LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ
Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 63

GIẢI THÍCH PHẨM BỐN MƯƠI MỐT (TIẾP): TIN TƯỞNG, CHÊ BAI

KINH: Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhân, nên khéo nhiếp nghiệp thân miệng ý, không chịu các khổ như vầy: Hoặc không thấy Phật, hoặc không nghe pháp, hoặc không gần gủi Tăng, hoặc sanh trong thế giới không có Phật, hoặc sanh vào nhà bần cùng trong cõi người, hoặc bị người ta không tin thọ lời mình nói.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Vì chất chứa nghiệp miệng, nên có trọng tội phá pháp ấy chăng?

Phật bảo Tu-bồ-đề: Vì chất chứa nghiệp miệng nên có trọng tội phá pháp ấy.

Tu-bồ-đề! Người ngu si ấy xuất gia thọ giới trong Phật pháp, mà phá Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, chê bai không lãnh thọ.

Tu-bồ-đề! Nếu phá Bát-nhã Ba-la-mật, chê bai Bát-nhã Ba-la-mật, là phá Nhất thiết trí của mười phương chư Phật; phá Nhất thiết trí thì là phá Phật bảo; phá Phật bảo nên phá Pháp bảo; phá Pháp bảo nên phá Tăng bảo. Phá Tam Bảo thì là phá chánh kiến thế gian; phá chánh kiến thế gian là phá bốn niệm xứ, cho đến phá trí nhất thiết chủng; phá trí nhất thiết chủng, thì mắc vô lượng vô biên vô số tội; mắc vô lượng vô biên vô số tội thì chịu vô lượng vô biên vô số ưu khổ.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng; Bạch đức Thế Tôn! Người ngu si chê bai phá hoại Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu có mấy nhân duyên?

Phật bảo Tu-bồ-đề: Có bốn nhân duyên, người ngu si ấy chê bai phá hoại Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu.

Tu-bồ-đề thưa: Bạch đức Thế Tôn! Những gì là bốn?

Phật bảo Tu-bồ-đề: Người ngu si ấy bị Ma sai khiến muốn chê bai phá hoại Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, ấy là nhân duyên đầu. Người ngu si ấy không tin pháp sâu, không tin không hiểu, tâm không được thanh tịnh; ấy là nhân duyên hai. Người ngu si ấy muốn chê bai phá hoại Bát- nhã Ba-la-mật thâm sâu, người ngu si ấy đi theo ác tri thức, tâm chìm đắm lười biếng, chấp chặc năm thọ uẩn, ấy là nhân duyên ba. Người ngu si ấy muốn chê bai phá hoại Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu. Người ngu si ấy nhiều sân giận, tự cao khinh người, ấy là nhân duyên bốn. Tu-bồ-đề! Vì bốn nhân duyên ấy người ngu si muốn chê bai phá hoại Bát-nhã Ba- la-mật thâm sâu.

LUẬN: Hỏi: Nghiệp miệng là phá pháp; cớ sao nói nhiếp giữ ba nghiệp thân, miệng, ý?

Đáp: Nghiệp ý là gốc của nghiệp miệng, nếu muốn nhiếp nghiệp miệng, trước phải nhiếp nghiệp ý, nghiệp ý nhiếp, nên nghiệp thân, nghiệp miệng cũng lành, nghiệp thân miệng lành, thì nghiệp ý cũng lành.

Trong đây Tu-bồ-đề nói nhân duyên chẳng chịu các khổ ấy, như là không được thấy Phật v.v… Người đời cho nghiệp thân là nặng, nghiệp miệng là nhẹ, nên Tu-bồ-đề hỏi: Chỉ do nghiệp miệng mà bị tội như thế ư? Phật nhân ý đó, nên khai thị rằng: Người ngu si tự không có việc chi cấp bách, cũng không ai khiến làm, cũng không được gì, mà tự đem lưỡi mình gây tội như vậy, thật là người đại cuồng! Người cuồng ấy đời vị lai, ở trong pháp của Ta xuất gia, người xuất gia có năm chúng, người thọ giới có bảy chúng; người Thanh văn ấy chấp trước pháp Thanh văn. Phật pháp quá năm trăm năm sau, phân biệt ra có năm trăm bộ phái, từ đó trở đi, vì tìm tướng quyết định của các pháp, chấp lấy pháp mình, không biết Phật Vì sự giải thoát nên thuyết pháp, mà cứ chấp chặt ngôn ngữ, nên khi nghe nói Bát-nhã các pháp rốt ráo không, thì như dao cắt tâm, đều cho rằng pháp quyết định như vậy, sao nay lại nói không có! Ở nơi Bát-nhã Ba-la-mật không có đắc không có trước tướng, lại đắc lại trước tướng, rồi chê bai phá hoại cho là chẳng phải Phật giáo. Phật vì thương xót chúng sanh nên nói là đạo là phi đạo. Nay trong Bát-nhã thì đạo hay phi đạo, đều là một tướng, tức là vô tướng. Thế nên trước tiên sanh ý nghi ngờ, sau tâm quyết định sanh tà kiến đối với pháp không. Tà kiến đắc lực nên ở giữa đại chúng nơi nơi đều chê bai hủy hoại Bát-nhã Ba-la-mật. Vì hủy hoại Bát-nhã Ba-la-mật nên phá các công đức Nhất thiết trí v.v… của mươi phương ba đời chư Phật. Phá công đức Phật tức là phá Tam bảo, phá Tam bảo thì phá nhân duyên an lạc của thế gian, đó là chánh kiến của thế gian; nếu phá chánh kiến của thế gian thì phá nhân duyên an lạc của xuất thế gian. Chánh kiến của xuất thế gian là bốn niệm xứ, cho đến trí nhất thiết chủng. Pháp ấy là nhân duyên vô lượng vô biên phước đức, phá pháp ấy thì mắc vô lượng vô biên tội. Mắc vô lượng vô biên tội, nên chịu vô lượng vô biên ưu sầu khổ não.

Hỏi: Trước đã nói nhân duyên phá pháp, đó là ái trước pháp, sao Tu-bồ-đề lại còn hỏi?

Đáp: Trước trong luận nói, nay trong kinh nói, trước nói không khắp, nay nói rộng khắp, đó là bốn nhân duyên: Người ấy bị ma sai khiến, hoặc Ma hoặc Ma dân đến vào trong tâm kia, chuyển đổi thân miệng, khiến hủy phá Bát-nhã Ba-la-mật, như Phật ba lần hỏi A-nan cõi Diêm-phù-đề vui, sống lâu cũng vui? Nhưng vì bị Ma vào thân nên ba lần A-nan không đáp lời Phật. A-nan được Sơ quả, còn bị ma quấy huống gì người phàm!

Lại nữa, Ma có bốn thứ: Ma ngũ uẩn, Ma phiền não, Ma chết, Ma thiên tử tự tại. Trong bốn loại ma này, phần nhiều là Ma phiền não, Ma thiên tử tự tại, xúi đừng tin Bát-nhã, tham đắm pháp mình, ganh tị pháp khác; ngu si điên đảo nên hay hủy phá Bát-nhã Ba-la-mật.

