ác hạnh, giữ giới là thanh tịnh, cũng không nhiễm trước. Lúc ở trong thai, không hạnh nào mà không thanh tịnh, giống như hoa sen không bị dính nước, ở đó khởi nhiều ý đạo. Ðã có trí tuệ này nên đác thiên tử thường hộ vệ, chư thiên của cõi trời. Ðâu Thuật liền đến ở lại hộ vệ, hiện ra hạnh dâm, bất tịnh mà thích tu phạm hạnh; từ lúc Bồ tát đầu thai vào bụng mẹ thân của phu nhân chưa hề ô uế, nhờ giới hạnh của Bồ tát hết sức thanh tịnh, tâm không có ý làm thương hại chúng sanh, thi hành, lập thệ nguyện, quán sát kỹ, chí thành, muốn đi xuất gia. Thiên tử Diệu Thần Ðại Tôn thảy đều phù trì để thai được thanh tịnh, không bị não hại. Khi dở chân thì đi bảy bước. Khi Bồ tát ý muốn xuất gia liền quán xem bốn phương, nay phải đi phương nào để thoát hết khổ; nước thơm tắm thân, tự nhiên có ao nước thơm. Tất cả nhũng cái ấy đều do công đức đời trước mà ra. Trời mưa hoa Ưu- Bát- Câu- Văn- La để cúng đức Như Lai. Bấy giờ liền nói kệ:

– Cần tu vô số kiếp
Luân chuyển không hạn lượng
Chư hữu, thiên kỷ nhạc
Làn hương bay đến trước
Cứu khổ các chúng sanh
Thiên nhân được an ổn
Ðều được tâm hoan hỷ
Hàng phục các ma oán.

Khi ấy Bồ tát tứ cung trời Ðâu Thuật giáng thần, chúng Phạm thiên thảy đều đến hầu hạ, hoặc khi thiên chúng và nhân dân doanh vây đức Thế Tôn, đó là tướng thứ nhất. Hoặc Bồ tát từ cung trời Ðâu Thuật giáng thần, quả đất bị chấn động lớn. Hoặc khi đức Thế Tôn giác ngộ, các trần lao của chúng sanh không có tạp uế. Ðó là lúc ban đầu Bồ tát hiện điềm lành thì quả đất bị chấn động mạnh; các chúng sanh ấy trần lao vĩnh viễn không sanh ra nữa. Ðó là điều vui cao cả nhất. Ðây là điềm lành đầu tiên. Nếu khi Bồ tát từ cung trời Ðâu Thuật giáng thần, lúc ấy có luồng ánh sáng lớn chiếu khắp thế gian, trí huệ quang minh này là tướng hiện điềm lành đầu tiên. Làm cho các nơi u ám đều thấy ánh sáng. Ðó cũng là tướng của trí tuệ. Nếu lúc Bồ tát mới sanh, cất chân đi bảy bước. Ðó là hiện điềm lành của bảy giác ý. Khi Bồ tát quán sát bốn phương, đó là điềm lành của Tứ Hiền thánh đế. Khi Bồ tát mỉm cười, đó là hiện tướng điềm lành cứu hộ chúng sanh. Khi Bồ tát nằm mộng thấy thế giới này là cái giường, núi Tu Di là gối tay chân duỗi ra ngoài bốn biển, đó là cái tưởng về thế gian hữu thường, đó là hiện điềm lành pháp vị cam lồ vậy. Ngài lại nằm mộng thấy cây Ðề Lệ Ca mọc trên rốn, lá che khắp cả ba ngàn thế giới, đó là hiện điềm lành đạo tràng, trời người tâm kính. Ngài lại mộng thấy nhiều con chim bay chung quanh Ngài, đều đồng một màu, đó là hiện điềm lành chúng thành tựu. Ngài lại mộng thấy con trùng thân trắng đầu đen, đó là hiện điềm lành chúng Ưu bà tắc thành tựu. Ngài lại mộng thấy đi trên đỉnh núi, là được điềm lành không xan tham.

Bấy giờ liền nói kệ:

– Ðiềm lành chưa từng có
Khởi lên thì phải diệt
Thấy Ngài đều hoan hỷ
Trời sáng trừ mây mù
Ngài có công đức lớn
Bị xúc bởi khổ vui
Phải có Phật xuất hiện
Không còn trần ai nữa.

Bấy giờ tâm ý của Bồ tát không thể lay động như đã nói, như mặt trăng mới mọc giữa trời tối, mọi người đều kính mến, Ngài liền từ tòa đứng dậy, muốn được xuất gia. Khi Ngài khởi tâm này, sau cùng có ba cảm thọ. Bấy giờ Bồ tát từ tòa cao đi xuống, lúc ấy cũng khởi ý này, đó là sàn tòa cao rộng nhất.

