KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN SANH
Lần 2644 – Phật Lịch: 2564
“Hân hoan mừng đón Phật đản sanh
Bốn bể năm châu tỏa hương lành
Thôn trên xóm dưới vui mở hội
Núi rừng chim hót giữa trời xanh”.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
– Kính bạch chư tôn Hòa Thượng,
– Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, và toàn thể Phật Tử.
Vui thay Phật Đản lại trở về với người con Phật ở khắp năm châu, với lòng tràn đầy hân hoan đón chào ngày Đản sanh của Đức Từ Phụ Thích Tôn.
Thời gian vô thường lặng lẻ trôi qua như chớp mắt, nhìn lại mà nay đã hơn 26 thế kỷ, đánh dấu ngày thị hiện của đấng toàn giác ở cõi Ta Bà này. Lời dạy của Ngài đã theo suốt chiều dài của lịch sử Phật Giáo, đã thật sự mang lại lợi lạc đến cho những ai chân thành hành trì theo lời dạy của Ngài.
Mùa sen nở tỏa ngát hương thơm ở khắp mọi nơi cũng là thông điệp gởi đến mọi người con Phật nói riêng và tất cả nhân loại nói chung về đạo lý vô thường luôn biến đổi, hội đủ nhân duyên thì hợp hết duyên thì tàn. Nghĩ tưởng lại tháng này năm xưa ở xứ Trung Ấn Độ, Đức Phật-đà đã thị hiện trên quả hành tinh này và đã truyền bá giáo lý giác ngộ cứu độ chúng sanh được lưu giữ trong Ba Đại Tạng, Kinh-Luật-Luận suốt 49 năm trường hoằng pháp lợi sanh, gót vàng đã đến, đi khắp lục địa Ấn Độ gồm 16 quốc gia ở thời bấy giờ.
Theo dòng chuyển của thời gian, Phật-pháp cũng không nằm ngoài quy luật “thành, trụ, hoại, không”. Từ thời kỳ của chánh pháp, tượng pháp rồi đến mạt pháp.
Mùa sen nở cũng là một lời nhắn nhủ đến tất cả người con Phật chúng ta và rộng đến tất cả mọi loại chúng sanh về quy luật vô thường luôn chi phối và sớm tự mình tìm đường giải thoát chân chánh qua giáo lý của Phật-đà, mà tự thắp đuốc lên soi sáng chốn u minh tiến bước đến sự giải thoát.
Ngày Đản sanh của Đấng Đại Từ Phụ là một ngày kỷ niệm trọng thể cũng nhắc mọi người về những hành vi và tạo tác đã gây tạo trong suốt một năm vừa qua, nên khéo suy xét, sám hối, sửa lỗi lầm, và tinh tấn trên bước đường tu học, gieo trồng đủ thiện căn, nương vào Ánh Đạo Vàng mà Đức Phật-đà chiếu sáng, hầu tiến bước đến sự an lạc chân thật.
Cũng qua thông điệp này, Ngài đã khuyến tấn và nhắc nhở chúng ta nên tinh tấn trong sự dụng công chân chánh, thực hành và suy nghiệm nhiều hơn lý thuyết, được vậy mới thật sự là ý nghĩa của ngày Đản Sanh đối với một người con Phật thuần hành.
Không có một món quà nào cao hơn và vĩ đại hơn là sự dụng công, trì giới và hành trì chân chánh theo lời dạy của đức Phật-đà. Vì giải thoát cho muôn loài, vì sự an lạc của nhơn thiên và cũng vì đánh dấu chấm hết khổ đau ở những cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh mà Ngài đã mang giáo lý từ bi, trí tuệ thị hiện trong cõi đời đầy năm món ác trược.
Trên tinh thần Đản sanh đó, mang sự bình yên và mãn nguyện cho khắp chín pháp giới chúng sanh, mà khi hiện Đản sanh, Ngài đã đi bảy bước, và được Ngài giảng rõ ý nghĩa vì sao chư Phật ra đời phải đi bảy bước trong Kinh Hoa Nghiêm. Mười ý nghĩa đó là:
1- hiện sức đại hùng đại lực đại từ bi của Bồ tát.
2- hiện xả thí thất thánh tài.
3- hiện cho Địa thần mãn nguyện.
4- hiện tướng vượt ra khỏi sinh tử.
5- hiện bước đi tối thắng của Bồ tát hơn hẳn Tam thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát thừa).
6- thị hiện tướng Kim Cang Địa.
7- muốn ban cho chúng sanh sức lực dõng mãnh.
8- muốn tu hành thất giác chi cho được quả vị Bồ Đề (bao gồm Bồ đề Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát).
9- muốn thị hiện Pháp chứng được không do người khác chỉ dạy.
10- hiện bậc tối thắng trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới).
