Luận sơ lược về ý nghĩa Tịnh độ An Lạc
Lược Luận An Lạc Tịnh Độ Nghĩa
略論安樂淨土義 (T. No. 1957)
Đại sư Đàm Loan soạn
Thích Pháp Chánh dịch
Hỏi: Trong ba cõi, cõi An Lạc thuộc về cõi nào?
Đáp: Như Luận Đại Trí Luận nói: “Cõi tịnh độ này không thuộc về ba cõi. Vì sao? Không có lòng dục (nam nữ) cho nên không thuộc cõi dục; ở trên mặt đất cho nên không thuộc về cõi sắc; có hình sắc cho nên không thuộc về cõi vô sắc.” Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Phật A Di Đà lúc hành Bồ tát đạo làm tỳ khưu hiệu là Pháp Tạng ở nơi Phật Thế Tự Tại Vương thưa hỏi về các công hạnh tịnh độ của chư Phật. Lúc ấy, đức Phật vì Pháp Tạng giảng giải và đồng thời hiện ra cho thấy những sự thiện ác của hàng trời người cùng sự thô diệu của cảnh giới của hai trăm mười ức cõi Phật. Khi ấy, Bồ tát Pháp Tạng ở trước đức Phật Thế Tự Tại Vương phát hoằng thệ đại nguyện nhiếp thủ Tịnh độ.” Ngài Pháp Tạng, ở trong vô lượng a tăng kỳ kiếp, theo như những đại nguyện đã phát, tu hành các pháp ba la mật viên mãn tất cả công hạnh thiện lành, chứng đắc Vô thượng Chánh giác. Cõi tịnh độ An Lạc là do nghiệp riêng của ngài Pháp Tạng tu tập hoàn thành nên không thuộc về ba cõi.
Hỏi: Cõi An Lạc có bao nhiêu sự trang nghiêm mới được gọi là tịnh độ?
Đáp: Nếu y theo ý nghĩa của kinh điển, bốn mươi tám nguyện của Bồ tát Pháp Tạng chính là những sự trang nghiêm đó. Tìm trong Kệ Tán A Di Đà Phật thì có thể biết được, ở đây sẽ không lập lại. Nếu căn cứ vào Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá thì dùng hai loại thanh tịnh để hàm nhiếp hai mươi chín loại trang nghiêm thành tựu. Hai loại thanh tịnh là: tự nhiên giới thanh tịnh, và chúng sinh giới thanh tịnh.
Tự nhiên giới thanh tịnh có mười bảy loại trang nghiêm thành tựu: (1) Cõi nước An Lạc thù thắng hơn ba cõi. (2) Cõi nước rộng lớn bao la giống như hư không, không có ngằn mé. (3) Cõi nước được sinh khởi từ “thiện căn chánh đạo đại từ bi xuất thế gian” của Bồ tát [Pháp Tạng]. (4) Ánh sáng thanh tịnh viên mãn trang nghiêm. (5) Đầy đủ tính chất trân bảo, xuất sinh các vật báu kỳ diệu. (6) Ánh sáng khiết tịnh (trong sạch) thường chiếu thế gian. (7) Các vật báu mềm mại, ai chạm vào đều khởi tâm ưa thích, phát sinh sự an lạc thù thắng. (8) Ngàn vạn hoa báu trang nghiêm, các loại hồ báu, cung điện báu, lầu các báu, các loại cây báu, ánh sáng rực rỡ đủ màu sáng soi thế giới, vô lượng lưới báu che phủ hư không, bốn phía treo linh vang tiếng pháp âm. (9) Trong không trung, tự nhiên thường rải hoa trời, y trời, hương trời trang nghiêm thơm ngát. (10) Ánh sáng trí tuệ của Phật chiếu trừ si ám. (11) Âm thanh khai ngộ của Phật vang vọng khắp mười phương. (12) Đấng pháp vương vô thượng Phật A Di Đà dùng uy lực khéo léo trụ trì. (13) Các chúng sinh đều hóa sinh từ những đóa sen thanh tịnh của đức Như lai. (14) Các chúng sinh đều ưa thích mùi vị Phật pháp, dùng thiền tam muội làm thức ăn. (15) Các chúng sinh đều vĩnh viễn xa lìa sự khổ thân tâm, thường xuyên hưởng thọ sự an lạc. (16) Chúng sinh cõi đó không nghe đến danh từ “nhị thừa”, “người nữ” và “khuyết tật”. (17) Chúng sinh cõi đó có lòng mong cầu, tùy tâm xứng ý, không ai mà không thỏa thích. Mười bảy loại trang nghiêm này gọi là tự nhiên giới thanh tịnh.
