NHÂN QUẢ VÀ SỐ PHẬN CON NGƯỜI
Thích Đạt Ma Phổ Giác
ĐÔI LỜI TÂM SỰ
Nhân quả và số phận con người là quyển sách phản ảnh sự thực của kiếp người với vô vàn sự biến đổi. Người tin theo truyền thống có ông trời tạo ra, cuộc đời của ta do trời sắp đặt, mọi sự thăng trầm nên hư thành bại đều do trời quyết định, con người không có khả năng và quyền lựcgì cả, cuối cùng chấp nhận số phận đã an bài.
Học thuyết này chỉ phù hợp khi con người còn ăn lông ở lỗ, chưa có kiến thức nhận định đúng sai nên mới tin rằng có một đấng sáng tạo và con người bị điều hành, sai sử bởi đấng này. Ai tôn thờ và nương theo đấng quyền năng ấy thì có được cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, còn ai không theo sẽ bị đọa đày, đau khổ. Con người chỉ có con đường duy nhất, theo thì nên, không theo thì hư. Vậy học thuyết đó có đúng hay không?
Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học, con người dễ nhận ra nguyên lý sống của vũ trụ, tất cả mọi hiện tượng sự vật đều do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, không có gì là do một nhân mà có thể tồn tại trên thế gian này.
Thời xa xưa, những hiện tượng như mưa gió bão bùng, sấm sét long trời lở đất, người ta cho rằng, đó là do thần linh hay thượng đế muốn răn dạy con người bớt làm các việc xấu ác. Nếu có ai chẳng may là nạn nhân của các hiện tượng này thì họ phương tiện nói rằng, có đấng quyền năng tối cao trừng phạt người làm việc xấu ác. Từ đó, lâu ngày thành ra phong tục, tập quán, rồi người ta cứ chấp chặt vào đó mà lung lạc lòng người, họ quên đi những điều rất thực tiễn gieo nhân nào thì được quả nấy.
Bờ vực thẳm đợi kẻ ăn chơi
Bờ giác ngộ chờ người tu thiện.
Trong kinh Phật dạy:
– Chỉ có ta làm điều tội lỗi
– Chỉ có ta làm điều ô nhiễm
– Chỉ có ta tránh điều tội lỗi
– Chỉ có ta gội rửa cho ta.
Trong sạch hay ô nhiễm là tự do ta, không ai có thể làm cho người khác trong sạch hay ô nhiễm được.
Đây là nguyên lý sống do đức Phật chứng ngộ mà nói ra, không phải do suy luận vu vơ, huyền hoặc. Ngài chỉ cho con người biết cách làm chủ bản thân đem lại giá trị bình đẵng cho con người, bằng cách mình làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau. Con người có quyền làm chủ chính mình, nên hư, thành bại, phải quấy, tốt xấu đều do con người tạo lấy, không một đấng nào có quyền ban phước, giáng họa. Đó là chân lý nhiệm mầu của đời sống con người.
Người nào thích trác táng ăn chơi sa đọa để rồi giam mình trong ngục tù tội lỗi, làm khổ mình, hại người thì cuối cùng phải nằm bên bờ vực thẳm.
Còn nếu chúng ta tập thói quen tốt giúp người, cứu vật hướng đến chân thiện mỹ, làm người có nhân cách, sống có đạo đức, luôn vì lợi ích chung, không vì lợi ích riêng tư thì an nhiên, tự tại trên bờ giác ngộ vậy.
Giác ngộ hay vực thẳm là do hành động của mỗi người tạo nên qua thân, miệng, ý. Khi chưa biết tu như lúc khai hoang làm rẫy thấy rắn thì ta tìm cách đập chết, nay biết tu rồi thấy rắn thì tránh không đập mà tìm cách gieo duyên hóa độ cho nó. Đó là từ vực thẳmchuyển thành giác ngộ. Vì vậy, nhân quả có thể thay đổi được, qua cách chuyển nhân, thân không làm ác mà hay làm thiện.
Hoặc giả lúc ta chưa biết tu, miệng hay nói lời hung dữ ác độc, cay nghiệt làm cho người oán giận thù hằn, phiền não khổ đau. Nay ta biết tu rồi, ý thức được đó là lời nói làm tổn hại đến người, ta thường hay nói lời hòa nhã, chân thật, dịu dàng dễ nghe… Đó là ta biết chuyển nhân xấu từ miệng thành thiện ích.
Như vậy, nhân quả khác với số phận là có thể thay đổi được. Nhờ đó, con người có thể chuyển xấu thành tốt, chuyển họa thành phúc, chuyển mê thành ngộ. Thực hành được những điều đó chính là người khéo biết tu vậy.
Còn nói số phận con người là cố định, không thể thay đổi được thì người giàu sẽ ỷ lại, họ sẽ hưởng thụ ăn chơi sa đọa đến khi phước hết, họa đến làm sao trở tay cho kịp, đành bó tay ngồi than phân trách phận, oán trời, trách đất, đổ thừa tại bị thì là… Còn người nghèo thì lại nghĩ rằng, dù có siêng năng, tinh cần cũng mất công vô ích cho nên chẳng cần phấn đấu vươn lên làm mới lại chính mình, cuối cùng nghèo lại càng nghèo thêm.
Vì vậy, việc hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày, giúp cho con người có thêm ý chí nghị lực, giàu lòng can đảm, không bi quan, yểm thế, không oán than hay đổ thừa số phận khi gặp bế tắc, dù gặp nhiều khó khăn, chướng ngại nhưng ta vẫn luôn vui vẻ vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Người không tin vào nhân quả thường có thái độ yếu đuối thấp hèn, luôn sống trong lo lắng, sợ hãi, bất an. Họ hay tin vào những khả năng siêu hình, hoặc tha lực, mang tư tưởng cầu nguyện, van xin, sống ỷ lại vào người khác dễ dẫn đến mê tín, dị đoan, không tin sâu nhân quả, do đó không nhìn thấy được lẽ thật nên luôn sống trong đau khổ lầm mê.
Còn ai hiểu và tin sâu nhân quả thì sẽ sống một đời bình yên hạnh phúc trong trạng tháian lành, tự tại, luôn sống có trách nhiệm đối với mọi hành vi xuất phát từ thân, miệng, ý của chính mình. Người đã tin sâu nhân quả thì biết rõ ràng làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau là một quy luật tất yếu, là lẽ đương nhiên. Ai có lòng tin sâu như vậy, thì sẽ sống không ỷ lại, không cầu cạnh, van xin, không chạy trốn trách nhiệm, dám làm dám chịu không đổ thừa cho ai.
Đây là tinh thần tích cực chỉ có trong đạo Phật luôn giáo dục người Phật tử ý thức được trách nhiệm và bổn phận của mình đối với mọi hành động của bản thân, luôn yêu thươngđùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau theo phương châm “tốt đạo đẹp đời”.
Còn nếu ai sống mà chấp nhận số phận đã an bài thì khó lòng mà vươn lên làm mới lại chính mình. Như bản thân chúng tôi nếu không có ý chí và nghị lực làm lại cuộc đời, thì tôi đã rũ xương trong lao tù nghiện ngập vì số phận đã an bài. Nếu ta không biết tự mình đứng lên sau khi vấp ngã, nếu không có Phật pháp soi đường chỉ lối, nếu không có Thầy Tổ dang tay tế độ, nếu không có bà mẹ tốt nâng đỡ cưu mang… thì ngày nay tôi đâu có cơ hội để chia sẻ cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa một chút trải nghiệm trong cuộc đời. Đạo Phật là một tôn giáo có chất liệu rất thực tế trong đời sống con người. Đạo Phậtcó mặt trong cuộc đời là để phục vụ cho lợi ích nhân loại và muôn loài. Đạo Phật luôn nêu cao tinh thần nhân quả và khả năng giác ngộ của con người.
Tất cà mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này, nếu đem ra khảo sát thật kỹ, chúng ta sẽ thấy không một sự vật nào thoát ra ngoài lý nhân quả. “Thấy quả biết nhân, thấy nhân biết quả” là tinh thần thực tiễn rất khoa học, không mơ hồ, không ảo tưởng. Một số khảo cứu của các nhà khoa học đã chứng minh cho lời Phật dạy là chân lý.
Một trong những giáo lý thiết thực nhất đức Phật đã dạy và hướng dẫn cho hàng đệ tửcủa Ngài, đó là thuyết nhân quả nghiệp báo. Nhân quả là giáo lý nền tảng của đạo Phậtvà nó đã thấm nhuần trong nhân loại và đã ăn sâu vào tâm huyết của mọi người.
Đạo Phật được truyền vào Việt Nam đã trên hai ngàn năm nay, nếu ai không hiểu thấu lý nhân quả và áp dụng trong đời sống hằng ngày thì thật là một thiệt thòi to lớn không gì bằng.
Điểm nổi bật nhất của đạo Phật là đạo làm người hay nói cách khác đạo Phật là đạo của con người. Người ta thường nói, đạo Phật là đạo của tình thương, là đạo của tỉnh thức, vì giáo lý đạo Phật luôn giúp cho con người giải quyết được mọi sự nên hư, tốt xấu, thành bại trong cuộc đời là do mình tạo lấy, nhờ vậy ta biết sống tốt hơn để đạt được an vui hạnh phúc.
Hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ tự tin nơi chính mình, không ỷ lại vào một đấng quyền năng nào có thể ban phước, giáng họa cho con người. Trong đời sống này, khổ hay vui là do mình tạo lấy mà thôi. Chính con ngườilà thượng đế tối cao của con người. Con người có quyền quyết định mọi vấn dề trong cuộc sống và có quyền làm chủ mọi hành động từ thân, miệng, ý. Và trong khuôn khổ nhất định, người làm lành được hưởng phước, người làm ác phải chịu khổ đau, ta không thể đổ thừa cho ai cả.
Chính vì vậy đạo Phật rất chú trọng đến vấn đề nhân quả nghiệp báo, nó là một nguyên lý giúp cho con người ý thức và chịu trách nhiệm về những hành vi tạo tác của mình trong đời sống hiện tại. Người tu theo đạo Phật, chúng ta cần phải hiểu thấu lý nhân quảmột cách tường tận, lấy đó làm kim chỉ nam, làm phương châm tu hành ngay tại đây và bây giờ để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc.
Giáo lý nhà Phật từ thấp tới cao, từ đạo làm người cho đến đạo hiền Thánh đều dựa trênnền tảng của nhân quả, vì vậy trong cuộc sống của chúng ta ai không thấu hiểu lý nhân quả thì sự tu hành của mình khó mà đạt được kết quả tốt đẹp.
Chúng tôi chân thành bộc bạch đôi lời, xin được kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống, kính mong những ai muốn làm người tốt hãy cùng chúng tôi vượt cạn lên bờ. Tuy rằng, “vượt cạn lên bờ được mấy ai” nhưng khi ta quyết là được, muốn là thành, không có gì không thể làm được.
Tháng giêng năm Kỷ Sửu
THÍCH ĐẠT MA PHỔ GIÁC
ĐẠO PHẬT VÌ CON NGƯỜI
Sự sống của con người là luôn tìm kiếm sụ an lạc cho thể xác và tinh thần, vậy muốn tìm về cội nguồn của hạnh phúc, hãy nên tìm hiểu đạo Phật có mặt trên thế gian này để làm gì?
Muốn tìm hiểu đạo Phật, chúng ta phải biết đức Phật là ai? Là một con người có thực hay Ngài là một vị thần linh, thượng đế hay đấng sáng tạo hoặc chỉ là nhân vật huyền thoại mà thôi.
Theo lịch sử, vào ngày trăng tròn tháng 4 âm lịch Việt Nam, và theo lịch Ấn Độ, vào đêm trăng tròn tháng 5 năm 544 trước công nguyên, tại thành Ca-tỳ-la-vệ, trong vườn Lâm-tỳ-ni, thái tử Sĩ-đạt-ta ra đời với sự vui mừng của vua cha Tịnh-phạn và hoàng hậu Ma-da. Sau khi sinh thái tử được 7 ngày thì hoàng hậu qua đời và được sinh về cõi trời. Người em ruột của bà là Ma-ha Ma-xà Ba-đề thay thế hoàng hậu nuôi dưỡng, chăm sóc thái tửcho đến khi trưởng thành.
Thái tử Sĩ-đạt-ta thuở nhỏ, khi vừa tròn 7 tuổi theo vua cha ra đồng làm lễ Hạ điền (lễ ăn mừng ngày làm ruộng đầu năm). Đây là một lễ hội lớn đối với toàn dân Ấn Độ thời bấy giờ.
Trong lúc mọi người đang nô nức hân hoan mừng lễ hội, những luống cày đầu tiên được bắt đầu, thái tử cũng vui mừng tham gia cùng bao người khác. Từng luống cày được xới lên, những con trùn, con dế bị đứt ra làm hai, làm ba khúc, khi ấy những con chim sẻ bay đến giành nhau nuốt côn trùng và những con chim cắt lớn đuổi bắt các chim sẻ ăn thịt. Bên cạnh nơi lễ hội, một anh thợ săn đang chờ, giương cung sẵn sàng bắn hạ các con chim cắt.
Trong khu rừng rậm, Người thấy nhiều con hổ đang chực chờ vố lấy người thợ săn. Thấy cảnh ngộ tương tàn, tương sát diễn ra trước mắt, trong lòng thái tử cảm thấy không vui. Thay vì tiếp tục cùng mọi người vui chơi lễ hội, thái tử tìm một nơi yên vắng dưới gốc cây để ngồi suy ngẫm sự sống này. Cuộc đời là thế đó sao?
Thời gian trôi qua, thái tử lớn lên với muôn vàn suy nghĩ và Ngài cũng lấy vợ có con như bao nhiêu người trên thế gian này.
Một hôm, nhân dịp đi dạo bốn cửa thành, thái tử lại chứng kiến cảnh người già, bệnh, chết và cách sống của một vị Sa-môn. Những điều đó làm cho thái tử Sĩ-đạt-ta càng thêm suy tư, thắc mắc trong lòng. Ta đây rồi cũng phải già, phải bệnh, phải chết như những người kia sao? Già thì đi đứng khó khăn, mắt mờ, tai điếc, gối mỏi, lưng còng. Bệnh thì đau đớn trăm bề, nhức nhối, khốn khổ. Chết thì nằm yên không cựa quậy được, ruồi bu kiến đậu, rữa mục thân xác. Ta rồi cũng phải vậy sao?
Thái tử đến gặp vị Sa-môn hỏi rằng: Tại sao người phải xuất gia làm hạnh sa-môn rày đây, mai đó để làm gì? Vị Sa-môn giải thích cho thái tử biết làm hạnh Sa-môn là để tìm cách giải thoát khỏi khổ đau sanh, già, bệnh, chết. Từ đó, thái tử bắt đầu tìm ra một chút manh mối cho cuộc sống mới với nhiều hy vọng. Ngài ôm ấp suy tư này cho đến quên ăn mất ngủ, chẳng màng đến việc thụ hưởng dục lạc thế gian của một vị quyền uy bậc nhất trong thiên hạ thời bấy giờ.
Một hôm, thái tử lên trình vua cha xin được xuất gia học đạo và sau nhiều lần van xinnhư vậy, vẫn không được vua cha chấp thuận.
Vua cha bảo rằng: Tại sao con không theo truyền thống tu tập của Bà-la-môn giáo, lo chu toàn việc gia đình và xã hội rồi đi tu đâu có muộn màng gì? Từ xưa đến naynhiều người vẫn làm như thế!
Thái tử liền thưa với vua cha, nếu ai cũng chờ đến già mới tu thì đã huân tập không biết bao nhiêu là thói quen xấu của thế gian, vậy đâu còn sức lực và trí tuệ nữa mà tu. Sau khi trình bày cho vua cha biết như vậy, thái tử mới yêu cầu nhà vua nếu cha giải quyếtthỏa mãn cho con bốn điều kiện sau đây, thì con sẽ không xin xuất gia học đạo và sẵn sàng vâng lời chỉ dạy của cha yêu cầu:
– Làm sao cho con trẻ mãi không già?
– Làm sao cho con mạnh hoài không bệnh?
– Làm sao cho con sống đời không chết?
– Làm sao cho mọi người thoát khỏi già, bệnh, chết?
Vua cha bàng hoàng sửng sốt khi nghe con mình yêu cầu bốn điều kiện như thế. Ngài bảo:
– Này hỡi con yêu quí của ta! Tất cả mọi thứ trên thế gian này chỉ là tương đối mà thôi, con đòi hỏi và yêu cầu các điều kiện vượt ra ngoài quy luật thế gian, như thế thì làm sao cha có thể giải quyếtcho con được, con hãy nên chính chắn suy nghĩ lại.
Biết con mình trước sau gì cũng tìm cách xuất gia, học đạo làm cho nhà vua càng thêm lo lắng, buồn rầu, khổ sở.
Bốn điều kiện mà thái tử đưa ra, trên thế gian này từ xưa cho đến nay chưa có ai thực hành được, làm sao mà có chuyện con người trẻ mãi không già, mạnh khoẻ hoài không bệnh, không chết và làm sao con người có thể thoát khỏi phiền não khổ đau.