Do đó, nhân ngày Phật Đản sanh, chúng ta hãy cùng nhau nhắc nhở lại trang sử vẻ vang của Ngài và cùng suy ngẫm lại cho tiến trình trên đường thực hành qua giáo lý giác ngộ, giải thoát cứu cánh, cũng như xem xét lại những gì chúng ta đã làm được trong suốt thời gian tu sửa, áp dụng lời vàng của Ngài truyền dạy trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Hầu giúp cân nhắc những lỗi lầm còn vi phạm, thiện duyên thì mãi tăng trưởng.
Mùa Hoa Vô Ưu nở rộ lần thứ 2644, ban biên tập chúng con/chúng tôi xin nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ cho chư Tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại Đức, Tăng, Ni pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ, phước trí viên minh, Bồ đề viên mãn. Xin kính chúc chư Phật tử, Cư sĩ xa gần được dồi dào sức khỏe, thiện căn tăng trưởng, tinh tấn trên bước đường tu học.
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Thiên Bá Ức Hóa Thân, Lâm Tỳ Ni Viên Vô Ưu Thọ Hạ Thị Hiện Đản Sanh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Trân trọng,
Tạng Thư Phật Học
Mùa Sen nở – 2644
Phật lịch: 2564
Phật Đản muôn năm
Kính mừng ngày Phật Đản Sanh
Mười phương thế giới chúng sinh đều nhờ
Thoát ra bến mộng sông mơ
Quay đầu biển khổ là bờ Lạc Bang
Hòa reo vui sống đạo vàng
Dấn thân tế độ trên đàng thi ân
Đẹp trong như thể trăng rằm
Thanh cao như thể từ tâm vô nghì
Kính mừng ngày Phật Đản Sanh
Vô Ưu thọ hạ, trong lành ban mai
Ca Tỳ La Vệ hoa cài
Thần dân quốc thích đem ngai rước về
Phạn Vương toại nguyện ước thề
Ma Gia mẫu hậu đợi chờ đã lâu
Nhạc trời trổi khúc đưa chầu
Thiên nhơn hớn hở cùng châu ta bà
Nay mừng Thái tử Đạt Đa
Mai sau thành đạo Thích Già Mâu Ni
Hoằng khai giáo pháp từ bi
Ngàn phương muôn hướng đều vì độ sanh
Kính mừng ngày Phật Đản Sanh
Cùng nhau thiết lễ chân thành thiết tha
Bất luận nam nữ trẻ già
Giàu nghèo không kể gần xa không màng
Bất luận thành thị thôn trang
Cũng đều mở hội Đàn Tràng trang nghiêm
Gióng chuông pháp cổ vang rền
Mười phương ba cõi hoan nghênh cúng dường
Kính mừng ngày Phật Đản Sanh
Đất kia cũng thấm trời xanh cũng nhuần
Đưa tay vận chuyển pháp luân
Vô thỉ độ tận vô chung độ cùng
Ngu si tật đố lao lung
Tiểu nhân cũng hướng anh hùng cũng quy
Tiểu nghi cho đến đại nghi
Từ nay đã biết đường đi lối về
Dòng sông ôm ấp con đê
Đầu nguồn cuối ngọn đề huề nước reo
Kính mừng ngày Phật Đản Sanh
Muôn phương ngàn hướng chúng sinh đều nhờ
Thanh gươm trí tuệ đưa vèo
Bặt đường sinh tử đẳng đeo luân hồi
Giong thuyền Bát nhã ra khơi
Cứu người lặn hụp vớt người trầm kha
Ai còn đắm đuối la đà
Lên xe ba cỗ về nhà Như Lai
Ai còn bớt một thêm hai
Kìa trông trước ngõ hoa mai trỗ rồi
Ai còn lóng ngóng đứng ngồi
Ba rừng giáo lý núi đồi mở toang
Khắc in dấu ấn triện son
Kính mừng Phật Đản hằng còn muôn năm.
Thích Nhật Tân Mặc Giang
***
Cách đây 2644 năm, vào ngày trăng tròn tháng tư, tại vườn ngự uyển Lâm-tỳ-ni (Lumbini), thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu), “một Chúng Sanh duy nhất, một Con Người phi thường xuất hiện trong thế gian này, vì lợi ích cho phần đông, vì hạnh phúc của phần đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại” (kinh Tăng nhất A-hàm).
Chúng Sanh duy nhất đó, Con Người phi thường đó chính là Thái tử Tất-đạt-đa (Siddhārtha), con vua Tịnh Phạn (Śuddhodana) và hoàng hậu Ma-da (Mahā-māyā), Người sau này đã từ bỏ cung vàng điện ngọc để xuất gia và trở thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh, Ngài là Phật, là Thế Tôn.
Lịch sử ghi nhận rằng, khi vừa Đản sanh, Đức Phật ngoan đồng đã đi bảy bước, mỗi bước đều có hoa sen đở chân, đến bước thứ bảy thì dừng lại và tuyên ngôn rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử” (Kinh Trường A-hàm).