Chúng sinh giới thanh tịnh có mười hai loại trang nghiêm thành tựu: (1) Tòa của Phật làm bằng vô lượng đài hoa gồm vô lượng đại trân bảo vương vi diệu. (2) Thân Phật được trang nghiêm bằng vô lượng tướng hảo, vô lượng ánh sáng. (3) Đức Phật có vô lượng biện tài, ứng cơ thuyết pháp, đầy đủ sự trong sáng rõ ràng, khiến cho mọi người thích nghe, người nghe ắt sẽ hiểu rõ, thâm nhập lời Phật dạy, lời dạy của Phật không phải lời nói xuông. (4) Chân như trí tuệ của Phật tựa như hư không, chiếu rõ tướng chung tướng riêng của các pháp, tâm không phân biệt. (5) Hàng trời người, tâm không còn động dao, trang nghiêm rộng lớn, tướng hảo của Phật đầy đủ, ví như núi Tu Di, đứng sừng sửng giữa bốn biển. (6) Đức Phật thành tựu quả vị vô thượng, không còn ai có thể sánh bằng, huống chi là hơn ngài. (7) Đức Phật là bậc Đại trượng phu trong hàng trời người, là bậc thầy điều ngự, đại chúng đều cung kính vây quanh, ngài giống như sư tử chúa được bầy sư tử vây quanh. (8) Bổn nguyện lực của đức Phật trang nghiêm các công đức trụ trì, bất cứ người nào gặp được đều không bị luống uổng, họ đều được đầy đủ tất cả các công đức lớn như đại hải, Bồ tát nào chưa chứng tịnh tâm (Sơ địa) rốt ráo sẽ chứng đắc pháp thân bình đẳng, cùng với Bồ tát đã chứng tịnh tâm và các Bồ tát địa thượng rốt ráo đồng chứng tịch diệt bình đẳng. (9) Chúng Bồ tát ở cõi An Lạc, thân tâm không dao động mà đi khắp mười phương biến hiện đủ loại, tu hành như thật, thường làm phật sự. (10) Các ứng hóa thân của Bồ tát không trước không sau, nhất tâm nhất niệm, phóng ánh sáng lớn, đều có thể đi khắp mười phương thế giới giáo hóa chúng sinh, dùng đủ phương tiện tu hành thành tựu, diệt trừ khổ não cho tất cả chúng sinh. (11) Các vị Bồ tát đó đến tất cả mọi thế giới, tham dự mọi pháp hội của tất cả chư Phật, tu hành rộng lớn vô lượng sự cúng dường, cung kính, tán thán công đức của chư Phật Như lai. (12) Các vị Bồ tát đó, ở trong tất cả thế giới ở mười phương, nơi không có Tam bảo, trụ trì, trang nghiêm công đức rộng như biển lớn của Phật pháp tăng, khai thị cho chúng sinh hiểu rõ mà tu hành đúng pháp. Mười hai loại trang nghiêm này, tám loại đầu là sự trang nghiêm thanh tịnh của đấng Pháp vương (Phật), bốn loại sau là sự trang nghiêm thanh tịnh của Bồ tát, gọi chung là chúng sinh giới thanh tịnh.
Cõi An Lạc có đầy đủ hai mươi chín loại trang nghiêm công đức thành tựu cho nên gọi là tịnh độ.
Hỏi: Vãng sinh về tịnh độ An Lạc có bao nhiêu phẩm? Có bao nhiêu nhân duyên?
Đáp: Trong Kinh Vô Lượng Thọ chỉ có ba phẩm: thượng, trung, hạ. Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, mỗi phẩm lại chia làm thượng, trung, hạ, hợp thành chín phẩm. Hiện nay, tôi y vào Kinh Vô Lượng Thọ mà làm Kệ Tán A Di Đà Phật, và hơn nữa, căn cứ vào kinh này mà phân làm ba phẩm để thảo luận.