Đến khi công chúa Da-du-đà-la sinh hạ cho thái tử đứa con trai đầu lòng, Đến lúc này người thấy rằng, có vợ rồi có con, đây chính là những chướng duyên, làm cho ta thêm sự ràng buộc . Nếu ta cứ chần chừ ở lại đây tiếp tục cuộc sống theo tình cảm ái ân thì không biết chừng nào mới giải quyết được khổ đau của kiếp người. Cho nên sau khi suy nghĩ chính chắn, Người quyết định từ bỏ tất cả để chuẩn bị cho đời sống xuất gia. Thế là Người bỏ lại sau lưng cuộc sống xa hoa, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con xinh, quyền uy thế lực, trong đêm vắng, dưới ánh trăng sáng vằng vặc, hai lần quay vào trong nhìn lại vợ con lần cuối rồi cùng người tùy tùng Sa-nặc lén ra khỏi hoàng cung, vượt sông đến nước Ma-kiệt-đà, nơi có truyền thống tu tập tâm linh cao nhất thời bấy giờ để tầm sư học đạo.
Người tìm đến hai vị đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ để tu học. Trải qua năm năm tinh cầnhọc đạo, những gì hai thầy đạt được Người đều thông suốt hết tất cả, nhưng vấn đề làm thế nào để giúp cho con người thoát khỏi già, bệnh, chết vẫn không giải quyết được. Do đó, Người từ giã hai vị thầy ấy, tiếp tục ra đi tầm sư học đạo.
Người nghe nói phương pháp tu ép xác khổ hạnh có thể đạt đến quả vị Niết-bàn không còn khổ đau và người tu theo phương pháp này, chỉ mặc áo quần không khí, trét tro kín người, đứng một chân tìm mọi cách để hành hạ thân xác mình, vì mọi người tu theo lối này cho rằng làm như thế để mau được giác ngộ và giải thoát.
Người vào rừng sâu tu theo phương pháp ấy sáu năm trường khổ khổ hạnh ép xác, mỗi ngày chỉ ăn vài hạt mè, hạt bắp. Đến nổi thân thể Người ốm yếu gầy còm chỉ còn da bọc lấy xương, tiều tụy, xanh xao không còn sức để tu tập nữa. Cuối cùng Người bị ngất xỉu, ngã quỵ bên vệ đường.
Trong lúc sức cùng, lực tận không đi đứng nổi, may mắn thay, một cô gái chăn bò nhìn thấy liền đến dâng cúng cho Người một bát sữa. Nhờ bát sữa của cô gái chăn bò tốt bụng, Người dần hồi được tỉnh trở lại. Từ đó Người quán xét lại các phương pháp mà Người đã tu, nếu Người tu hành mà còn hưởng thụ dục lạc thế gian thì giống như người nấu cát muốn thành cơm, không thể nào đạt đến giác ngộ giải thoát được. Còn lối tu khổ hạnh ép xác chỉ làm cho thân thể tiều tụy khốn đốn, khổ sở, tinh thần bất an cũng không thể nào đạt được đạo quả.
Sau đó, Người tự chiêm nghiệm quán chiếu và tìm ra phương pháp trung đạo, không hưởng thụ, không ép xác, sống quân bình trở lại, mỗi ngày đi khất thực, ăn đúng ngọ, ăn vừa đủ nuôi sống bản thân để hành trì tu tập.
Sau một thời gian thực hành theo phương pháp trung đạo, sức khỏe của Người được phục hồi trở lại bình thường và Người đến cội Bồ đề phát đại thệ nguyện: “Ta dù thịt nát xương tan, quyết không rời khỏi chỗ này nếu không chứng được đạo quả Vô thượng Bồ-đề”.
Người ngồi kiết-già liên tục thiền quán soi sáng lại chính mình suốt bốn mươi chín ngày đêm, tinh cần siêng năng chuyển hoá dùng trí tuệ thẩm thấu tâm tư mà không cần ăn uống gì cả. Tại đây Người đã giác ngộ và giải thoát, chứng được tam minh.
Đầu tiên, Người chứng được Thiên nhãn minh, có được con mắt sáng suốt thấu rõ mọi sự vật từ gần cho đến xa mà con mắt phàm tình của chúng ta không thể nào thấy được. Người thấy rõ ràng con người sau khi chết sẽ tuỳ theo nghiệp tốt xấu của mình đã tạo trong hiện tại, mà được tái sinh chỗ xấu hay tốt.
Nếu ai gieo điều thiện lành tốt đẹp luôn giúp người cứu vật thì sẽ tái sinh trở lại ba đường lành; nếu ai gieo tạo nghiệp nhân xấu ác thì bị tái sanh vào ba dường dữ. Ba đường lành là cõi trời, cõi người và a-tu-la; ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chứ không phải chết là hết mà có rất nhiều người thường lầm tưởng như vậy, chết chỉ là thay hình đổi dạng tùy theo nghiệp nhân xấu tốt của mình đã tạo.
Do tu chứng mà thấy biết như vậy nên Phật nói: “Ta thấy chúng sanh đi trong sáu đường luân hồi, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy người qua kẻ lại, rõ ràng không sai sót”. Phật thấy rõ vòng luân hồi vô cùng tận của tất cả chúng sinh, nên Người khởi tâm mở rộng tấm lòng từ bi thương xót mà hướng dẫn lại cho chúng ta.
Kế đến Người chứng được Túc mạng tinh, thấu suốt được sinh mạng của bản thân mình từ vô số kiếp về trước một cách rõ ràng, tường tận về các kiếp quá khứ sinh ra làm gì, ở đâu Người đều thấy rõ, biết rõ. Điều này trong kinh A-hàm, Phật nói như sau: “Ta nhớ vô số kiếp về trước như người nhớ việc mới xảy ra ngày hôm qua”. Do đó, Người biết được con người từ đâu đến và sau khi chết đi về đâu.
Cuối cùng, Người chứng được Lậu tận minh, tức là biết cách thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết một cách rõ ràng và chỉ lại cho tất cả mọi người nếu ai muốn thoát ly sống chết.
Tuy nhiên như vậy, trong đạo Phật có cái hay là không bắt buột ai tin theo một cách mù quáng, cuồng tín, Người chỉ là thầy dẫn đường, chỉ cho ta biết con đường này dẫn đến an vui, hạnh phúc, con đường kia dẫn đến sa đọa khổ đau, còn làm được hay không là do tự mỗi người quyết định.
Ai muốn tìm cầu giác ngộ, giải thoát để thành Phật rộng độ chúng sinh thì Người chỉ pháp tu hạnh Bồ-tát đạo.
Bồ-tát là người giác ngộ, không vì lợi ích riêng tư, luôn mở rộng tấm lòng thương yêubình đẳng đến với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ hay chia sẻ những gì mình đang có, từ vật chất cho đến tinh thần, lấy niềm vui của mọi người làm niềm vui cho chính mình.
Bồ-tát tu sáu pháp Ba-la-mật để diệt trừ phiền não khổ đau. Bồ tát thấy rõ tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ, keo kiệt, hiểm độc là nhân nghèo khổ thiếu thốn khó khăn, cho nên Bồ-tát tu hạnh bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia để chuyển hoá lòng tham.
Thấy người ăn không ngồi rồi, buông lung sa đọa, cống cao ngã mạn làm cho đạo đứcnhân cách băng hoại thì Bồ-tát tu trì giới để khuyên mọi người không sát sinh hại vật, không giant ham trộm cướp, không tà dâm, không nói dối hại người và không dung các chất gây say nghiện như là rượu, xì ke ma tuý cho nên nói “trì giới độ phá giới”.
Thấy người nóng giận là nhân gây thù chuốc oán, rồi dẫn đến chửi mắng, đánh đập cuối cùng giết hại, tạo ra nhiều tội lỗi mà làm cho mình và người phiền muộn khổ đau, cho nên Bồ-tát tu hạnh nhẫn, nhịn, nhường để chuyển hóa cơn giận dữ, cho nên nói “nhẫn nhục độ nóng giận”.
Thấy người lười biếng hưởng thụ bê tha là nhân dẫn đến hao tài tốn của, hư thân mất nết, chẳng giúp ích gì được cho ai Bồ-tát tu hạnh tinh tấn chuyên cần để chuyễn hóa ăn không ngồi rồi, nhàn cư vi bất thiện.
Thấy tâm tư lăng xăng, điên đảo, vọng tưởng là nhân dẫn đến bất an, lo sợ, Bồ-tát tu thiền định để dừng lắng mọi tâm tư vọng tưởng xấu ác có tính cách hại người vật, để sống trở lại với tâm thanh tịnh sáng suốt, cho nên nói “thiền định độ tán loạn”.
Thấy nhân ngu si là bị đọa vào ba đường xấu, nhất là các loài súc sinh Bồ-tát tu hạnh từ bi, trí tuệ để chiếu phá tối tăm, mờ mịt cho nên nói “trí tuệ độ ngu si”.
Ngoài việc biết tích lũy phước báo và siêng tu trí tuệ để cứu giúp chúng sinh, Bồ-tát còn phải tu sáu pháp Ba-la-mật để loại trừ các thói quen tật xấu, cho đến khi viên tròn quả mãn thì Bồ-tát thành Phật.
Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về những hành vi tạo tác của mình từ thân, miệng, ý. Nếu trong cuộc sống, chúng ta hay làm các việc thiện lành tốt đẹp thì được hưởng phước báo cõi trời người, còn chúng ta làm điều xấu ác thì phải chịu quả khổ đau. Đó là quy luật tất yếu và sinh tồncủa xã hội, không ai có quyền ban phước, giáng họa hay đày đoạ chúng ta cả.
Gieo nhân nào là gặt quả đó, chính đức Phật nhờ sự tu chứng mà thấy biết như thế và chỉ dạy lại cho chúng ta, chứ không phải do suy luận học hỏi từ kiến thức thế gian. Sự thấy biết của đức Phật là vô cùng, vô tận, không thể nghĩ bàn.
Thí dụ, như cách đây hơn 2.600 năm về trước, Người đã thấy rõ trong bát nước có vô số chúng sanh đang sống (vi trùng) hay là vô số thế giới trong bầu vũ trụ bao la này. Đến nay với sự tiến bộ của khoa học, các nhà bác học mới xác nhận điều này. Còn nếu bảo rằng, tất cả mọi hiện tượng, sự vật là do ngẫu nhiên, đương nhiên, khi không mà hình thành tốt hoặc xấu, không có nhân quả, nghiệp báo thì mọi người sẽ sống vô trách nhiệm đối với hành vi tạo tác của chính mình. Từ đó ỷ lại vào ân sủng của một đấng quyền năng nào đó… để chúng ta sống vô ý thức không chịu siêng năng làm việc mà ăn không ngồi rồi làm khổ cho gia đình và xã hội. Để chuyển hoá được phiền muộn khổ đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, đạo Phật đã chỉ cho mọi người hãy nên tin sâu nhân quả và áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.
ANH NÔNG DÂN VÀ CON THỎ
Có anh nông dân nọ chuyên nghề làm ruộng để nuôi sống bản thân và gia đình. Hằng ngày anh lam lũ vất vả ngoài đồng từ sáng sớm tinh mơ cho đến khi trời tối mịt mới về nhà, thế mà gia đình vẫn nghèo khó, thiếu trước hụt sau. Năm nào lỡ bị thiên tai lũ lụt xảy ra thì gia đình nhà anh phải chịu cảnh thiếu ăn, thiếu mặc, nợ nần chồng chất.
Một hôm, anh đang cuốc ruộng dưới nắng hè chang chang, quá mệt mỏi, anh ta vào ngồi nghỉ bên bờ ruộng dưới gốc cây. Ngồi dưới tán cây râm mát, nhìn ra ngoài đồng rực nắng, anh cảm thấy trong lòng buồn chán và suy nghĩ về thân phận nghèo khó của mình. Trước dòng suy nghĩ miên man anh cảm thấy cuộc sống của mình sao quá nhọc nhằn, cực khổ, suốt ngày phải làm lụng vất vả ở ngoài đồng một nắng hai sương mà chưa bao giờ có được một ngày cơm no, áo ấm.
Đang miên man với dòng suy nghĩ vẩn vơ về kiếp sống nghèo khổ của mình, bỗng dưng từ phía rừng sâu, một con thỏ chạy ra đâm sầm vào gốc cây chết liền tại chỗ. Anh nông dân tự nhiên vớ được con thỏ, anh vui mừng hớn hở và nghĩ rằng, từ nay về sau ta có thể thoát được cảnh nghèo khổ rồi. Anh phấn khởi xách con thỏ về nhà làm thịt, một nửa đem ra chợ bán lấy tiền, còn một nửa anh nấu cho cả nhà cùng ăn. Anh ta vui vẻ, khoái chí nói với vợ con rằng, gia đình ta kể từ nay về sau sẽ không còn sống trong cảnh nghèo khổ thiếu thốn khó khăn và không còn làm ruộng nhọc nhằn, vất vả nửa. Bắt đầu từ ngày mai ta chỉ việc ngồi dưới gốc cây chờ đợi, chắc chắn ngày nào cũng có một con thỏ đến đây để nộp mạng cho mình.
Rồi anh ta cứ ra chỗ gốc cây ấy mà ngồi chờ, từ sáng sớm cho đến chiều tối, từ ngày này cho đến tháng nọ, anh nông dân chẳng thấy một con thỏ nào đến nộp mình cả. Dưới gốc cây, người ta chỉ thấy gã nông dân ngồi chờ với vẻ mặt bơ phờ hốc hác, thất vọngtrông rất thểu não, thảm sầu làm sao đâu.
Câu chuyện ngụ ngôn trên đã chỉ cho chúng ta một bài học quý báu và có cách nhìn đúng đắn hơn về giáo lý nhân quả, thay vì anh nông dân muốn có cơm ăn áo mặc thì phải gieo nhân thì mới gặt quả. Như muốn có thóc lúa, trước nhất phải cuốc đất rồi gieo mạ, cấy lúa, nhổ cỏ, bón phân, dẫn nước vào ruộng, chăm sóc đúng theo tiến trình nhân quả và gặp lúc mưa thuận, gió hòa thì chắc chắn sẽ có một vụ mùa bội thu, gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp.
Chính vì quan niệm sai lầm của một số người cho rằng mọi việc đều ngẫu nhiên, khi không cùng với sự biếng nhác, không làm mà muốn có ăn. Anh nông dân cũng nằm trong trường hợp đó suy nghĩ, nhận định nông cạn, cứ tưởng rằng mọi việc xảy ra theo lẽ đương nhiên, như việc anh lượm được con thỏ, mà không biết rằng mọi việc đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Con thỏ kia hoảng sợ bỏ chạy thục mạng, bởi nó đang bị thú lớn rượt bắt ăn thịt, nên thỏ vì sợ chết nên cố gắng tìm cách thoát thân, do đó chạy quá mức không định hướng đúng đắn mới đâm sầm vào gốc cây chết liền tại chỗ.
Còn anh nông dân, sau nhiều năm tháng cực nhọc với nghề làm ruộng nhưng vẫn không đủ sống, lỡ gặp năm hạn hán, bão lụt, mất mùa đành phải chịu đói kém thiếu thốn. Dù anh quanh năm suốt tháng tận tụy với nghề làm ruộng nhưng vẫn không đủ sức để nuôi gia đình, từ đó anh sanh tâm mơ mộng hão huyền, tưởng tượng ra đủ thứ.
Cho nên, khi anh đang ngồi nghỉ mệt dưới gốc cây sau những lúc làm việc mệt nhọc, anh thả hồn theo mây gió suy nghĩ vẫn vơ, than phân trách phận cho kiếp sống của mình. Rồi anh mơ ước cầu trời đất ban cho anh có đầy đủ tất cả không làm mà vẫn cóăn và con thỏ vô tình làm cho ước mơ của anh hình như trở thành hiện thực. Vì thế, anh tin rằng, những điều mơ mộng của mình là đúng, cho nên anh không cần làm ruộng nữa mà mỗi ngày ra ngồi gốc cây chờ thời, trong lòng lúc nào cũng luôn hy vọng, có một con vật nào đó xốc tới nộp mạng như con thỏ lần trước.
Đây là tư tưởng và thái độ tiêu cực của một số người thiếu hiểu biết và không tin sâu về nhân quả, thích ăn không ngồi rồi, muốn không làm mà vẫn có ăn, từ đó sinh tâm biếng nhác, bê tha, hậu quả là không những bản thân anh, mà cả nhà phải chịu đói khổ.
Từ cuộc sống thiếu thốn nghèo hèn, con người thường hay ước mơ những điều viễn vông, huyền hoặc, không biết rằng mọi sự nên hư, thành bại trong cuộc đời đều do mình tạo lấy, mình siêng năng làm việc gieo trồng phước báo thì cuộc sống ấm no đầy đủ. Nghèo khổ thiếu thốn khó khăn là do nhiều đời trước không biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia hoặc hay giant ham trộm cướp lường gạt của người khác, làm ít mà muốn hưởng thụ nhiều tiêu xài hoang phí. Đa số người nghèo khổ thiếu thốn khó khăn dễ sinh ra những tư tưởng mông lung, mơ ước hảo huyền lúc nào cũng mong cầu thần linh hay đấng quyền năng nào đó giúp đỡ, ban cho sự sống tốt đẹp.
Như anh nông dân kia, từ cuộc sống thiếu thốn, khó khăn, trong lúc vô tình lượm được con thỏ làm cho anh phát sinh tư tưởng và hành động sai lầm. Anh ta cho rằng mọi việclà ngẫu nhiên khi không, có sự giúp đỡ của bề trên nên bỏ việc làm ruộng ra gốc cây ngồi chờ may mắn đến. Chúng ta vì không tin sâu nhân quả, không làm mà muốn có ăn, làm ít mà muốn hưởng nhiều đó là thói quen của những người thiếu hiểu biết và mê muội.
