LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ
Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản
QUYỂN 41
GIẢI THÍCH PHẨM BẢY: BA GIẢ
KINH: Bấy giờ, Phật bảo Tuệ mạng Tu-bồ-đề: Ông hãy dạy Bát- nhã Ba-la-mật cho các Bồ-tát ma-ha-tát, như các Bồ-tát ma-ha-tát đáng được thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật đa.
Liền khi ấy, các Bồ-tát ma-ha-tát và đại đệ tử Thanh-văn, chư thiên v.v… khởi niệm rằng: Tuệ mạng Tu-bồ-đề dùng sức trí tuệ của mình sẽ nói Bát-nhã Ba-la-mật cho các Bồ-tát ma-ha-tát ư? Hay là nhờ sức Phật?
Tuệ mạng Tu-bồ-đề biết tâm các Bồ-tát ma-ha-tát, các đệ tử, chư thiên, liền nói với Tuệ mạng Xá-lợi-phất rằng: Đệ tử Phật dám thuyết pháp, giáo thọ, đều nhờ Phật lực. Phật thuyết pháp không trái với pháp tướng. Các thiện nam tử học pháp ấy, được chứng pháp ấy. Phật thuyết pháp như đèn truyền chiếu. Xá-lợi-phất! Hết thảy Thanh-văn, Bích-chi Phật, thật không có năng lực thuyết Bát-nhã Ba-la-mật cho các Bồ-tát ma-ha-tát.
Bấy giờ Tuệ mạng Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Thế Tôn nói Bồ-tát, danh tự Bồ-tát. Pháp gì gọi là Bồ-tát? Bạch Thế Tôn! Chúng con không thấy pháp gọi là Bồ-tát, làm sao dạy cho Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật?
Phật bảo Tu-bồ-đề: Bát-nhã Ba-la-mật cũng chỉ có danh tự gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Bồ-tát, danh tự Bồ-tát cũng chỉ là danh tự. Danh tự ấy không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa.
Tu-bồ-đề! Ví như nói tên ngã do hòa hợp mà có. Tên ngã ấy không sinh không diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, như các danh tự chúng sinh, thọ mạng, sinh giả, dưỡng dục, chúng số, người, kẻ làm, kẻ khiến làm, kẻ khởi dạy, kẻ khiến khởi dạy, kẻ thọ, kẻ khiến thọ, kẻ biết, kẻ thấy v.v… là pháp do hòa hợp nên có. Các danh tự ấy không sinh không diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói. Bát-nhã Ba-la-mật đa, Bồ-tát, danh tự Bồ-tát cũng như vậy, đều do hòa hợp nên có, là cũng không sinh không diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói.
Tu-bồ-đề! Ví như thân do hòa hợp nên có, là cũng không sinh không diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói.
Tu-bồ-đề! Ví như sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng do hòa hợp nên có, là cũng không sanh không diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói.
Tu-bồ-đề! Bát-nhã Ba-la-mật, Bồ-tát, danh tự Bồ-tát cũng như vậy, đều do hòa hợp nên có, là không sinh không diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói.
Tu-bồ-đề! Ví như mắt, do hòa hợp nên có, là cũng không sinh không diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói. Mắt ấy không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, do hòa hợp nên có, là cũng không sinh không diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói; sắc cho đến pháp cũng như vậy. Nhãn giới do hòa hợp nên có, là cũng không sinh không diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, cho đến ý thức giới cũng như vậy. Tu-bồ-đề! Bát-nhã Ba-la-mật, Bồ-tát, danh tự Bồ-tát cũng như vậy, đều do hòa hợp nên có, là cũng không sinh diệt, chỉ dùng danh tự để nói. Danh tự ấy không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa.
Tu-bồ-đề! Ví như nội thân, gọi là đầu, chỉ có danh tự; gọi là cổ, vai, tay lưng, gân, bắp vế, xương đùi, cẳng chân, là do hòa hợp nên có. Pháp ấy và danh tự không sinh không diệt, chỉ dùng danh tự để nói; danh tự ấy cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Tu-bồ-đề! Bát- nhã Ba-la-mật, Bồ-tát, danh tự Bồ-tát cũng như vậy, đều do hòa hợp nên có, chỉ dùng danh tự để nói; pháp ấy cũng không sinh không diệt, không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa.
Tu-bồ-đề! Ví như ngoại vật cỏ, cây, cành, lá, cọng, mắt, tất cả vật ấy chỉ dùng danh tự để nói; pháp ấy và danh tự, cũng không sinh không diệt, chẳng phải ở trong chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở chặng giữa. Tu-bồ-đề! Bát-nhã Ba-la-mật, Bồ-tát, danh tự Bồ-tát cũng như vậy, đều do hòa hợp nên có; pháp ấy và danh tự, cũng không sinh không diệt, chẳng phải ở trong chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở giữa.
Tu-bồ-đề! Ví như quá khứ chư Phật, do hòa hợp nên có, là cũng không sinh không diệt, chỉ dùng danh tự để nói; pháp ấy cũng chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng phải ở giữa. Bát-nhã Ba-la-mật, Bồ- tát, danh tự Bồ-tát cũng như vậy.
Tu-bồ-đề! Ví như mộng, tiếng vang, bóng, huyễn, sóng nắng, việc biến hóa của Phật, đều là hòa hợp nên có, chỉ dùng danh tự để nói; pháp ấy và danh tự, không sinh không diệt, chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở giữa. Bát-nhã Ba-la-mật, Bồ-tát, danh tự Bồ-tát cũng như vậy.
Như vậy, Tu-bồ-đề! Bồ-tát ma-ha-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, giả đặt ra danh, giả đặt ra thọ, giả đặt ra pháp, như vậy nên học.
LUẬN: Hỏi: Phật đã nói các Bồ-tát ma-ha-tát có phước đức, trí tuệ, lợi căn hơn các Thanh-văn, cớ sao lại sai Tu-bồ-đề thuyết?
Đáp: Trong chương Tướng lưỡi ở trước đã nói, do có hai nhân duyên nên Phật sai khiến Tu-bồ-đề thuyết.
Lại nữa, Phật có oai đức tôn trọng, vì tâm kính sợ không dám hỏi Phật, sợ không tự mình hỏi hết.
Lại nữa, Phật biết tâm chúng có nghi, vì chúng sinh kính sợ Phật, không dám phát ra lời hỏi. Vì sao? Vì chúng sinh thấy thân Phật như núi Tu-di, lưỡi trùm ba ngàn đại thiên thế giới, thân xuất ra vô lượng các thứ ánh sáng, khi ấy chúng hội, tâm đều kinh sợ, không dám phát ra lời hỏi, mỗi mỗi tự nghĩ: Ta sẽ làm sao theo Phật nghe pháp? Vì vậy, Phật sai Tu-bồ-đề thuyết pháp cho chúng và nói: Ông thuyết pháp đều là do Phật lực, như trong Kinh nói.
Lại nữa, Bát-nhã Ba-la-mật có hai thứ: Một là thuyết chung cho cả Thanh-văn, Bồ-tát, hai là chỉ thuyết cho pháp thân Bồ-tát. Vì tạp thuyết nên sai Tu-bồ-đề trước hết, rồI đến Di-lặc, Xá-lợi-phất, Thích-đề-hoàn nhơn.