Có người nói: Nhân duyên đầu là Ma phiền não, nhân duyên thứ tư là Ma thiên tử. Bị hai loại Ma ấy xúi sử nên gọi là Ma sai khiến. Chấp chặt tà kiến tham ái pháp mình, tuệ căn ám độn, không hiểu Phật ý, không tin không thọ Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, cho nên phá. Người có lợi căn kham tín thọ được, ma không đến được, chỉ có theo lời ác sư nên cũng phá Bát-nhã. Có người tuy thuộc ác tri thức mà kiết sử mỏng, nên siêng tinh tấn, có thể tin Bát-nhã Ba-la-mật. Cho nên hai việc hợp lại làm một, cũng thuộc ác tri thức, cũng đắm sâu năm uẩn, kiết sử dày, tâm sanh lười biếng, cho nên không tin Bát-nhã; người ấy đời đời chứa nhiều sân hận, thành tánh. Tướng trạng của sân là tướng bất tín, người ấy cương cường tự cao, khinh hèn người thuyết pháp, nghĩ rằng: Trí và đức của ta như vầy mà còn không hiểu được, huống chi người ngu si làm sao biết được. Vì tâm sân hận kiêu mạn nhiều ấy nên phá hoại Bát-nhã Ba-la-mật.

KINH: Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba- la-mật thâm sâu ấy, người không siêng tinh tấn, gieo căn bất thiện, tương đắc với bạn ác, thì khó tin khó hiểu.

Phật dạy: Đúng vậy, đúng vậy! Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, người không siêng tinh tấn, gieo trồng căn bất thiện, tương đắc với bạn ác, thì khó tin khó hiểu.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật ấy Vì sao thâm sâu, khó tin khó hiểu?

Tu-bồ-đề! Sắc chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu là sắc. Thọ, tưởng, hành thức chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu là thọ, tưởng, hành, thức. Thí Ba-la-mật chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu là Thí Ba-la-mật. Giới Ba-la-mật chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu là Giới Ba-la-mật. Nhẫn Ba-la-mật ấy chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu là Nhẫn Ba-la-mật. Tấn Ba-la-mật chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu là Tấn Ba-la-mật. Thiền Ba-la-mật chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu là Thiền Ba-la-mật. Bát-nhã Ba-la-mật chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu gì, ấy là Bát-nhã Ba-la-mật?

Tu-bồ-đề! Nội không chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu là nội không; cho đến vô pháp hữu pháp không chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì tánh không có Tánh sở hữu gì, ấy là vô pháp hữu pháp không. Bốn niệm xứ chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu là bốn niệm xứ; cho đến Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì không có tánh sở hữu là Nhất thiết chủng trí.

Tu-bồ-đề, sắc bản tế chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì bản tế, không có tánh sở hữu là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí nhất thiết chủng bản tế chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì bản tế, không có tánh sở hữu là trí nhất thiết chủng.

Tu-bồ-đề! Sắc hậu tế (đời sau) chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì sắc hậu tế không có tánh sở hữu là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí nhất thiết chủng hậu tế, chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì hậu tế, không có tánh sở hữu gì, ấy là trí nhất thiết chủng.

Tu-bồ-đề! Sắc hiện tại chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì hiện tại, không có tánh sở hữu là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí nhất thiết chủng, hiện tại chẳng trói chẳng mở. Vì sao? Vì hiện tại, không có tánh sở hữu là trí nhất thiết chủng.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật, người không siêng tinh tấn, không trồng căn lành, tương đắcvới bạn ác, giải đãi ít tiến, ưa quên, không có tuệ thiện xảo phương tiện, thật khó tin khó hiểu.

Tu-bồ-đề! Đúng vậy, đúng vậy! Bát-nhã Ba-la-mật ấy, người không siêng tinh tấn, không trồng căn lành, tương đắc với bạn ác, hệ thuộc với ma, giải đãi ít tiến, ưa quên, không có tuệ thiện xảo phương tiện, thật khó tin khó hiểu. Vì sao? Vì sắc tịnh, quả cũng tịnh; thọ, tưởng, hành, thức tịnh, quả cũng tịnh; cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tịnh, quả cũng tịnh.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Vì sắc tịnh tức Bát-nhã Ba-la-mật tịnh, Bát-nhã Ba-la-mật tịnh tức sắc tịnh; thọ, tưởng, hành, thức tịnh, tức Bát-nhã Ba- la-mật tịnh, Bát-nhã Ba-la-mật tịnh tức thọ, tưởng, hành, thức tịnh; cho đến trí nhất thiết chủng tịnh tức Bát-nhã Ba-la-mật tịnh; ; Bát-nhã Ba- la-mật tịnh tức trí nhất thiết chủng tịnh. Sắc tịnh với Bát-nhã Ba-la-mật tịnh, không hai không khác, không dứt không hoại; cho đến trí nhất thiết chủng tịnh với Bát-nhã Ba-la-mật tịnh, không hai không khác, không dứt không hoại.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Không hai tịnh nên sắc tịnh, không hai tịnh cho đến trí nhất thiết chủng tịnh. Vì sao? Vì không hai tịnh ấy với sắc tịnh, cho đến trí nhất thiết chủng tịnh, không hai không khác. Vì ngã tịnh, chúng sanh tịnh, cho đến kẻ biết, kẻ thấy tịnh, nên sắc tịnh; thọ, tưởng, hành, thức tịnh cho đến trí nhất thiết chủng tịnh. Vì sắc tịnh cho đến trí nhất thiết chủng tịnh, nên ngã, chúng sanh, cho đến kẻ biết, kẻ thấy tịnh. Vì sao? Vì ngã, chúng sanh cho đến kẻ biết, kẻ thấy tịnh với sắc tịnh cho đến trí nhất thiết chủng tịnh, không hai không khác, không dứt không hoại.

LUẬN: Bấy giờ Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: “Bát-nhã Ba-la-mật ấy rất sâu thẳm, người giải đãi, theo ác tri thức, trồng giống căn bất thiện, khó tin, còn trái với đây, gọi là tin Bát-nhã Ba-la-mật” Phật chấp nhận lời đó.

Tu-bồ-đề lại hỏi: Bát-nhã Ba-la-mật ấy rất sâu thẳm thế nào nên khó tin?

Phật đáp: Các pháp sắc v.v… không trói không mở. Ba độc là trói, ba cửa giải thoát là mở. Ba độc phiền não ấy hư vọng không thật, do nhân duyên hòa hợp sanh, không có tự tánh cho nên không trói, Vì không trói nên không mở. Phá ba độc nên ba cửa giải thoát cũng không.

Lại nữa, thủ trước các pháp, khởi lên hết thảy điên đảo phiền não là trói. Nếu sự trói có tự tánh nhất định thì không thể mở. Nếu nó thật có nhất định, ai phá được nó. Nếu phá thì bị rơi vào đoạn diệt, còn nếu các phiền não điên đảo thủ tướng, là hư dối không thật, thì cũng không có gì để dứt.