Như vậy, khi Bồ tát ra khỏi thành liền nghĩ rằng ” Ta không đắc đạo, thề không bao giờ trở về “. Giống như Bồ tát cởi xâu chuỗi anh lạc trao cho Xa- Nặc, khi ấy Bồ tát lại nghĩ: ” Chấp đắm cái y báu này là vật sở hữu cuối cùng của ta “. Hoặc là Bồ tát lấy ngựa trao cho Xa- Nặc khi ấy Ngài cũng nghĩ: ” Ðây là con ngựa ta cỡi cuối cùng “. Bấy giờ Bồ tát tay cầm dao tự cắt tóc trên đầu, khi ấy Bồ tát nghĩ rằng:” Ðây là râu tóc cuối cùng của ta “. Bấy giờ Bồ tát lấy y báu đổi da nai để làm cà sa, khi ấy Bồ tát nghĩ rằng:” Ðây là y phục ta nên mặc “. Hoặc lại Bồ tát ngồi nơi đạo tràng, bấy giờ Bồ tát lại nghĩ:” Ta không bỏ thế ngồi kiết già. Nếu chừng nào ta chưa được Nhất thiết trí, ta sẽ không bao giờ rời khỏi tòa này “.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

– Chứa phước từng chút một
Sẽ được phước vô lượng
Như nước cứ nhỏ mãi
Quán xem bao nhiêu loại
Nên ăn vị cam lồ
Sẽ thành dòng sông lớn
Hạnh hữu vi đã tạo
Tiêu diệt các ác độc.

Khi bậc Nhất thiết trí thành Ðẳng chánh giác, quán thế gian là vô thường, khổ, không. Lúc Ngài đã thành đẳng chánh giác không có các phiền não. Thành đẳng chánh giác, những phiền não khởi lên thảy đều tiêu diệt. Ngài biết tất cả người chết cùng với người sống xoay vần (tương ứng) nhau, Ngài biết rỏ như vậy. Bấy giờ Ngài phân biệt nhãn thức nên có sự giác tri như vậy, cao hay thấp tùy theo chúng sanh hành động mà có cảnh giới ấy, trí Ngài đã thành, không có hồ nghi; đối với nhân duyên nguồn gốc giác tri kia, chánh giác không có ngằn mé, bấy giờ có các trí sanh, giác tri hữu đạo, lưu bố thế gian, biết rỏ đạo không thể di động. Bấy giờ Ngài vượt qua tất cả khổ, mỗi phân biệt cảnh giới. Hoặc đối với một kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, ý lưu chuyển, không thể di động, ý không nhiễm trước, cũng không náo loạn, trí huệ vô lượng, cũng không bỏ trí huệ, ý khéo phân biệt, du hý trong cảnh giới, cầu phương tiện nơi đó, quả báo vô lượng, trí huệ thảy đều đầy đủ, tất cả đều không chướng ngại.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

– Biết tất cả vật
Tới, đi xoay vần
Ðều rõ tất cả
Trừ khổ ba cõi
Ai phân biệt được
Muốn cầu vi diệu
Như Lai tùy thời
Sẽ được thành tựu
Cũng là vô lượng
Không bị chướng ngại
Sở quán tối thắng
Chiếu soi thế gian
Chỉ Phật mới hiểu
Phải cầu Như lai
Cho họ tương ưng
Không còn thối chuyển.

Bấy giờ Thế tôn độc hành không bạn lữ, cũng không có thầy, công đức vô lượng. Ngài muốn dạy dỗ chúng sanh thảy đều thành tựu đối với Phật pháp, Nhất thiết trí, thành tựu Ðẳng chánh giác tối tôn vi diệu không ai bằng. Ngài biết tất cả trần lao, căn bản thú hướng, đều thành tựu ý niệm không di độn, lấy trí phân biệt tất cả pháp độ, lấy các kiết sử làm cho vi diệu trở thành bật nhất, xướng thuyết tất cả hành, cho nên gọi là Nhất thiết trí. Khi đã có Nhất tiết trí, giữ tâm chuyên nhất, hiểu tất cả pháp, đoạn trừ tất cả kiết sử, cho nên gọi là Nhất thiết diện, trừ khử hữu ái, cũng không có bạn lữ, trí thành tựu tất cả công đức, bình đẳng, cứu hộ tất cả chúng sanh, như cha mẹ thương con, dần dần thành tựu công đức lực. Vì không tham lam, kiêu mạn cho nên gọi là tối thắng. Tung rãi, hiển bày tám hiền thánh đạo mà chuyển pháp luân. Ngài giống như chiếc bóng, không ở trước mặt trời nhưng ở trước bóng tối, Ngài cũng giống như vậy, tất cả kiết sử không tương ứng với đạo, cho nên mới chuyển pháp luân. Bấy giờ liền nói bài kệ:

– Ðầy đủ mọi công đức
Sắc Ngài khó nghĩ lường
Giống như mặt trăng sáng
Biển cả nhóm châu báu
Nó không có hạn lượng
Ðầy đủ tất cả tướng
Chiếu soi trong đêm tối
Ðức Thích chủng cũng vậy.