Nhân mùa Phật đản Phật lịch 2564, chúng con thành kính khể thủ đấng Đại Từ Phụ, xin Ngài soi sáng cho chúng con được thâm nhập kinh tạng, để chúng con thấu hiểu được lời Ngài, để những điều chúng con sắp trình bày không làm “oan cho ba đời chư Phật” và cũng không “đồng với ma thuyết”!
1. Ý nghĩa xã hội
Xã hội Ấn Độ bấy giờ phân định thành bốn giai cấp: Bà-la-môn, Sát-lị, Phệ-xá và Thủ-đà-la. Giai cấp dưới có bổn phận phục vụ giai cấp trên. Giai cấp Bà-la-môn còn chủ trương vật tư hữu của bốn giai cấp, mà theo đó, vật tư hữu của Bà-la-môn là sự khất thực, của Sát-lị là cung tên, của Phệ-xá là nông nghiệp, của Thủ-đà-la là lưỡi liềm và đòn gánh. Với sự phân định như vậy, quyền con người hoàn toàn bị tước đoạt, và giá trị con người không thể vượt qua giai cấp, dù cho họ có cố gắng đến đâu.
Đức Phật đản sanh, sau khi trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tu tập, đã chứng nghiệm rằng không hề có cái phân định giai cấp phi lý đó, bởi “Ta (ngã) là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Phàm nghiệp nào ta làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy” (Tăng chi bộ kinh). Rõ ràng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng đã tạo. Cho nên, không ai cho mình hạnh phúc, cũng chẳng ai bắt mình khổ đau; hay nói cách khác, con người tự làm cho mình trở nên đáng được tôn quý, và cũng tự làm cho mình trở nên hạ tiện, mà không hề bị một ai có quyền năng ban phước hay giáng họa.
Từ đó chúng con hiểu tuyên ngôn của Ngài: Dù chúng sanh ở trên trời, hay chúng sanh ở dưới trời, chỉ có tự mình (duy ngã) làm cho mình trở nên tôn quý, chỉ có mình mới giúp mình thoát khỏi khổ đau sanh, già, bệnh, chết.
Đây là bản tuyên nhân quyền đầu tiên trong lịch sử của nhân loại, đề cao vai trò cá nhân, khẳng định con người hoàn tự chủ, tự quyết giá trị đạo đức của chính mình thông qua hạnh nghiệp do mình gây tạo. Bằng tuyên ngôn này, Đức Phật đã gióng lên tiếng chuông thức tỉnh, đánh động những cái “TA” đang còn ngủ quên hay bị vấp vùi, bị an bài trong những giáo điều phi lý, những quy định bất công của xã hội, hãy nhìn lại giá trị đáng tôn, đáng kính của chính mình. Thật nhân bản thay!
2. Ý nghĩa tôn giáo
Trong kinh Đại Bát-niết-bàn, phẩm Như Lai Tánh, Đức Phật dạy: “Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sanh chẳng nhận thấy được”.
Từ ý nghĩa của phẩm kinh này, chúng con hiểu tuyên ngôn của Ngài: “Trên trời hay dưới trời, chỉ có Phật tánh là tôn quý, (Phật tánh này) sẽ cứu độ chúng sanh thoát khỏi khổ đau sanh, già, bệnh, chết”.
Đức Phật từng khẳng định tất cả chúng sanh đều có đầy đủ phước đức và trí tuệ của Như Lai, tức đều có khả tính thành Phật: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Cho dù chúng sanh bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi, có khi sanh lên trời, có khi rơi xuống địa ngục, thì Phật tánh của chúng sanh vẫn còn nguyên vẹn, không tăng không giảm, không sanh không diệt. Vì vậy mà tất cả chúng sanh đều đáng được tôn kính bình đẳng như nhau.
Mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, như viên minh châu nằm trong chéo áo, vậy mà chẳng nhận ra, đến nỗi vì miếng cơm manh áo phải tha hương cầu thực, lênh đênh theo dòng đời, trải qua đêm dài sanh tử, chịu vô lượng khổ đau. Thật đáng thương thay!
***
Mùa Phật đản sanh lần thứ 2644, tranng tangthuphathoc.net, kính mời chư Tôn đức, Phật tử nghe hai bài viết ngắn: “Tuyên Ngôn Phật Đản Sanh và Mơ Một Mùa Phật Đản”
TUYÊN NGÔN PHẬT ĐẢN SANH
Thích Nguyên Hùng
Từ những lời kinh…
Cách đây hơn 2644 năm, vào ngày trăng tròn tháng Tư, tại vườn ngự uyển Lumbini, thành Kapilavastu, “một Chúng sanh duy nhất, một Con người phi thường xuất hiện trong thế gian này, đã đem nhiều lợi ích cho người, an ổn chúng sanh, thương đời ngu tối, muốn khiến trời người có được phước hựu”.