Ta muốn làm ra của cải vật chất thì phải biết kết hợp nhiều nguyên nhân, trước tiên con người phải siêng năng, cần cù lao động, biết áp dụng nhân quả một cách nhuần nhuyễn và chăm sóc đầy đủ. Thí dụ, như muốn có trái xoài, trước tiên ta phải có miếng đất trống để trồng rồi phải có hạt xoài, hay cây xoài giống rồi phải ra công chăm sóc tưới tẩm, bón phân trải qua ít nhất hai ba năm trở lên mới có kết quả được trái xoài. Còn kết quả được nhiều hay ít trái xoài là do thời tiết, cách chăm sóc của ta có phù hợp, có đúng mức hay không, chứ không phải chỉ có trồng cây xoài mà thôi.
Thật ra, mọi việc trên đời này không phải ngẫu nhiên mà có như trường hợp của anh nông dân kia ngồi nghỉ mệt dưới gốc cây mà lượm được con thỏ. Tất cả sự việc xảy ra đều có mối quan hệ nhân quả xa gần của nó. Còn nếu ai quan niệm rằng cuộc sống trong thế gian này là có định mệnh, số mệnh, do một đấng quyền năng ban phước giáng hoạ giàu nghèo đều có số thì con người sẽ sinh ra ỷ lại và vô trách nhiệm đối với hành động của mình. Nếu ai cho rằng mọi việc đều ngẫu nhiên hoặc chấp nhận số phận đã an bài thì người giàu sẽ ỷ lại, người nghèo sẽ không cố gắng rồi đổ thừa cho trời đất, cả hai đều rơi vào cực đoan dễ gây ra khổ đau cho người khác. Thật ra, mọi việc trên đời này nên hư, thành bại, tốt xấu, đúng sai đều do nhân quả nghiệp báo chiêu cảm.
BÀI HỌC NHÂN QUẢ
Người xưa thường nói “làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước” đó chính là bài học về nhân quả mà Phật thường khuyên nhủ và chỉ dạy cho mọi người. Chúng ta được sanh ra làm người, ai ai cũng đều có phước báo cả, bởi có phước nên mới được làm người, nếu không đã bị đoạ vào ba đường dữ: quỷ đói, súc sinh và địa ngục. Nhưng người phước báo ít mà hưởng thụ nhiều và không biết gieo trồng thêm thì làm sao có đủ phước để mà hưởng. Như chúng ta đã thấy trên đời này có lắm người không làm mà vẫn có ăn là do đâu? Có người đang giàu có bổng dưng bị mất mát, tán gia bại sản trở thành nghèo khổ là do hết phước bởi vì hưởng thụ quá nhiều.
Sau đây, câu chuyện về bài học nhân quả.
Một hôm, Thiền sư Nghi Sơn tắm, vì nước nóng quá nên Ngài gọi đệ tử đem nước lạnh cho thêm vào. Chú đệ tử châm thêm nước lạnh thấy nước vừa đủ ấm để tắm, còn dư chút ít nước lạnh chú đem ra ngoài đổ bỏ. Thiền sư thấy vậy, không hài lòng vì sự phí phạm của người đệ tử nên nói:
-Tại sao con lại phung phí như thế? Trên đời này bất cứ vật gì cũng đều có chỗ dùng của nó, chỉ là giá trị không đồng mà thôi nếu con biết tiết kiệm sử dụng đúng chỗ thì lợi íchbiết mấy. Cớ sao con lại xem thường giọt nước mà đổ bỏ không đi như vậy? Một giọt nước nếu con dùng để tưới hoa, tưới cây, không những cây hoa luôn tươi tốt mà không làm mất giá trị của nó. Tại sao con lại lãng phí đổ đi như thế? Dù là một giọt nước nhưng nếu con biết tận dụng thì giá trị của nó không thể nghĩ bàn.
Người đệ tử nghe xong tỉnh ngộ, xin sám hối và xin thầy đổi pháp danh cho mình là Trích Thủy (có nghĩa là giọt nước) để ghi nhớ lời dạy của thầy. Về sau thầy Trích Thủy trở thành vị Hòa thượng cao Tăng nổi tiếng, được mọi người tôn kính, quý trọng nhờ biết cách sử dụng nhân quả phù hợp với cuộc sống hiện tại.
Ở đời, ít ai nghĩ phải làm thế nào để gieo trồng phước đức mà đa số chúng ta chỉ muốn hưởng thụ, nên làm cái gì cũng cố tìm cách vơ vét về cho riêng mình. Cái gì của ta thì mình quý kính, gìn giữ tiếc rẻ từng chút một, còn của người mặc tình ta lãng phí, vô trách nhiệm không cần quan tâm đến nhất là đối với của chung.
Một giọt nước tuy nhỏ nhưng cả biển lớn bao la cũng do nhiều giọt nước gộp lại mà thành. Thiền sư chỉ dạy người đệ tử của mình hết sức đơn giản, nhưng ý nghĩa và giá trịcủa nó sâu xa không thể nghĩ bàn giúp cho ta ý thức, gìn giữ bảo vệ của chung. Nhất là cuộc sống của Tăng ni nhờ vào sự đóng góp giúp đỡ của đàn na tín thí khắp nơi, nếu ta không ý thức mà tiêu xài lãng phí coi chừng mang lông đội sừng.
Có lần, thầy Trích Thủy dùng giấy trắng để chùi mũi, lần này bị sư phụ quở trách nặng nề: “Con là người hủy hoại Phật pháp, không xứng đáng là người tu hành chân chính”. Của thí chủ họ phải nhín ăn bớt mặc cho nên dù một hột cơm cũng nặng như núi Tu di, con phải tiêu xài cho có chừng mực. Do sự chỉ dạy nghiêm khắc của sư phụ đã giúp cho thầy Trích Thủy sau này trở thành một Thiền sư nổi tiếng.
Chúng ta có được vị thầy như vậy, được học hỏi từ tấm lòng bao dung rộng lớn của ngài, người có chí lớn sẽ không buồn phiền mà còn cán ơn thầy nhiều hơn nữa, vì đã giúp cho ta sống tốt hơn nhờ biết tiết kiệm và an nhẫn nhịn chịu những điều nặng nhọc từ lời nóiphát ra.
Tuy biết rằng được sinh ra làm người là rất khó, nếu không có phước báo làm sao ta được xuất xuất gia tu hành, trên cầu thành Phật dưới cứu độ chúng sinh. Nếu ta không biết tích luỹ phước báo e có ngày phước hết thì hoạ đến. Nhiều người cứ nghĩ rằng ta là thầy thiên hạ mặc tình mà phung phí, không biết tiết kiệm, không lo tu học cho đàng hoàng, không tích công bồi đức đến khi phước hết, không còn phước làm Tăng phải ra đời sống khổ sở.
Nếu chúng ta biết sử dụng phước báo đúng chỗ phù hợp thì phước sẽ không hết mà mỗi ngày càng tăng trưởng thêm, ngược lại nếu ta cứ một bề sống theo thói quen lãng phílàm tổn hại phước báo thì đến một lúc nào đó phước báo sẽ không còn, ta làm gì cũng không được suông sẽ như ý muốn.
Phước báo của con người có giới hạn, nếu ta không biết làm việc thiện lành tốt đẹp để tích lũy thêm phước báo thì dù người nhiều phước báo đến mấy cũng có ngày cạn kiệt. Chính vì thế cho thì còn, ăn thì hết, ta phải biết sử dụng phước báo đúng nơi, xài đúng chỗ thì phước báo mới không bị mòn mà càng ngày càng thêm tăng trưởng.
Như vị Thiền sư dạy người đệ tử tuy thấy đơn giản, nhưng thật là sâu sắc về giá trị thiết thực của nhân quả. Nghĩa là mọi thứ trên đời này đều có giá trị, và là công lao khó nhọc của Phật tử khắp nơi, ta phải biết tiết kiệm và sử dụng sao cho phù hợp. Tiết kiệm khác với hà tiện. Hà tiện là bỏn sẻn, chỗ đáng xài thì không dám xài, ví như có của mà cứ khư khư cất giữ cho đến hư mục, không dám đem ra giúp đỡ khi thấy người thiếu thốn khó khăn, trong cơn hoạn nạn.
Người sống biết tiết kiệm là người biết tích chứa phước báo. Tiết kiệm là người biết tiêu xài đúng chỗ, đúng cách không xa hoa lãng phí. Có người thì biết tiết kiệm tài sản tiền bạc của mình, còn của người hay của chung thì sử dụng lãng phí như thế nào cũng chẳng cần quan tâm đến, hoặc là sử dụng không đúng chỗ làm thiệt hại cho nhân loạichẳng cần biết đến ai.
SỐ PHẬN CON NGƯỜI
Theo quan niệm của một số người thời xa xưa, họ cho rằng đời sống con người là do đấng tạo hóa hay thần linh thượng đế hoặc ông trời tạo ra và sắp đặt. Ai tin và chịu theo các Ngài thì được hưởng ân sủng tối cao, ngược lại, ai không tin, không làm theo ý các ngài thì sẽ bị đọa vào chỗ khốn cùng. Họ cho rằng con người sinh ra đều có số mệnhđịnh sẵn, đã có sự an bài con người khó có khả năng vươn lên vượt qua số phận tối tămcủa mình. Vì vậy một số người thường nói số trời đã định, không ai có đủ khả năng để thay đổi cuộc đời của họ.
Nếu chúng ta nói rằng sống trên cuộc đời này giàu nghèo, sang hèn như thế nào đều do số mệnh đã định sẵn thì con người đều bất lực, xuôi tay phải chấp nhận sống theo mệnh lệnh của đấng tối cao.
Thật tế có phải vậy không? Trong khi đó thế giới hỗn loạn, chiến tranh, binh đao, con người đối xử độc ác với nhau, lại thêm nạn thiên tai, lũ lụt, sóng thần, động đất, nghèo đói, dịch bệnh, chết chóc đau thương hàng loạt… chẳng lẽ đấng tối cao cũng tạo ra những điều đau khổ ấy hay sao?
Nếu con người và muôn loài đều do một đấng thần linh thượng đế quyền năng tạo ra, tại sao lại có sự sai biệt quá lớn trong thế gian này nhiều đến như vậy? Kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, kẻ trắng người đen, kẻ cao người thấp, kẻ sống lâu, người chết yểu, kẻ thông minh, người dốt nát.v.v… chẳng lẽ đấng tối cao muốn tạo ra nhiều nỗi bất công và sai biệt như thế sao?
Nếu nói số phận con người không thể thay đổi được, câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta thấy quan niệm ấy không vững chắc và không phù hợp cho kiếp nhân sinh:
Xưa có ông thầy tướng số rất giỏi, bói đâu trúng đó, gần nhà có người nông dân nghèo nhưng chất phát, thật thà, hiền hậu. Một hôm trên đường đi làm ruộng về vô tình đi ngang qua nhà ông thầy tướng số, trời đổ mưa, người nông dân ghé vào trú mưa. Thầy tướng số nhìn anh nông dân kỹ càng từ khuôn mặt cho đến vóc dáng, tướng đi rồi lắc đầu nói: “Số chú nghèo ba đời”.
Dân gian thường nói: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Câu này ý nói không có gì là cố định cả, nếu nói số phận cố định không thể thay đổi thì người giàu sẽ giàu mãi, người nghèo thì phải an phận chịu cảnh nghèo khó túng thiếu, có cố gắng bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia, siêng năng làm việc cũng bằng thừa, vô ích.
Rồi thời gian trôi qua, anh nông dân mỗi ngày vẫn đi làm ruộng bình thường, vẫn với thân phận nghèo túng. Một hôm trên đường đi về nhà, anh thấy sợi dây chuyền vàng của ai đánh rơi bên vệ đường. Anh nông dân nhặt lên rồi suy nghĩ: Không biết sợi dây chuyền này của ai? Nếu mình không thấy, người khác lượm được thì sao? Có chắc là họ sẽ trả lại cho khổ chủ hay không? Người bị mất chắc sẽ phải khổ đau vì mất của. Do suy nghĩ như vậy và tội nghiệp cho người bị mất, thay vì đi về nhà dùng cơm trưa, anh ngồi lại ngay chỗ đó để chờ người khổ chủ đến tìm trả lại.
Anh ngồi suốt từ trưa tới chiều quên cả đói bụng chỉ vì hy vọng gặp người bị mất để trả lại. Đến lúc trời vừa chập choạng tối anh thấy một cô gái vừa đi vừa nhìn xuống đất như tìm kiếm vật gì, lại vừa đi, vừa khóc sướt mướt, anh bèn kêu lại hỏi thăm cớ sự ra sao, có việc gì buồn phiền đau khổ mà phải khóc như vậy?
Cô nói trong nức nở, nghẹn ngào :
-Dạ thưa bác, con vừa được chồng sắp cưới tặng cho đôi bông tai và một sợi dây chuyền bằng vàng 24, chẳng may trên đường đi về nhà, sợi dây chuyền bị đứt rơi mất lúc nào con không hay. Nếu không tìm lại được nó, chắc con phải tự tử chết quá bác ơi, để khỏi bị bên chồng nghi ngờ con đem tặng cho người khác.
Nghe xong, anh nông dân mới hỏi cô về hình dáng, màu sắc của sợi dây chuyền ra sao? Cô gái mô tả đúng như sợi dây chuyền anh đã nhặt được.
Anh nói phước của cô còn đó nên chưa mất của, anh liền đưa sợi dây chuyền ra, cô gái nhìn thấy mừng quá:
-Đây đúng là sợi dây chuyền của con.
Anh nông dân trao lại sợi dây chuyền cho cô gái và vui vẻ đi về nhà dùng bữa cơm trưa muộn màng trong trời tối. Nhờ tấm lòng tốt của anh nông dân mà cô gái thoát chết trong tầm tay và sống hạnh phúc bên chồng.
Tuy anh nông dân là người nghèo khổ, thiếu thốn, nhưng khi lượm được của rơi, anh không sanh lòng tham đắm, vì anh nghĩ rằng, người mất của rất đau khổ, nên anh không nỡ lòng nào lấy đi cái của ấy. Bởi vì anh là một Phật tử thuần thành luôn sống theo lời Phật dạy, nhờ hiểu thấu được lý nhân quả nên anh nông dân không quản ngại hay tiếc công, mặc dù bụng đã đói meo anh sẵn sàng ngồi lại để chờ chủ mất của đến trả lại.
Đây cũng là một nghĩa cử cao thượng với những ai đã có lòng tin nhân quả sâu sắc, hành động tốt đẹp đó nói lên tinh thần cứu khổ ban vui của người tu theo đạo Phật, không bao giờ làm tổn hại đến người khác, dù chỉ trong tâm tưởng. Đức Phật đã hướng dẫn và chỉ dạy cho ta một nhận thức sống đúng đắn, một sự hiểu biết chân chính và sẵn sàng san sẻ nỗi khổ niềm đau làm vơi bớt sự bất hạnh, luôn dấn thân phục vụ vì lợi íchtha nhân với tinh thần chia vui sớt khổ.
Thời gian thấm thoát trôi qua, anh nông dân vẫn miệt mài với công việc đồng áng của mình vẫn ở thân phận nghèo thiếu. Một hôm, anh ghé thăm nhà thầy tướng số. Thấy anh ông ngạc nhiên nói:
-Tướng chú sắp làm quan rồi.
Anh nông dân nói:
-Thưa bác, con là một nông dân thuần túy, đâu có tri thức, chữ nghĩa gì nhiều mà làm quan, người làm quan thì phải học cao hiểu rộng, có năng lực lãnh đạo giúp dân, giúp nước, còn con thì chỉ biết cày sâu cuốc bẩm ruộng đồng thiếu trước hụt sau thì giúp gì cho ai được.
Nhưng thầy tướng số cứ quả quyết:
-Tôi từ xưa đến nay xem tướng số cho ai chưa trật bao giờ. Bây giờ tôi hỏi thiệt chú : Từ ngày chú ghé nhà tôi cho đến nay, chú có làm điều phước thiện nào không?
Anh nông dân trả lời:
-Dạ, con đâu có làm việc gì lợi ích cho ai .
Song anh chợt nhớ lại:
-Dạ, mà có một lần con lượm được sợi dây chuyền vàng, con ngồi chờ gần đến tối để đem trả lại cho cô gái.
-Đó là phước của chú đấy! Chú đã thay đổi và chuyển hoá được nghiệp nhân nghèo khổcủa mình rồi. Chú sắp làm quan rồi, chú hãy nhớ lời tôi nói nhé!
Anh nông dân nghe thầy tướng nói sao hay vậy, chẳng quan tâm gì đến những lời lẽ ấy. Về nhà, anh vẫn tiếp tục công việc ruộng nương của mình từ bấy lâu nay.
Đến kỳ dân chúng trong làng được lệnh cấp trên cho chọn người hiền đức để bầu làm xã trưởng. Sau cơn mưa trời lại sáng, bây giờ anh mới thấy lời thầy tướng số nói không sai.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rõ ràng tướng số cũng không cố định có thể thay đổi được nếu ta biết tu nhân tích đức. Ai nói rằng cuộc sống con người là do trời định đoạt, sắp đặt con người sẽ sống phụ thuộc vào đấng tối cao ấy, thì người nghèo sẽ phải nghèo vĩnh viễn, nhưng trên thực tế có phải vậy không? Có người từ thuở hàn vi nghèo khổ, nhưng khi lớn lên biết siêng năng chăm chỉ làm việc rồi trở nên giàu có. Đó là một sự thật mà ai cũng có thể nhìn thấy.