Lại nữa, tất cả tâm tâm số pháp (tức tâm sở) ức tưởng phân biệt, thủ tướng, đều bị trói trong các duyên, nếu ở vào trong thật tướng các pháp, biết chúng đều hư dối, như phẩm trên nói: Tướng trạng của tâm thanh tịnh là chẳng phải tâm tướng. Sự trói ấy “không” nên sự mở cũng không. Có các nhân duyên như vậy, nên các pháp sắc v.v… không trói không mở.

Trong đây Phật tự nói nhân duyên: Các pháp sắc v.v…, là pháp hữu vi tạo tác, do nhân duyên hòa hợp sanh, không có định tánh; nên kinh nói các pháp sắc v.v… không có tánh sở hữu là sắc v.v…

Lại nữa, các pháp sắc v.v… trong ba đời không trói không mở, như đã phá ở đoạn phá ba đời trong Trung luận.

Khi ấy, Tu-bồ-đề, biết Bát-nhã Ba-la-mật chẳng phải sâu thẳm, chẳng phải không sâu thẳm, như trong phẩm sau nói: Nếu bảo Bát-nhã Ba-la-mật rất sâu thẳm, thì đó là xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật. Vì thế nên bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Người ác cho Bát-nhã Ba-la-mật rất sâu thẳm khó hiểu, người ấy chẳng phải người lành. Người ác không tương ưng với Bát-nhã, không nhất tâm siêng tinh tấn, không gieo trồng thiện căn hiểu Bát-nhã Ba-la-mật, đi theo ác sư phá hoại Bát-nhã. Giải đãi là tham đắm cái vui thế gian, không ưa xuất thế gian, người như thế, nếu có tinh tấn, thì quá ít không đủ nói: Bị các phiền não loạn tâm cho nên ưa quên. Tướng thiện không thiện không phá, kiêu mạn không trừ, tà kiến hý luận, nên tìm thật tướng các pháp, không biết phân biệt tướng các pháp tốt xấu, ấy gọi là không có tuệ thiện xão phương tiện.

Có các ác pháp như vậy, nên người ấy khó hiểu Bát-nhã sâu thẳm v.v… Phật chấp nhận ý ấy, nên nói: Đúng vậy, đúng vậy.

Hỏi: Trong lời Tu-bồ-đề không có Ma sự, sao trong lời Phật nói lại có thêm chuyện Ma?

Đáp: Tu-bồ-đề nói thẳng nhân duyên trong ngoài không đầy đủ, nay Phật nói đầy đủ rằng: Người ấy bị Ma sai sử. Phật lại muốn nói tướng sâu thẳm khó hiểu, bảo với Tu-bồ-đề: Các pháp sắc v.v… tịnh, nên quả cũng tịnh. Bốn niệm xứ là quả của các pháp sắc v.v…. Vì sao? Vì quán các pháp sắc v.v… bất tịnh, vô thường v.v… đầu tiên được thân niệm xứ. Các niệm xứ khác nói như trên. Trong đó tánh của bốn niệm xứ là vô lậu, dứt hết các phiền não là Niết-bàn, cho nên thanh tịnh. Thấy quả tịnh nên biết nhân cũng tịnh.

Hỏi: Trước nói nhờ quán sắc v.v… bất tịnh, vô thường v.v… được thân niệm xứ, cớ sao nay nói quả tịnh nên nhân cũng tịnh

Đáp: Quán bất tịnh là cửa vào ban đầu, chẳng phải thật quán. Thế nên quán bất tịnh không ở trong mười sáu thánh hạnh. Trong mười sáu thánh hạnh quán vô thường, khổ, không, vô ngã, chẳng phải quán bất tịnh. Điên đảo chấp tịnh nên sanh dâm dục, phá tịnh nên nói bất tịnh, chứ chẳng phải thật, cho nên quán bất tịnh không đưa vào mười sáu thánh hạnh, nó chỉ được giải quán (Chứ không phải thật quán -N.D)

Trong Bát-nhã không quán thường, không quán vô thường, không quán tịnh, không quán bất tịnh v.v… Thường, vô thường, tịnh, bất tịnh, không thật v.v… các quán hý luận ấy diệt, ấy là thật tướng sắc. Thật tướng sắc vốn tịnh, nên quả cũng tịnh.

Lại nữa, trong đây Phật tự nói nhân duyên: Bát-nhã Ba-la-mật như hư không, rốt ráo thanh tịnh, không có nhiễm ô, ấy là Bát-nhã Ba-la- mật. Quán thật tướng các pháp sắc v.v… chẳng sanh chẳng diệt, tu sáu Ba-la-mật, bốn niệm xứ như vậy có thể được Bát-nhã Ba-la-mật. Bát- nhã Ba-la-mật ấy có ba nhân duyên là chánh quán, chánh hạnh, chánh tu. Thế nên nói Bát-nhã Ba-la-mật tịnh nên các pháp sắc v. v… tịnh; vì các pháp sắc v.v… tịnh, nên Bát-nhã Ba-la-mật tịnh. Vì sao? Vì các pháp sắc v.v… với Bát-nhã Ba-la-mật ở trong thật tướng thì không hai không khác. Vì không dị không biệt, không lìa không tán, nên chẳng dứt chẳng hoại.

Lại nữa, như “Ngã” tìm khắp trong mười phương ba đời, không thể có được, chỉ trong năm uẩn chỉ có giả danh. Chúng sanh cho đến kẻ biết kẻ thấy cũng như vậy.

Giống như “Ngã” là không, không có gì của chính nó, thanh tịnh, nên các pháp cũng như vậy.

KINH: Lại nữa, Tu-bồ-đề! Vì tham tịnh nên sắc tịnh, cho đến trí nhất thiết chủng tịnh. Vì sao? Vì tham tịnh và sắc tịnh cho đến trí nhất thiết chủng tịnh, không hai không khác. Vì sân, si tịnh nên sắc tịnh, cho đến trí nhất thiết chủng tịnh. Vì sao? Vì sân, si và sắc tịnh cho đến trí nhất thiết chủng tịnh, không hai không khác, không dứt không hoại.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Vì vô minh tịnh nên các hành tịnh, các hành tịnh nên thức tịnh; thức tịnh nên danh sắc tịnh, danh sắc tịnh nên lục nhập tịnh; lục nhập tịnh nên xúc tịnh; xúc tịnh nên thọ tịnh; thọ tịnh nên ái tịnh, ái tịnh nên thủ tịnh; thủ tịnh nên hữu tịnh; hữu tịnh nên sanh tịnh; sanh tịnh nên lão tử tịnh, lão tử tịnh nên Bát-nhã Ba-la-mật tịnh, Bát- nhã Ba-la-mật tịnh nên cho đến Thí Ba-la-mật tịnh; Thí Ba-la-mật tịnh nên nội không tịnh, nội không tịnh nên cho đến vô pháp hữu pháp không tịnh; vô pháp hữu pháp không tịnh nên bốn niệm xứ tịnh; bốn niệm xứ tịnh, nên cho đến Nhất thiết trí tịnh, Nhất thiết trí tịnh, nên Nhất thiết chủng trí tịnh. Vì sao? Vì Nhất thiết trí tịnh và Nhất thiết chủng trí tịnh, không hai không khác, không dứt không hoại.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bát-nhã Ba-la-mật tịnh nên sắc tịnh, cho đến Bát-nhã Ba-la-mật tịnh nên Nhất thiết trí tịnh, vì Bát-nhã Ba-la-mật tịnh ấy và Nhất thiết trí tịnh, không hai không khác.