Khi ấy, chúng hội nghe Phật sai Tu-bồ-đề thuyết, tâm đều kinh nghi. Tu-bồ-đề biết tâm mọi người, nên nói với Xá-lợi-phất v.v…hết thảy Thanh-văn thuyết được, biết được, đều nhờ Phật lực. Chúng ta sẽ thừa oai lực Phật thuyết pháp; ví như người truyền ngữ. Vì cớ sao? Vì Phật thuyết pháp không trái với pháp tướng. Các đệ tử học pháp ấy được chứng ngộ, có dám nói gì đều nhờ Phật lực. Điều chúng ta nói, tức là Phật nói. Vì cớ sao? Vì hiện tại ở trước Phật mà thuyết, chứ chúng ta tuy có mắt trí tuệ, nếu không gặp Phật pháp, thì không thấy gì; ví như đêm đi đường hiểm, không có người cầm đèn, thì không qua được. Phật cũng như vậy, nếu không lấy đèn trí tuệ chiếu soi chúng ta, thì chúng ta không thấy gì.
Lại nói với Xá-lợi-phất: Hết thảy Thanh-văn, Bích-chi Phật còn không có sức có thể nói Bát-nhã Ba-la-mật cho các Bồ-tát, huống tôi, một người. Vì cớ sao? Vì trí tuệ Bồ-tát rất sâu, hỏi đáp sâu xa; các pháp thiển cận khác, đối trước Bồ-tát nói ra còn khó, huống gì pháp sâu xa; như người có thể ăn một hộc cơm mà đi theo xin người chỉ có một đấu cơm để trừ đói, thì không thể trừ được. Vì vậy nên nói Thanh-văn, Bích- chi Phật không có sức có thể nói Bát-nhã cho các Bồ-tát. Tu-bồ-đề nói rõ Bồ-tát tôn quí, Phật cũng nhận như vậy. Nay Tu-bồ-đề muốn thuyết pháp thật tướng nên nói: Trong hết thẩy pháp tìm Bồ-tát không thể có được, vì Bồ-tát không thể có được nên danh tự Bồ-tát cũng không thể có được. Vì Bồ-tát, danh tự Bồ-tát không thể có được nên Bát-nhã Ba-la- mật cũng không thể có được. Ba việc ấy không thể có được, ta làm sao dạy Bát-nhã Ba-la-mật cho Bồ-tát?
Hỏi: Phật sai Tu-bồ-đề thuyết Bát-nhã cho các Bồ-tát, mà Tu-bồ- đề nói không có Bồ-tát, là trái với Phật, sao Phật tán đồng?
Đáp: Có hai cách: Một là tâm chấp trước mà nói, hai là tâm không chấp trước mà nói. Nay Tu-bồ-đề dùng tâm không chấp trước mà nói Không, Phật không quở trách.
Lại nữa, Tu-bồ-đề thường thực hành Tam-muội Không, biết các pháp là không, nên Phật bảo Tu-bồ-đề thuyết Bát-nhã Ba-la-mật cho các Bồ-tát, mà Bồ-tát lại rốt ráo không; thế nên Tu-bồ-đề kinh ngạc nói: Làm sao có Bồ-tát? Phật liền thuật thành: Bồ-tát như vậy từ khi phát tâm lại đây cho đến khi thành Phật đạo, đều rốt ráo không, nên không thể có được. Nếu dạy như vậy, tức là dạy Bát-nhã Ba-la-mật cho Bồ-tát.
Lại nữa, phàm có hai pháp: 1. Danh tự, 2. Nghĩa của danh tự. Như lửa có thể chiếu sáng, có thể đốt là nghĩa của nó. Chiếu sáng là tạo sắc, đốt lửa là hỏa đại (đất, nước, gió, lửa là bốn đại năng tạo; sắc, hương, vị, xúc là bốn đại sở tạo – ND). Hai pháp ấy hợp lại gọi là lửa. Nếu lìa hai pháp ấy có lửa, lại phải nên có công dụng thứ ba. Song trừ đốt trừ chiếu sáng lại không có công dụng thứ ba, nên biết hai pháp hòa hợp giả gọi là lửa; tên lửa ấy không ở trong hai pháp, vì sao? Vì pháp có hai, mà lửa là một, một không làm hai, hai không làm một. Nghĩa là hai danh pháp không hợp nhau. Vì cớ sao? Vì nếu hai pháp hợp làm một, thì khi nói lửa lẽ phải bị cháy miệng; nếu hai pháp lìa nhau, thì khi tìm lửa lẽ đáng được nước. Có các nhân duyên như vậy, biết lửa không ở trong hai pháp. Nhưng nếu lửa lìa ngoài hai pháp thì khi nghe tên lửa, không nên ở nơi hai pháp sinh tưởng lửa. Nhưng nếu lửa ở chặng giữa hai pháp, thì không có chỗ nương tựa. Hết thảy pháp hữu vi, đều không có chỗ nương tựa, nếu ở trung gian thì không thể biết! Vì vậy, lửa không ở ba chỗ, chỉ có tên giả. Bồ-tát cũng như vậy, do hai pháp là danh, và pháp hòa hợp nên gọi là Bồ-tát. Việc sắc khác, việc danh khác, nếu quyết định có Bồ- tát thì nên lại có việc thứ ba, nhưng không có việc ấy, nên biết giả gọi là Bồ-tát. Danh tự Bồ-tát cũng như vậy không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Trong đây Phật nói thí dụ, như năm uẩn hòa hợp gọi là ngã, mà thật ngã không thể có được. Chúng sinh cho đến kẻ biết kẻ thấy đều là pháp giả danh do năm uẩn nhân duyên hòa hợp sinh. Các pháp ấy thật không sanh không diệt, thế gian chỉ dùng danh tự để nói. Bồ-tát, danh tự Bồ-tát, Bát-nhã Ba-la-mật cũng như vậy, đều là pháp giả danh do nhân duyên hòa hợp. Trong đây Phật lại nói thí dụ.
Có người nói, do năm uẩn hòa hợp có chúng sinh, nên chúng sinh không, nhưng có pháp năm uẩn, Phật nói chúng sinh không, năm uẩn cũng do hòa hợp nên giả gọi là có. Mười hai xứ, mười tám xứ cũng như vậy.
Lại nữa, Bồ-tát có hai hạng: 1. Tọa thiền, 2. Tụng kinh. Hạng tọa thiền thường quán thân do các phần xương v.v… hòa hợp, giả gọi là thân, tức lấy cảnh sở quán ấy làm thí dụ, mà biết rằng phần xương đầu hòa hợp nên gọi là đầu, phần xương chân hòa hợp nên gọi là chân; xương đẩu xương chân v.v… hòa hợp nên gọi là thân, mỗi mỗi truy tìm, đều không có căn bản. Vì cớ sao? Vì đây là điều thường tập, thường quán nên lấy đó làm thí dụ.
Hạng không tọa thiền thì lấy cây,cỏ, cành, lá, hoa, trái làm thí dụ. Như chư Phật quá khứ, cũng chỉ có danh tự, dùng danh tự ấy có thể thuyết giảng. Mười thí dụ cũng chỉ có danh tự. Nghĩa Bồ-tát cũng như vậy. Nghĩa mười thí dụ như trước đã nói.
Bồ-tát nên học ba thứ Ba-la-nhiếp-đề như vầy: 1. Pháp năm uẩn v.v… ấy là pháp Ba-la-nhiếp-đề. 2. Năm uẩn nhân duyên hòa hợp nên gọi là chúng sinh; các xương hòa hợp nên gọi là xương đầu; như gốc, cành, nhánh, lá hòa hợp nên gọi là cây; ấy là thọ Ba-la-nhiếp-đề. 3. Dùng danh tự ấy, chấp thủ tướng hai pháp, nói là hai thứ; ấy là danh tự Ba-la-nhiếp-đề.