Thượng phẩm vãng sinh, có năm nhân duyên: (1) Xả bỏ gia đình, xa lìa ân ái, xuất gia làm sa môn. (2) Phát tâm Vô thượng Bồ đề. (3) Nhất hướng chuyên (quán) niệm Phật Vô Lượng Thọ. (4) Tu các công đức. (5) Nguyện sinh cõi An Lạc. Nếu đầy đủ các nhân duyên này, đến lúc lâm chung Phật Vô Lượng Thọ và chư đại chúng hiện đến trước mặt, người đó liền theo đức Phật vãng sinh về cõi An Lạc, tự nhiên hóa sinh vào ao sen bảy báu, trụ giai vị bất thoái chuyển, trí tuệ dũng mãnh, thần thông tự tại.
Trung phẩm vãng sinh, có bảy nhân duyên: (1) Phát tâm Vô thượng Bồ đề. (2) Nhất hướng chuyên (quán) niệm Phật Vô Lượng Thọ. (3) Ít nhiều biết tu thiện, phụng trì trai giới. (4) Xây tháp lập tượng. (5) Cúng dường sa môn. (6) Treo phan thắp đèn, rải hoa thắp hương. (7) Dùng các công đức này hồi hướng nguyện vãng sinh cõi An Lạc. Đến lúc lâm chung, hóa thân của Phật Vô Lượng Thọ quang minh tướng hảo giống như Phật thật cùng chư đại chúng hiện ra trước mặt, người đó liền theo hóa Phật vãng sinh An Lạc, trụ giai vị bất thoái chuyển, công đức trí tuệ kém hơn bậc thượng.
Hạ phẩm vãng sinh, có ba nhân duyên: (1) Giả sử không thể tu các công đức, cần phải phát tâm Vô thượng Bồ đề. (2) Nhất hướng chuyên (quán) niệm Phật Vô Lượng Thọ, nhẫn đến mười niệm. (3) Dùng tâm chí thành nguyện vãng sinh cõi An Lạc. Đến lúc lâm chung, mộng thấy Phật Vô Lượng Thọ, cũng được vãng sinh, trí tuệ công đức kém hơn bậc trung.
Lại có một loại hành giả vãng sinh cõi An Lạc, nhưng không thuộc về ba phẩm trên: nghĩa là dùng tâm nghi ngờ, tu tập các công đức nguyện sinh An Lạc. Người này không hiểu rõ Phật trí, bất tư nghì trí (trí tuệ không thể suy lường), bất khả xứng trí (trí tuệ không thể so sánh), Đại thừa quảng trí (trí tuệ Đại thừa rộng lớn), vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí (trí tuệ tối thượng thù thắng không ai sánh bằng), đối với các loại trí tuệ này, nghi hoặc không tin, thế nhưng, vẫn tin tội phước, tu tập thiện căn, vãng sinh An Lạc. Hạng người này sinh vào các cung điện bảy báu ở cõi An Lạc. Các cung điện này, hoặc rộng một trăm do tuần, hoặc năm trăm do tuần, bọn họ ở trong đó hưởng thọ những sự khoái lạc tự nhiên, giống như cõi trời Đao Lợi. Trong năm trăm năm, không được gặp Phật, không được nghe pháp, không thấy Bồ tát, không thấy Thanh văn. Ở cõi An Lạc gọi nơi đây là biên địa, cũng gọi là thai sanh. Biên địa có nghĩa là ở nơi đó trong năm trăm năm không thấy, không nghe đến Tam Bảo, ý nghĩa giống như gặp nạn biên địa; hoặc là nơi đó ở phía ngoài cùng (biên giới) của cõi An Lạc. Còn thai sanh là ví cho những người vừa mới từ trong thai sinh ra, chưa biết đầy đủ pháp làm người. Chữ “biên” là nói sự gặp nạn, còn chữ “thai” là chỉ sự tăm tối. Hai danh từ này đều là vay mượn để ví cho tình huống, chứ không phải là chỉ cho biên địa trong bát nạn, cũng không phải là chỉ cho bào thai trong thai sinh. Làm sao biết được? Ở cõi An Lạc đều là hóa sinh cho nên không phải thật có thai sinh; sau năm trăm năm được gặp Phật, nghe được tên Tam Bảo cho nên không phải là biên địa trong bát nạn.