Còn anh nông dân kia do nhiều đời trước không biết giúp đỡ, sẻ chia nên đời này phải chịu nghèo khổ. Nhờ gặp được Phập pháp và một lòng tin sâu nhân quả nên sống hiền hậu và chất phát, thật thà. Phật pháp rất sâu kín và nhiệm mầu ai có duyên lành nhiều đời mới gặp được Tam bảo sáng soi. Là một Phật tử sống tốt theo lời Phật dạy anh nông dân dù nghèo nhưng trong sạch, nhờ tâm niệm tốt đẹp lượm được của rơi mà nghĩ rằng người mất sẽ khổ đau nên cố tình ngồi lại chổ mất để trả lại cho chủ. Nhờ vậy mà anh nông dân được đổi đời.
Biết rằng sự sống của chúng ta rất cần đến tiền bạc của cải, nhưng tiền bạc của cải do chính mồ hôi nước mắt của mình làm ra mà ta chưa chắc giữ được, huống hồ là lượm của rơi. Chính nhờ biết ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày mà anh nông dân chuyển được kiếp nghèo khổ của mình. Thời nay việc lường gạt trộm cướp vẫn xảy ra hằng ngày, một số người có quyền cao thì lợi dụng để tham ô hữu hoá, hối lộ bắt chẹt để moi móc tiền của dân. Tất cả đều do không hiểu lý nhân quả nên mới dám làm những điều xằng bậy như thế.
Khi xưa Phật chưa ra đời, nhiều người không biết nên tin vào học thuyết số phận đã an bài hay do một đấng tối cao, quyền năng tạo ra tất cả, ai như thế nào phải chịu như thế ấy, suốt đời không thể nào thay đổi được. Đó là nói cách nhìn của người thường kiến họ lợi dụng quyền cao chức trọng để bắt buộc kẻ dưới phải phục tùng cho mình và đó là cách thức bảo vệ địa vị cho họ.
Nhờ tu chứng dưới cội bồ đề, đức Phật đã thấy rõ mọi sự sai biệt trong cuộc đời này đều do nhiều nhân duyên hòa hợp lại mà hình thành. Trong vũ trụ bao la này, không có cái gì do một nhân mà thành để bảo tồn sự sống. Còn nếu ai nói rằng có một chủ thể tạo ra tất cả thì ta biết rằng người này chưa hiểu về sự vận hành của nhân quả nghiệp báo trong bầu vũ trụ bao la với thiên hình vạn trạng. Bởi không thể có cái gì chỉ có một nhân mà hình thành.
Nếu nói cái gì cũng do trời quyết định thì tại sao có sự bất đồng và sai biệt trên thế giannày, không ai giống ai. Nếu thượng đế có khả năng ban phước giáng họa thì tại sao không ban phước lành đến cho tất cả chúng sanh? Còn nếu nói rằng số phận đã định sẵn từ trước thì tại sao có người thay đổi được vận mệnh của mình như anh nông dânlượm sợi dây chuyền kia chẳng hạn.
Đức Phật dạy rằng: Chính sự tạo tác của đấng tối cao mà con người trở nên sát hại, trộm cướp, loạn luân, giả dối, phỉ báng, thô lỗ, nhãm nhí, thèm thuồng, khao khát, hiểm độc và hiểu biết sai lầm.
Nếu số mệnh đã sắp đặt sẵn, định sẵn thì thật là tai hại vô cùng, nếu ai lỡ làm những việc xấu ác thì đổ thừa số phận tôi như thế, không cố gắn phấn đấu vươn lên làm lại cuộc đời. Đạo Phật quan niệm rất thiết thực, không chấp nhận hay đổ thừa cho số phận, làm cái gì được thì nói nhờ trời, còn không được thì đổ thừa tại trời, nói như vậy thì oan cho trời quá. Người nào quan niệm như thế thì vô tình hại mình, hại gia đình và xã hội, bởi vì người ấy sẽ không cố gắng phấn đấu để vươn lên, sống có ích cho cuộc đời, mà rơi vào dị doan, mê tín. Trong khi đó, mỗi con người chúng ta đều có khả năng suy luận, nhận xét, tư duy, quán chiếu có thể vận dụng sự hiểu biết của mình mà thay đổi chuyển hóa từ con người cho đến muôn loài vật.
Còn nếu ta sống mà không có ý chí, nghị lực thiếu quyết tâm để phấn đấu vươn lên, vượt qua số phận đã an bài mà cứ bảo rằng có một đấng thần linh thượng đế có khả năng ban phước hay giáng họa thì thật là vô lý và bất công làm sao đâu.
Đạo Phật nói: “Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt, tất cả đều nương tựa mật thiết vào nhau, tùy theo hoàn cảnh mà có đổi thay, thay đổi vô cùng tận”.
Đức Phật đã chỉ cho chúng ta tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này đều dựa theo nền tảng của nhân quả nghiệp báo, mọi hành vi của con người tạo tác trong cuộc đời này, sở dĩ có sự khác biệt, không ai giống ai là bởi do sự huân tập nghiệp của mỗi người không đồng mà cho ra những kết quả khác nhau. Bởi vậy, con người khi sinh ra có người thì cao lớn trắng trẻo, dễ thương, giàu có, sang trọng… Có người sinh ra thì nghèo hèn, khốn khổ, bệnh hoạn, đau yếu, bệnh tật… Tất cả đều do duyên tốt hay xấu của mình tạo ra trong quá khứ mà cho ra kết quả trong hiện tại.
Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, giàu lòng từ bi, đầy đủ trí tuệ, Ngài luôn thương tưởng với tất cả chúng sinh làm sao giúp cho mọi người tin sâu nhân quả, tự tin chính mình, làm lành lánh dữ sống có ích cho tha nhân. Ai tin sâu nhân quả là luôn hướng đến chân thiện mỹ thì lúc nào cũng sống được bình an và hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Sự ra đời của đạo Phật đã giúp cho mọi người biết cách làm chủ bản thân, đem lại giá trịhạnh phúc thật sự cho tất cả chúng sinh. Mọi sự tốt đẹp, phải quấy, nên hư, thành bạiđều do chính mình tạo lấy, không ai có quyền ban phước, giáng họa hay sắp đặt số phận con người.
Từ xa xưa một số người họ lợi dụng quyền thế của mình, nên tuyên truyền con người và vạn vật sinh ra trong cõi đời này đều do một đấng thần linh thượng đế tạo ra, ai không chấp nhận tu tập theo sự hướng dẫn của họ sẽ bị đọa lạc vào chốn khốn cùng, khổ đau. Còn ai chịu nghe lời thần linh, thượng đế thì sẽ hưởng được quả báo tốt đẹp.
Đức Phật dạy rằng, trong mỗi người chúng ta, ai cũng có khả năng giác ngộ, khả năng giải thoát, chỉ vì chúng ta không chịu thừa nhận, không chịu suy xét thấu đáo cho nên đã tạo ra những nỗi khổ niềm đau mà làm tổn hại cho nhau. Chính vì thế mà khi ta sinh ra đời phải chiêu cảm những quả báo xấu xa, đau đớn và khổ não.
Đức Phật đã tùy theo căn cơ, tâm tư nguyện vọng của mỗi người mà chia giáo lý ra làm nhiều loại, ngài tuỳ bệnh cho thuốc để dễ dàng hóa độ. Ngài khuyên mọi người phải biết hướng về Phật pháp, quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới, cố gắng giữ cho trọn vẹn năm giớinày thì chắc chắn cuộc sống hiện tại và mai sau sẽ được tái sanh trở lại làm người tốt sống có nhân cách đạo đức.
Nếu ai biết tu thập thiện với mười điều răn dạy là không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói lời mắng chửi độc hại, không nói lời chia rẽ, gây mất sự đoàn kết, không nói lời thêu dệt thù oán, không nói lời mê hoặc dụ dỗ người… Mà hay nói lời chân thật, hòa ái, vui vẻ, cởi mở, giúp cho mọi người được yêu thương đùm bọc, giúp đỡ, biết thông cảm và tha thứ để chuyển hoá phiền muộn khổ đau, người ấy trong tương lai sẽ được tái sanh vào cõi trời, để được hưởng các phước báo tốt đẹp trọn vẹn.
Còn người nào tâm thường hay oán giận thù hằn, luôn có tâm niệm độc ác, giết hại, làm cho người quanh mình đau khổ, mọi loài khốn đốn… thì chắc chắn trong tương lai sẽ bị đọa lạc trong địa ngục để chịu sự hành phạt. Còn người tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn, hẹp hòi, luôn làm cho người bệnh hoạn vì đau khổ, hành hạ thân xác hoặc chửi mắng người khác, cũng như nặng lời với cha mẹ, giòng tộc thì quả báo trong tương lai thân thể bị bệnh hoạn, đau yếu nhọc nhằn, đời sống khó khăn khốn đốn, thiếu thốn trăm bề.
Tuy sinh ra là thân phận con người như nhau, nhưng do nhân đời trước mình gieo tạo khác nhau và trong đời hiện tại mình phải chịu quả báo ấy, cho nên mỗi người có hoàn cảnh, đời sống khác nhau. Còn người mê muội, tà kiến, chấp trước, không hiểu biếtđúng sai sự thật của cuộc đời thì sẽ bị rơi vào các loại súc sanh sống theo quán tính, nghiệp tập, tùy theo sự chiêu cảm mà rơi vào quả báo loài nào thì phải chịu trả suốt đời, suốt kiếp không cưỡng lại được.
Chúng ta ai được sanh ra làm người là một diễm phúc rất lớn, bởi vì chúng ta có đầy đủ phương tiện, có tư tưởng, có tư duy, có hiểu biết, có nhận định đúng sai, có tìm hiểu, học hỏi giáo lý nhân quả một cách chân chính. Ta tin tưởng rằng mình có khả năng, giác ngộ giải thoát thật sự, nên cố gắng không làm các điều ác mà hay làm các việc thiệnlành tốt đẹp nhờ tin sâu nhân quả. Khi chúng ta đã biết cách làm chủ bản thân thì lúc nào ta cũng kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ cho đến lời nói và hành động trong sáng suốt, nhờ vậy ta luôn sống trong bình an hạnh phúc.
Vậy nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả, tuy nhiên nhân quả rất đa dạng và phức tạp.
Có loại nhân quả gần, tất là khi ta làm điều gì thì có kết quả liền trong hiện tại, không phải chờ đợi lâu xa. Thí dụ, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu hay còn gọi là nhân nào quả nấy. Trường hợp thứ hai như khi ta đang đói bụng, ta ăn cơm vào thì liền là no hoặc ta đánh trống thì nghe được âm thanh của trống ngay tức khắc. Ta gọi là nhân quả hiện tiền hay nói ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.
Có những nhân, nếu ta gieo trong hiện tại có khi ta phải trả quả trong một thời gian ngắn từ năm ba tháng cho đến vài năm mới cho ra kết quả.
Còn có những nhân ta gieo tạo thì phải trải qua một đời, hai đời hoặc vô số kiếp về sau thì quả mới trổ ra. Và có điểm đặc biệt là khi chúng ta gieo nhân mà không có kết quả do thiếu những duyên phụ hoặc ta tu hành quá tinh tấn nên nhân xấu không đủ sức trổ quả.
Như trường hợp trong một lúc ta cùng gieo ba thứ hạt giống cây lúa, cây chuối, cây mít đồng thời ta chăm sóc kỹ càng nhưng kết quả cho ra không cùng một thời gian. Cây lúa khi gieo xuống thì từ ba tháng cho đến sáu tháng có kết quả, cây chuối phải thừ chin tháng đến một năm, còn cây míy ít nhất phải từ hai năm trở lên, đó là nhân quả thuận chiều theo nhân duyên. Nhưng có những nhân mà ta đã gieo lại không có kết quả, nửa chừng cây bị chết hoặc bị trường hợp rủi ro khác.
Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, chúng ta là những phàm phu mắt thịt, không thể nào nhìn thấy hết tất cả tiến trình chi phối và diễn biến của luật nhân quả nghiệp báo. Là người Phật tử chân chính, chúng ta phải thận trọng trong từng ý nghĩ lời nói, cho đếnhành động do mình tạo ra trong từng phút, từng giờ… Ta phải thường xuyên xem xét, quán chiếu, soi sáng lại chính mình để không vấp phải lỗi lầm.
Chúng ta phải thường xuyên nghiệm xét lại bản thân và tự đặt ra những câu hỏi: Tại sao mình phải mang thân phận nghèo đói, thiếu thốn, khó khăn và bệnh tật? Tại sao người kia sanh ra lại được giàu sang, hạnh phúc v.v… Ta phải tin sâu nhân quả, biết được rõ ràng nguyên nhân sâu xa của nó, nhờ vậy ta sẽ cố gắng chừa bỏ những thói hư tật xấu có hại cho mình và người. Chỉ vì chúng ta do mê lầm, chấp trước nên gây tạo nhiều tội lỗi mà ngày nay sinh ra phải chịu nhiều phiền muộn đau khổ mà thôi.
Cho nên người Phật tử khi đến với Phật pháp, chúng ta phải tin rằng đức Phật cũng chỉ là một người giống như tất cả mọi người trên thế gian này. Ngài cũng được sinh ra từ trong bụng mẹ bằng xương, bằng thịt, rồi lớn lên nhờ ăn uống và hoạt động. Ngài có điều kiện sinh ra trong giòng tộc tôn quý có cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, thần dân thiên hạ, mà người thế gian ai cũng hằng ao ước. Nhưng tại sao Ngài lại từ bỏtất cả để ra đi tìm cầu chân lý? Ngài đã thật sự giác ngộ, giải thoát và mở lòng từ bi rộng lớn để hóa độ chúng sanh thoát khỏi khổ đau sanh tử luân hồi. Ngài đã giúp đỡ, chia sẻ hay nâng đỡ mọi người một cách nhiệt tình khi có nhân duyên nhằm giúp cho họ đạt được bình an, hạnh phúc.
Do vậy, người Phật tử chân chính hãy vững niềm tin đối với Phật đà là người có đủ sáng suốt chỉ dạy chúng ta vượt qua biển khổ sông mê nhờ biết quay lại với chính mình để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại.
Giáo lý đức Phật rất đa dạng và cao siêu, tuỳ theo bệnh mà cho thuốc phù hợp với tâm tư nguyện vọng của mọi người. Ngài chia giáo lý ra làm hai loại: Loại thứ nhất cho những người muốn tích lũy phước báo, tu tập nhân thiện lành tốt đẹp để được sanh trở lại làm người hiền thiện đạo đức, hoặc sanh vào các cõi trời để hưởng phước báo thù thắngmuốn gì được nấy. Muốn được vậy thì chúng ta phải giữ gìn năm giới, thọ bát quan traihoặc tu mười điều thiện.
Loại thứ hai đức Phật chỉ cho chúng ta phương pháp tu tập để được giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Tuy vẫn sống trong cuộc đời này, nhưng ta không bị tham lam, sân hân, si mê làm lung lạc nhờ ta biết quán chiếu, nghiệm xét và biết buông xả không tham đắm vào tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn ngon, ngủ nhiều.
Chúng ta là người Phật tử, cần phải bắt chước đạo hạnh tốt đẹp, tôn quý của Ngài. Nếu ta chưa đủ khả năng tu tập hạnh giác ngộ, giải thoát thì ta phải biết cách gieo trồng phước đức tu theo hạnh Bồ tát, giác ngộ từng phần từ thấp đến cao cho đến khi nào bằng Phật mới thôi.
Trong cuộc sống có người hiện tại tuy không sát sinh hại vật nhưng vẫn bệnh hoạn đau yếu rề rề? Cho nên có nhiều người nghi ngờ giáo lý nhân quả, nhưng họ không hiểu chính xác vì nhân quả có tính cách ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Cũng chỉ vì nhiều đời trước ta đã có hành động sát sinh hại vật, bởi chúng ta hãy nghĩ rằng mọi sinh vật sinh ra trên đời này là để cúng tế cho thần linh và phục vụ cho con người. Chính Vì học thuyếtsai lầm đó, mà con người ngày càng tàn ác hơn cho nên lấy việc giết hại, để nuôi sống bản thân mình. Vì những hành động sát sanh này đã gây nên những ân oán thù hằncàng thêm chổng chất, cho nên nhân quả vay trả cứ tiếp tục tiếp nối mà không có ngày thôi dứt, do vậy ngày nay chúng ta phải chịu trả quả, bệnh tật khổ đau.
Trong sáu đường luân hồi loài người có ưu thế hơn các loài vật khác là có suy nghĩ, có hiểu biết, nếu biết vận dụng đi theo chiều hướng thiện thì giúp người cứu vật. Ngược lại vì muốn tìm cầu ăn sung mặc sướng hưởng thụ bồi bổ cho thân này, vì nghĩ mình là ta, là tôi, là loài thượng đẳng cao cấp có quyền, còn trời sinh ra loài vật là để phục vụ cho con người và đấng thần linh thượng đế. Do đó, con người tìm cách giết hại các loài động vật để nuôi sống, bồi bổ cho thân mình ngày càng nhiều hơn. Chính vì thế mà gây đau thương tang tóc cho muôn loài vật từ kiếp này sang kiếp khác không có ngày thôi dứt.
Ngày nay, người nào đã lỡ tạo nghiệp ác mà giờ đây phải chịu những quả báo như bệnh hoạn, đau yếu, tàn tật, thì phải cần thường xuyên sám hối, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền và gieo trồng phước đức để chuyển hóa các nghiệp xấu ác mà chúng ta đã lỡ gây tạo trong những đời quá khứ. Muốn dứt trừ nghiệp xấu ta phải sám hối và phát nguyện, từ nay về sau suốt đời trọn kiếp ta cố gắng gìn giữ cẩn thận từ ý nghĩ, lời nói cho đếnhành động của mình không làm tổn hại người và vật.