Tu-bồ-đề! Vì Thiền Ba-la-mật tịnh cho đến Nhất thiết trí tịnh; Tấn Ba-la-mật, Nhẫn Ba-la-mật, Giới Ba-la-mật, Thí Ba-la-mật tịnh nên cho đến Nhất thiết trí tịnh; vì nội không tịnh nên cho đến Nhất thiết trí tịnh; vì bốn niệm xứ tịnh nên cho đến Nhất thiết trí tịnh.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Vì hữu vi tịnh nên vô vi tịnh. Vì sao? Vì hữu vi tịnh và vô tịnh, không hai không khác, không dứt không hoại.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Vì quá khứ tịnh nên vị lai, hiện tại tịnh; vì vị lai tịnh nên quá khứ hiện tại tịnh; vì hiện tại tịnh nên quá khứ vị lai tịnh. Vì sao? Vì hiện tại tịnh và quá khứ vị lai tịnh, không hai không khác, không dứt không hoại.

LUẬN: Hỏi: Phật dạy ba độc là cấu uế bất tịnh; cớ sao trong đây nói vì tham dục v.v… tịnh, nên sắc v.v… cũng tịnh

Đáp: Phật dạy thật tánh của ba độc thanh tịnh, nên các pháp sắc v.v… cũng thanh tịnh. Vì ba độc tịnh và sắc v.v… tịnh, không hai không khác. Muốn nói rộng ba độc thanh tịnh và nhân duyên quả báo của ba độc thanh tịnh, nên nói vì vô minh tịnh nên các hành cũng tịnh.

Vô minh tịnh là vì vô minh rốt ráo không, như trong đoạn mười dụ phá vô minh nói. Từ mười hai nhân duyên cho đến trí nhất thiết chủng cũng như vậy. Nên vì sắc v.v… vô minh v.v… các pháp thanh tịnh, nên Bát-nhã Ba-la-mật thanh tịnh. Bát-nhã Ba-la-mật thanh tịnh, nên pháp Sở hành của các Bồ-tát như Thiền Ba-la-mật cho đến trí nhất thiết chủng đều thanh tịnh. Thiền Ba-la-mật v.v… cũng như vậy.

Lại nữa, vì mười tám không không nên sắc v.v… cho đến trí nhất thiết chủng không; vì cho đến trí nhất thiết chủng không, nên mười tám không cũng không. Trí nhất thiết chủng không lìa mười tám không, mười tám không không lìa trí nhất thiết chủng. Thế nên nói không hai không khác.

Không tức là thanh tịnh. Nay sắc cho đến trí nhất thiết chủng, một pháp làm đầu, các pháp khác mỗi mỗi đều làm đầu, triển chuyển đều thanh tịnh.

Lại nữa, vì các pháp nhiều vô lượng, nên lược nói pháp hữu vi, vô vi. Thật tướng của pháp hữu vi tức là pháp vô vi. Như hành giả thanh tịnh tìm tướng Thường, Lạc, Ngã, Tịnh trong các pháp không thể có được. Nếu không thể có được, ấy là thật biết pháp hữu vi; thật biết không thể có được, tức là pháp vô vi. Thế nên nói pháp hữu vi thanh tịnh nên pháp vô vi thanh tịnh.

Lại nữa, nhân pháp hữu vi nên biết pháp vô vi; thánh nhân được pháp vô vi ấy, nói tướng pháp hữu vi. Thế nên nói vì pháp hữu vi thanh tịnh nên pháp vô vi thanh tịnh, pháp vô vi thanh tịnh nên pháp hữu vi thanh tịnh. Pháp hữu vi ở trong ba đời, nên nói đời quá khứ thanh tịnh nên đời vị lai cũng thanh tịnh; đời vị lai thanh tịnh nên đời quá khứ cũng thanh tịnh. Vì sao? Vì như đời quá khứ phá hoại tán diệt, không có gì nên không, đời vị lai chưa sanh chưa có nên không, ba đời không có nên hiện tại cũng không có. Vì sao? Vì có trước có sau, mới biết có hiện tại.

Lại nữa, pháp hữu vi niệm niệm sanh diệt, nên không có lúc nào ngưng trụ, lúc ngưng trụ không có, nên không có đời hiện tại. Vì ba đời không, nên pháp hữu vi không, vì pháp hữu vi không nên pháp vô vi không. Không tức là rốt ráo thanh tịnh, không phá không hoại, không hý luận như hư không.

Như vậy Bát-nhã Ba-la-mật rốt ráo thanh tịnh, là pháp tạng của chư Phật ba đời. Vì tội phá hoại ngôn thuyết văn tự có khả năng tuyên thật tướng Bát-nhã ấy, nên đọa địa ngục.

Hỏi: Nếu không tin Bát-nhã bị đọa địa ngục, tin thì được làm Phật. Nếu người phạm năm tội nghịch, phá giới, tà kiến, lười biếng, mà tin Bát-nhã, người ấy có được thành Phật không? Lại có người trì giới, tinh tấn, mà không tin Bát-nhã, tại sao đọa địa ngục?

Đáp: Phá Bát-nhã có hai cách: Bát-nhã chính miệng Phật nói ra, đệ tử tụng tập, chép thành kinh quyển, người ngu báng bổ rằng: Đó chẳng phải Phật nói, mà là Ma hoặc Ma dân nói, và là thủ bút của người tà kiến chấp đoạn diệt, trau chuốt miệng lưỡi nói ra; hoặc cho rằng tuy là Phật nói song trong đó nơi nơi người khác thêm thắt vào, hoặc có người tâm chấp trước phân biệt, chấp thủ tướng mà nói Bát-nhã Ba-la-mật, miệng tuy nói không, mà tâm đắm hữu. Trong các người phỉ báng ấy, người hủy phá đầu bị đọa vào đại địa ngục, vì không hiểu được ý Bát-nhã của thánh nhân nói; người phá hủy thứ hai là người tâm chấp trước nghị luận nên không gọi là hủy phá Bát-nhã; như ông Điều Đạt làm thân Phật chảy máu, mà thầy thuốc Kỳ Vực cũng làm thân Phật chảy máu, tuy đồng làm chảy máu, mà tâm khác nhau, nên một người mắc tội, một người được phước. Như vẽ tượng Phật, một người vì thấy tượng không đẹp nên phá để vẽ lại, một người vì ác tâm nên phá, do tâm khác nhau nên một người được phước, một người mắc tội. Người phá Bát-nhã Ba-la-mật cũng như vậy.