Lại nữa, các vi trần hòa hợp nên có pháp thô sinh ra, như vi trần hòa hợp nên có sắc thô, ấy là pháp Ba-la-nhiếp-đề, vì từ pháp có pháp. Pháp thô ấy hòa hợp mà có tên gọi, như do vì hay đốt hay chiếu sáng nên có tên gọi là lửa; do danh và sắc nên có người, danh và sắc là pháp, người là tên giả, ấy là thọ Ba-la-nhiếp-đề. Vì chấp thủ sắc, chấp thủ danh nên gọi là thọ. Bên cạnh nhiều danh tự lại có nhiều danh tự; như bên cạnh danh tự cột, kèo, ngói v.v… lại có danh tự nhà; như bên cạnh danh tự cành, lá có danh tự cây; ấy là danh tự Ba-la-nhiếp-đề.
Hành giả trước hết phá danh tự Ba-la-nhiếp-đề, đến phá thọ Ba- la-nhiếp-đề, sau phá thọ Ba-la-nhiếp-đề đến phá pháp Ba-la-nhiếp-đề. Phá pháp Ba-la-nhiếp-đề là đến trong thật tướng các pháp. Thật tướng các pháp chính là các pháp và danh tự Không Bát-nhã Ba-la-mật.
KINH: Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát ma-ha-tát thực hành Bát-nhã Ba- la-mật không thấy danh tự sắc là thường, không thấy danh tự thọ, tưởng, hành, thức là thường; không thấy danh tự sắc vô thường, không thấy danh tự thọ tưởng hành thức vô thường; không thấy danh tự sắc vui; không thấy danh tự sắc khổ, không thấy danh tự sắc ngã, không thấy danh tự sắc vô ngã; không thấy danh tự sắc không, không thấy danh tự sắc vô tướng, không thấy danh tự sắc vô tác, không thấy danh tự sắc tịch diệt; không thấy danh tự sắc nhơ, không thấy danh tự sắc sạch; không thấy danh tự sắc sinh, không thấy danh tự sắc diệt; không thấy danh tự sắc trong, không thấy danh tự sắc ngoài, không thấy danh tự sắc ở chặng giữa; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Nhãn và sắc, nhãn thức, nhãn xúc, nhân duyên nhãn và xúc sinh ra các thọ, cho đến ý và pháp, ý thức, ý xúc, nhân duyên ý và xúc sinh ra các thọ cũng như vậy. Vì cớ sao? Vì Bồ-tát ma-ha-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, danh tự Bát-nhã Ba-la- mật, Bồ-tát, danh tự Bồ-tát, nơi tánh hữu vi cũng không thấy, nơi tánh vô vi cũng không thấy. Bồ-tát ma-ha-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, đều không khởi phân biệt pháp ấy. Bồ-tát ấy thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, trú trong pháp bất hoại, khi tu Bốn niệm xứ, không thấy Bát-nhã Ba-la- mật, không thấy danh tự Bát-nhã Ba-la-mật, không thấy Bồ-tát, không thấy danh tự Bồ-tát. Cho đến khi tu mười tám pháp không chung, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật, không thấy danh tự Bát-nhã Ba-la-mật; cũng không thấy Bồ-tát, không thấy danh tự Bồ-tát. Như vậy, Bồ-tát ma-ha- tát khi thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, chỉ biết thật tướng các pháp, thật tướng các pháp là không nhơ không sạch.
Như vậy, Tu-bồ-đề ! Bồ-tát ma-ha-tát khi thực hành Bát-nhã Ba-la- mật, nên biết ấy là danh tự giả đặt ra; biết danh tự giả rồi, không chấp trước sắc, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; không chấp trước mắt cho đến ý; không chấp trước sắc cho đến pháp; không chấp trước nhãn thức cho đến không chấp trước ý thức; không chấp trước nhãn xúc cho đến không chấp trước ý xúc; không chấp trước nhãn và xúc làm nhân duyên sinh thọ hoặc khổ hoặc vui, hoặc không khổ không vui, cho đến không chấp trước ý và xúc làm nhân duyên sinh thọ hoặc khổ hoặc vui, hoặc không khổ không vui; không chấp trước tánh hữu vi, không chấp trước tánh vô vi; không chấp trước Thí Ba-la-mật, Giới Ba-la-mật, Nhẫn Ba-la-mật, Tấn Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật; không chấp trước Ba mươi hai tướng, không chấp trước thân Bồ-tát, không chấp trước nhục nhãn Bồ-tát, không chấp trước Phật nhãn; không chấp trước Trí Ba-la-mật, không chấp trước Thần thông Ba-la-mật, không chấp trước nội không cho đến không chấp trước vô pháp hữu pháp không, không chấp trước thành tựu chúng sinh, không chấp trước nghiêm tịnh Phật độ, không chấp trước pháp phương tiện. Vì cớ sao? Vì các pháp ấy, không có người chấp trước, không có pháp chấp trước, không có chỗ chấp trước, vì đều không có.
Như vậy, Tu-bồ-đề! Bồ-tát ma-ha-tát khi thực hành Bát-nhã Ba-la- mật,không chấp trước hết thảy pháp, bèn tăng ích Thí Ba-la-mật, Giới Ba-la-mật, Nhẫn Ba-la-mật, Tấn Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật, vào Bồ-tát vị, được địa vị bất thối, đầy đủ Bồ-tát thần thông, dạo qua một nước Phật đến một nước Phật, thành tựu chúng sinh, cung kính tôn trọng, tán thán chư Phật, vì nghiêm tịnh Phật độ, vì thấy chư Phật để cúng dường, đồ cúng dường thành tựu thiện căn, đều được tùy ý. Cũng nghe chư Phật thuyết pháp, nghe rồi cho đến khi chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trọn không quên mất, được các môn Đà-la-ni, các môn Tam-muội.
Như vậy, Tu-bồ-đề! Bồ-tát ma-ha-tát khi thực hành Bát-nhã Ba-la- mật, nên biết các pháp là tên giả đặt ra.
– Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Sắc là Bồ-tát chăng; thọ, tưởng, hành, thức là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Sắc, tiếng, mùi, vị, pháp là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Nhãn thức cho đến ý thức là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Địa chủng là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Nước, lửa, gió, không, thức chủng là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Vô minh là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Cho đến già chết là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Lìa sắc là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Tưởng sắc như là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Cho đến tướng lão tử như là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
– Lìa tướng sắc như cho đến lìa tướng lão tử như là Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn !
Phật bảo Tu-bồ-đề: Ông quán xét nghĩa thế nào mà nói sắc chẳng phải Bồ-tát, cho đến lão tử chẳng phải Bồ-tát? Lìa sắc chẳng phải Bồ- tát, cho đến lìa lão tử chẳng phải Bồ-tát? Tướng sắc như chẳng phải Bồ- tát, cho đến tướng lão tử như chẳng phải Bồ-tát? Lìa tướng sắc như chẳng phải Bồ-tát cho đến lìa tướng lão tử như chẳng phải Bồ-tát?
Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn! Chúng sinh rốt ráo không thể có được, huống gì là Bồ-tát! Sắc không thể có được, huống gì là sắc, lìa sắc, sắc như, lìa sắc như là Bồ-tát! Cho đến lão tử không thể có được, huống gì là lão tử, lìa lão tử, lão tử như, lìa lão tử như là Bồ-tát!
Phật bảo Tu-bồ-đề: Lành thay, lành thay! Như vậy, Tu-bồ-đề! Bồ- tát ma-ha-tát nên học như vậy, vì chúng sinh không thể có được nên Bát-nhã Ba-la-mật cũng không thể có được.
– Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Sắc là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!-
– Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Sắc thường là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức thường là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Sắc vô thường là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức vô thường là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Sắc vui là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức vui là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Sắc khổ là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức khổ là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Sắc ngã là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức ngã là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Sắc phi ngã là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức phi ngã là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Sắc không là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức không là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Sắc phi không là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức phi không là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Sắc tướng là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức tướng là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Sắc vô tướng là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức vô tướng là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế tôn!