NHÂN QUẢ KHÔNG CỐ ĐỊNH
Nói đến nhân quả là nói đến sự tương quan, tương duyên mật thiết với nhau bằng những hành động do chúng ta làm ra. Làm lành được hưởng phước báo an vui hạnh phúc, làm ác phải chịu quả khổ đau vô cùng tận, đó là một sự thật công bằng, chúng tacó thể qua mặt được pháp luật, nhưng không thể chạy trốn toà án nhân quả được khi hội đủ nhân duyên.
Trong Kinh A-hàm, đức Phật đưa ra ví dụ rất hay: “Có một nắm muối, nếu ta bỏ vào ly nước nhỏ thì ly nước ấy sẽ bị mặn, ta không thể uống được. Cũng cùng một nắm muối đó, nếu ta bỏ vào một lu nước lớn, tuy có nắm muối hoà tan nhưng vì nước trong lu quá nhiều, cho nên nước hơi măn mẳn ta có thể dung xài hoặc giải khát tạm thời được. Cũng cùng một nắm muối đó, ta đem bỏ vào một hồ lớn, tuy có nắm muối bỏ vào, nhưng nước trong hồ quá nhiều, vì vậy nắm muối không thể chi phối được, do đó ta có thể dùng xài bình thường.
Nhà Phật dụ cho nắm muối là nghiệp xấu ác, còn nước là nghiệp thiện lành và khả năng tu tập của mỗi người. Tuy trong nhà Phật có nói rằng, gieo nhân nào gặt quả nấy, nhưng nhân quả do hành động của mình tạo ra từ thân, miệng, ý thì cũng từ chính mình ta có thể thay đổi, chuyển hóa được. Cũng như trước kia, lúc còn nhỏ, quý vị chưa biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc… đến khi lớn lên, hòa vào đời sống cộng đồng, quý vị thấy người ta làm điều đó, rồi quý vị bắt chước một vài lần nếu ai chịu tiếp tục huân tập một thời gian thì quý vị cũng biết hút thuốc, biết uống rượu, biết cờ bạc như ai vậy.
Rồi thời gian trôi qua theo năm tháng, quý vị có duyên được đến chùa học hỏi, nghe pháp biết tu tập, quý vị thấy rằng đây là những nghiệp tập không tốt đẹp, hao tiền tốn củavà dẫn đến bệnh tật, đau yếu… làm cho vợ con, người thân trong gia đình lo âu, sợ hãilàm giảm đi niềm an vui hạnh phúc. Khi chúng ta biết rõ đây là những tập nghiệp xấu thì từ đó ta ý thức biết được sự tác hại của nó, quý vị tự từ bỏ chứ không phải ai ép ta bỏ được. Nếu như quý vị không tự ý thức, không chịu từ bỏ thì dù cho đức Phật hiện tiềncũng không thể nào giúp cho quý vị bỏ được.
Nắm muối bỏ vào ly nước là đức Phật dụ cho nhân nào quả nấy để ám chỉ cho hạng người buông trôi theo số phận, chẳng chịu cố gắng làm lại cuộc đời vì nghĩ rằng số tôi như thế mà chấp nhân sống trong đau khổ lầm mê.
Nắm muối bỏ vào lu nước lớn là dụ cho người đã cố gắng thay đổi bỏ bớt, nhưng không bỏ được hoàn toàn dù sao cũng đỡ hơn hạng người trước.
Hạng người thứ ba là hạng người hoàn toàn chuyển nghiệp xấu ác do biết tu thân, tu giới và tu tâm niệm rộng lớn cho nên đức Phật dụ cho nắm muối bỏ vào một hồ nước lớn.
Khi chúng ta tự ý thức được rằng, đây là việc làm sai trái có hại cho người và vật, thì tự mình can đảm buông xả hoặc từ bỏ là do ý chí của ta mạnh mẽ, thấy được việc làm sai trái mà mình dạn từ bỏ. Và ta nếu muốn từ bỏ vững chắc và lâu dài không bị tái phạm trở lại nữa, thì ta phải phát nguyện tu theo con đường Phật đạo, gìn giữ năm điều đạo đức, đời đời kiếp kiếp quyết tâm không tái phạm lỗi lầm xưa và dứt khoát không chuyện xấu đó nữa vì biết được sự tác hại của nó.
Chúng ta hãy thường xuyên suy xét và kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói cho đếnhành động mà có hại cho mình và cho người thì ta nhất quyết không làm. Còn những gì mà ta thấy có lợi cho mình và người thì ta cố gắng làm không bỏ qua, dù cho đó là một việc rất nhỏ. Nhờ tâm phát nguyện rộng lớn như thế, ta sẽ vượt qua được những chướng duyên nghịch cảnh trong cuộc đời. Vì sao? Vì theo đạo lý nhà Phật, ai sinh ra trong cõi đời này hầu như không ít thì nhiều, từ lớn đến nhỏ dù không làm ác nhiều cũng làm ác ít. Bởi vì chúng ta chưa có sự hiểu biết chân chính, chưa có lòng tin nhân quảvững chắc, do đó chắc chắn ai cũng có sai lầm.
Ngày nay, chúng ta may mắn gặp được thầy lành bạn tốt có đầy đủ phúc duyên, tuy điều kiện của chúng ta không được tốt đẹp trọn vẹn như người khác. Nhưng ta không có gì phải buồn phiền, khổ đau, trách móc, đổ thừa tại bị thì là… Bởi vì chúng ta biết Phật pháp, biết thực hành những lời Phật dạy, biết rõ nhân nào dẫn đến sa đọa khổ đau, nhân nào dẫn đến an vui, hạnh phúc.
Nhờ vậy, chúng ta cố gắng dứt khoát chừa bỏ thói hư, tật xấu ngay cả trong ý nghĩ và thường xuyên tu tập mỗi ngày để soi sáng lại chính mình. Nếu ta chưa đủ khả năng tu tập về thiền quán, thiền trực chỉ thì ta cố gắng tu tập theo phương pháp niệm Phật, Bồ tát tức là ta nương theo câu niệm Phật để cho tâm không bị tán loạn (niệm danh hiệu vị Phật nào mà ta thích).
Thí dụ, ta thích đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì ta niệm Phật Thích Ca Mâu Ni, ta thích Phật A-di-đà ta niệm Phật A-di-Đà, nếu ta thích Bồ-tát Quán Thế Âm thì ta niệm Bồ-tát Quán Thế Âm… Bất cứ danh hiệu Phật nào, danh hiệu Bồ-tát nào nếu ta nhiếp tâm, trì chí hướng về đức Phật đó, để tự chiêm nghiệm, soi sáng thì ta sẽ vượt qua những chướng nạn, tai ương trong cuộc đời. Tuy thân này phải chịu quả đau khổ, nhức nhối, bệnh hoạn, đau yếu… nhưng tâm ta vẫn trong trong sáng lặng lẽ chiếu soi. Thân này tuy đau, nhưng tâm ta thường biết rõ ràng nên ta luôn được bình yên, hạnh phúc.
Khi đau ta biết thân này đau vì nghiệp tập nhiều đời nhiều kiếp mình đã gieo tạo trong quá khứ, nay ta biết được hậu quả của nó làm cho mình người khổ đau, thì ta nhất quyếtkhông để cho tái phạm nữa, đến khi hội đủ nhân duyên thì nghiệp xấu sẻ hết. Nhờ vào sự tinh cần tu tập, mà ta chuyển hóa được nỗi khổ niềm đau, vươn lên và vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Theo định luật nhân quả thì có vay ắt phải có trả hay “gieo gió gặt bão”. Nếu nói một cách cứng ngắt như vậy, vô tình chúng ta cho rằng luật nhân quả là cố định, là bất biến, điều đó chỉ đúng một phần, chưa đúng hẳn. Vì sao? Nó chỉ đúng đối với những hạng người bèo dạt mây trôi, không đủ ý chí và nghị lực để buông xả thói quen xấu của mình. Cho nên lý nhân quả rất tế nhị và sâu kín nhiệm mầu chúng ta thường nghe nói nhân nào quả nấy, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, ai nói như vậy là người chưa hiểu thấu lý nhân quả. Đạo Phật nói lý nhân quả là một chuỗi dài thời gian mang tính cách ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Khi ta gieo nhân phải trải qua một thời gian nhất định nào đó, nhanh hay chậm là tùy theo những duyên phụ thuộc mới cho ra kết quả.
1. Nhân nào quả nấy hay còn gọi là hiện báo gieo nhân liền gặt quả như người đói bụng ăn cơm liền no, đó là nhân quả hiện tiền. Vừa gieo nhân là có kết quả liền. Vì vậy mà người ta dễ hiểu lầm vấn đề nhân quả với số phận, nó chỉ đúng và phù hợp với hạng người bèo dạt mây trôi, không chịu cố gắng vươn lên làm lại cuộc đời. Hạng người này không cần tìm hiểu, suy xét, quán chiếu chỉ sống theo phong tục tập quán, ai như thế nào mình như thế đó.
2. Khi gieo nhân thì phải chờ thời gian mới cho ra kết quả. Thí dụ, muốn có trái mít ăn, ta phải có một hột mít trồng xuống đất, rồi phải chờ đến ba bốn năm sau mới có trái mít, nhưng nếu thiếu sự chăm sóc, hay thời tiết không phù hợp, chưa chắc ta đã có trái mít. Biết như vậy, chúng ta có thể thay đổi hoàn cảnh mà tạo ra kết quả sai biệt, không nhất thiết phải nhân nào quả nấy.
Trong thời gian tu học tại Thiền viện Thường Chiếu, chúng tôi thường nghe sư ông nói “nhân hoa quả cỏ”. Bởi vì sư ông đem gieo hạt giống của hoa nhưng do khâu chăm sóc không chu đáo bị kiến tha hạt giống hoa đi mất. Một thời gian sau sư ông chỉ thấy cỏ mọc đầy chẳng có hoa nào cả. Trong lúc đó sư ông chúng tôi cứ miệt mài tưới hằng ngày, kết quả cỏ lên rất tốt, sư ông chúng tôi tưởng đó là những cây hoa đang phát triển, nào ngờ khi kiểm tra lại thì toàn là cỏ.
Như vậy, nói nhân nào quả nấy thì không đúng hẳn, tùy theo điều kiện, nhân duyên mà nó cho ra kết quả. Chúng ta không thể nói một chiều nhân nào quả nấy một cách cứng ngắt như vậy được. Nếu nói nhân nào quả nấy thì những người tu hành như chúng tôicó lợi ích chi đâu?
Xưa kia lỡ tạo nhân ác thì ngày nay dù có tu hành vẫn chịu quả ác, vậy tu hành để làm gì? Khi hiểu như vậy rồi, chúng ta sẽ cố gắng làm mới lại chính mình, bằng những việc làm thiết thực có lợi ích cho người và vật. Khi xưa ta chưa biết tu, thì ta gieo nghiệp lường gạt, trộm cướp làm khổ đau cho mọi người. Nay ta biết tu rồi, nhờ quán chiếu xem xét ta thấy đó là nhân dẫn đến đau khổ mê lầm, làm tổn hại cho nhau, dứt khoát ta không làm nghiệp trộm cướp nữa thì ngay nơi đây nhân và xấu bắt đầu chấm dứt.
Như chúng ta đang chạy xe với tốc độ nhanh khi thắng gấp lại thì cái chớn của nó cũng xa hơn xe chạy tốc độ chậm, cũng vậy ai tạo thói xấu nhiều cũng chậm hơn người bình thường. Những người xuất gia tu hành thọ dụng vật thực, của đàn-na tín thí, nhờ sự giúp đỡ của Phật tử về phương tiện vật chất, tiền bạc của cải. Như vậy, chúng tôi có phải trả món nợ nhân quả này hay không? Nếu chúng ta cứ khẳng định nhân nào quả nấy, vay tiền trả tiền, vay bạc trả bạc, thì chắc chắn người xuất gia không thể trả nợ được.
Vì sao, người xuất gia tu hành, thọ nhận sự cúng dường của đàn-na tín thí nhưng họ trả những món nợ vật chất ấy bằng hình thức khác. Người xuất gia tu hành thọ nhận sự cúng dường của đàn-na tín thí, họ phải trả món nợ ấy bằng sự tu hành chân chánh, hóa độ chúng sanh, truyền bá lời dạy của đức Phật, chỉ cho mọi người biết được nhân nào dẫn an vui hạnh phúc, nhân nào dẫn đến sa đoạ khổ đau, thì coi như trả cái nợ cơm áo gạo tiền. Bởi tiền bạc của cải quý phật tử giúp cho Tăng ni ăn thì hết, còn chúng tôihướng dẫn chỉ dạy cách sống làm người tốt không làm tổn hại cho ai thì coi như chúng tôi đã trả nợ rồi. Chỉ sợ những ai không chịu tu hành đàng hoàng rồi giáo hoá chúng sinhmới phải chịu mang lông đội sừng mà thôi.
Tiền bạc quý Phật tử giúp ăn năm ba tháng thì hết hoặc nhiều lắm được vài ba năm là cùng, chứ chánh pháp của Phật đà trao lại, quý Phật tử có thể ứng dụng cả đời cũng chưa hết, còn thừa làm hành trang mang đến sử dụng ở kiếp sau. Vì vậy trong các bản kinh đức Phật thường hay nói, trong các hạnh bố thí, bố thí chánh pháp là thù thắng hơn tất cả, vì giúp cho mọi người được an vui hạnh phúc trong hiện tại và mai sau.
Thí dụ, như người mới sanh ra bị bệnh hoạn tàn tật suốt đời là do kiếp trước gieo nhân đánh đập hành hạ chúng sinh, cho nên ngày hôm nay phải chịu nhận hậu quả khổ đau như thế.
Đời này tạo nhân xấu, đời sau mới chịu quả báo, điển hình như câu chuyện tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong một kiếp quá khứ, trong lúc vui chơi, Ngài cầm cây gõ vào đầu con cá ba cái, vậy mà đến khi thành Phật rồi Ngài vẫn phải chịu quả báo nhức đầu ba ngày.
Vì thế, nhân quả theo ta như bóng với hình dù tram kiếp ngàn đời vẫn không bao giờ bị mất. Chúng ta có thể qua mặt được luật pháp của thế gian, nhưng không thể nào trốn tránh quá trình diễn biến của nhân quả. Người biết tu khi gặp quả xấu đến thì không đổ thừa tại, bị, thì, là… gì hết, mà luôn biết rằng, tất cả đều do nhân xấu của mỉnh tạo khi trước nhờ vậy ta chỉ cố gắng tu hành thì từ từ quả xấu đó sẽ hết.
Do đó, tất cả quả tốt hay xấu mà chúng ta đang thọ nhận ngày hôm nay, gốc từ chủng nhân ta đã gieo trồng từ thuở trước. Cho dù ta có tu thành Phật đi nữa vẫn phải chịu quả báo nhiều đời còn xót lại, chỉ có điều người tu hành chân chính khi quả xấu đến, chấp nhận chịu mà không oán than, trách móc một ai, cho nên an nhiên tự tại.
KHÔNG LẦM NHÂN QUẢ
Để chứng minh cho nhân quả rất thiết thực, lợi ích cho tất cả mọi người, chúng ta nghe câu chuyện sau đây và cùng nhau suy gẫm:
Trong pháp hội nọ, Tổ Bá Trượng sau khi giảng pháp xong, mọi người đều ra về hết, riêng chỉ còn lại một ông già không chịu ra về. Ông già dáng vẻ trầm ngâm, đi đi lại lại, thân hình trông giống nửa người, nửa thú. Người không ra người, mà thú cũng chẳng phải thú.
Tổ thấy lạ bèn hỏi:
Ông là người gì?
Ông già trả lời:
Kính bạch Hòa Thượng, con không phải là người, con là kiếp hồ tinh tức là người mang kiếp chồn. Xưa kia thời Phật Đại Ca-diếp, con tu hành ở núi này. Một hôm, có người hỏi con: “Bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả không?”. Con trả lời: “Bậc đại tu hành không còn rơi vào nhân quả nữa”, vì câu trả lời này mà từ xưa đến nay, con bị đọa làm chồn đến gần 500 kiếp. Không biết con trả lời sai chỗ nào, mà bị đọa lạc như vậy. Kính mong Hòa thượng từ bi thương xót chỉ dạy cho con.
Tổ Bá Trượng mới bảo:
Vậy ông hỏi lại ta đi!
Ông nhanh nhẹn thưa:
Bạch Hòa thượng, bậc đại tu hành có rời vào nhân quả không?
Tổ Bá Trương trả lời:
Không lầm nhân quả!
Xin thưa với tất cả quý vị, câu trả lời “Không rơi vào nhân quả” và câu “Không lầm nhân quả”, quý vị tự suy nghĩ xem câu nào đúng, câu nào sai? Ở đây vị Tăng kia lầm chấp rằng, bậc đại tu hành không còn rơi vào nhân quả nữa, có nghĩa là người tu tập được giác ngộ giải thoát sẽ không còn trả quả nữa.
Chính đức Phật khi còn tại thế vẫn phải trả quả xấu rất nhiều lần, như bị mạng ăn lúa ngựa, bị đá lăn trúng chảy máu chân, bị người con gái giả bụng bầu lăng nhục, bị bọn ác giết người và chon trong Tịnh xá rồi đổ thừa cho Phật. Nhưng đức Phật vẫn bình tĩnh an nhiên, tự tại không cần đính chính phân bua mà để cho vua quan tự tìm ra sự thật.
Nhà Phật chủ trương nhân quả rõ ràng, còn vị Tăng này do không tu hành tới nơi tới chốn nên trả lời không còn rơi vào nhân quả, do vậy mà bị đọa lạc đến 500 kiếp làm chồn. Sau khi nghe tổ Bá Trượng khai thị, ông già đại ngộ liền thoát được kiếp chồn.