Lại nữa, hoặc có người phá Bát-nhã, tuy tâm không sân hận, không

khinh Phật, mà chỉ vì tâm ức tưởng phân biệt cho rằng pháp ấy sâu xa do bậc Nhất thiết trí nói, thì lẽ phải có ý nghĩa thâm diệu, chứ sao lại nói tất cả đều không? Phật lấy tâm vô trước, vì độ chúng sanh nên nói pháp, còn người ấy vì tâm chấp trước thủ tướng, nên khởi nghiệp miệng chê bai, phá hoại Bát-nhã, khởi nghiệp thân, lấy tay chỉ chỏ bài bác, chỉ chỏ hủy báng đuổi đi. Trái với hai thứ bất tín này nên gọi là hai thứ tin: 1. Biết thật nghĩa Bát-nhã mà tin, được quả báo như Kinh nói. 2. Tin ngôn ngữ văn tự của Kinh quyển; được công đức ít. Vì tà kiến tội nặng nên tuy thân, khẩu nghiệp trì giới tốt cũng đi theo ác tâm tà kiến; như Phật tự nói thí dụ: Như trồng giống đắng, tuy vẫn do bốn đại tạo thành, vẫn là vị đắng, người tà kiến cũng như vậy, tuy trì giới, tinh tấn, vẫn thành pháp ác. Trái với đây, gọi là chánh kiến, người tạo năm tội nghịch, tội ác thường che, tâm còn nghi ngờ nghiệp báo đời này đời sau, huống gì tin được Bát-nhã thậm thâm. Tuy chép Kinh quyển cúng dường, mong khỏi tội ác, vẫn cách Bát-nhã rất xa. Hoặc nhờ có nhân duyên thanh tịnh, gặp thiện tri thức, đời trước chứa nhóm phước đức, lợi trí đệ nhất, tin Bát-nhã Ba-la-mật, nên có thể được quả báo như Kinh nói. Như vua A-xà-thế có tội giết cha, mà nhờ Phật và Văn-thù Sư-lợi thiện tri thức, nên trừ được trọng tội, được như Kinh nói quả báo Bát-nhã, là được thọ ký đạo Vô thượng.

 

GIẢI THÍCH PHẨM BỐN MƯƠI HAI: TÁN THÁN THANH TỊNH

KINH: Bấy giờ, Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, Tịnh ấy rất sâu xa.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Pháp gì tịnh nên thanh tịnh ấy rất sâu xa.

Phật dạy: Vì sắc thanh tịnh nên thanh tịnh ấy rất sâu xa; thọ, tưởng, hành, thức tịnh nên bốn niệm xứ tịnh cho đến tám Thánh đạo phần tịnh; mười lực Phật tịnh, cho đến mười tám pháp không chung tịnh; Bồ-tát tịnh Phật tịnh nên Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí tịnh, nên tịnh ấy rất sâu xa.

– Bạch đức Thế Tôn! Tịnh ấy sáng suốt.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

Xá-lợi-phất thưa: Pháp gì tịnh nên tịnh ấy sáng suốt?

– Phật dạy: Bát-nhã Ba-la-mật tịnh nên tịnh ấy sáng suốt, cho đến Thí Ba-la-mật tịnh nên tịnh ấy sáng suốt; bốn niệm xứ tịnh cho đến Nhất thiết trí tịnh, nên tịnh ấy sáng suốt.

– Bạch đức Thế Tôn! Tịnh ấy không tương tục!

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Pháp gì không tương tục, nên tịnh không tương tục?

– Phật dạy: Sắc không đi, không tương tục, nên tịnh ấy không tương tục. Cho đến trí nhất thiết chủng không đi, không tương tục, nên tịnh ấy không tương tục.

– Bạch đức Thế Tôn, tịnh ấy không nhơ.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Pháp gì không nhơ, nên tịnh ấy không nhơ?

– Phật dạy: Sắc tánh thường tịnh, nên tịnh ấy không nhơ, cho đến trí nhất thiết chủng tánh thường tịnh, nên tịnh ấy không nhơ.

– Bạch đức Thế Tôn, tịnh ấy vô đắc vô trước (Kinh Đại Bát Nhã ghi: Vô hiện quán – N.D)

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Pháp gì vô đắc vô trước, nên tịnh ấy vô đắc vô trước?

– Phật dạy: Sắc vô đắc vô trước; nên tịnh ấy vô đắc vô trước, cho đến trí nhất thiết chủng vô đắc vô trước, nên tịnh ấy vô đắc vô trước.

– Bạch đức Thế Tôn! Tịnh ấy vô sanh.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Pháp gì vô sanh, nên tịnh ấy vô sanh?

– Phật dạy: Sắc vô sanh nên tịnh ấy vô sanh, cho đến trí nhất thiết chủng vô sanh, nên tịnh ấy vô sanh.

– Bạch đức Thế Tôn! Tịnh ấy không sanh trong cõi Dục!

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Tại sao tịnh ấy không sanh trong cõi Dục?

– Phật dạy: Vì tánh cõi Dục không thể có được, nên tịnh ấy không sanh trong cõi Dục.

– Bạch đức Thế Tôn! Tịnh ấy không sanh trong cõi Sắc!

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Tại sao tịnh ấy không sanh trong cõi Sắc?

– Phật dạy: Vì tánh cõi Sắc không thể có được, nên tịnh ấy không sanh trong cõi Sắc.

– Bạch đức Thế Tôn! Tịnh ấy không sanh trong cõi Vô sắc.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Tại sao tịnh ấy không sanh trong cõi Vô sắc?

– Phật dạy: Vì tánh cõi Vô sắc không thể có được; nên tịnh ấy không sanh trong cõi Vô sắc.

– Bạch đức Thế Tôn! Tịnh ấy vô tri.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Tại sao tịnh ấy vô tri?

– Phật dạy: Vì các pháp bổn tánh độn (sáu căn là lợi, sáu trần là độn), nên tịnh ấy vô tri.

– Bạch đức Thế Tôn! Sắc vô tri nên tịnh ấy tịnh!

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Tại sao sắc vô tri nên tịnh ấy tịnh?

– Phật dạy: Vì sắc tự tánh không, nên sắc vô tri, nên tịnh ấy tịnh.

– Bạch đức Thế Tôn! Thọ, tưởng, hành, thức vô tri nên tịnh ấy tịnh.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Tại sao thọ, tưởng, hành, thức vô tri, nên tịnh ấy tịnh?

– Phật dạy: Vì thọ, tưởng, hành, thức tự tánh không, nên vô tri, nên tịnh ấy tịnh.

– Bạch đức Thế Tôn! Vì hết thảy pháp tịnh, nên tịnh ấy tịnh! – Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Tại sao vì hết thảy pháp tịnh, nên tịnh ấy tịnh?

– Phật dạy: Vì hết thảy pháp không thể có được, nên hết thảy pháp tịnh nên tịnh ấy tịnh.

– Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật đối với Tát-bà-nhã không thêm không bớt.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Tại sao Bát-nhã Ba-la-mật đối với Tát-bà-nhã không thêm không bớt?

– Phật dạy: Pháp tướng thường trú, nên Bát-nhã Ba-la-mật với Tát- bà-nhã không thêm không bớt.

– Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật ấy tịnh, đối với các pháp không chấp thọ.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Xá-lợi-phất thưa: Tại sao Bát-nhã Ba-la-mật tịnh, đối với các pháp không chấp thọ?

Phật dạy: Vì pháp tánh bất động nên Bát-nhã Ba-la-mật tịnh, đối

với các pháp không chấp thọ.

LUẬN: Tịnh ấy rất sâu xa là, tịnh có hai thứ: 1. Trí tuệ tịnh. 2. Pháp sở duyên tịnh. Hai tịnh này đối đãi nhau; lìa trí tịnh không có duyên tịnh, lìa duyên tịnh không có trí tịnh. Vì sao? Vì tất cả tâm tâm số pháp đều do duyên sanh, nếu không có duyên thì trí không sanh, thí như không có củi thì lửa không cháy được, và do có trí mới biết duyên là tịnh, không có trí thì không biết duyên tịnh. Trong đây trí tịnh và duyên tịnh đối đãi nhau; đó là pháp thường của thế gian. Trong đây cốt nói thật tướng các pháp vốn tự thanh tịnh, lìa trí lìa duyên. Vì theo sở duyên của tâm tâm số pháp thì ô nhiễm chẳng thanh tịnh, thí như món ăn ngon trăm vị để chung với đồ độc, thì không thể ăn.

Thật tướng các pháp thường tịnh, chẳng phải Phật làm, chẳng phải Bồ-tát, Bích-chi Phật, Thanh văn và phàm phu thế gian làm ra, có Phật không có Phật, tướng nó vẫn thường trú không hoại; nó ở trong pháp điên đảo hư dối và quả báo, thì ô nhiễm không tịnh.

Thanh tịnh ấy có nhiều danh tự, hoặc gọi là như, hoặc gọi là pháp tánh, thật tế, Bát-nhã Ba-la-mật, hoặc gọi là đạo, hoặc gọi vô sanh vô diệt, không, vô tướng, vô tác, vô trí, vô đắc, hoặc gọi là rốt ráo không v.v… vô lượng vô biên danh tự như vậy.

Xá-lợi-phất quán tướng Bát-nhã Ba-la-mật ấy tuy không thể thấy, không thể nghe, không thể nói, không thể phá hoại, nhưng hủy báng thì mắc vô lượng tội, tín thọ tu hành thì được quả báo Vô thượng.

Xá-lợi-phất phát tâm hoan hỷ hy hữu bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Tịnh ấy rất sâu xa.

Phật dạy: Điều ông thấy cho là hy hữu, trong thật tướng còn quá hơn điều ông thấy. Trong tất cả pháp rốt ráo thanh tịnh không dính mắc, cho đến thể thanh tịnh cũng không dính mắc, ấy gọi là rốt ráo thanh tịnh.

Lại nữa, ông chủ thanh tịnh, là chư Phật trong ba đời mười phương, chư Phật cũng không dính mắc thanh tịnh ấy; thế nên nói rốt ráo thanh tịnh.

Bát-nhã Ba-la-mật thanh tịnh, hay làm cho hết thảy Hiền Thánh dứt vô biên khổ. Được lợi ích lớn mà cũng không dính mắc Bát-nhã Ba- la-mật.

Có vô lượng nhân duyên rốt ráo thanh tịnh như vậy nên tịnh ấy rất sâu xa.

Xá-lợi-phất hỏi: Pháp gì rốt ráo thanh tịnh nên tịnh ấy rất sâu xa?

Phật đáp: Các pháp sắc v.v… rốt ráo thanh tịnh nên tịnh ấy rất sâu xa. Vì sao? Vì các pháp sắc v.v… gốc ngọn nhân quả thanh tịnh, nên tịnh ấy rất sâu xa, như phẩm trên nói: Bồ-tát quán hạnh đối với sắc v.v… đã dứt nên được thanh tịnh như vậy. Do thế nên gọi sắc v.v… thanh tịnh. Tịnh ấy hay phá hý luận vô minh đối với hết thảy pháp, hay giúp cho trí tuệ rốt ráo không được sáng suốt, thế nên nói là thanh tịnh sáng suốt. Tu hành diệu pháp của Bồ-tát như Thí Ba-la-mật v.v… nên được thanh tịnh sáng suốt ấy. Tịnh ấy hay đưa đến Hữu dư Niết-bàn nên nói là thanh tịnh sáng suốt; đưa đến Vô dư Niết-bàn nên nói tịnh ấy không tương tục.

Trước dùng ba Tam-muội không không v.v… bỏ các thiện pháp, thọ mạng tối hậu tự nhiên chấm dứt, năm uẩn không đi cũng không tương tục, nên tịnh ấy không tương tục. Vì một trăm lẻ tám phiền não không thể ngăn che làm ô nhiễm tịnh, nên nói là tịnh vô cấu.

Thật hành đạo các pháp thật tướng bất nhị ấy, từ tâm khổ pháp nhẫn cho đến tâm thứ mười lăm, gọi là Đắc; tâm thứ mười sáu, (Tâm quán lý Tứ đế qua mười sáu đoạn là khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí; tập pháp nhẫn, tập pháp trí; diệt pháp nhẫn, diệt loại Nhẫn, diệt loại trí; đạo loại Nhẫn, đạo loại trí – ND) được quả Sa-môn, gọi là Trước (trước là đắm trước vào chỗ chứng đắc không đọa lạc).

Lại nữa, tu sáu Ba-la-mật, cho đến khi sanh tâm nhu thuận nhẫn, gọi là đắc, phát sanh vô sanh, vô sanh pháp nhẫn, vào Bồ-tát vị, gọi là trước. Đối với pháp thanh tịnh ấy, dùng tâm vô sở đắc, không có hai việc ấy, nên gọi là Không đắc không trước.

Tu pháp như vậy, biết hết thảy pháp rốt ráo không; vì rốt ráo không, nên không thủ tướng, vì không thủ tướng, nên không khởi làm ba nghiệp; vì không làm ba nghiệp nên không sanh vào thế gian. Thế gian tức ba cõi, trong đây vì hai nhân duyên nên không sanh:

  1. Ba thứ sanh nghiệp không khởi lên.
  2. Ba cõi tự tánh không thể có được.

Trong đây Phật tổng nói nhân duyên, tức là ba cõi tự tánh không, nên nói sắc v.v… trong ba cõi tự tánh không thể có được, tịnh ấy vô tri, vì các pháp ám độn, như phẩm trên đã nói. Hết thảy pháp tánh thường chẳng sanh, vì chẳng sanh nên không thể có được, vì không thể có được nên rốt ráo thanh tịnh.