Ngài quán các duyên khởi xong, trí vượt qua 12 nhân duyên; trần cấu kiên cố nên khởi tâm ái trước, trí ý dong ruổi trong đó, hoặc khởi trí hữu lậu tạo các khổ hạnh mà được đạo xuất yếu; biết dục; nhờ diệt các kiết sư ơ ønên không có tưởng khổ vui, tưởng chấm dứt. Trí nhờ dùng vô ngã cho nên được tăng ích; trí tương ưng với thức nên tâm trống không, Trí muốn hàng phục ý chí thiểu tráng làm nhiễm trước tâm mình; khởi trí y chỉ, tự tỉnh ngộ, quyết định diệt các kiết sử; khởi trí minh huệ muốn hàng phục kiết sử, khởi trí hưu tức ( dừng nghỉ) muốn đến bờ kia; khởi trí khinh cử (nhẹ nhàng) tự (xứng) phù hợp với thân vì giác ngộ chúng sanh, dùng chân lý để dạy họ, trí khởi diệt tận. Nhờ chân lý này, tư duy mà có các thiền vi diệu. Nhờ tư duy ấy mà khởi trí vượt đến bỉ ngạn, tâm vị ấy đạt được hy vọng, đều được thấy đạo. Ý có chỗ y cứ mà được trí huệ, tứ đại ở trong trạng thái dừng nghĩ, tư duy cùng tướng tướng loại hướng đến bỉ ngạn, được trí thiên nhĩ, đồng đến cảnh giới ấy, đồng trong một hạnh, đã được đẳng độ bỉ ngạn, được trí Thiên tỷ, y vào thức ấy muốn có trí phân biệt, biết ý nghĩ trong tâm trí người khác, thảy đều thanh tịnh, đều có tu hành. Vì muốn hóa độ chúng sanh liền được trí Tự thúc túc mạng, vì sắc thiện ấy cho nên thị hiện tứ đại. Vừa được trí Thiên nhãn trong tâm liền biết, quán sát giới thanh tịnh, được thí Thệ nguyện, công đức đại thần tiên, nhờ đó chủng tử Tam muội sanh ra, độ thoát các cõi Tam muội. Vì muốn mãi ích lợi, làm cho chúng sanh hoan hỷ liền được Trí cứu cánh.

Bấy giờ liền nói bài kệ này:

– Sự tư niệm mọi người
Phân biệt tất cả pháp
Phải biết rõ nghiệp lực
Ðạt được quán sát tâm
Thân cận ở trước mắt
Ðể chỉ Ðại thần tiên
Ðể xả các trần cái,
Lành thay, bậc thượng nhân!

Vị ấy sống như thật nhưng không có ái dục, không tương ưng với ái dục, cũng không sân hận và không có ý sát hại, cũng không ngu si, biết rỏ căn bệnh ngu si, cũng không dua nịnh, thường hay nhu hòa, cũng không tự khen mình, mở miệng là dạy điều lành, cũng không chấp tướng, trù khủ tưởng hy vọng, cũng không có tâm bỉ thử, không làm thương hại người khác, tự được giải thoát, cũng không dục vọng, có tâm thương xót, làm việc gì cũng thành tựu, không những có tâm từ mà có cả tâm bi nữa. Không có tư tưởng tạp uế, cũng có tâm che chở, muốn độ thoát che chở tất cả chúng sanh, cho nên có tâm Ngài trống không, đầy đủ cấm giới, có tâm vô nguyện, trí huệ thấm nhuần, có vô tưởng tâm, cũng không nhiễm trước, cũng không vui chơi, nhưng vì người thế gian nên cũng không lìa sự vui chơi, tránh các ác nghiệp mà dạy giáo pháp, thành tựu cấm giới, không cò sức mẻ, thành tựu Tam muội, quyết không di động, thành tựu trí tuệ, đều đến bỉ ngạn, đầy đủ thập lực, không ai hơn được, đắc Tứ vô sở úy, không có tâm khiếp nhược, đi một mình trong ba cõi, ở trong đại chúng mà rống lên tiếng rống sư tử.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

– Giống như là đại hải
Thập lực, Nhất thiết đức
Giống như là đại hải
Người đó qua khỏi bờ
Rộng lớn, rất vi diệu
Người trí phải quán sát
khi sóng gió lay động
Công đức họ không lường.

NHỮNG KINH DO TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP THÀNH.
 
Hết quyển thượng.

Trang: 1 2 3