– Sắc tác là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức tác là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Sắc vô tác là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức vô tác là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Thưa không, bạch Thế Tôn! Cho đến lão tử cũng như vậy.
Phật bảo Tu-bồ-đề: Ông quán xét nghĩa thế nào mà nói sắc chẳng phải nghĩa Bồ-tát; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải nghĩa Bồ-tát; cho đến sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô tác chẳng phải nghĩa Bồ-tát, cho đến lão tử cũng như vậy?
Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn! Sắc rốt ráo không thể có được, huống gì vô sắc là nghĩa Bồ-tát; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Bạch Thế Tôn! Sắc thường rốt ráo không thể có được, huống gì sắc vô thường là nghĩa Bồ-tát; cho đến thức cũng như vậy.
Bạch Thế Tôn! Sắc vui rốt ráo không thể có được, huống gì sắc khổ là nghĩa Bồ-tát; cho đến thức cũng như vậy.
Bạch Thế Tôn! Sắc ngã rốt ráo không thể có được, huống gì sắc phi ngã là nghĩa Bồ-tát; cho đến thức cũng như vậy.
Bạch Thế Tôn! Sắc có rốt ráo không thể có được, huống gì sắc Không là nghĩa Bồ-tát; cho đến thức cũng như vậy.
Bạch Thế Tôn! Sắc tướng rốt ráo không thể có được, huống gì sắc vô tướng là nghĩa Bồ-tát; cho đến thức cũng như vậy.
Bạch Thế Tôn! Sắc tác là rốt ráo không thể có được, huống gì sắc vô tác là nghĩa Bồ-tát; cho đến thức cũng như vậy
Phật bảo Tu-bồ-đề: Lành thay, lành thay! Như vậy, Tu-bồ-đề! Bồ-tát ma-ha-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, nghĩa sắc không thể có được; nghĩa thọ, tưởng, hành, thức cho đến nghĩa vô tác không thể có được, nên học Bát-nhã Ba-la-mật như vậy.
Tu-bồ-đề! Ông nói con không thấy pháp gọi là Bồ-tát. Tu-bồ-đề! Các pháp không thấy các pháp, các pháp không thấy pháp tánh, pháp tánh không thấy các pháp; pháp tánh không thấy địa chủng, địa chủng không thấy pháp tánh, cho đến thức chủng không thấy pháp tánh, pháp tánh không thấy thức chủng, pháp tánh không thấy tánh mắt, sắc, nhãn thức; tánh mắt, sắc, nhãn thức không thấy pháp tánh, cho đến pháp tánh không thấy tánh ý, pháp, ý thức; tánh ý, pháp, ý thức không thấy pháp tánh.
Tu-bồ-đề! Tánh hữu vi không thấy tánh vô vi, tánh vô vi không thấy tánh hữu vi. Vì cớ sao? Vì lìa hữu vi không thể nói vô vi, lìa vô vi không thể nói hữu vi.
Như vậy, Tu-bồ-đề! Bồ-tát ma-ha-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, đối với các pháp không thấy gì, khi ấy không kinh, không sợ, không hãi, tâm cũng không chìm đắm, không hối hận. Vì cớ sao? Vì Bồ-tát ma-ha- tát ấy không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không thấy mắt cho đến ý, không thấy sắc cho đến pháp, không thấy dâm, nộ, si; không thấy vô minh cho đến lão tử, không thấy ngã cho đến kẻ biết kẻ thấy; không thấy cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc; không thấy tâm Thanh-văn, tâm Bích-chi Phật; không thấy Bồ-tát, không thấy pháp Bồ-tát; không thấy Phật đạo. Bồ-tát ấy vì không thấy tất cả pháp, nên không kinh, không sợ, không hãi, không chìm đắm, không hối hận.
Tu-bồ-đề thưa Phật rằng; Bạch Thế Tôn! Nhân duyên gì tâm Bồ-tát không chìm đắm, không hối hận?
Phật bảo Tu-bồ-đề: Hết thảy tâm tâm số pháp của Bồ-tát ma-ha-tát là không thể có được, không thể thấy, nên tâm Bồ-tát ma-ha-tát không chìm đắm, không hối hận.
Bạch Thế Tôn! Làm sao tâm Bồ-tát không kinh, không sợ, không hãi?
Phật bảo Tu-bồ-đề: Bồ-tát ấy, ý và ý giới không thể có được, không thể thấy, vì vậy nên không kinh, không sợ, không hãi. Như vậy, Tu-bồ- đề! Bồ-tát ma-ha-tát đối với hết thảy pháp, không thể có được nên hành Bát-nhã Ba-la-mật.
Tu-bồ-đề! Bồ-tát ma-ha-tát trong tất cả hành xứ không thủ đắc Bát- nhã Ba-la-mật, không thủ đắc danh tự Bồ-tát, cũng không thủ đắc tâm Bồ-tát, tức là dạy Bồ-tát ma-ha-tát.
LUẬN: Bồ-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, quán danh tự sắc pháp chẳng phải thường chẳng phải vô thường, cho đến nơi tánh hữu vi vô vi không thấy có Bồ-tát, danh tự Bồ-tát. Như trước nói, đối với hết thảy pháp không khởi ức tưởng phân biệt. Bồ-tát trụ trong pháp bất hoại, thực hành Sáu Ba-la-mật cho đến Mười tám pháp không chung, dùng trí tuệ biết thật tướng các pháp, tìm trong các pháp không thấy pháp nhất định gọi là Bát-nhã Ba-la-mật, cũng không thấy danh tự Bát-nhã Ba-la-mật, lại không thấy Bồ-tát và danh tự Bồ-tát. Dùng trí tuệ ấy phá các phiền não vô minh v. v… dùng các không thấy, và trí tuệ cũng không thấy ấy phá tâm chấp trước Bát-nhã Ba-la-mật, danh tự Bát-nhã Ba-la-mật, Bồ- tát, danh tự Bồ-tát, thông đạt vô ngại thật tướng thanh tịnh của các pháp. Bồ-tát được trí tuệ như vậy, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghĩ đều như huyễn hóa; hoặc nghe, thấy, nghĩ, đều là hư dối, vì vậy nên không chấp trước sắc v. v… Trú trong trí tuệ vô ngại ấy, tăng ích Sáu Ba-la-mật, vào Bồ-tát vị, được các lợi ích như vậy.
Chương này, Phật tự dạy Bồ-tát quán sát như vậy.
Tiếp chương sau, có người cho rằng Phật phần nhiều nói pháp Không nên trở lại hỏi Tu-bồ-đề: Nếu các pháp chẳng không, thì có thể có một pháp nhất định là Bồ-tát chăng? Nghĩa là sắc là Bồ-tát chăng? Cho đến như như là Bồ-tát chăng?
Tu-bồ-đề nghĩ rằng: Các pháp hòa hợp nên có Bồ-tát, ta làm sao nói có một pháp nhất định là Bồ-tát? Vì vậy nên nói: Thưa không, bạch Thế Tôn!
Vì Tu-bồ-đề khéo chứng đắc chúng sinh không, nên Phật dạy: Lành thay, lành thay! Bồ-tát biết chúng sinh không, không thể có được, cần nên thực hành Bát-nhã Ba-la-mật. Sắc là nghĩa Bồ-tát, cho đến vô tác rốt ráo không cũng như vậy.
Tu-bồ-đề vào trong các pháp Không sâu xa, không nghi hoặc nên có thể lợi ích cho các Bồ-tát. Cho nên Phật tán thán: Lành thay, lành thay! Phép của Bồ-tát là phải học Bát-nhã Ba-la-mật, hết thảy pháp Không, không thể có được.