Chúng sanh duy nhất đó, Con người phi thường đó chính là Thái tử Siddhārtha, con vua Śuddhodana và hoàng hậu Mahā-māyā, người sau này đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, từ bỏ vinh hoa phú quý để xuất gia và trở thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Ngài là Phật, là Thế Tôn.
Lịch sử ghi nhận rằng, khi vừa Đản sanh, Đức Phật ngoan đồng “đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa.
Các nguồn sử liệu và kinh điển khác thì ghi nhận lời tuyên ngôn ấy là “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử”. Hay “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, tam giới giai khổ, ngô đương an chi”.
Lời tuyên bố ấy được gọi là chân chính rống tiếng rống như sư tử chúa. Vì sao như vậy?
Đức Phật là bậc tối thượng ở trên đời bởi vì khi Ngài xuất hiện thì vô minh tối tăm liền tự tiêu diệt.
Muôn loài chúng sanh, những kẻ phàm ngu đang bị kiết sử trói buộc bởi vô minh nên không biết như thật về con đường sanh tử, luân hồi qua lại từ đời này qua đời sau, từ kiếp này qua kiếp nọ, không cởi trói được. Chúng sanhđang bị giam giữ trong ngục tù ba cõi! Nhưng “nếu lúc đó có Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác xuất hiện ởthế gian, thì vô minh tối tăm liền tự tiêu diệt”.
Kinh Trường A-hàm ghi rằng, khi Đức Phật từ cõi trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ thì ngay lúc ấy, “cõi đất rung chuyển, ánh sáng rực rỡ soi khắp thế gian; những chỗ mặt trời mặt trăng không soi tới cũng đều mong nhờ chiếu sáng. Chúng sanh chốn u minh nhờ đó được trông thấy lẫn nhau và tự biết mình hiện đang sanh ở chỗ nào. Ánhquang minh đó lại soi đến cung điện Ma vương, Phạm thiên, Đế thích, Sa-môn, Bà-la-môn và các chúng sanh khác cũng đều được mong nhờ ánh sáng. Ánh sáng của chư thiên tự nhiên biến mất”.
Đọc những lời kinh trên đây trong bối cảnh hiện tại càng thấy ý nghĩa nhiệm mầu thâm sâu của nó. Thật vậy, nếu không có ánh sáng quang minh từ bi và trí tuệ của Đức Phật thì làm sao chúng sanh trên thế gian này được soi sángđể được trông thấy mặt nhau? Vua Ba-tư-nặc đã từng tâm sự: “Con người vì tham lam, vì lòng ích kỷ mà dẫn đến tình trạng cha tranh giành với con, anh em tranh chấp lẫn nhau, làng xóm láng giềng đấu tố kiện tụng nhau… gây nên bao cảnh chém giết, hận thù không dứt”. Bóng tối vô minh, hận thù, kỳ thị, phân biệt, vị ngã, dối trá… bao trùm lên đời sống nhân loại, thống trị trong tâm thức của mỗi con người thì làm sao chúng ta có thể trông thấy mặt nhau, làm sao nhìn nhau mà mỉm cười dù gần nhau trong gang tấc, đối diện nhau hàng ngày? Cho nên, chỗ tối tăm nhất của cuộc đời là lòng người chứa đầy tham giận, si mê, chứa đầy hận thù, ích kỷ… Ở đó ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể nào soi rọi thấu được. Đó là chỗ chúng sanh không trông thấy lẫn nhau và chẳng tự biết hiện mình đang sống. Chư Phật ra đời là để phá tan màn vô minh đen tối đó bằng ánh sáng từ bi và trí tuệ, để xoa dịu khổ đau, hóa giải hận thù, cắt đứt phiền não, quét sạch si mê vọng tưởng chấp trước, phân biệt… cho chúng sanh sự sống hạnh phúc vĩnh hằng.
Đức Phật là bậc tối tôn ở trên đời bởi vì khi Ngài xuất hiện thì “bấy giờ Trời Người liền được thấm nhuần ánh sáng, liền có tín tâm nơi giới, văn, thí, tuệ. Giống như ánh trăng tròn mùa thu vằng vặc chiếu khắp mọi nơi, thì ở đây cũng vậy, nếu Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác xuất hiện thế gian thì Trời Người liền được thấm nhuần ánh sáng, liền có lòng tin đối với giới, văn, thí, tuệ, như trăng tròn chiếu khắp tất cả”.
Nhờ có Đức Phật xuất hiện ở đời mà “chúng sanh ba đường ác liền tự giảm thiểu. Giống như đất nước lúc có Thánh vương cai trị giáo hóa thì nhân dân trong thành này đông mạnh, nước láng giềng sức yếu hơn, ở đây cũng vậy, nếu lúc Như Lai xuất hiện thế gian thì ba đường ác liền tự giảm thiểu”.
