mông cốt vương

Phật Quang Đại Từ Điển

(蒙骨王) Mongkut. Quốc vương Thái lan, Tổ khai sáng phái Pháp tương ứng bộ (Dhammayuttikanikàya,cũng dịch là Pháp tông phái), con của vua Lạp mã đời thứ 2 thuộc vương triều Mạn cốc. Năm 14 tuổi, ông vâng sắc xuất gia làm sa di, trụ ở chùa Đại xá lợi; năm 21 tuổi, thụ giới Cụ túc ở chùa Ma ha tha đặc, học tập Thiền định và kinh luật luận. Ông học thông 3 tạng và các thứ tiếng Pàli, Phạm, Anh văn, v.v…, đề xướng giới luật nghiêm khắc. Năm 1829, ông sáng lập Pháp tương ứng bộ. Năm 1836, ông trụ trì chùa Bồ vọng ni vi. Năm 1851, ông hoàn tục lên ngôi, trở thành Quốc vương của vương triều Mạn cốc, đó là Lạp mã đời thứ 4 (Rama IV). Trong thời gian ở ngôi, ông đặt ra nhiều qui tắc để duy trì tăng đoàn Phật giáo, khuyến cáo chúng tăng nghiêm trì giới luật, tăng cường giáo dục tăng chúng, hết lòng hộ trì phái Pháp tương ứng bộ, lần lượt xây dựng các chùa Mẫu vượng ni vực (Wat Bovoranives), chùa Hoàng miện (Wat Mongkut), chùa Lực phạ đề (Wat Rajaphradis), chùa Ba thông ôn (Wat Patumwan) v.v… Năm 1853, ông lại ra lệnh xây cất Đại tháp Phật thống (Paỉhama Cetiya), cao hơn 120 mét, có đường kính 240 mét, mãi đến đời vua Lạp mã thứ VI mới hoàn thành, là tòa tháp Phật lớn nhất ở Thái lan. Năm 1840 và năm 1843, ông lần lượt phái chư tăng đến Tích lan, Ấn độ thỉnh về Tam tạng tiếng Pàli bản 40 quyển và bản 30 quyển, triệu tập các vị cao tăng tiến hành nghiên cứu và phiên dịch sang tiếng Thái lan. Ông lại truyền Pháp tương ứng bộ đến Kampochia. Ông có ảnh hưởng rất lớn đối với việc cải cách Phật giáo Thái lan. Ông có tác phẩm: Giới đàn quyết nghi luận (Sìmàvicàraịa). [X. Nam truyền Phật giáo sử chương 5 (Tịnh hải)].