Tu-bồ-đề nói: Con không thấy pháp nào gọi là Bồ-tát.
Phật dạy: Chẳng phải chỉ riêng Bồ-tát không thể thấy mà hoàn toàn không có pháp thấy pháp; pháp tánh vô lượng không thể thấy, thế nên các pháp không thấy pháp tánh. Các pháp do nhân duyên hòa hợp sinh, không có tự tánh, rốt ráo không, nên pháp tánh không thấy các pháp, sắc tánh không thấy pháp tánh, pháp tánh không thấy sắc tánh, cho nên thức tánh cũng như vậy. Năm uẩn tánh cùng pháp tánh đồng danh nên gọi là tánh. Mười hai xứ, Mười tám giới, pháp hữu vi, pháp vô vi cũng như vậy. Lược nói nhân duyên: Lìa tánh hữu vi không nói được tánh vô vi, lìa tánh vô vi không nói được tánh hữu vi, vì trong hai pháp ấy bao gồm hết thảy pháp.
Bồ-tát ấy tuy không thấy hết thảy pháp, cũng không sợ hãi. Vì cớ sao? Ví có chỗ thấy, có chỗ không thấy thì có sợ hãi, nếu hoàn toàn không thấy gì thì không sợ hãi. Đó là năm uẩn cho đến mười tám pháp không chung.
Hỏi: Nếu Phật đã nói nhân duyên không sợ hãi, sao Tu-bồ-đề còn hỏi lại?
Đáp: Tu-bồ-đề nếu bảo các pháp hoàn toàn không, không có gì thì sợ đọa vào tà kiến. Vì cớ sao? Vì đệ tử Phật do được chánh kiến nên gọi là người hành đạo, làm sao nói hoàn toàn không thấy gì? Phật biết tâm Tu-bồ-đề cho nên nói hết thảy tâm tâm số pháp không thể có được, không thể thấy, nên không sợ. Người phàm phu muốn vào trong Không, thấy tâm tâm số pháp có thể có được, còn ngoại pháp không thể có được, nên sợ hãi. Còn Bồ-tát cho tâm tâm số pháp là hư dối không thật, quả báo điên đảo, không thể chỉ cho người thật sự, nên không sợ hãi. Do nghĩa ấy khác nhau cho nên còn hỏi lại.
Hỏi: Nếu như vậy, cớ sao còn có câu hỏi thứ ba?
Đáp: Tâm tâm số pháp có thể thấy được ở trong ý thức; ý và ý thức là cội gốc của tâm tâm số pháp. Vì cớ sao? Vì trong ý thức phân biệt nhiều, nên sinh sợ hãi, còn năm thức thời khắc quá ngắn không phân biệt được gì. Muốn phá cội gốc sợ hãi cho nên còn hỏi lại, không lỗi. Nếu Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật được như vậy, thì tuy không thấy bốn việc là: Bồ-tát, danh tự Bồ-tát, Bát-nhã Ba-la-mật, danh tự Bát-nhã Ba-la-mật, nhưng có thể do ba nhân duyên, nên không sợ, tức là dạy cho Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật, hoặc chỉ liễu giải tướng Bát-nhã Ba-la-mật ấy là hành Bát-nhã Ba-la-mật. Không từ mười phương cầu, cũng không ai cho, cũng chẳng phải như vàng bạc, vật báu, ra sức cầu mới được.
GIẢI THÍCH PHẨM TÁM: KHUYẾN HỌC
KINH: Bấy giờ, Tuệ mạng Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ-tát ma-ha-tát muốn đầy đủ Thí Ba-la-mật, hãy học Bát-nhã Ba- la-mật; muốn đầy đủ Giới Ba-la-mật, Nhẫn Ba-la-mật, Tấn Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật.
Bồ-tát ma-ha-tát muốn biết sắc, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật; cho đến muốn biết thức, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật; muốn biết nhãn cho đến ý, muốn biết sắc cho đến pháp, muốn biết nhãn thức cho đến ý thức, muốn biết nhãn xúc cho đến ý xúc, muốn biết nhãn và xúc làm nhân duyên sinh thọ cho đến ý và xúc làm nhân duyên sinh thọ, hãy học Bát- nhã Ba-la-mật; muốn đoạn dâm, nộ, si, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật.
Bồ-tát ma-ha-tát muốn đoạn thân kiến, giới, thủ, nghi, dâm dục, sân nhuế, sắc ái, vô sắc ái, trạo, mạn, vô minh v.v… tất cả kiết sử và triền, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật. Muốn đoạn bốn phược, bốn kiết, bốn điên đảo, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật. Muốn biết mười thiện đạo, muốn biết bốn thiền, muốn biết bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, bốn niệm xứ, cho đến mười tám pháp không chung, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật.
Bồ-tát ma-ha-tát muốn vào giác ý Tam-muội, hãy học Bát-nhã Ba- la-mật. Muốn vào sáu thần thông, định chín thứ lớp, siêu việt Tam-muội, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật. Muốn được Tam-muội Sư tử du hý, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật. Muốn được Sư Tử phấn tấn, muốn được hết thảy môn Đà-la-ni hãy học Bát-nhã Ba-la-mật.
Bồ-tát ma-ha-tát muốn được Tam-muội Thủ Lăng-nghiêm, Tam- muội Bảo ấn, Tam-muội Diệu nguyệt, Tam-muội Nguyệt tràng tướng, Tam-muội Hết thảy Pháp ấn, Tam-muội Quán ấn, Tam-muội Tất pháp tánh, Tam-muội Tất trụ tướng, Tam-muội Như Kim cang, Tam-muội Vào hết thảy pháp môn, Tam-muội Vương Tam-muội, Tam-muội Vương ấn, Tam-muội Tịnh lực, Tam-muội Cao xuất, Tam-muội Rốt ráo vào hết thảy biện tài, Tam-muội Vào hết thảy tên pháp, Tam-muội Quán mười phương, Tam-muội Ấn các môn Đà-la-ni, Tam-muội Hết thảy pháp không quên, Tam-muội Ấn nhiếp hết thảy pháp tụ, Tam-muội Hư không trụ, Tam-muội Ba phần thanh tịnh, Tam-muội Không thối thần thông, Tam-muội Xuất bát, Tam-muội Tràng Tướng, các Tam-muội… Muốn được các môn Tam-muội như vậy, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bồ-tát ma-ha-tát muốn làm mãn nguyện hết thảy chúng sinh, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật.
LUẬN: Hỏi: Trong phẩm đầu đã nói muốn được có các thứ, hãy học Bát-nhã Ba-la-mật, sao nay còn nói lại?
Đáp: Trước chỉ tán thán muốn được các công đức ấy, hãy học Bát- nhã Ba-la-mật, mà chưa nói Bát-nhã Ba-la-mật. Nay đã nghe ý vị Bát- nhã Ba-la-mật, nhân đó muốn được các công đức khác, là sáu Ba-la-mật v.v… hãy học Bát-nhã Ba-la-mật.
Lại nữa, trên dùng các nhân duyên nói các pháp không. Có người cho rằng, Phật pháp dạy đoạn diệt, không còn làm gì. Vì dứt mối nghi của người ấy, nên nói muốn được các công đức bố thí v.v… hãy thực hành Bát-nhã Ba-la-mật. Nếu Bát-nhã Ba-la-mật thật không, không có gì, đoạn diệt, thì không nên nói nên thực hành các công đức bố thí v.v… Bậc có trí nói thì có gì trước sau trái nhau!
Lại nữa, trước nói rộng đây nói lược. Kia là Phật nói, đây là Tu-bồ- đề nói.
Lại nữa, Bát-nhã Ba-la-mật thâm diệu,cho nên nói lại. Ví như tán thán công đức tốt nên nói: Lành thay, lành thay! Nghĩa của sáu Ba-la- mật như trước đã nói.