Hỏi: Những người bị thai sinh ở trong cung điện bảy báu, họ còn nghĩ đến những gì?
Đáp: Trong Kinh có thí dụ: “Ví như có người con của Chuyển luân vương đắc tội với vua cha, bị giam vào hậu cung, bị xích bằng xiềng vàng nhưng được cung cấp đầy đủ mọi thứ giống như nhà vua. Lúc đó, vị hoàng tử tuy cũng có đầy đủ tất cả mọi sự khoái lạc, nhưng tâm vẫn không vui, chỉ nghĩ đến việc tìm mọi phương tiện cầu được thoát ra ngoài.” Người bị thai sinh cũng giống như vậy. Tuy ở trong cung điện bảy báu có đủ sự vui sướng sắc, thanh, vị, xúc nhưng không cho đó là vui; bởi vì không thấy được Tam Bảo, không được tu cúng dường, tu các pháp thiện cho nên cảm thấy khổ não. Nếu như người đó biết được bổn tội (tội nghi ngờ), thâm thiết tự trách, thành khẩn sám hối, cầu được ra khỏi nơi đó tức sẽ được như ý, trở lại đồng với ba phẩm vãng sinh. Nghĩa là phải là vào cuối năm trăm năm họ mới biết rõ tội và sám hối.
Hỏi: Dùng tâm nghi ngờ cầu sinh An Lạc gọi là thai sanh. Vì lý do nào khởi lòng nghi?
Đáp: Trong Kinh chỉ nói “Nghi ngờ không tin”, chứ không nêu rõ lý do. Truy xét năm câu “không hiểu rõ” này, tôi xin nêu ra phương pháp đối trị.
“Không hiểu rõ Phật trí” nghĩa là không thể tin rõ Nhất thiết chủng trí của Phật, vì không “rõ” nên sinh tâm nghi ngờ. Câu này là nêu chung sự nghi ngờ. Trong bốn câu dưới, tôi sẽ đối trị sự nghi ngờ của từng câu một. Nghi, có bốn ý nghĩa:
(1) Nghi rằng nếu chỉ tưởng niệm (Hán: ức niệm 憶念) Phật A Di Đà, không chắc được vãng sinh An Lạc. Vì sao? Kinh nói: “Nghiệp đạo như bàn cân, bên nào nặng bị kéo đi trước.” Tại sao trong một đời, hoặc trăm năm, hoặc mười năm, hoặc một tháng, không tội nào không tạo mà lại chỉ cần mười [tưởng] niệm tương tục thì được vãng sinh, liền nhập vào chánh định tụ, rốt ráo không còn bị thoái chuyển, không còn bị thọ khổ ba ác đạo? Nếu vậy làm sao có thể tin được ý nghĩa “kéo đi trước”? Lại nữa, từ nhiều kiếp đến nay đều chỉ là tạo tác các hành nghiệp hữu lậu hệ thuộc ba cõi, tại sao không chịu đoạn trừ các kết hoặc của ba cõi, mà chỉ trong một khoảng thời gian ngắn niệm Phật A Di Đà liền có thể xuất ly ba cõi? Ý nghĩa của “nghiệp trói buộc” phải được hiểu như thế nào? Để đối trị sự nghi ngờ này, cho nên gọi là “bất tư nghì trí.”
“Bất tư nghì trí” nghĩa là lực của Phật trí có thể biến ít thành nhiều, biến nhiều thành ít; biến gần thành xa, biến xa thành gần; biến nhẹ thành nặng, biến nặng thành nhẹ; biến dài thành ngắn, biến ngắn thành dài. Những Phật trí như vậy, vô lượng, vô biên bất khả tư nghì.