Ba đường ác liền tự giảm thiểu, mở ra con đường giác ngộ giải thoát, đi tới cõi lành, cõi Niết-bàn vô dư, bởi khi Đức Phật xuất hiện ở thế gian “liền có ba mươi bảy phẩm xuất hiện ở thế gian. Những gì là ba mươi bảy phẩm đạo? Đó làbốn niệm xứ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám Thánh đạo liền xuất hiện ở thế gian”.
Bởi vậy, Đức Phật là bậc cao nhất ở trên đời! Khi Ngài “xuất hiện ở thế gian không có một ai bắt kịp, không thể bắt chước, đi một mình, không bạn lữ, không ai sánh ngang; chư thiên cùng loài người không ai có thể sánh kịp; nơi tín, giới, văn, thí, tuệ cũng không ai sánh kịp”. Trên trời dưới trời, Phật là bậc tôn quý hơn cả!
đến thực tế xã hội…
Vả chăng, khi Đức Phật ra đời, xã hội Ấn Độ bấy giờ phân định thành bốn giai cấp: Bà-la-môn, Sát-lị, Phệ-xá và Thủ-đà-la. Giai cấp dưới có bổn phận phục vụ giai cấp trên. Giai cấp Bà-la-môn còn chủ trương vật tư hữu của bốn giai cấp, mà theo đó, vật tư hữu của Bà-la-môn là sự khất thực, của Sát-lị là cung tên, của Phệ-xá là nông nghiệp, của Thủ-đà-la là lưỡi liềm và đòn gánh. Với sự phân định như vậy, quyền con người hoàn toàn bị tước đoạt, và giá trịcon người không thể vượt qua giai cấp, dù cho họ có cố gắng đến đâu. Do đó, Đức Phật ra đời, sau khi trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tu tập, Ngài đã chứng nghiệm rằng không hề có cái phân định giai cấp phi lý đó, bởi “Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy”. Rõ ràng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng đã tạo. Cho nên, không ai cho mình hạnh phúc, cũng chẳng ai bắt mình khổ đau; hay nói cách khác, con người tự làm cho mình trở nên đáng được tôn quý, và cũng tự làm cho mình trở nên hạ tiện, mà không hề bị một ai có quyền năng ban phước hay giáng họa.
Từ đó chúng ta hiểu tuyên ngôn của Đức Phật ngoan đồng: Dù chúng sanh ở trên trời, hay chúng sanh ở dưới trời, chỉ có tự mình (duy ngã) làm cho mình trở nên tôn quý, chỉ có mình mới giúp mình thoát khỏi khổ đau sanh, già, bệnh, chết.
Đây là bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên trong lịch sử của nhân loại, đề cao vai trò cá nhân, khẳng định con ngườihoàn toàn tự chủ, tự quyết giá trị đạo đức của chính mình thông qua hành nghiệp do mình gây tạo. Bằng tuyên ngônnày, Đức Phật đã gióng lên tiếng chuông thức tỉnh, đánh động những cái “Ta” đang còn ngủ quên hay bị vấp vùi, bị an bài trong những giáo điều phi lý, những quy định bất công của xã hội, hãy nhìn lại giá trị đáng tôn, đáng kính của chính mình. Thật nhân bản thay!
và thăng hoa tâm thức
Trong kinh Đại bát Niết-bàn, phẩm Như Lai tánh, Đức Phật dạy: “Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sanhđều có Phật tánh, tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sanh chẳng nhận thấy được”.
Từ ý nghĩa của phẩm kinh này, chúng ta hiểu tuyên ngôn của Đức Phật: “Trên trời hay dưới trời, chỉ có Phật tánh là tôn quý, (Phật tánh này) sẽ cứu độ chúng sanh thoát khỏi khổ đau sanh, già, bệnh, chết”.
Đức Phật từng khẳng định tất cả chúng sanh đều có đầy đủ phước đức và trí tuệ của Như Lai, tức đều có khả tínhthành Phật: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Cho dù chúng sanh bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi, có khi sanh lên trời, có khi rơi xuống địa ngục, thì Phật tánh của chúng sanh vẫn còn nguyên vẹn, không tăng không giảm, không sanh không diệt, không tịnh không nhiễm. Vì vậy mà tất cả chúng sanh đều đáng được tôn kính bình đẳng như nhau.
Mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, như viên minh châu nằm trong chéo áo, vậy mà chẳng nhận ra, đến nỗi vì miếng cơm manh áo phải tha hương cầu thực, lênh đênh theo dòng đời, trải qua đêm dài sanh tử, chịu vô lượng khổ đau. Thật đáng thương thay!