Xá-lợi-phất được Thanh văn Ba-la-mật, còn Phật là bậc Nhất thiết trí, nhân hai vị hỏi đáp, nên các Bồ-tát tham trước Bát-nhã Ba-la-mật; vì thế Xá-lợi-phất muốn dứt lòng tham trước Bát-nhã Ba-la-mật của họ, nên nói: Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật tuy có công đức như vậy, vì rốt ráo thanh tịnh, nên nói đối với Tát-bà-nhã cũng không ích không tổn, như trong mộng huyễn, tuy có được mất, cũng không ích không tổn, thí như hư không rốt ráo thanh tịnh không có gì, song cũng nhân hư không mà có việc thành tựu, và cũng không được nói hư không có tạo tác, cũng không được nói hư không không có lợi ích.

Thí Ba-la-mật nhân Bát-nhã Ba-la-mật mà có Sở tác, thế nên nói Bát-nhã Ba-la-mật không ích không tổn.

Bát-nhã Ba-la-mật quán hết thảy pháp có loại bất tịnh, vô thường, khổ, không, vô ngã, bất sanh, bất diệt, chẳng phải bất sanh, chẳng phải bất diệt v.v… đủ các nhân duyên tán thán, dứt hý luận về các quán, dứt đường ngôn ngữ, nên nói Bát-nhã Ba-la-mật thanh tịnh, không chấp thủ đối các pháp.

Dứt hý luận về các quán, dứt đường ngôn ngữ, tức là vào tướng pháp tánh, thế nên trong đây nói pháp tánh bất động.

KINH: Bấy giờ, Tuệ-mạng Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Vì ngã tịnh nên sắc tịnh.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Tu-bồ-đề thưa: Vì nhân duyên gì mà ngã tịnh nên sắc tịnh, rốt ráo tịnh?

– Phật dạy: Ngã không có gì của chính nó nên sắc không có gì của chính nó, rốt ráo tịnh.

– Bạch đức Thế Tôn! Ngã tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức tịnh. – Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Tu-bồ-đề thưa: Vì nhân duyên gì nên ngã tịnh; thọ, tưởng, hành, thức tịnh nên rốt ráo tịnh?

– Phật dạy: Ngã không có gì của chính nó, nên thọ, tưởng, hành, thức không có gì của chính nó, nên rốt ráo tịnh.

– Bạch đức Thế Tôn! Ngã tịnh nên Thí Ba-la-mật tịnh, ngã tịnh nên Giới Ba-la-mật tịnh, ngã tịnh nên Nhẫn Ba-la-mật tịnh, ngã tịnh nên Tấn Ba-la-mật tịnh, ngã tịnh nên Thiền Ba-la-mật tịnh.

– Bạch đức Thế Tôn! Ngã tịnh nên Bát-nhã Ba-la-mật tịnh. Ngã tịnh nên Bốn niệm xứ tịnh. Ngã tịnh nên cho đến Tám thánh đạo phần tịnh. Ngã tịnh nên mười lực Phật tịnh. Ngã tịnh nên cho đến mười tám pháp không chung tịnh.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Tu-bồ-đề thưa: Vì nhân duyên gì, nên Thí Ba-la-mật tịnh, ngã tịnh cho đến mười tám pháp không chung tịnh?

– Phật dạy: Vì ngã không có gì của chính nó, nên Thí Ba-la-mật không có gì của chính nó, cho đến mười tám pháp không chung không có gì của chính nó, nên tịnh.

– Bạch đức Thế Tôn! Ngã tịnh nên Tu-đà-hoàn quả tịnh; ngã tịnh nên Tư-đà-hàm quả tịnh; ngã tịnh nên A-na-hàm quả tịnh; ngã tịnh nên A-la-hán quả tịnh; ngã tịnh nên Bích-chi Phật đạo tịnh; ngã tịnh nên Phật đạo tịnh.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

Tu-bồ-đề thưa: Vì nhân gì ngã tịnh, nên Tu-đà-hoàn quả tịnh, Tư- đà-hàm quả tịnh, A-na-hàm quả tịnh, A-la-hán quả tịnh, Bích-chi Phật đạo tịnh, Phật đạo tịnh?

– Phật dạy: Vì tự tướng không.

– Bạch đức Thế Tôn! Ngã tịnh nên Nhất thiết trí tịnh.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Tu-bồ-đề thưa: Vì nhân duyên gì ngã tịnh nên Nhất thiết trí tịnh?

– Phật dạy: Vì vô tướng vô niệm.

– Bạch đức Thế Tôn! Vì hai tịnh nên vô đắc vô trước.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Tu-bồ-đề thưa: Vì nhân duyên gì, do hai tịnh nên vô đắc vô trước, là rốt ráo tịnh?

– Phật dạy: Vì không nhơ không sạch.

– Bạch đức Thế Tôn! Vì ngã vô biên nên sắc tịnh, thọ, tưởng, hành, thức tịnh.

– Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Tu-bồ-đề thưa: Vì nhân duyên gì ngã vô biên nên sắc tịnh? Thọ, tưởng, hành, thức tịnh?

– Phật dạy: Vì rốt ráo không, vô thỉ không.

– Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Nếu Bồ-tát ma-ha- tát biết được như vậy, ấy gọi là Bồ-tát ma-ha-tát Bát-nhã Ba-la-mật. – Phật dạy: Vì rốt ráo tịnh.

– Tu-bồ-đề thưa: Vì nhân duyên gì Bồ-tát ma-ha-tát biết được như vậy, gọi là Bồ-tát ma-ha-tát Bát-nhã Ba-la-mật?

– Phật dạy: Vì biết đạo chủng.

– Bạch đức Thế Tôn! Nếu Bồ-tát ma-ha-tát tu Bát-nhã Ba-la-mật, do sức phương tiện (trí tuệ) thì nghĩ rằng: Sắc chẳng biết sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng biết thọ, tưởng, hành, thức; pháp quá khứ chẳng biết pháp quá khứ, pháp vị lai chẳng biết pháp vị lai, pháp hiện tại chẳng biết pháp hiện tại.

– Phật dạy: Bồ-tát ma-ha-tát tu Bát-nhã Ba-la-mật do sức phương tiện không nghĩ rằng: “ta thí cho người kia, ta trì giới, trì giới như vậy; ta tu Nhẫn, tu Nhẫn như vậy; ta tinh tấn, tinh tấn như vậy; ta nhập thiền, nhập thiền như vậy; ta tu trí tuệ, tu trí tuệ như vậy; ta được phước đức, được phước đức như vậy; ta sẽ vào pháp vị Bồ-tát, ta sẽ làm nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sanh, sẽ được trí nhất thiết chủng.

Tu-bồ-đề, Bồ-tát ma-ha-tát! Ấy tu Bát-nhã Ba-la-mật, do sức phương tiện, không có các ức tưởng phân biệt: nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, vô thỉ không, tán không, tánh không, chư pháp không, tự tướng không.

Tu-bồ-đề, ấy gọi là Bồ-tát ma-ha-tát tu Bát-nhã Ba-la-mật; do sức phương tiện nên không có chướng ngại.