Biết năm uẩn là thấy nó vô thường, khổ, không, tướng chung, tướng riêng v.v…, sáu căn, sáu trần, sáu thức, sáu xúc, sáu thọ cũng như vậy. Hết thảy sự trói buộc ở thế gian, chính thọ là chủ, do thọ nên sinh các kiết sử, thọ vui sinh tham dục, thọ khổ sinh tham nhuế, thọ không khổ không vui sinh ngu si. Ba độc là nhân duyên khởi lên các phiền não và nghiệp, vì vậy nên chỉ nói thọ. Các tâm sổ pháp khác không nói đến là tưởng, thức, niệm v.v…; ba độc, mười kiết, các sử, các triền cho đến mười tám pháp không chung, như trước đã nói.
Tam-muội Giác ý, Tam-muội Siêu việt, Tam-muội Sư tử du hý … các Tam-muội ấy của Bồ-tát, sau sẽ nói. Muốn làm cho hết thảy chúng sinh mãn nguyện, trước đã nói.
KINH: Muốn được đầy đủ thiện căn như vậy, không bị đọa ác thú, muốn được không sinh nhà bần tiện, muốn được không trú ở trong địa vị Thanh-văn, Bích-chi Phật, muốn được Bồ-tát đảnh không đọa (Kinh Đại Bát-nhã ghi: Đối với Bồ-tát đảnh, trọn không thối đọa – ND) hãy học Bát-nhã Ba-la-mật.
Bấy giờ, Tuệ mạng Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Thế nào gọi là Bồ- tát ma-ha-tát đọa đảnh?
Tu-bồ-đề nói: Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát ma-ha-tát không dùng phương tiện thiện xảo thực hành sáu Ba-la-mật, vào không, vô tướng, vô tác Tam-muội, cũng không đọa địa vị Thanh-văn, Bích-chi Phật, cũng không vào Bồ-tát vị, ấy gọi là Bồ-tát ma-ha-tát pháp ái sinh, nên đọa đảnh.
Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Thế nào gọi là Bồ-tát sinh?
Tu-bồ-đề đáp Xá-lợi-phất rằng: Sinh gọi là pháp ái.
Xá-lợi-phất nói: Thế nàogọi là pháp ái?
Tu-bồ-đề nói: Bồ-tát ma-ha-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, sắc là không mà lãnh thọ ức niệm ái trước; thọ, tưởng, hành, thức là không mà lãnh thọ, ức niệm, ái trước. Xá-lợi-phất! Ấy gọi là thuận đạo pháp sinh ái trước.
Lại nữa, Xá-lợi-phất! Bồ-tát ma-ha-tát, sắc là vô tướng mà lãnh thọ, ức niệm, ái trước; thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng, mà lãnh thọ, ức niệm, ái trước. Sắc là vô tác mà lãnh thọ, ức niệm, ái trước; thọ, tưởng, hành, thức là vô tác mà lãnh thọ, ức niệm, ái trước. Sắc là tịch diệt mà lãnh thọ, ức niệm, ái trước; thọ, tưởng, hành, thức là tịch diệt mà lãnh thọ, ức niệm, ái trước. Sắc là vô thường cho đến thức, sắc là khổ cho đến thức; sắc là vô ngã cho đến thức mà lãnh thọ, ức niệm, ái trước; ấy là Bồ-tát thuận đạo pháp sinh ái trước.
Ấy là khổ nên biết, tập nên dứt, diệt nên chứng, đạo nên tu; ấy là pháp nhơ, ấy pháp sạch, ấy nên gần, ấy không nên gần, ấy Bồ-tát nên làm, ấy chẳng phải Bồ-tát nên làm; ấy Bồ-tát đạo, ấy Bồ-tát học, ấy chẳng phải Bồ-tát đạo, ấy chẳng phải Bồ-tát học, ấy Bồ-tát Thí Ba-la- mật, cho đến Bát-nhã Ba-la-mật; ấy Bồ-tát phương tiện, ấy chẳng phải Bồ-tát phương tiện; ấy Bồ-tát thành thục; ấy chẳng phải Bồ-tát thành thục.
Xá-lợi-phất! Bồ-tát ma-ha-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, lãnh thọ, ức niệm, ái trước các pháp ấy; ấy là Bồ-tát ma-ha-tát thuận đạo pháp sinh ái trước.
LUẬN: Hỏi: Do thiện căn gì mà không đọa ác đạo, nghèo hèn và Thanh-văn, Bích-chi Phật, cũng không đọa đảnh?
Đáp: Có người nói, thực hành thiện căn không tham nên các kiết sử ái v.v… suy mỏng, vào sâu thiền định; thực hành thiện căn không giận, nên các kiết sử giận v.v… suy mỏng, vào sâu tâm từ-bi; thực hành thiện căn không ngu si, nên các kiết sử vô minh v.v… suy mỏng, vào sâu Bát- nhã Ba-la-mật. Do lực thiền định, từ-bi, Bát-nhã Ba-la-mật như vậy, nên không việc gì mà không thành được, huống gì bốn việc (không đọa ác đạo, nhà bần tiện, Thanh-văn và Bích-chi Phật, không đọa đảnh).
Hỏi: Vì sao trong bốn việc chỉ hỏi việc đọa đảnh?
Đáp: Ba việc ở trước đã nói, việc đọa đảnh chưa nói cho nên hỏi. Hỏi: Đảnh là pháp vị, nghĩa ấy trước đã nói, sao nay còn nói lại?
Đáp: Tuy đã nói nghĩa, mà tên gọi khác nhau. Không có phương tiện, vào ba giải thoát môn và có phương tiện, thì trước đã nói.
Pháp ái, đối với vô sinh pháp nhẫn, không có lợi ích nên gọi là sinh; ví như ăn nhiều không tiêu, nếu không trị liệu là tai hoạn cho thân. Bồ- tát cũng như vậy, khi mới phát tâm, tham ái món ăn chánh pháp, đó là không phương tiện thiện xảo thực hành các thiện pháp, thâm tâm buộc đắm nơi vô sinh pháp nhẫn, ấy là sinh, là bệnh. Vì đắm trước pháp ái nên đối với pháp không sinh không diệt cũng ái; ví như người chắc chắn chết, tuy uống thêm thuốc, thuốc trở lại thành bệnh. Bồ-tát đối với pháp rốt ráo không, không sinh không diệt pháp nhẫn mà sinh ái trước, cũng trở lại bị tai hoạn. Pháp ái đối với người, trời là thủ diệu, mà đối với vô sinh pháp nhẫn là hệ lụy.
Đối với hết thảy pháp, ức tưởng phân biệt quán thị quán phi, theo pháp mà ái, ấy gọi là sinh; không thể đựng nước thật tướng các pháp, trái với sinh (sống) gọi là Bồ-tát thục (chín).
Hỏi: Một việc ấy cớ sao gọi là đảnh, gọi là vị, gọi là không sinh?
Đáp: Pháp ở giữa nhu thuận nhẫn và vô sinh nhẫn, gọi là đảnh. Trú ở đảnh ấy, trên thẳng đến Phật đạo, không còn sợ đọa; ví như trong pháp Thanh-văn, ở giữa noãn pháp và nhẫn pháp gọi là đảnh pháp.
Hỏi: Nếu được đảnh không sợ đọa, sao nay nói đảnh đọa?