Ví như trăm người tiều phu, trong một trăm năm, tích chứa cũi cao hơn ngàn thước, một đốm lửa bằng hạt đậu đốt khoảng nửa ngày là cháy hết. Đâu có thể cho rằng tích chứa cũi trong trăm năm, đốt nửa ngày không cháy hết? Lại như, một người què ngồi trên thuyền người khác, do sức mạnh của gió, trong một ngày có thể đi ngàn dặm. Đâu có thể cho rằng người què đó làm sao có thể ngày đi ngàn dặm? Lại nữa, một người nghèo hèn đem cống hiến một vật quý cho chủ, được chủ trọng thưởng, trong phút chốc kẻ nghèo hèn đó trở thành giàu có. Đâu có thể lấy lý do là một người trong mấy chục năm làm việc siêng năng khổ nhọc còn không đạt được điều mong cầu, rồi cho rằng không có sự giàu có nhanh chóng như vừa nói? Lại như, một người đàn ông yếu ớt không đủ sức leo lên lưng lừa, nhưng nhờ nương vào sức của vua chuyển luân mà được bay trên không một cách tự nhiên. Đâu có thể cho rằng một người không đủ sức leo lên lưng lừa ắt không thể bay trên không trung? Lại như sợi dây cáp mười vòng, ngàn người không thể bứt đứt, nhưng một đứa trẻ vung kiếm trong nháy mắt chặt đứt sợi dây. Đâu có thể cho rằng đứa trẻ sức yếu không thể nào chặt đứt dây? Lại như con chim trậm 1 bay xuống nước thì tất cả loài cá, trai đều chết. Nhưng lấy sừng tê giác nhúng xuống bùn, thì tất cả những con vật đã chết đều sống lại. Đâu có thể nói rằng mạng sống đã dứt đoạn thì không thể sống lại? Lại như chim hoàng hộc gọi Tử An, Tử An sống lại 2. Đâu có thể cho rằng ở dưới mộ ngàn năm chắc chắn không thể sống lại?
Tất cả vạn pháp đều có tự lực, tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp, ngàn khai (mở) vạn bế (đóng), vô lượng vô biên. Đâu có thể dùng tri thức hữu hạn mà nghi ngờ các pháp vô hạn?
Lại nữa, trong năm pháp bất tư nghì, Phật pháp là tối bất khả tư nghì. Như hiện nay cho rằng trăm năm làm ác là nặng rồi nghi ngờ rằng mười niệm niệm Phật là nhẹ, không thể vãng sinh An Lạc, nhập chánh định tụ thì đây là điều sai lạc.
(2) Nghi rằng Phật trí so với loài người không có gì là huyền diệu (Hán: huyền tuyệt 玄絕). Tại sao? Phàm tất cả danh tự là từ sự hỗ tương đối đãi mà sinh khởi, ví như, giác (biết) là từ bất giác (không biết) mà sinh, như vậy mê phương hướng là do nhớ phương hướng mà sinh ra. Nếu cho rằng “dứt mê (Hán: mê tuyệt 迷絕)” tức là không còn mê (Hán: bất mê 不迷), thì chung cuộc, mê không phải là “tỏ”; nếu mê có thể làm cho tỏ, thì ắt là người mê được “tỏ”, mà cũng có thể cho rằng người tỏ bị mê. Mê tỏ, tỏ mê giống như bàn tay lật ngữa lật úp, điều này gọi là sự khác biệt giữa minh (sáng) và muội (tối), như vậy thì đâu có gì là siêu nhiên? Vì khởi sự nghi ngờ như vậy, cho nên sinh lòng nghi ngờ không tin trí tuệ của Phật. Vì để đối trị sự nghi ngờ này cho nên nói là “bất khả xứng trí.”