****
Mơ Một Mùa Phật Đản
Ngày nay Đại Lễ Vesak (Hợp nhất của ba ngày Đản Sinh, Thành Đạo và Nhập Diệt) của Đức Phật đã được Liên Hiệp Quốc công nhận. Trong ngày lễ này, Tổng Thư Ký LHQ, các vị nguyên thủ quốc gia, các giới chức chính quyền cao cấp tại những quốc gia Phật Giáo, hoặc tham dự hoặc gửi điện văn chúc mừng, chiêm bái tự viện, viếng thăm hoặc dâng hoa cúng dường chư tăng ni và Lễ Hội Phật Đản đã được quần chúng tổ chức trang nghiêm, cung kính.
Tuy nhiên theo thiển ý nó vẫn chưa cân xứng với tầm vóc của một tôn giáo hiện diện trên 2500 năm mà vị giáo chủ là một bậc thầy vĩ đại của nhân lọai mà giáo pháp của Ngài đang dần dần trở thành Lương Tâm Của Nhân Lọai. Một tôn giáo mà quá trình phát triển của nó không làm tổn hại tới một sinh linh, không hủy diệt văn hóa, truyền thống bản địa, không bị kết tội diệt chủng, không gây thánh chiến, không khủng bố, không tiến hành những cuộc chinh phạt đẫm máu. Một tôn giáo Tối Thiện, Tối Lành, Thực Tiễn nhưng vô cùng Khiêm Tốn. Một tôn giáo như thế thì ngày đản sanh của đức giáo chủ phải được tổ chức như thế nào- không ngòai mục đích làm sáng tỏ những đức tính ưu thắng của Phật Giáo, đồng thời cũng là dịp để chúng sinh được tắm gội trong “pháp vũ”, hiển lộ Phật tánh có sẵn trong Tâm mình, để từng chúng sinh, từng bộ tộc, từng quốc gia hoặc toàn thế giới, ít ra có một ngày sống trong Thanh Tịnh, Giải Thóat, Yêu Vui, Thương Yêu, Cảm Thông với nhau. Trong tinh thần đó, tôi đã mơ một Mùa Phật Đản trong đó những gì chúng ta không nên làm và những gì chúng ta cần phải làm. Những điều đó như sau:
1) Không nên mua sắm ồn ào, tiệc tùng hoang phí, đốt pháo bông (pháo hoa). Thanh niên, thiếu nữ không nên lái xe đua lượn trên đường phố để biến ngày linh thiêng thánh thiện thành một ngày gây chết chóc vì tại nạn lưu thông, ăn nhậu thỏa thích, là một dịp để chào hàng, quảng cáo, bán buôn, tiêu thụ.
2) Là ngày mà các nhà máy nghỉ ngơi, tạm ngưng nhả khói lên trời để tòan dân được thở hít không khí trong lành. Mùa Phật Đản cũng là mùa bảo vệ môi trường.
3) Ngày mà các lò sát sinh ngưng họat động để chúng ta không tạo thêm nghiệp dữ, và cũng để cho trâu, bò, lợn, gà… có thể sống thêm một ngày, vì lòai vật cũng có tình cảm và yêu mến cuộc sống như chúng ta. Ngày Phật Đản là ngày không giết hại và bảo vệ thú vật.
4) Ngày mà các trò chơi săn bắn, đua ngựa, đấu bò, chọi gà, câu cá…cũng tạm ngưng để cho lòai thú được nghỉ ngơi, chúng nó được rong chơi, chúng nó được nhởn nhơ, bơi lội, bay lượn.
5) Ngày mà nhà nhà, người người đều ăn chay, không cần những món ăn cầu kỳ …vừa bảo vệ sức khỏe, hơi thở nhẹ nhàng thơm tho, vừa nhắc nhở mình trau giồi đạo đức.
6) Ngày mà phụ nữ không đeo nữ trang, không mặc áo lông thú, không xức nước hoa bởi vì người phụ nữ không phải chỉ đẹp vì kim cương, vàng bạc, lụa là mà còn đẹp vì phẩm hạnh nữa.
7) Ngày mà các các quán nhậu, bia ôm, tắm hơi, đấm bóp, phòng trà, ca vũ, sòng bài cũng tạm đóng cửa để tâm hồn được thanh thản, để có dịp lắng đọng tâm tư, giống như những giây phút nghỉ ngơi cho một một chiếc xe, một con tàu trong cuộc hành trình dài.
8) Ngày mà các pháp đình ngưng xét xử, án tử hình cũng khoan thi hành để các quan tòa bớt đau đầu nhức óc, để các luật sư bớt chộn rộn lo toan, để tử tội được hưởng thêm một ngày sống sót.