Đáp: Sắp gần được mà mất gọi là đọa. Được đảnh rồi trí tuệ an ổn, thì không sợ đọa; ví như lên núi, đã được đến đỉnh, thì không sợ rớt; giữa lúc chưa đến, khoảng khắc cheo leo sợ rớt. Đảnh cứ tăng trưởng kiên cố, gọi là Bồ-tát vị. Vào vị ấy, hết thảy kiết sử, hết thảy ma dân không làm lay động được, cũng gọi là vô sinh pháp nhẫn. Vì cớ sao? Vì khác với sinh. Các kiết sử ái v.v… và các thiện pháp hỗn tạp, gọi là sinh.
Lại nữa, không có lửa trí tuệ biết về thật tướng các pháp, nên gọi là sinh (sống), có lửa trí tuệ biết thật tướng các pháp nên gọi là thục (chín). Người ấy tín thọ được trí tuệ biết thật tướng các pháp, nên gọi là thục. Ví như bình nung chín có thể đựng nước, nung sống thì bị hư rã.
Lại nữa, nương dựa trí tuệ sinh diệt nên được xa lìa điên đảo, xa lìa trí tuệ sinh diệt nên không sinh không diệt, ấy gọi là vô sinh pháp. Hay tin, hay thọ, hay trì gọi là nhẫn.
Lại nữa, vị là nhổ hết thảy pháp quán về vô thường v.v… gọi là vị; nếu không như vậy, ấy là thuận đạo pháp sinh ái trước.
KINH: Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Thế nào gọi là Bồ-tát ma-ha-tát vô sinh?
Tu-bồ-đề nói: Bồ-tát ma-ha-tát khi thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, trong nội không, không thấy ngoại không; trong ngoại không, không thấy nội không; trong ngoại không, không thấy nội ngoại không; trong nội ngoại không, không thấy ngoại không; trong nội ngoại không, không thấy không không; trong không không, không thấy nội ngoại không; trong không không, không thấy đại không; trong đại không, không thấy không không; trong đại không, không thấy đệ nhất nghĩa không; trong đệ nhất nghĩa không, không thấy đại không; trong đệ nhất nghĩa không, không thấy hữu vi không; trong hữu vi không, không thấy đệ nhất nghĩa không; trong hữu vi không, không thấy vô vi không; trong vô vi không, không thấy hữu vi không; trong vô vi không, không thấy tất cảnh không; trong tất cảnh không, không thấy vô vi không; trong tất cảnh không, không thấy vô thỉ không; trong vô thỉ không, không thấy tất cảnh không; trong vô thỉ không, không thấy tán không; trong tán không, không thấy vô thỉ không; trong tán không, không thấy tánh không; trong tánh không, không thấy tán không; trong tánh không, không thấy các pháp không; trong các pháp không, không thấy tánh không; trong các pháp không, không thấy tự tướng không; trong tự tướng không, không thấy các pháp không; trong tự tướng không, không thấy bất khả đắc không; trong bất khả đắc không, không thấy tự tướng không; trong bất khả đắc không, không thấy vô pháp không; trong vô pháp không, không thấy bất khả đắc không; trong vô pháp không, không thấy hữu pháp không, trong hữu pháp không, không thấy vô pháp không; trong hữu pháp không, không thấy vô pháp hữu pháp không; trong vô pháp hữu pháp không, không thấy hữu pháp không.
Xá-lợi-phất! Bồ-tát ma-ha-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, được vào Bồ-tát vị.
Lại nữa, Xá-lợi-phất! Bồ-tát ma-ha-tát muốn học Bát-nhã Ba-la- mật, hãy học như vầy: Không niệm sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không niệm mắt cho đến ý; không niệm sắc cho đến pháp; không niệm Thí Ba-la-mật, Giới Ba-la-mật, Nhẫn Ba-la-mật, Tấn Ba-la-mật, Thiền Bala-mật, Bát-nhã Ba-la-mật, cho đến mười tám pháp không chung.
Như vậy, Xá-lợi-phất! Bồ-tát ma-ha-tát tu Bát-nhã Ba-la-mật, tâm Bồ-đề không nên niệm, không nên cao: tâm vô đẳng đẳng không nên niệm, không nên cao; tâm rộng lớn không nên niệm, không nên cao. Vì cớ sao? Vì tâm ấy chẳng phải tâm, tâm tướng thường tịnh vậy.
Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Thế nào gọi là tâm tướng thường tịnh?
Tu-bồ-đề nói: Nếu Bồ-tát biết tâm tướng ấy cùng với dâm, nộ, si, không hợp không lìa, cùng các kiết sử triền, lưu, phược… tất cả phiền não, không hợp không lìa; cùng tâm Thanh-văn, Bích-chi Phật không hợp không lìa thì, nầy Xá-lợi-phất! Ấy gọi là Bồ-tát tâm tướng thường tịnh.
Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Có cái tâm không tâm tướng ấy chăng?
Tu-bồ-đề đáp Xá-lợi-phất rằng: Trong không tâm tướng, có thể có tâm tướng, không tâm tướng được chăng?
Xá-lợi-phất nói: Không thể được.
Tu-bồ-đề nói: Nếu không thể được, thì không nên hỏi có tâm chẳng phải có tâm.
Xá lợi phát lại hỏi: Thế nào là không tâm tướng?
Tu-bồ-đề nói: Các pháp không hoại, không phân biệt, ấy gọi là không tâm tướng.
Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Chỉ có tâm không phá hoại không phân biệt, sắc cũng không hoại không phân biệt, cho đến Phật đạo cũng không hoại không phân biệt ư?
Tu-bồ-đề nói: Nếu biết được tâm tướng không hoại không phân biệt, Bồ-tát ấy cũng biết được sắc cho đến Phật đạo không hoại không phân biệt.
Bấy giờ Tuệ mạng Xá-lợi-phất tán thán Tu-bồ-đề: Lành thay, lành thay! Ông thật là con Phật, từ miệng Phật sinh, từ thấy pháp sinh, từ pháp hóa sinh, thủ phần pháp không thủ phần tài. Đối với pháp tự tin thân đắc chứng, như Phật đã nói trong hạng người được vô tránh, Ông là đệ nhất, thật như Phật đã cử ra.
Tu-bồ-đề! Bồ-tát ma-ha-tát nên học Bát-nhã Ba-la-mật như vậy, trong ấy cũng nên phân biệt biết, Bồ-tát thực hành như lời ông nói, thì không lìa Bát-nhã Ba-la-mật.
Tu-bồ-đề! Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn học Thanh-văn địa cũng phải nên nghe Bát-nhã Ba-la-mật, thọ trì, tụng, đọc, chánh ức niệm, hành đúng như nói. Muốn học Bích-chi Phật địa cũng phải nên nghe Bát-nhã Ba-la-mật, thọ trì, tụng, đọc, chánh ức niệm, hành đúng như nói. Muốn học Bồ-tát địa cũng phải nên nghe Bát-nhã Ba-la- mật, thọ trì, tụng đọc, chánh ức niệm, hành đúng như nói. Vì cớ sao? Vì trong Bát-nhã Ba-la-mật ấy nói rộng ba thừa, trong đó Bồ-tát ma-ha-tát, Thanh-văn, Bích-chi Phật nên học.
LUẬN: Trong nội không, không thấy ngoại không, trong ngoại không, không thấy nội không.
Có người nói: Các thứ ăn uống tứ đại bên ngoài đưa vào trong thân nên gọi là nội; nếu thân chết trở lại làm ngoài; vì hết thảy pháp không có tướng đến đi. Ngoại không chẳng ở trong nội không. Mười bảy không kia cũng như vậy, không sinh không diệt, không tướng khác, vì không đến đi nên trong mỗi mỗi không trú.
Lại nữa, tướng của Bồ-tát vị là không niệm hết thảy sắc là có, cho đến mười tám pháp không chung cũng không niệm là có.Nghĩa không niệm có như trước đã nói.
Hỏi: Tâm Bồ-đề, tâm vô đẳng đẳng, đại tâm có gì sai khác?