“Bất khả xứng trí”, nghĩa là trí tuệ của Phật không còn tên gọi, không còn hình tướng đối đãi. Tại sao nói như vậy? Pháp nếu là có thì phải có cái trí biết cái có; pháp nếu là không có thì cũng phải có cái trí biết cái không có. Các pháp lìa xa “có”, “không có”, đức Phật thâm hiểu các pháp cho nên trí tuệ của ngài cũng dứt tuyệt tướng đối đãi. Hiện nay dẫn giải, đưa ra thí dụ “mê tỏ” thì cũng đều chỉ là mê mà thôi, chứ không thành “mê tỏ”, cũng giống như trong mộng thấy mình tỉnh mộng, tuy nói là tỉnh mộng, nhưng chỉ vẫn là mộng. Nay dùng sự biết mà hiểu Phật, đây không phải là biết Phật; dùng sự không biết mà hiểu Phật cũng không phải là biết Phật; dùng sự vừa biết vừa không biết mà hiểu Phật, cũng không phải là biết Phật; dùng sự vừa không biết vừa chẳng phải không biết mà hiểu Phật cũng không phải là biết Phật. Phật trí lìa bốn câu này, ai duyên vào đây thì “tâm hành diệt (không thể tư)”, ai không duyên vào đây thì “ngôn ngữ đoạn (không thể nghì)” Do ý nghĩa này, Luận Đại Trí Độ nói: “Nếu thấy Bát nhã thì gọi là bị buộc, nếu không thấy Bát nhã cũng gọi là bị buộc; nếu thấy Bát nhã thì gọi là giải thoát, nếu không thấy Bát nhã cũng gọi là giải thoát.” Bài kệ này có nghĩa là nếu không lìa bốn câu thì gọi là buộc, nếu xa lìa bốn câu thì gọi là giải thoát. Hiện nay, nếu nghi ngờ Phật trí so với loài người không có gì huyền diệu, đây là điều sai lầm.
(3) Nghi ngờ Phật không thể độ tất cả chúng sinh. Vì sao? Trong quá khứ có vô lượng a tăng kỳ hằng hà sa chư Phật, hiện tại trong mười phương thế giới cũng có vô lượng vô biên a tăng kỳ hằng hà sa chư Phật, nếu như Phật thật sự có thể độ tất cả chúng sinh thì phải từ lâu đã không còn ba cõi. Đức Phật thứ hai ắt không cần phải vì chúng sinh mà phát Bồ đề tâm, tu tập Tịnh độ, nhiếp thọ chúng sinh. Nhưng thật có đức Phật thứ hai nhiếp thọ chúng sinh, nhẫn đến có thật ba cõi, mười phương vô lượng chư Phật nhiếp thọ chúng sinh. Cho nên biết rằng Phật thực sự không thể độ tất cả chúng sinh. Vì khởi lòng nghi này nên nghĩ rằng Phật A Di Đà là hữu lượng. Để đối trị lòng nghi này nên nói đến Đại thừa quảng trí.
“Đại thừa quảng trí” nghĩa là đức Phật không có pháp nào không biết, không có phiền não nào không đoạn, không có pháp thiện nào mà không đầy đủ, không có chúng sinh nào mà không độ. Cho nên có ba đời, mười phương, có năm nghĩa:
(a) Nếu không có đức Phật thứ hai, nhẫn đến không có a tăng kỳ hằng hà sa chư Phật, thì Phật không thể độ tất cả chúng sinh. Bởi vì đức Phật thật sự có thể độ tất cả chúng sinh cho nên có mười phương vô lượng chư Phật, vô lượng chư Phật này tức là những chúng sinh đã được đức Phật trong quá khứ độ.
(b) Nếu một Phật có thể độ tận tất cả chúng sinh thì không nên sau đó lại còn có Phật. Vì sao? Vì không có nghĩa “giác tha” thì y vào nghĩa nào mà nói có chư Phật ba đời? Nay y vào nghĩa “giác tha” mà nói mỗi Phật đều độ tất cả chúng sinh.
(c) Đức Phật sau có thể độ chúng sinh là do công năng của đức Phật trước. Vì sao? Do đức Phật trước mà có đức Phật sau. Ví như từ vị vua đầu tiên, do sự truyền thừa kế vị mà có vị vua sau, vua sau là do công năng của vị vua trước.
(d) Phật lực tuy có thể độ tất cả chúng sinh nhưng vẫn phải cần có nhân duyên, nếu chúng sinh không có nhân duyên với đức Phật trước thì phải cần đức Phật sau. Như vậy những chúng sinh không có duyên, trải qua trăm ngàn vạn Phật vẫn không nghe, không thấy [Phật], đây không phải là vì Phật lực yếu ớt. Ví như mặt trời, mặt trăng xoay quanh bốn châu phá trừ sự u ám, thế nhưng người mù không thấy, đây không phải là do mặt trời không sáng; tiếng sấm điếc tai nhưng người điếc không nghe, đây không phải là do âm thanh không lớn. Giác ngộ lý nhân duyên được gọi là Phật. Nếu như đi ngược lý nhân duyên thì đây không phải là Chánh giác. Cho nên, chúng sinh vô lượng, chư Phật cũng vô lượng. Đề cập đến đức Phật, đã không biết đến “có duyên”, “không có duyên”, mà chỉ hỏi rằng vì sao đức Phật không thể độ tất cả chúng sinh, đây là lời hỏi vô lý.