9) Ngày mà chúng ta bảo nhau đi thăm viếng các trại giam, an ủi các phạm nhân bởi xét cho cùng họ đều là những người đáng thương, là nạn nhân của nguồn tam độc Tham-Sân-Si giống như Vua Lý Thánh Tông ngồi xử án ở Điện Thiên Khánh năm 1064 đã chỉ vào Động Thiên Công Chúa đang đứng bên cạnh mình và phán với triều thần “ Trẫm yêu thương thần dân của trẫm cùng nhiều như yêu thương con gái trẫm. Họ phạm tội vì họ không biết (luật) và trẫm có nhiều tình thương cho họ. Từ nay trở đi, trẫm muốn tất cả các tội phạm, nặng hay nhẹ, đều phải được xét xử với sự khoan hồng.” Làm được như thế thì chúng ta đã thể hiện đúng lời nguyện của Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát và làm sống lại thời đại huy hòang Đinh- Lê-Lý-Trần.
10) Ngày mà chúng ta bảo nhau đi thăm các cô nhi viện, cho các em ăn, cho các em tắm, cho các em đồ chơi, an ủi người già trong các viện dưỡng lão, tặng những đóa hoa cho những người côi cút. Sự thăm viếng, ủi an…dù chỉ là trong đôi phút nhưng quý gía vô vàn bởi vì chúng ta không quên nhau.
11) Ngày mà mọi người khi ra đường chào nhau bằng tiếng “A Di Đà Phật” hoặc “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”. Thái Tử Tất Đạt Đa là Phật đã thành, tất cả chúng ta đều là Phật sẽ thành.
12) Ngày mà tâm ý mọi người thật nhẹ nhàng, bao dung, cử chỉ khoan thai. Không vội vàng. Không hấp tấp. Không nóng giận. Ngày mà mọi tranh chấp đều có thể bỏ qua, vui mà xả bỏ do đó mà cảnh sát, an ninh, tòa án, chính quyền cũng bớt đau đầu, căng thẳng. Ngày không có lời đay nghiến, nguyền rủa, kết tội, nhục mạ, đánh đập, tra tấn. Một ngày thật thanh tịnh, an lành. Làm được như thế là chúng ta đã “đồng cư Tịnh Độ” với các bậc hiền thánh.
13) Ngày mà khắp nơi treo đèn kết hoa, người người bảo nhau thăm viếng chùa chiền, cúng dường chư tăng ni. Còn đối với chư tăng ni, đây là dịp để quán xét lại mình, xem mình có xứng đáng là bậc “Ứng Cúng”, theo đúng lời dạy của Thế Tôn? Có xứng đáng là đấng “trưởng tử của Như Lai” không?
14) Ngày mà quê hương đất nước không có một tiếng khóc, không tiếng oán than. Ngày tặng quà, thực phẩm, thuốc men, tài vật cho người nghèo khó. Ngày mà không một ai bị bỏ rơi. Mọi người đều được quan tâm, được an ủi, được giúp đỡ.
15) Ngày mà chúng ta gửi những tấm thiệp chúc lành tới bằng hữu, thầy cô, gọi là Thiệp Phật Đản. Ở xa nếu không thể về thăm, thì cũng gọi điện thọai, gửi điện thư chúc mừng cha mẹ, anh chị em được tăng tuổi thọ và “thân tâm thường an lạc”.
16) Nhưng dù sao, tất cả những gì nói ở trên vẫn thuộc “hình, danh, sắc, tướng”. Chúng ta phải làm sao để tất cả cùng được hưởng những giây phút bình an “thân tâm vắng lặng” và đó cũng chính là chỗ an trú của Chư Phật và Chư Bồ Tát. Thiết nghĩ, sau khi đã làm tất cả những gì nói ở trên, chúng ta nên tổ chức một cuộc tọa thiền vĩ đại tại một trung tâm, một quảng trường, một đạo tràng giống như Đạo Tràng Dhammakaya Cetiya ở Thái Lan với sức chứa khoảng 1 triệu người. Trong cuộc tọa thiền vĩ đại này, sau lễ cầu cho Quốc Thái Dân An, dưới sự hướng dẫn của chư tăng, ni tất cả sẽ ngồi trong tư thế kiết già, lắng đọng tâm tư, nhập chánh định. Tôi nghĩ rằng trong giờ phút linh thiêng, màu nhiệm này đây, các vầng mây ấm áp, vầng mây kiết tường, các vầng mây hỉ xả, các vầng mây giải thóat sẽ theo gió mà bay tới, chư Thiên, Trời Đế Thích, Thiên Long Bát Bộ sẽ trải hoa tán tán ở trên không và “Chư Phật Hải Hội Tất Dao Văn”. Chỗ chúng ta đang ngồi là Đất Phật, là Quốc Độ là Tịnh Độ, là Tòa Sen tỏa ngát hương thơm, còn gì hoan hỉ cho bằng?