Đáp: Bồ-tát khi mới phát tâm duyên đạo vô thượng, ta sẽ làm Phật, ấy là tâm Bồ-đề. Vô đẳng đẳng là Phật, vì cớ sao Vì hết thảy chúng sinh, hết thảy pháp không sánh bằng được. Tâm Bồ-đề ấy cùng Phật tương tợ. Vì cớ sao Vì nhân tợ quả vậy, ấy gọi là tâm vô đẳng đẳng. Tâm ấy không việc gì không làm, không cầu ân huệ, sâu bền quyết chắc.
Lại nữa, Thí, Giới Ba-la-mật gọi là Bồ-đề tâm. Vì cớ sao?
Vì do Thí Ba-la-mật nên được giàu lớn, không thiếu gì; do Giới Ba- la-mật nên ra khỏi ba đường ác, được tôn quý trong hàng trời người, trụ vào hai Ba-la-mật quả báo nên được an lập, thành tựu việc lớn, ấy gọi là tâm Bồ-đề.
Tướng của Nhẫn, Tinh tấn Ba-la-mật, hiện việc kỳ lạ đối với chúng sinh, đó là có người đến cắt thịt moi tủy, xem như chặt cây, mà thương nghĩ đến oan gia, huyết hóa thành sữa. Tâm ấy tợ như tâm Phật, đối với hết thảy chúng sinh trong mười phương sáu đường, mỗi mỗi đều đem thâm tâm tế độ. Lại biết các pháp là rốt ráo không, mà đem tâm đại bi hành các hạnh, ấy là kỳ lạ; ví như người muốn trồng cây giữa không, ấy là hy hữu.
Oai lực của Tinh tấn Ba-la-mật như vậy, cùng với vô đẳng (Phật) tương tợ, ấy gọi là vô đẳng đẳng.
Vào thiền định, thực hành Bốn tâm vô lượng, cùng khắp mười phương, hợp với đại bi và phương tiện, cứu vớt hết thảy chúng sinh ra khỏi khổ. Lại thật tướng các pháp, diệt hết thảy quán niệm, ngôn ngữ dứt mà không đọa vào đoạn diệt, ấy gọi là đại tâm.
Lại nữa, mới phát tâm gọi là tâm Bồ-đề; thực hành sáu Ba-la-mật, gọi là tâm vô đẳng đẳng, vào tâm phương tiện gọi là đại tâm, có các sai biệt như vậy.
Lại nữa, Bồ-tát được đại trí như vậy, tâm cũng không cao vì tâm tướng thường thanh tịnh, như tướng hư không thường thanh tịnh; khói mây, bụi mù tạm đến che lấp làm cho bất tịnh. Tâm cũng như vậy, thường tự thanh tịnh, bị các khách phiền não vô minh đến che lấp, nên cho là bất tịnh, trừ bỏ phiền não, trở lại thanh tịnh như xưa. Kẻ tu hành công phu nhỏ mỏng, sự thanh tịnh ấy chẳng phải làm được, không nên tự cao, không nên ức niệm. Vì sao? Vì rốt ráo không.
Hỏi: Xá-lợi-phất đã biết tâm tướng thường tịnh, cớ sao còn hỏi?
Đáp: Bồ-tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vào sâu dính sâu. Tuy nghe nói tâm rốt ráo không, thường thanh tịnh, vẫn còn ức tưởng phân biệt, chấp thủ tướng vô tâm ấy. Vì thế nên Hỏi: Tâm không có tâm tướng ấy là có hay là không? Nếu có, cớ sao nói không có tâm tướng? Nếu không, cớ sao tán thán tâm vô đẳng đẳng ấy sẽ thành Phật đạo?
Tu-bồ-đề đáp rằng: Trong không tâm tướng rốt ráo thanh tịnh, có và không đều không thể có được nên không nên nạn hỏi.
Xá-lợi-phất lại hỏi: Thế nào là không có tâm tướng?
Tu-bồ-đề đáp: Rốt ráo không, không phân biệt hết thảy các pháp, ấy gọi là không có tâm tướng.
Xá-lợi-phất hỏi: Chỉ có tâm tướng là không hoại không phân biệt, hay các pháp khác cũng như vậy?
Tu-bồ-đề đáp: Các pháp cũng như vậy. Nếu như vậy, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng như hư không, không hoại không phân biệt.
Các Bồ-tát đắm sâu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên nghĩ rằng: Các pháp phàm phu có thể nói là hư dối, vì không chân thật, vì Bồ-tát chưa hết lậu hoặc, cũng có thể nói là không thanh tịnh, chứ sao Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng lại hư dối? Khi ấy tâm lo sợ không vui.
Tu-bồ-đề biết tâm kia rồi, suy nghĩ trù lượng: Ta nay nên nói pháp thật tướng cho họ chăng? Suy nghĩ xong, tự nghĩ, nay ở trước Phật, nên đem thật tướng mà đáp, nếu ta có lỗi, Phật sẽ tự nói. Mãi suy nghĩ xong, thế nên nói Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tuy là đệ nhất, cũng từ nơi pháp hư dối sinh ra, cho nên cũng là không, không hoại, không phân biệt. Vì vậy, hành giả nên theo tướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà thực hành, không nên chấp thủ tướng để tự cao.
Bấy giờ, Xá-lợi-phất tán thán Tu-bồ-đề: Lành thay, lành thay! Còn Phật im lặng nghe Tu-bồ-đề đáp, cũng ấn khả lời tán thán của Xá-lợi- phất.
Từ miệng Phật sinh là, có người nói: Bà-la-môn từ nơi miệng vua Phạm-thiên sinh, đệ nhất trong bốn đẳng cấp chúng sinh. Vì vậy, Xá- lợi-phất tán thán rằng: Ông thật từ miệng Phật sinh. Vì sao? Vì ông thấy pháp, biết pháp vậy!
Người chưa đắc đạo, nương Phật theo học sự cúng dường, ấy gọi là thủ phần tài. Lại như đứa con tệ ác, không theo lời cha, chỉ lấy phần tài. Lấy phần pháp là lấy các thiền định, năm căn, năm lực, bảy giác phần, tám thánh đạo phần, các thiện pháp, gọi là lấy phần pháp.
Được bốn điều tin chắc gọi là tự tín đối với pháp, được các thần thông, diệt tận định v.v… bám vào thân, ấy gọi là thân đắc chứng. Như Xá-lợi-phất trí tuệ đệ nhất, Mục-kiền-liên thần thông đệ nhất, Ma-ha Ca-diếp đầu đà đệ nhất, Tu-bồ-đề được Vô tránh Tam-muội đệ nhất. Vị A-la-hán được định Vô tránh thường quán xét tâm người, không khiến người khỏi tranh cãi. Tam-muội này nhiếp vào trong bốn thiền căn bản, cũng dùng ở trong cõi Dục.
Hỏi: Bát-nhã Ba-la-mật là việc của Bồ-tát, cớ gì nói người muốn được ba thừa đều nên học tập?
Đáp: Trong Bát-nhã Ba-la-mật, nói thật tướng các pháp tức là Vô- dư Niết-bàn. Người ba thừa đều cầu Vô-dư Niết-bàn nên phải tinh tấn tập hành Bát-nhã.
Lại nữa, các nhân duyên trong Bát-nhã, có nói về nghĩa không giải thoát môn. Như trong Kinh nói: Nếu lìa không giải thoát môn, thời không có đạo không có Niết-bàn. Vì vậy người ba thừa đều nên học Bát-nhã.
Lại nữa, Xá-lợi-phất tự nói nhân duyên: Trong Bát-nhã Ba-la-mật, rộng nói tướng ba thừa trong đó. Người ba thừa nên học để thành tựu.