(e) Chúng sinh nếu [được độ] tận, thế gian tức rơi vào “hữu biên.” Do ý nghĩa này, tức là phải có vô lượng chư Phật độ tất cả chúng sinh.
Hỏi: Nếu chúng sinh không thể tận, thế gian lại rơi vào “vô biên”, bởi vì vô biên cho nên Phật thật sự không thể độ tất cả chúng sinh?
Đáp: Thế gian không phải hữu biên, không phải vô biên, dứt tuyệt bốn câu. Đức Phật muốn chúng sinh xa lìa bốn câu này cho nên gọi là “độ.” Thật ra không phải độ, không phải không độ, không phải tận, không phải không tận. Ví như một người nằm mộng thấy đi qua biển gặp phải tai nạn sóng to gió lớn bèn sợ hãi lớn tiếng kêu la, có người đánh thức, người đó tỉnh giấc bèn cảm thấy thản nhiên, không còn sợ hãi. Đây chỉ là qua cơn mộng chứ không phải qua sông.
Hỏi: Nói độ hay không độ đều là biên kiến, tại sao cho rằng độ tất cả chúng sinh là Đại thừa quảng trí, mà không cho rằng không độ chúng sinh là Đại thừa quảng trí?
Đáp: Chúng sinh không ai không chán khổ cầu vui, sợ trói buộc thích giải thoát. Nghe “độ” liền quy hướng, nghe “không độ” thì không biết lý do tại sao không độ, bèn cho rằng đức Phật không có đại từ bi thì sẽ không tìm đến hỏi đạo. Vì không quy hướng cho nên từ lâu đắm chìm trong mộng, không thể nào tỉnh giấc. Vì những chúng sinh này, phần lớn đều nói “độ”, không nói “không độ.” Lại nữa, Kinh Chư Pháp Vô Hành cũng nói: “Phật không thành Phật đạo, cũng không độ chúng sinh, phàm phu gượng phân biệt, nói Phật độ chúng sinh.” Nói “độ chúng sinh” là đối trị tất đàn, nói “không độ chúng sinh” là đệ nhất nghĩa tất đàn. Hai lời “độ” và “không độ” đều có lý do, không hề trái ngược nhau.
Hỏi: Như giấc mộng chấm dứt, đây chẳng phải là “độ” sao? Nếu tất cả chúng sinh đều tỉnh mộng, thế gian lẽ nào không chấm dứt hay sao?
Đáp: Nói mộng là thế gian, nếu dứt mộng, ắt là không có người nằm mộng. Nếu không có người nằm mộng, thì cũng không nói đến “độ.” Như vậy, biết rằng thế gian tức là xuất thế gian, tuy độ vô lượng chúng sinh mà không đọa điên đảo.
(4) Nghi Phật không đắc Nhất thiết chủng trí. Vì sao? Nếu có thể biết tất cả các pháp, thì các pháp rơi vào hữu biên; nếu không thể biết hết, thì lại không phải là nhất thiết chủng trí. Để đối trị sự nghi ngờ này, bèn nói Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí.
“Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí” nghĩa là trí tuệ phàm phu hư vọng, trí tuệ của Phật như thật, hư thật khác nhau như trời và đất, lý không bằng nhau (đẳng) cho nên gọi là vô đẳng. Hàng Thanh văn, Bích chi phật nếu muốn biết phải nhập định mới biết, mà cũng chỉ biết có hạn; đức Phật chứng đắc Như thật tam muội, thường ở trong định sâu cho nên biết khắp chiếu soi vạn pháp nhị và bất nhị, thâm sâu không ai ngang bằng, cho nên gọi là vô luân. Các Bồ tát bát địa trở lên, tuy đắc Báo sinh tam muội, không cần xuất định nhập định nhưng vì còn tập khí vi tế cho nên không được cực kỳ minh tịnh. So với trí tuệ của Phật, vẫn chưa sánh bằng. Đức Phật đầy đủ “trí đức và đoạn đức”, chiếu soi đúng như pháp, vì các pháp là vô lượng cho nên sự chiếu soi cũng là vô lượng. Ví như hộp lớn thì nắp cũng lớn, cho nên gọi là tối thượng.