Trải qua hơn 2000 năm, con người đã quỳ lạy, van vái, cầu nguyện thần linh nhưng thế giới ngày hôm nay quá nhiều hận thù (hatred), quá nhiều bạo lực (violence), quá nhiều căng thẳng (stress), quá nhiều thúc ép (pressure), quá nhiều thuốc ngủ, thuốc an thần và dĩ nhiên quá nhiều đau khổ. Đã đến lúc chúng ta phải “tự thắp đuốc lên mà đi” như lời Phật dạy. Bằng nỗ lực và trí tuệ con người đã khám phá ra trái đất quay chung quanh mặt trời. Bằng bằng nghiên cứu con người đã có thể bay trên trời bằng chiếc máy bay, thám hiểm và bước ra ngòai không gian bằng chiếc phi thuyền. Bằng khoa học, con người đã có thể đi dưới nước bằng chiếc tàu ngầm, có thể chế ra thuốc men để chữa bệnh. Vậy thì cũng bằng nỗ lực và trí tuệ con người có thể tự kiến tạo hạnh phúc cho chính mình. Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng ở bất cứ nơi nào khác. Ngày Phật Đản là một thuận duyên tốt lành nhất để làm điều đó và chúng ta có thể làm được. Trong tinh thần Bi-Trí-Dũng, thì Dũng là điều quan trọng nhất. Dũng ở đây không có nghĩa là dũng cảm tiến lên tiêu diệt quân thù, hoặc tiến lên để giành chiến thắng. Mà Dũng có nghĩa là dũng cảm làm điều thiện, dũng cảm chiến đấu với những điều bất thiện, dũng cảm đương đầu với những cám dỗ không chính đáng, dũng cảm chiến đấu chống lại sự kiêu căng, ngã mạn trong con người mình. Cuộc chiến đấu này rất cam go mà nếu không chiến thắng được thì Bạo Lực, Tham Tàn, Kiêu Căng, Cuồng Điên, Vô Minh sẽ lên ngôi thống trị. Lúc đó con người sẽ trở thành một sức mạnh để hủy diệt chính nó và hủy diệt đồng lọai. Ý nghĩa của Đại Hùng, Đại Lực của nhà Phật là như thế đó.
Nói về hạnh phúc và an vui chung, chúng ta đừng tưởng rằng chúng ta có thể sống thản nhiên trước sự nghèo đói, khổ đau và ngu dốt của người khác. Chúng ta đang sống trên hành tinh này, ẩn dụ như tất cả cùng ngồi trên một con tàu. Giả sử trên con tàu có một ngàn người mà chỉ có khoảng 100 người được ăn uống no đủ, trang phục đẹp đẽ và học hành tới nơi tới chốn. Chín trăm con người còn lại đều là những người thiếu ăn, thiếu mặc, không được học hành chi cả …thì số phận con tàu sẽ như thế nào? Ý niệm cộng nghiệp của nhà Phật cho thấy chúng ta không những chỉ chết vì nghiệp dữ của mình gây tạo trong quá khứ mà còn chết vì cộng nghiệp. Cứ nhìn vào lịch sử lòai người khoảng một thế kỷ nay thôi chúng ta thấy sự Nghèo Đói và Ngu Dốt là vũ khí hủy diệt còn ghê gớm hơn bom nguyên tử.
Ngay tại Hoa Kỳ là quốc gia giàu mạnh nhất thế giới, có những khu gần như bỏ hoang, ít ai dám cư ngụ chỉ vì dân ở đây nghèo quá và không được học hành. Cho nên để thế giới này yên vui và cũng là để bảo vệ hạnh phúc của chính mình, chúng ta phải quan tâm đến người khác. Sau khi đã phấn đấu với đời để ngoi lên, chúng ta cần san sẻ bớt thực phẩm, quần áo cho người nghèo khó. Hãy cho họ ăn no như chúng ta được ăn no. Hãy cho những người kém may mắn được học hành, mở mang trí tuệ như chúng ta đã được học hành, mở mang trí tuệ. Chúng ta đã có tình thương rồi thì san sẻ một chút tình thương cho đồng lọai. Chư vị Bồ Tát là những vị đã vượt qua nỗi bất hạnh của chúng sinh, quay trở lại nhìn chúng sinh, xót thương mà phát nguyện cứu độ. Chúng ta thờ phượng chư vị Bồ Tát là thờ phượng cái hạnh nguyện “cứu đời, cứu khổ” của các ngài, và chúng ta sẽ trở thành Bồ Tát khi chúng ta làm đúng những gì chư vị Bồ Tát đã làm.
Tinh hoa của Đạo Phật, sự linh thiêng, thánh thiện, sự trường tồn trong gian khổ của Đạo Phật là ở chỗ đó. Làm như thế là chúng ta sẽ thể hiện đúng tinh thần của Ngài Phổ Hiển Bồ Tát trong Pháp Hội Hoa Nghiêm “Hằng thuận lợi ích của chúng sinh là cúng dường chư Phật.”
Ngày Phật Đản là một thuận duyên lớn lao để thể hiện hạnh nguyện này. Xin trình bày với tất cả tấm lòng để những bậc thiện tri thức cùng chia xẻ./.
Đào Văn Bình
(Trích trong Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017)