Sau đó ông thưa rằng:
Bạch Hòa thượng, nhờ lòng từ bi khai thị của Ngài, mà nay con đã được thoát khỏi kiếp chồn. Con kính xin Hòa thượng làm lễ tống táng trà-tỳ cho con giống như một vị Tăng.
Hòa thượng đồng ý gật đầu, nói xong ông già liền biến mất. Sắp đến giờ cơm trưa, Tổ đánh trống thông báo với đại chúng rằng:
Sau khi dùng cơm trưa xong, tất cả đại chúng hãy cùng ta làm lễ trà-tỳ cho một vị Tăng vừa mới thoát kiếp.
Cả đại chúng đều ngơ ngác, ngạc nhiên bởi mọi người thấy trong nhà Niết-bàn, hay nhà bệnh không có người nào bị bệnh hay chết cả, tại sao Hòa thượng lại nói làm lễ trà-tỳ như vậy.
Sau khi dùng cơm xong, Tổ bảo đại chúng cùng đi ra phía sau núi, Ngài lấy cây gậy khều trong hang ra xác một con chồn to tướng vừa mới chết, rồi cử hành lễ trà-tỳ tống tángtrang nghiêm, long trọng như một vị Tăng.
ĐỨC PHẬT TRẢ QUẢ
Như quý vị đã biết, nhà Phật chỉ cho chúng ta thấy biết rõ ràng, tất cả mọi hiện tượng sự vật trên cuộc đời này đều phải trải qua tiến trình của nhân duyên quả. Chỉ vì chúng takhông gặp được bậc minh sư chân chính, không gặp được thầy lành bạn tốt và tu hànhkhông tới nơi tới chốn, cho nên hiểu sai lời Phật dạy. Như vị Tăng kia vì nhập si định cho nên không còn cảm giác, tưởng rằng như vậy là không còn trả quả nữa mới trả lời như thế, mà bị đọa làm chồn đến 500 kiếp, mãi cho đến khi được thiền sư Bá Trượng từ bikhai thị, vị Tăng kia mới thoát khỏi được kiếp chồn.
Vì vậy, là người Phật tử chân chính chúng ta phải học hỏi tìm hiểu giáo lý cho kỹ càng thấu đáu, sau khi có trải nghiệm và ứng dụng lợi lạc trong cuộc sống bằng cách tin sâu nhân quả. Nếu chúng ta thực tâm tu hành theo lời Phật dạy thì mọi nghiệp xấu sẽ được chuyển hóa theo thời gian, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được bình an, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau.
Như trường hợp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế, sau khi thành tựu đạo pháp, Ngài đi giáo hóa suốt bốn mươi chín năm không biết mệt mỏi, nhàm chán. Ngài thường nói: “Ta chỉ là người thầy dẫn đường chỉ dạy cho mọi người biết được điều hay lẽ phải, còn làm được hay không là do chính mình quyết định”. Ta không thể ban phướchay giáng họa cho một ai, dù đó là cha mẹ của ta.
Ta không thể giúp cho ai thoát khỏi phiền muộn khổ đau, nhưng ta có thể hướng dẫn phương pháp chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, đem lại an vui, hạnh phúc cho mọi ngườibiết để thực hành. Bởi vì khi xưa ta chưa biết tu nên làm điều xấu ác thì phải chịu quả báo xấu ác, ngày nay nhờ gặp Phật pháp ta cố gắng buông xả những thói quen xấu ác và hay làm điều thiện lành tốt đẹp thì chuyển được quả xấu và sống hạnh phúc.
Chính vì vậy suốt thời gian đức Phật đi giáo hóa, độ sanh một số người ngoại đạo do ganh ghét, tật đố, tị hiềm với Ngài. Bởi đạo Phật là đạo của tình thương và sự tỉnh thức, là đạo của con người, vì con người mà thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết. Họ thấy những lời dạy của đức Phật rất thiết thực và phù hợp với con người, từ đó họ chuyển sang tu theo đạo Phật rất đông vì biết cách làm chủ bản thân để vượt qua số phận tối tăm, mà đấng bề trên đã áp đặt và định đoạt.
Trước tình trạng đó, một số ngoại đạo bị mất quyền lợi vì đệ tử của họ càng ngày càng thưa thớt, cho nên họ tìm cách phỉ báng, vu khống để làm cho giáo đoàn của Phật bị mất uy tín. Họ rấp tâm hại Ngài bằng nhiều cách, như họ sắp sếp cho một thiếu nữ đẹp, hằng ngày đến Tịnh xá nghe Phật thuyết pháp, sau một thời gian, cô vu khống đức Phật đã dụ dỗ cô làm chuyện xấu xa, tồi bại đến nỗi phải mang bầu.
Hôm đó cô độn bụng bầu giả và đến trong lúc đức Phật đang thuyết pháp, cô khóc lóc la lối ôm sòm trước mặt mọi người, sa môn Cồ đàm đã dụ dỗ tôi, giờ đây tôi bụng mang dạ chửa như thế này mà không có ai nuôi nấng thật là khổ thân tôi quá trời. Nhưng trời xui đất khiến trong lúc cô diễn kịch như thế bổng dưng bụng bầu giả tuột ra, cô hoảng hồn bỏ chạy mất tiêu. Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm và càng tin sâu Phật pháp hơn.
Hại cách này không được, họ tìm cách khác, với tâm oán hận, thù hằn, họ tìm cách trả đũa đức Phật cho bằng được. Dã man hơn, họ thuê bọn côn đồ nghiện rượu giết chết người nữ nọ và đem xác chôn giấu vào Tịnh xá của Phật, rồi cho người đến báo vua quan rằng: “Chúng tôi có một người nữ ngoan đạo, thường xuyên đến Tịnh xá đức Phậtnghe pháp, bây giờ đã bị mất tích, xin nhà vua cùng các quan tìm cách điều tra và tìm ravụ án”.
Được tin báo, nhà vua cho người đến Tịnh xá điều tra, tìm hiểu. Cuối cùng phát hiện được xác của người nữ ấy bị chôn giấu dưới đống rác trong Tịnh xá. Vua Ba-tư-nặc là một đệ tử Phật rất thuần thành. Ông biết rõ đức Phật xưa kia cũng là một vị hoàng tử, chuẩn bị lên ngôi vua, quyền uy thế lực, vợ đẹp con xinh nhưng Ngài đã dám từ bỏ tất cả để đi tu, thì làm sao chuyện giết người như thế có thể xảy ra.
Do vậy, nhà vua ra lệnh cho các quan phải điều tra, tìm ra nguyên nhân tội ác giết người này là do ai gây ra. Trong lúc điều tra, có người đến báo quan có bọn côn đồ nghiện rượu gây ra vụ án mạng này. Vì sau khi giết người nữ kia đem xác chôn trong Tịnh xá, họ lãnh được số tiền lớn rồi tụ tập lại nhậu nhẹt. Đến khi nhậu quá say, do không làm chủ được bản thân mình, họ tự khai ra là họ đã giết người nữ để nhận lãnh số tiền thưởng hậu hĩnh.
Được tin, quan binh đến nơi tóm gọn, bắt bọn người này về điều tra, bọn chúng ấy mới khai thật rằng, có người ngoại đạo vì ghen ghét đức Phật nên âm mưu muốn hại, mà mướn chúng tôi giết cô gái ấy để vu oan cho Phật. Khi ta có hành động muốn hại người, nhưng chưa hại được ai thì ta đã bị trả quả xấu rồi, trước tiên là cô gái, sau đó là bọn côn đồ, kế đến là những người âm mưu. Tất cả đều phải bị hành hình ngay tức khắc bằng cách quăng vào hầm lửa thiêu sống. Như chuyện vừa kể trên, đức Phật giải thíchnhư sau:
Nhiều kiếp về trước, đức Phật khi còn hành đạo Bồ-tát, Ngài vẫn còn những sai xót trong cuộc đời. Có lần Ngài vu khống một vị Bích Chi Phật rằng, người này là người phá giới, không tu hành chân chánh, hay phạm giới và Ngài xúi người khác nói theo mình. Vì vậy, cho đến ngày hôm nay tuy Ngài đã thành Phật, không còn bị dính mắc, nhiễm ô không còn bị phiền não, khổ đau chi phối, nhưng vì nghiệp cảm xa xưa, nhiều đời trước Ngài đã gieo tạo, nên trong hiện tại Ngài vẫn phải chịu quả báo bị những người ngoại đạo này vu khống, phỉ báng. Họ tìm cách mạ lỵ, hạ nhục, vu khống để vua quan bắt bớ xử tội và bị mọi người tẩy chay.
Tuy hiện tại Ngài vẫn bị quả báo như vậy, nhưng với tâm thanh tịnh sáng suốt Phật không còn bị dính mắc, nhiễm ô nên mọi việc đều qua khỏi. Vì là bậc giác ngộ, rõ biết nghiệp xấu đến với mình, nên Ngài không bao giờ than trách một ai, không thanh minhhay phân trần là tôi thế này, tôi thế kia… để đính chính cho mình. Khi sự việc xảy ra đức Phật vẫn bình thản an nhiên tự tại, dùng tâm từ bi rộng lớn để soi sáng muôn loài vật, sự thật như thế nào thì diễn biến như thế ấy.
Đức Phật là bậc Vô thượng Chánh đẳng giác đã giác ngộ giải thoát hoàn toàn nên không còn phiền não khổ đau của, già, bệnh, chết chi phối và đã an nhiên tự tại trước mọi nghịch cảnh. Tuy nhiên, về mặt nhân quả Ngài vẫn phải chịu những oan trái do hậu quảcủa nghiệp quá khứ đã gieo tạo còn xót lại.
Từ một bài học quý báo qua câu chuyện trên, là người Phật tử chân chính chúng ta phải nên tin sâu nhân quả và quyết tâm không gieo tạo nghiệp xấu ác để làm mình người khổ đau. Chính đức Phật còn phải chịu quả báo như thế, huống hồ chúng ta là những người phàm phu tục tử, chưa tu tập được bao nhiêu, chưa đủ khả năng tự tại trong mọi hoàn cảnh để chuyển hóa các nghiệp xấu. Vì vậy, chúng ta cần phải ý thức được nhân nào dẫn đến phiền não khổ đau, làm tổn hại cho người vật thì ta cố gắng dứt khoát không làm.
Biết được như vậy chúng ta hằng ngày phải siêng năng tinh tấn tu hành, kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động không chút lơ là. Ta phải biết áp dụng tu trong mọi hoàn cảnh, trong mọi lúc, mọi nơi nhiều người chỉ tu với Phật, Bồ tát siêng năng sám hối, tụng kinh niệm Phật. Nhưng đối với gia đình người thân, bạn bè và xã hội thì ăn thuađủ, tu như vậy là sai lời Phật dạy, sỡ dĩ chúng ta thờ Phật, lạy Phật mục đích với lòng tôn kính biết ơn, để ta bắt chước làm theo Ngài hầu chuyển hoá nỗi khổ niềm đau, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
Khi đức Phật còn tại thế, có một cô bé chuyên nghề bán bánh. Cô bé này rất quý mếnđức Phật và Tăng đoàn, cô thường đem bánh cúng dường chư Tăng. Thấy cô bé tuy nghèo khó, nhưng có lòng quý kính Tam bảo, đức Phật thường khuyên nhủ nhắc nhỡ chỉ dạy cô lúc nào cũng tin sâu nhân quả.
Rồi thời gian cứ êm ả trôi qua, cô bé vẫn hàng ngày làm bánh đi bán kiếm tiền nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và không quên dành phần cúng dường chư Tăng. Một hôm đức vua Ba-tư-nặc có ý tìm người kế vị sau khi hoàng hậu đương triều qua đời. Ngài chọn cô bé bán bánh về cung tấn phong làm hoàng hậu hiệu là Mạt-lợi phu nhân. Sau khi được làm hoàng hậu, cô nhớ lại những lời chỉ dạy của đức Phật trước kia đã giúp cho cô thay đổi cuộc đời nhờ phát tâm cúng dường với tất cả lòng thành. Một hôm cô cung kính đem nhiều vật thực đến cúng dường đức Phật. Sau khi cúng dường xong, hoàng hậu mới ngồi sang một bên mà thưa hỏi rằng: Kính bạch đức Thế Tôn, do nhân duyên gì mà một số phụ nữ trên thế gian này có thân hình xấu xí, đen đúa, bệnh tật khó coi, bị mọi người chê bai, khinh khi, không thích thân cận và gần gũi. Và do nhân gì, duyên gì lại có một số phụ nữ khi sinh ra trên cõi đời này lại có uy quyền, thế lực, giàu sang tột đỉnh?
Đức Phật trả lời: Do nhân sân hận hay oán giận thù hằn thường xuyên tức tối, bực bội, mắng chửi làm cho mọi người khổ đau, cho nên đời nay phải chịu quả báo xấu xí, đen đúa bệnh tật khó coi, hay bị mọi người khinh chê không thích gần gũi.
Do nhân biết bố thí, cúng dường người tu hành chân chính biết cung kính hiếu thảo với ông bà cha mẹ, hoặc giúp đỡ, chia sẻ với khi thấy người khó khăn bất hạnh, cho nên ngày nay ra đời được làm người phụ nữ trong trắng, đẹp đẽ, dễ coi, được sanh vào gia đình giàu sang có quyền cao chức trọng, được sống một đời hạnh phúc và được nhiều người yêu thương trìu mến.
Pháp thoại ngắn này, giúp cho chúng ta càng tin sâu nhân quả hơn vì biết rõ ràng muốn giàu có nhiều tiền của thì phải bố thí cúng dường, muôn thân tướng đẹp đẽ trang nghiêmthì ta phải biết kiên nhẫn, chịu đựng trong mọi hoàn cảnh. Nhìn thấy quả trong hiện tạixấu hay tốt thì ta biết mình nằm trong hoàn cảnh nào mà ráng cố gắng sửa sai, tích luỹ thêm phước báo nhằm chuyển hoá quả xấu ác mà ta đã lỡ gây tạo.
Đã làm người trong trời đất ai không từng nóng giận? Nóng giận là thói quen xấu từ sự chấp ngã mà ra, thấy mình là ta, là trung tâm của vũ trụ, cho nên tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sinh tâm sân hận, oán giận thù hằn rồi tìm cách trả đũa lại. Từ đó làm khổ gia đình người thân, làm tổn hại cho nhân loại cho nên bị quả báothân hình xấu xí, đen đúa, khó coi, hay bị mọi người khinh chê, coi thường.
Tại sao nóng giận lại bị nghiệp quả nặng nề như vậy? Bởi khi nóng giận mặt mày nhăn nhó khó coi, trông dữ tợn, có khi mặt mày đỏ bừng lên, bừng bừng sát khí. Khi nóng giận, ta cảm thấy khốn khổ đau đớn vằn dặc trong tâm, vì mình chưa hại được ai, nhưng chính mình cảm thấy bất an ray rứt trong lòng nên tràn ngập nổi khổ khổ đau.
Khi nóng giận thì có thể dẫn đến hành động nạt nộ, chửi mắng, đánh đập hoặc vì sự nóng giận cao độ không dằn được, có thể dẫn đến hậu quả như giết người, hoặc làm những việc phi pháp khác, bởi do ta không kìm chế được cơn sân hận. Nóng giận thường làm cho ta khổ đau trong hiện tại và mai sau làm cho người khác đau khổ, cho nên bị quả báo làm người xấu xí, bệnh tật là vậy đó.
Trong gia đình, nếu cha mẹ hay thường xuyên tranh cãi không ai biết nhường nhịn, chồng nói vợ không nghe, con cái không vâng lời cha mẹ ai cũng bảo vệ ý kiến cho mình là đúng nên dẫn đến bất an mất hạnh phúc. Có nhiều gia đình đang sống ấm êm hạnh phúc, chỉ vì sự nóng giận mà làm cho tan nhà nát cửa, vợ con khốn khổ. Do đó, nhà Phật chỉ rõ cho chúng ta biết nhân nóng giận sẽ dẫn đến hậu quả khổ đau trong hiện tạivà đời sau bị quả báo xấu xí, bệnh tật.
Nếu ai nóng giận quá mức thì sau khi chết sẽ bị đọa lạc vào các loài súc sanh như rắn, gà, cá, sói, beo, cọp. Những loài này không biết thương yêu nhau, khi gặp nhau thường đấu đá, xâu xé giết hại lẫn nhau, nguyên nhân chính cũng vì nóng giận mà ra. Bởi do tập nghiệp thói quen sân hận quá mạnh nên phải sanh vào các loài súc sinh như thế để ăn nuốt lẫn nhau. Chúng ta còn đầy đủ duyên phước được sanh trở lại làm người, nhưng bị quả báo thân thể xấu xí, khó coi, ốm yếu tật nguyền. Bởi khi nóng giận trước tiên sẽ làm cho mình khổ đau trước, rồi mới làm cho người khổ đau theo.
Có một câu chuyện kể về một bà mẹ mang thai được bảy, tám tháng, do người chồng mê muội đắm say nữ sắc đi theo vợ bé, cô vợ này tức tối quá, nỗi lên cơn ghen ghétnguyền rủa chửi mắng, la hét người chồng quá thậm tệ. Sau đó, cô ta bỏ về nhà cha mẹruột ở.