Ba câu này cũng có thể triển chuyển thành tựu cho nhau, bởi vì không có ai ngang bằng với đức Phật, nên gọi là vô luân, vì vô luân cho nên tối thượng thù thắng; lại do vì tối thượng thù thắng cho nên vô đẳng, vì vô đẳng cho nên vô luân. Chỉ cần nói “vô đẳng” là đủ, cần gì phải nói hai câu dưới? Như trí tuệ của Tu đà hoàn không ngang bằng với A la hán nhưng cùng một loại; Bồ tát Sơ địa đến Thập địa cũng giống như vậy, trí tuệ tuy không bằng nhau nhưng không phải là vô luân. Vì sao? Bởi vì đều là không phải tối thượng.
Hiện nay, vì biết rằng hữu biên là vấn đề bèn nghi ngờ đức Phật không phải là bậc Nhất thiết trí, đây là điều sai lầm.
Hỏi: Trong phần Hạ phẩm vãng sinh, kinh nói: “mười niệm tương tục liền được vãng sinh”, thế nào “mười niệm tương tục?”
Đáp: Ví như có một người đang đi giữa đồng trống, bổng gặp kẻ oán tặc cầm gươm xông đến muốn giết. Người đó bèn bỏ chạy, thấy phải băng qua một con sông trước mặt. Nếu băng qua sông thì mới được toàn thây. Lúc ấy, người đó chỉ nghĩ đến phương cách qua sông: “Ta đến bờ sông, mặc quần áo mà bơi qua? Hay là cởi quần áo mà bơi qua? Nếu mặc quần áo, e rằng không lội qua được; nếu cởi quần áo, e rằng không đủ thời giờ.” Trong đầu chỉ có niệm này, không còn nghĩ đến việc nào khác, một niệm làm thế nào để qua sông tức là một niệm. Như vậy không tạp tâm gọi là mười niệm tương tục. Hành giả cũng thế, niệm Phật A Di Đà giống như người đang nghĩ đến việc qua sông đạt đến mười niệm: hoặc niệm danh hiệu của Phật, hoặc niệm tướng hảo của Phật, hoặc niệm quang minh của Phật, hoặc niệm thần lực của Phật, hoặc niệm công đức của Phật, hoặc niệm trí tuệ của Phật, hoặc niệm bổn nguyện của Phật. Không có tâm khác xen vào, tâm tâm nối tiếp cho đến mười niệm, đây gọi là mười niệm tương tục.
Thoạt nghe “mười niệm tương tục”, tựa hồ không có gì khó. Thế nhưng, đối với hàng phàm phu, tâm giống như ngựa hoang, thức còn hơn khỉ vượn, đam nhiễm sáu trần, không lúc nào ngừng nghỉ, bọn họ cần phải chí tâm, tự mình khắc chế ý niệm thì sẽ tích tập thành thói quen, thiện căn sẽ trở nên kiên cố. Như đức Phật nói với vua Tần Bà Sa La: “Nếu có người tích tập thiện hạnh, khi chết không có ác niệm. Như cây nghiêng về hướng tây ắt phải ngã về phía tây.” Nếu như đợi đến lúc gió địa ngục thổi đến, trăm sự khổ bức bách thân thể, giả như không còn nhớ đến công đức tu tập, thì làm sao có thể niệm Phật?
Lại nữa, cần phải có năm ba bạn đồng tu cùng chí hướng, lúc sắp mạng chung, cùng nhau giảng rõ, xưng danh hiệu Phật A Di Đà, nguyện sinh An Lạc, âm thanh liên tục, khiến thành mười niệm. Ví như ấn sáp ấn vào bùn, khi ấn bị hoại thì chữ hiện ra; lúc sinh mạng này chấm dứt, thì cũng là lúc vãng sinh An Lạc. Một khi được nhập vào chánh định tụ, thì đâu còn phải lo âu gì nữa!
HẾT