LUẬN: Ban đầu Phật sai Tu-bồ-đề nói Bát-nhã, nếu có lời nói gì, không nên tìm nhân duyên của nó, nếu người khác nói thì nên tìm nhân duyên. Xá-lợi-phất đã hỏi tướng thanh tịnh, Phật tác chứng, nay Tu-bồ- đề nói tướng thanh tịnh, Phật cũng tác chứng.

Ngã thanh tịnh nên năm uẩn thanh tịnh là, như ngã rốt ráo không có gì của chính nó, không thể có được, năm uẩn cũng như vậy, rốt ráo không, tức là ngã thanh tịnh. Năm uẩn thanh tịnh khó hiểu, ngã “không” dễ hiểu, nhưng năm uẩn “không” khó hiểu, thế nên lấy việc dễ hiểu dụ việc khó hiểu.

Sáu Ba-la-mật cho đến mười tám pháp không chung; quả Tu-đà- hoàn cho đến Phật đạo cũng như vậy. Vì ngã tịnh nên pháp cũng tịnh.

Hỏi: Trên nói ngã không có gì của chính nó nên sắc cho đến mười tám pháp không chung cũng không có gì của chính nó, nay cớ sao nói quả Tu-đà-hoàn cho đến Phật đạo, tự tướng không?

Đáp: Ngã do nhân duyên hòa hợp giả gọi là sanh, đối với vô ngã có điên đảo chấp ngã, thế nên nói ngã hư dối, không có gì của chính nó. Vì năm uẩn thuộc ở nhân duyên, nên không có gì của chính nó. Thí Ba-la- mật v.v… tuy thiện mà là pháp hữu vi tạo tác, còn Bồ-tát thấy đúng thực nên nói là không có gì của chính nó, quả Tu-đà-hoàn v.v… là pháp vô vi, pháp vô vi tự tướng không, nghĩa là vô sanh vô diệt, vô trú vô dị, thế nên không nói là không có gì của chính nó, chỉ nói là tự tướng không.

Lại nữa, vì nơi pháp hữu vi vì tà hạnh nhiều nên nói là không có gì của chính nó, trong pháp vô vi vì không sanh diệt, không tà hạnh, nên nói là tự tướng không.

Ngã tịnh, trí nhất thiết chủng tịnh là, vì Bồ-tát hiểu sâu nên vô tướng vô niệm. Vô tướng là vô tướng tam-muội, vô niệm là đối với vô tướng tam-muội cũng không niệm.

Nay Tu-bồ-đề biết Bát-nhã Ba-la-mật thật thanh tịnh, nên bạch Phật vì hai tịnh nên vô đắc vô trước.

Thanh tịnh có hai thứ: 1. Dùng nhị pháp thanh tịnh. 2. Dùng bất nhị pháp thanh tịnh. Nhị pháp thanh tịnh là danh tự thanh tịnh; dùng bất nhị pháp thanh tịnh là chân thanh tịnh.

Phật dạy: Tướng các pháp rốt ráo không, tại sao dùng nhị pháp thanh tịnh, có đắc có trước? Trong đây nói nhân duyên; tức là hết thảy pháp không nhơ không sạch. Trong hai thanh tịnh, phân biệt là nhơ là sạch.

Vì ngã vô biên nên năm uẩn thanh tịnh là, như ngã không, vì không nên vô biên, năm uẩn cũng như vậy.

Hỏi: Thường nói vì rốt ráo thanh tịnh, nay cớ sao lại nói rốt ráo không, vô thỉ không?

Đáp: Rốt ráo không tức là rốt ráo thanh tịnh. Vì người ta sợ không, nên không nói chữ không, mà nói chữ thanh tịnh.

Trong đây nói ngã vô biên, ngã tức là chúng sanh, chúng sanh không. Vì sao? Vì vô thỉ không.

Nói biết được như vậy ấy gọi Bát-nhã là, có thể thấy chúng sanh không, pháp không, hết thảy pháp rốt ráo không, ấy gọi là Bát-nhã Ba- la-mật. Bát-nhã Ba-la-mật tức là rốt ráo thanh tịnh. Chư Phật thường đáp rốt ráo không, thế nên hỏi: Nếu rốt ráo không, sao còn nói Bồ-tát biết được như vậy, gọi là Bồ-tát Bát-nhã? (đây nạn rốt ráo không, Vì rốt ráo không thì không có biết).

Phật dạy: Biết đạo chủng. Bồ-tát tuy biết hết thảy pháp rốt ráo không, song muốn làm chúng sanh biết được rốt ráo không ấy, để xa lìa tâm chấp trước. Chỉ vì phá tâm chấp trước nên nói rốt ráo không, chứ chẳng phải thật có nhất định (nói rốt ráo không, tức là đáp về Đạo chủng trí).

Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Người tu Bát-nhã nghĩ rằng: Sắc chẳng biết sắc v.v… Ý Phật, Bát-nhã không có định tướng, chỉ vì Đạo chủng trí nên phân biệt nói (1. Nhất thiết trí, là trí của Nhị thừa, biết tổng tướng các pháp, tức là biết tướng không, nhiều trường hợp nhứt thiết cũng là trí của Phật. 2. Đạo chủng trí, là trí của Bồ- tát, biết đạo pháp mỗi mỗi sai biệt; 3. Nhất thiết chủng trí, là trí của Phật, sáng suốt viên mãn, thông đạt tổng tướng biệt tướng, biết pháp hóa đạo dứt hoặc sai khác. Đúng thật ba trí không rời nhau -N.D). Khiến Bồ-tát hành Bát-nhã có phương tiện nên pháp tuy rốt ráo không, cũng biết rằng sắc chẳng biết sắc v.v… như vậy. Quán hết thảy pháp rốt ráo không, chỉ có trí tuệ năng quán tồn tại, không nên rốt ráo không, Vì dẫn đạo của tâm chấp trước chúng sanh nên khiến vào rốt ráo không.

Phật đáp: Nếu Bồ-tát tu Bát-nhã có phương tiện, thì có thể quán pháp bên ngoài rốt ráo không, sắc chẳng biết sắc v.v…, bên trong tự quán nội tâm cũng với lực phương tiện như vậy. Nếu khi tu bố thí, không khởi tâm nghĩ rằng: Ta thí cho, người kia nhận lấy.

Trước đây Tu-bồ-đề nói sắc chẳng biết sắc, là hết thảy pháp không, cho nên không biết nhau. Không biết nhau nên không làm. Phá hai sự tức là phá người nhận và vật bố thí (hai sự này đều ở bên ngoài). Nay thì phá người cho, cho đến phá ngã. Tu trí nhất thiết chủng cũng như vậy. Trong đây nói nhân duyên; Bồ-tát tu Bát-nhã, nhờ sức phương tiện nên không phân biệt như vậy. Vì nội không nên cho đến tự tướng không, mười ba không ấy phá các pháp trọn hết, còn năm thứ “không” sau là tổng tướng, ấy gọi là Bồ-tát không có chi ngăn ngại. Không có chi ngăn ngại là vì lấy mười tám không ấy mà không hết thảy pháp, không có chi ngăn ngại.