Đến ngày khai hoa nở nhụy, cô sinh ra một đứa bé kháu khỉnh, nhưng chỉ vài ngày sau, đứa bé này chết mà không có triệu chứng bệnh tật. Các bác sĩ mới tìm hiểu nguyên nhân vì sao đứa bé chết. Sau khi khám nghiệm đủ mọi cách vẫn không tìm ra lý do, đến khi bác sĩ xét nghiệm máu, mới phát hiện đứa bé chết do nhiễm độc tố từ người mẹ. Bởi khi nóng giận quá mức, những độc tố trong người tiết ra ngấm vào máu, ảnh hưởng đến bào thai, khi đứa bé ra đời được bú sữa mẹ nó lại bị nhiễm độc từ sữa và bị chết.
Qua câu chuyện trên đã cho ta một bài học quý báo của cuộc đời về hậu quả của sự nóng giận, cho nên khi người nữ mang thai cần phải hết sức bình tĩnh, không nên sân hận quá mức, bởi nhân nóng giận rất tai hại, có thể làm hại bản thân mình và hại cho con của mình. Không những khi mang bầu, mà bất cứ khi làm việc gì chúng ta cũng nên bình tĩnh quán xét, ngăn ngừa cơn nóng giận, vì nó còn dẫn đến tình trạng làm tăng huyết áp, gây hại cho tim mạch, có người do nóng giận mà bị tai biến mạch máu não dẫn đến chết người.
Ngoài ra, cơn nóng giận còn dẫn đến nhiều nguyên nhân như nằm ngủ mơ thấy ác mộng, thấy cảnh binh đao, tàn sát, giết hại lẫn nhau… làm cho mình sợ hãi, buồn bựckhốn đốn, sống trong thực tại không được an ổn, không được hạnh phúc.
Bởi do nhân nóng giận có thể gieo ân oán hận thù cho người, cho nên lúc nào mình cũng lo lắng sợ bị trả thù. Từ đó, cuộc sống của ta luôn mang tâm trạng sợ hãi, bất an. Do vậy, đời nay con người sinh ra có nhiều sự sai biệt là do ta gieo nghiệp bất đồng với nhau. Có người thì giàu sang sung sướng, hưởng đầy đủ phúc lạc. Có người nghèo khổ bệnh hoạn đau yếu. Có người sống thọ, có người chết yểu. Có người đẹp, có người xấu, có người đen, có người trắng, có người cao, có người thấp… Tất cả sự khác biệt như thế là bởi vì chúng ta gieo tạo nghiệp tập nhân quả khác nhau.
Nhà Phật dạy chúng ta rằng, muốn chuyển hóa những sân hận, si mê của mình, chúng ta phải thường xuyên quán từ bi, quán tình thương, thấy ai cũng là người thân, người thương của mình, do đó mà ta chuyển hoá được cơn nóng giận.
Giáo lý nhân quả rất quan trọng và thiết thực, người Phật tử chân chính cần phải am tường, thấu rõ và tin tưởng vào nhân quả để hành trì tu tập, dấn thân làm việc phục vụtha nhân không biết mệt mỏi, nhàm chán bằng trái tim hiểu biết. Còn khi gặp chướng duyên nghịch cảnh đến thì ta phải biết tự an ủi, tự tu tập để chuyển hoá mà vượt quanhững bất hạnh trong cuộc đời.
Ta phải tự chiêm nghiệm và tin tưởng sâu sắc những lời Phật dạy mà cố gắng bền bỉ, tinh tấn tu hành. Đó là con đường tươi sáng và tốt đẹp để chúng ta tiến dần đến quả giác ngộ và giải thoát hoàn toàn nhờ thấu hiểu nhân quả.
NHÂN QUẢ CÔNG BẰNG
Có lần đang giữa trưa hè nóng bức, vua Ba-tư-nặc thân hành đến chỗ đức Phật, sau khi đảnh lễ xong, Ngài ngồi xuống một bên thưa rằng:
-Kính bạch đức Thế Tôn, có một người triệu phú thành Xá-vệ vừa mất đi không có con nối dòng, nên con đến để kiểm tra tài sản, số tiền lên đến hơn tám triệu tiền vàng được sung vào công quỹ; đó là chưa kể đến tiền bằng bạc và đất đai ruộng vườn. Thức ăn của vị triệu phú này chỉ có cháo tấm chua còn sót lại, đồ mặc chỉ vài ba bộ quần áo bằng vải gai bình thường, các đồ dùng trong nhà không có gì quý giá ngoài những chiếc xe cũ kỹ.
Nhà vua vừa nói, vừa thắt mắc, tại sao một vị triệu phú lại có cuộc sống quá giản đơn đến thế?
Đức Phật giải thích:
Thật đúng như vậy Đại Vương. Vị triệu phú cô độc này ở một kiếp nọ đã phát tâm cúng dường cho vị Bích Chi Phật thật nhiều món ngon vật lạ, sau đó khởi tâm hối tiếc, nói rằng: “Đúng ra thức ăn này ta nên đưa cho người làm công ăn”. Do kết quả của việc cúng dường rồi sinh tâm hối tiếc ấy, nên ông ta được bảy lần làm triệu phú, tài sản tiền của chứa đầy nhà, vẫn không ăn được món ngon vật lạ nào, không mặc được đồ tốt đẹpmà chỉ xài những đồ thô sơ không có giá trị. Ngoài ra, ông ta còn giết mạng sống con của anh mình để chiếm đoạt tài sản. Do nhân giết hại và cướp tài sản, vị này sau khi chết bị đọa vào ba đường dữ để chịu quả xấu trong vô lượng kiếp. Bởi hành động và việc làm như thế, tuy là một triệu phú trong bảy đời, cuối cùng không tích lũy thêm phước báo mới, cho nên hiện tiền chết bị đọa vào địa ngục. Nói xong đức Phật đọc bài kệ:
Tài sản vật sở hữu
Tất cả không đem theo
Khi nhắm mắt lìa đời
Chỉ mang nghiệp tốt xấu
Như bóng không rời hình
Do vậy hãy làm lành
Để dành cho đời sau
Sống an vui hạnh phúc.
Câu chuyện trên có thật trong đời đức Phật còn tại thế, cho ta nhiều bài học quý báo về nhân quả nghiệp báo. Phật tử chúng ta cần chú ý tìm hiểu cho rõ ràng các chi tiết sau:
Một, bố thí cúng dường cho một vị Bích Chi Phật được đầy đủ phước báo, bảy đời sinh ra làm triệu phú.
Hai, do tâm tiếc rẻ nên bảy đời bị quả báo hà tiện, dù làm triệu phú nhưng vẫn không ăn được món ngon vật lạ.
Ba, do giết đứa con độc nhất của anh mình nên không có con kế thừa tài sản.
Bốn, giết người chiếm đoạt tài sản nên sau khi chết bị đọa địa ngục.
Năm, do không tích lũy thêm phước báo trong hiện đời nên gặp họa không thể lường.
Cúng dường cho người tu hành chân chánh tại sao có phước báo lớn lao như vậy? Bởi vì người tu hành chân chánh họ luôn làm điều “tốt đạo đẹp đời” tất cả vì lợi ích cho tha nhân, không vì quyền lợi riêng tư, cho nên người phát tâm cúng dường cho bậc giác ngộ, giải thoát được phước báo gắp trăm ngàn lần so với người phàm phu tục tử.
Còn bố thí cho người bình thường, một ngày sống của họ là một ngày tham lam, si mê, thù hận, nên giá trị phước báo có giới hạn. Nhưng không lẽ vì phước báo có giới hạn mà ta ngoãnh mặt làm ngơ đối với những mãnh đời bất hạnh, ta tìm kiếm đối tượng để cúng dường như vậy sẽ dẫn đến tâm không bình đẳng cúng dường, bố thí như vậy còn có tâm phân biệt ta người.
Trong kinh Tứ Thập Nhị chương, Phật dạy: “Bố thí cho một trăm người dữ ăn, không bằng bố thí cho một người hiền; bố thí cho một trăm người hiền, không bằng bố thí cho một người biết giữ năm giới; bố thí cho mười ngàn người biết giữ năm giới, không bằng bố thí cho một người đã chứng quả không thoái chuyển. Cúng dường cho trăm ức vị Bích Chi Phật, không bằng cúng dường cho một vị Phật hiện tiền”.
Ở đây chúng ta thấy cúng dường cho người tu hành chân chính thì phước báo lại tăng lên gấp nhiều lần. Nhưng có kinh đức Phật lại dạy bố thí phải bình đẳng. Cũng là lời Phật dạy, tại sao có sự khác biệt với nhau như thế? Vậy kinh nào đúng, kinh nào sai? Đã là lời dạy của Phật thì chân lý không có đúng sai, đức Phật chỉ tùy bệnh cho thuốc, tùy theotrình độ căn cơ của từng người mà đức Phật hướng dẫn cách bố thí cúng dường cho phù hợp.
Người mới phát tâm học đạo, chưa hiểu nhiều về đạo Phật, Thế Tôn khuyên nhủ lánh xabạn ác gần gũi bạn lành nên trong sự bố thí cúng dường cần có sự chọn lựa.
Sau khi hiểu và thông suốt lời Phật dạy, chúng ta sẽ tùy duyên bố thí và cúng dườngkhông phân biệt thân sơ, ta, người. Sở dĩ trong kinh nói rõ ràng cúng dường như thế nào để được phước báo nhiều hay ít là cốt ở sự thành tâm. Đối với người chưa thấm nhuầnđạo lý thì việc làm phước cần phải lựa chọn tùy theo sở thích của mình, không có ranh giới bắt buộc nhất định.
Bố thí hay giúp đỡ cho một phàm phu tuy vẫn có phước, nhưng phàm phu tục tử này không biết tu tập, sống trong tham lam, thù hận, si mê, một ngày sống của họ dính mắc vào chuyện trần tục quá nhiều, chính vì vậy người bố thí được hưởng phước trong hạn chế.
Ngược lại, cúng dường cho bậc Thánh đã giác ngộ, giải thoát phúc đức của các Ngài không gì có thể sánh bằng. Các Ngài luôn sống vì mọi người, tùy duyên giáo hóa giúp đỡ chúng sanh không biết mệt mỏi, nhàm chán, nên người cúng dường hưởng được phước báo không giới hạn.
Nói như vậy, để những người tu hành phải biết ý thức được bổn phận và trách nhiệmcủa mình khi nhận sự cấp dưỡng của đàn-na tín thí mà ráng cố gắng tu hành cho đếnnơi tới chốn.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta cần nhấn mạnh, không phải chỉ cúng dường cho người tu hành mà bỏ qua các đối tượng khác đang còn gặp nhiều khó khăn, bất hạnh. Người bố thí cúng dường vì tấm lòng từ bi rộng lớn, bình đẳng thương yêu mà giúp đỡ, an ủi sẻ chia tuỳ theo nhân duyên. Thấy người tu hành chân chính thì cung kính cúng dường, thấy người hoạn nạn thì giúp đỡ sẻ chia, bố thí cúng dường như vậy thì phước báo vô lượng, vô biên. Từ bi, thương yêu tất cả chúng sanh là pháp yếu của đạo Phật, sẵn sàng chia sẻ hay nâng đỡ khi có nhân duyên, điều kiện.
Dù chỉ một lần bố thí, cúng dường với tâm bình đẳng, với tấm lòng chí thành thấy người đáng kính ta cúng dường, thấy người đang gặp khó khăn hoạn nạn ta giúp đỡ, sẻ chia với trái tim yêu thương và hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống.
Chỉ một lần cúng dường cho vị Bích Chi Phật mà bảy lần được hưởng phước làm triệu phú. Nhưng sau khi cúng dường xong lại khởi tâm hối tiếc, không muốn cho người đó thọ dụng đầy đủ nên phải chịu quả báo nhiều đời có của cải tài sản mà không được hưởng thụ.
Chúng ta, ai cũng dễ thấy điều này, với một người có tâm keo kiệt bỏn sẻn, cho dù tiền bạc tài sản chất đầy kho, thà để hư mục chứ không dám đem ra giúp đỡ kẻ khốn cùng dù chỉ một bữa ăn.
Chính tâm tiếc rẻ của lão triệu phú cô độc kia đã biến thành tâm hà tiện, ích kỷ nên dẫn dến quả báo tuy giàu có nhiều của cải vật chất nhưng sự sống giống như người nghèo khổ, bất hạnh. Ở đây, chúng ta thấy luật nhân quả rất công bằng, gieo nhân tốt được hưởng quả tốt, gieo nhân xấu chịu quả xấu và cũng tùy theo tâm niệm của người gieo nhân mà cho ra kết quả tương ứng.
Chúng ta cần phải ý thức rõ ràng, đầy đủ khi thực hành bố thí, đừng nên bố thí rồi khởi tâm tiếc nuối, từ đó trong ta hình thành tâm bỏn sẻn, hà tiện, keo kiết làm mất đi hạt giống từ bi. Tâm bỏn sẻn, hà tiện sẽ dẫn đến quả báo bị đoạ làm quỷ đói lang thang vô số kiếp, chịu đói khát vật vờ .
Có người nói tâm hà tiện và tâm tiết kiệm giống nhau, chúng ta cần phải nhận định cho rõ chỗ này.
Tiết kiệm là biết tiêu xài đúng mức, không lãng phí xa hoa, xài đúng việc đúng chỗ. Còn bỏn sẻn, hà tiện là tâm không muốn chia sẻ cho ai, chỉ bo bo ôm giữ cho riêng mình. Cho nên tiết kiệm và hà tiện rất khác nhau. một bên là chi tiêu đúng mức, phù hợp, một bên là keo kiệt , bỏn sẻn thà để hư mục chớ không đem ra giúp đỡ cho ai. Hoặc là bố thí xong rồi lại khởi tâm tiếc rẻ, đó là nhân ích kỷ, tiếc của sẽ đưa đến quả đau khổ. Tiết kiệm và rộng lượng bao dung, sẵng sàng nâng đỡ mọi người là nhân dẫn đến an vui, hạnh phúc.
Là người Phật tử chân chính, chúng ta phải biết khôn ngoan sáng suốt chọn lựa nhân lành để mình và người cùng sống yêu thương mà không làm tổn cho tha nhân. Nổi mất mát, khổ đau nhất đối với người giàu có là không có con để kế thừa gia tài sự nghiệp, cho nên cả đời họ chỉ sống trong tham lam, ích kỷ.
Giết một người để cướp của nhất là người đó là đứa con duy nhất được kế thừa gia tài, sự nghiệp thì quả báo rất nặng nề đưa vị triệu phú kia nhiều kiếp phải bị đọa vào chốn khốn cùng.
Bời vì nhân quả nghiệp báo rất công bằng, làm phước thì được an vui hạnh phúc, làm ác thì phải chịu quả báo khổ đau. Luật nhân quả rất công bằng không hề thiên vị một ai, khi hội đủ nhân duyên. Giết người thì mạng đền mạng, đó là luật pháp thế gian không thể chối cãi được, nhưng cũng tùy theo mức độ mà luật pháp có thể gia giảm.
Người có nhiều cống hiến và phục vụ vì lợi ích chung, nhưng vì không nhận thức đúng đắn, bị vật chất lôi cuốn, cám dỗ, nên từ nhận thức tốt đẹp, bị lòng tham muốn sai sử làm điều phi pháp. Đối với luật pháp thế gian hay luật nhân quả cũng vậy, có công thì được thưởng, có tội thì phải bị trừng phạt.
Như lão triệu phú kia phát tâm cúng dường cho vị Bích Chi Phật được hưởng phước báongười giàu có, nhưng sau khi cúng dường lại khởi tâm tiếc của, nên tuy là người giàu cóđến bảy đời mà không hưởng được vinh hoa phú quý đích thực chỉ sống lam lũ và nhọc nhằn như một người nghèo khó mà thôi. Cái gì khiến ông ta phải như vậy? Đó là do sức mạnh của nghiệp lực chi phối.
Người ta thường nói, ăn thì hết cho thì còn có nghĩa là khi mình giúp đỡ ai đó mới chính là ta tích luỹ phước báo, giống như người gửi tiền ngân hàng thấy dường như không có tiền nhưng khi cần xài thì rút ra. Lão triệu phú đó vì không tin sâu nhân quả nên hiện đời không gieo trồng thêm phước đức, cho nên sau khi chết phải bị đoạ vào chỗ khốn cùng.
NGHIỆP VÀ SỐ MỆNH
Sự sống trên thế gian này với thiên hình vạn trạng, phức tạp, đa năng, đa dạng, muôn hình muôn vẻ, khi thế này lúc thế khác và vô cùng mầu nhiệm.
Mỗi người sinh ra có một hoàn cảnh, sự sống hoàn toàn khác biệt nhau. Do sự chiêu cảm nghiệp báo quá khứ nên đời sống hiện tại của chúng ta có sự bất đồng trên mọi phương diện, không ai giống ai. Ta thử đặt câu hỏi: Tại sao ta lại sinh ra trong nhà nghèo để chịu cảnh thiếu thốn, khó khăn mà không sinh vào nhà giàu để hưởng cảnh an nhànphú quý? Tại sao mình đen xấu, bệnh tật mà không được đẹp đẽ như mọi người? Tại sao ta dốt nát quê mùa mà người kia lại thông minh, khôi ngô, tuấn tú? Chẳng lẽ thần linh thượng đế đã sắp đặt, an bài như thế sao? Tại sao sự đời lại trớ trêu như vậy?
Đạo Phật có cách nhìn chính chắn hơn nhờ biết suy tư và nghiệm xét, cho nên thấy rõ mọi sự thành bại, nên hư đều do mình tạo lấy không đổ thừa cho ai hết. Đức Phật là bậc giác ngộ, giải thoát hoàn toàn nên thấy chúng sinh luân hồi trong ba cõi sáu đường giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường.
Đạo Phật không phải là ngẫu nhiên luận rồi vô trách nhiệm đối với những hành vi của mình, hay cho rằng mọi chuyện rủi ro, may mắn, bất ngờ đều do bổng dưng, khi không, tự nhiên mà có.
Khái niệm về số mệnh hay số phận là quan niệm của các trường phái triết học như Thần ý luận, Đa thần giáo, Túc mệnh luận, Định mệnh luận và Thiên mệnh.
Thần ý luận cho rằng, có một đấng thượng đế quyền năng, có thể ban phước giáng họa, sắp đặt cuộc sống của con người, mọi sự khổ vui, nên hư, thành bại trong cuộc đời đều do đấng tối cao này sắp đặt.
Túc mệnh luận cho rằng, mỗi người sinh ra trong cõi đời này đều có số mệnh do quá khứđã an bài và sắp đặt, mỗi cử chỉ, mỗi hành động đều do quyết định trước của quá khứ. Mọi cố gắng của con người đều vô ích.
Song, đạo Phật không chấp nhận như thế, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh đã định sẵn của đời trước mà không chịu làm mới lại chính mình, để chuyển hoá nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.
Thiên mệnh luận cho rằng, có một ông trời qui định cho mỗi cá nhân một số mệnh. Trời kêu ai nấy dạ, con người không thể cải lại lệnh trời, cho nên Khổng Tử khi làm việc gì thành công hay thất bại đều nói do trời là như vậy. Con người không có quyền tự chủ, phải sống lệ thuộc ông trời, mọi cố gắng của con người không ngoài ý trời, trời ban chotất cả, trời kêu ai nấy dạ.
Do đó, số mệnh hay số phận đều dựa theo quan niệm từ xưa, nó chỉ phù hợp khi con người chưa văn minh, chưa tiến bộ. Ngày nay khoa học đã chứng minh cho ta thấy rõ nguyên nhân, không có cái gì chỉ một nhân mà có thể hình thành. Tất cả mọi hiện tượngsự vật trên thế gian này là một chuỗi dài nhân duyên, chúng liên hệ chằng chịt với nhaubằng nhiều móc xích, theo nguyên lý cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Ai nói trên đời này do một nhân mà hình thành thì ta biết rằng người này chưa hiểu thấu lý nhân quả.
Quan niệm trời sinh ra vạn vật cho đến ngày hôm nay không còn phù hợp nữa. Đạo Phậtnói rằng tất cả chúng sinh có mặt trên thế gian này đều do nghiệp tạo ra, nên phải chịu quả báo trong đời hiện tại, chứ không có sự sắp đặt của đấng nào cả.
Vậy nghiệp là gì? Nghiệp là năng lực được tạo ra từ thân, miệng, ý được lặp đi, lặp lại nhiều lần rồi lâu ngày trở thành thói quen, chính thói quen đó có sức mạnh lôi cuốn lại chúng ta. Như khi ta mới tập hút thuốc, khi ấy ta làm chủ muốn hút thì hút, không hút thì thôi. Cho đến khi ta đã hút được vài tháng rồi khi nó đã ăn sâu vào tâm thức của ta, thấm nhuần vào cơ thể, lúc đó ta làm theo sự sai sử của nó cho nên gọi là nghiệp hay còn gọi là tập khí.
Có nhiều nghiệp đã được tạo ra trong quá khứ, cho nên ngày nay chúng ta sanh ra trong đời này có nét mặt, hoàn cảnh, sự sống không ai giống ai, rồi tùy theo sở thích của mỗi người trong hiện tại mà tạo ra nghiệp nhân mới.
Còn ai quan niệm rằng con người do trời định sẵn phải chịu số phận đã an bài, dù con người có cố gắng thay đổi cách mấy đi nữa cũng không thể thay đổi được. Nói như vậy là chúng ta phủ nhận quyền làm chủ bản thân của con người, trong khi đó chúng ta có đủ khả năng suy xét, quán chiếu nhận thức đúng sai và dùng trí tuệ để mà soi sángmuôn loài vật. Nếu chúng ta ai cũng chấp nhận số phận đã được định sẵn thì làm sao con người có thể thay đổi hoàn cảnh cuộc sống, mà càng ngày càng được thăng tiến tốt đẹp.
Ngược lại, đạo Phật nói rằng nghiệp do chúng ta tạo ra từ thân, miệng, ý thì chính mình có quyền thay đổi, chuyển hóa tuỳ theo khả năng sở thích của mỗi người. Như khi chưa biết tu tập, ta có thể trộm cướp lường gạt người khác bằng mọi mánh khóe thủ đoạn, nay ta biết tu tập rồi, thấy đó là hành động không tốt có hại cho mình và người nên dứt khoátkhông làm nữa. Trước do ta không hiểu nên ta làm ăn gian lận, lừa đảo, nay ta hiểu rõvề nhân quả nghiệp báo, thì ta làm ăn chân chánh trở lại để tạo nên nghiệp thiện lành v.v… Như vậy nghiệp là do sở thích của mình huân tập mà thành, vì thế mình có quyền thay đổi, chớ không cam chịu đầu hang cho số phận đã an bài.
Vì thế, trong hiện tại ta cảm thọ khổ hay vui, lành hay dữ, ta có thể đoán biết nghiệp trước kia của ta đã tạo nên. Người có ý chí, nghị lực thì sẽ thay đổi, chuyển hoá nghiệp xấu một cách dễ dàng, còn người chấp nhận theo số phận đã an bài thì vô tình làm mất đi khả năng làm chủ chính mình để rồi ta mãi sống trong đau khổ lầm mê không có ngày thôi dứt.
Nghiệp khác với số mệnh ở chỗ nghiệp có thể thay đổi được, còn số mệnh thì không thể. Nghiệp nói cho đầy đủ là nhân quả nghiệp báo. Nói đến nghiệp báo là nói đến nhân duyên, là nói đến sự chuyển biến linh động của nhân quả, còn nếu cho rằng số trời đã định, gieo nhân nào phải trả quả đó, thì không ai có thể tu hành mà chuyển hoá si mê, tối tăm mờ mịt, thành trí tuệ từ bi.
Trong Kinh A-hàm Phật dạy: “Người gây nhân xấu ác, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm. Tùy theo khả năng tu tập nhiều hay ít mà quả sẽ thay đổi”. Nếu nói gây nhân nào phải chịu quả nấy, thì vô tình ta chịu chết chìm trong si mê, tội lỗi nói như vậy có đúng như lời Phật dạy hay không?
Nói nhân nào quả nấy thật không sai đối với những người chịu chấp nhận buông trôi theo số phận, mặc tình chạy theo dòng đời ai làm sao ta làm vậy, ai làm bậy ta làm theo chẳng cần suy nghĩ, nhận định đúng sai là gì. Người yếu đuối, bạc nhược, thấp hèn thiếu ý chí sẽ chấp nhận cuộc đời như bèo dạt mây trôi, nhân như thế nào thì quả như thế ấy “nhân nào quả nấy” hay “ gieo gió gặt bão”.
Vấn đề nhân quả nghiệp báo nếu chỉ nhìn thoáng qua ai cũng biết rằng, tạo nhân xấu thì sẽ gặp quả dữ, làm việc thiện lành thì sẽ hưởng quả tốt đẹp. Mới nghe qua ta thấy rất đơn giản, nhưng suy nghiệm lại sự diễn biến của nhân quả rất đa dạng và phức tạp. Khi chúng ta chịu khó tu hành, thường xuyên suy tư quán chiếu thì mới có thể thấu rõ được nhân quả ba thời, quá khứ hiện tại vị lai, từ khi tạo nhân cho đến lúc thành quả cần phảicó thêm các yếu tố phụ của duyên thì mới cho ra kết quả.
Trong kinh có câu chuyện Phật dạy như sau:
Một gia đình nọ có nuôi một đàn dê. Một hôm, có một người thường dân nghèo đến trộm dê, gia chủ bắt được đánh đập rồi đem ra quan huyện tri tố bỏ tù.
Lần sau, kẻ trộm dê là người của quan lớn, gia chủ bắt được chỉ tức tối bực bội la mắngchửi rủa vài câu rồi thôi, chớ không dám đối xử nặng nề như người thường dân trước.
Lần khác, gia chủ bắt được kẻ trộm dê là lính của nhà vua, gia chủ không dám tức tối, mà còn van xin, năn nỉ người ấy đừng đến bắt dê của mình nữa, nếu có bắt thì bắt con nhỏ thôi.
Trong ba trường hợp trên, người ăn trộm là thường dân bị đánh đập khổ sở và bị bắt bỏ tù thì đổ thừa tại trời. Trời hại tôi rồi. Trời nào làm thế! Chỉ do chúng ta tạo nghiệp xấu ác nên mới phải chịu quả báo khổ đau, làm gì có ai trừng phạt ta bao giờ. Hạng người này ta gọi là nhân nào quả nấy không sai. Hạng người thứ hai tuy cũng ăn trộm nhưng là người của quan, Phật dụ người này có gieo chút ít phước lành nên chỉ bị chửi mắng thôi. Hạng người thứ ba thân tín với nhà vua tuy có ăn trộm Phật dụ cho người biết tu thân, tu giới, tu tâm cho nên không bị gì mà chủ dê còn năn nỉ nữa.
Để làm sáng tỏ tiến trình diễn biến của nhân quả, chúng tôi xin dẫn một đoạn đối đáptrong Kinh A-hàm.
Có một vị Bà-la-môn đến hỏi vị đệ tử của Phật:
-Thưa Tôn giả, Sa-môn Cù-đàm dạy người tu mười điều thiện lành, sau khi chết được lên thiên đàng phải không?
Vị đệ tử Phật trả lời:
-Vâng! Đúng vậy, Thế Tôn chúng tôi đã dạy như thế. Mười điều thiện lành đó là:
1. Không giết hại, không trực tiếp giết, không xúi bảo người giết, không hoan hỷ khi thấy người giết, lại hay khởi lòng thương tưởng đến con người và muôn loài. Không những không giết hại mà còn khởi tâm phóng sanh, giúp các loài vật thoát được cái chết trong gang tấc.
2. Không gian tham trộm cướp mà còn bố thí cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ.
3. Không tà dâm dan díu với người khác khi đã có vợ, có chồng mà còn khuyên nhủ mọi ngưởi người hãy sống có tiết hạnh chung thủy để bảo hạnh phúc lứa đôi.
4. Không nói dối để lường gạt người mà hay nói lời sự thật, đúng chân lý
5. Không nói lời đòn xóc hai đầu làm mất đoàn kết hiểu lầm nhau, sinh ra ân oán thù hằn, mà hãy nói lời an ủi, sẻ chia trên tinh thần đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.
6. Không nói lời mê hoặc để dụ dỗ người, lại hay nói lời hòa nhã vui vẻ, tạo sự gắn bógần gũi, yêu thương nhau.
7. Không nói lời ác độc, mắng chửi làm người khổ đau.
8. Bớt tham lam, ích kỷ, ty tiện, lại hay che chở bao dung, độ lượng, tha thứ.
9. Bớt nóng giận, phẫn nộ để tạo sự thân thiện cho nhau, lại hay khởi tâm từ bi rộng lượng, thấy ai cũng là người thân thương nên dễ gần gũi và giúp đỡ lẫn nhau.
10. Bớt si mê, bởi đây là nguyên nhân chính dẫn đến cội nguồn tội lỗi. Do si mê, chấp trước, bám víu vào xác thân này nên thấy ta là trùm thiên hạ, ỷ tài, cậy sức làm tổn hạicho nhau, từ đó, thế giới này luôn xảy ra chiến tranh, giết chóc, tàn phá lẫn nhau.
Trả lời xong nhưng vị đệ tử Phật vẫn áy náy, không yên tâm, vì không biết lời giải đápcủa mình có đúng không, nên vội vàng về gặp đức Phật thưa hỏi:
-Bạch đức Thế Tôn, con trả lời khẳng định như thế có đúng không?
Đức Phật bảo:
-Cũng đúng, cũng sai.
Ở đây chúng ta cần tìm hiểu xem đúng và sai chỗ nào?
Phật pháp không nhất thiết phải cố định, mà tùy thời, tùy duyên, tùy theo hoàn cảnh mà linh động, uyển chuyển. Người tu hạnh thập thiện sau khi mạng chung được sanh về các cõi trời, đó là nhân nào quả nấy không sai. Ta gieo trồng được nhân tốt, tất nhiên ta được quả tốt. Điều đó không ai có thể chối cãi, phủ nhận được. Nhưng nhân quả nghiệp báo rất đa dạng và phức tạp, không thể theo một chiều mà xác định được rõ ràng, chính xác.
Người chấp nhận sống theo quan điểm có số phận đã an bài thì không có gì phải bàn cãi, nhưng đối với vấn đề nghiệp báo thì không phải là một tiến trình cố định. Bởi vì nghiệp được hình thành từ thói quen được lặp đi, lặp lại nhiều lần từ thân, miệng, ý của mình, chính vì vậy chúng ta có thể thay đổi nghiệp được.
Khi xưa chua biết tu, ý luôn khởi tham lam, mong muốn đủ thứ hết thân lại luôn làm những điều xằng bậy, làm tổn hại cho người và vật chỉ biết lợi mình mà thôi, ai ra sao mặc kệ. Nay ta biết tu rồi, ý luôn nghĩ những gì tốt đẹp và thánh thiện, không còn tham lam quá độ, khiến thân luôn làm những điều phước thiện, giúp người cứu vật. Trước kia, miệng luôn nói lời ác độc gây ra ân oán hận thù làm tổn thương đến người khác, nay biết tu rồi, miệng luôn nói lời chân thật, thiện cảm, vui vẻ, hòa nhã, thương yêu.
Người sống theo quan điểm có ông trời tạo ra đành phó thác và chấp nhận số phận của mình thì không thể thay đổi được hoàn cảnh, còn người tin sâu nhân quả thì tùy theo khả năng tu tập của mình mà nhân quả được thay đổi theo chiều hướng tích cực, làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.
Vị đệ tử Phật sau khi nghe Thế Tôn nói như thế, liền bàng hoàng sửng sốt, giật mình hoảng sợ liền hỏi Phật:
-Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã từng dạy tu hạnh thập thiện, chết được sanh lên cõi trời để hưởng phước, còn người tạo ác sau khi chết bị đọa vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tại sao bây giờ Thế Tôn lại nói vậy?
Đức Phật từ tốn phân tích cho vị đệ tử:
-Tu thập thiện là nhân sanh lên cõi trời là không sai, nhưng gần tới giờ phút lâm chung, người đó gặp chuyện không được như ý, tâm nổi sân hận, tức tối, giận dữ, thế là tạo nghiệp bất thiện từ ý thức lúc gần chết thì người ấy không đủ phước sanh lên cõi trời. Ông khẳng định như thế, vô tình cho ta nói dối hay sao? Nếu người đó trong quá khứ tạo quá nhiều nghiệp xấu ác, nhưng hiện tại mới tu thiện một thời gian ngắn, nghiệp ác quá khứ quá nhiều, nên khi chết không được sanh lên cõi trời. Như vậy, ông vô tình hướng dẫn sai lời ta dạy. Vậy không phải phỉ báng ta là gì?
Ngược lại, người gây tạo mười điều ác là nhân dẫn đến đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhưng lúc gần chết, người ấy gặp được chánh pháp, biết thức tỉnh hồi đầu, nghiệp thiện từ tâm của họ quá mạnh, nên nghiệp ác không đủ sức dẫn họ vào chỗ xấu, thế là họ tái sanh vào cõi lành.
Trường hợp khác, người mới tạo nghiệp ác năm ba năm, nhưng trong quá khứ họ đã tạo nghiệp lành quá lớn, nên nghiệp ác không đủ sức dẫn họ vào chỗ xấu, họ cũng được sanh vào cõi lành. Ông khẳng định người tạo mười điều ác bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng đâu có đúng. Khẳng định như vậy chẳng phải phỉ báng lời dạy của ta là gì? Bởi người tạo mười điều ác thì có tội, nhưng tội đó nặng hay nhẹ còn tùy theo tâm người ấy ác ý hay không ác ý khi họ làm các điều ác đó.
Tóm lại, sau khi lâm chung được sanh lên cõi trời hay bị đọa lạc vào ba đường ác còn tùy thuộc vào tích lũy nghiệp và cận tử nghiệp của người đó mạnh hay yếu đối với nghiệp ác hay lành. Do đó, trong đạo Phật không có gì là cố định cả. Nếu ai nói điều gì có tính cách khẳng định thì ta biết người này chưa hiểu thấu lý nhân quả nghiệp báo.
Những lời khẳng định trong đạo Phật chỉ mang tính chất răn nhắc và khích lệ để mọi người tu theo Phật cố gắng không làm những điều xấu ác mà thôi. Người Phật tử chân chính sẽ thấy nghiệp báo có thể thay đổi tùy theo năng lực tu tập của mỗi người. Hiểu thấu đáo giáo lý nhân qu thực hành đúng lời Phật dạy, chúng ta có thể làm mới lại chính mình, thay đổi hoàn cảnh, không phó thác cuộc sống cho số phận đã an bài, mà bằng sự nỗ lực tự thân chuyễn hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc, chuyển mê thành ngộ để sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Tôi lúc trước, si mê cùng lầm lạc.
Gây biết bao, khổ não cho nhiều người.
Nhờ Tam bảo, mẹ hiền đã tế độ.
Tôi vượt qua, bao ngục tù tăm tối.
Để rồi đây, kết nguyện với muôn loài.
Hầu đền đáp, sẻ chia cùng tất cả.
Để cùng nhau, kết nối tình yêu thương.
Con nhớ ghi bài kệ này trong mỗi cuốn sách ở phần cuối, rồi đến đôi lời khuyến khích.