Bài Viết Lưu Trữ

Đại Tạng Kinh

QUÁN NIỆM A DI ĐÀ PHẬT TƯỚNG HẢI TAM MUỘI CÔNG ĐỨC PHÁP MÔN

SỐ 1959

Tỳ-kheo Thiện Đạo tập ghi.

-Y theo Kinh Quán nói pháp Quán Phật Tam-muội.
-Y theo Kinh Ban-chu nói pháp Niệm Phật Tam-muội.
-Y theo Kinh nói pháp Nhập Đạo Tràng Niệm Phật Tam-muội.
-Y theo Kinh nói phát Đạo Tràng Sám Hối Phát Nguyện.

1) Theo Kinh Quán nói Pháp Quán Phật Tam-muội. (Trích trong Kinh Quán, Quán Phật Tam-muội Hải Kinh).

Quán Phật A-di-đà sắc thân vàng ròng ánh sáng suốt chiếu đoan chánh đẹp đẽ không gì sánh. Hành giả mọi lúc mọi nơi ngày đêm thường khởi tưởng này, đi đứng ngồi nằm cũng khởi tưởng này. Thường chú ý hướng về phương Tây và các Thánh chúng, tất cả các báu vật và tướng trang nghiêm như hiện trước mắt, nên biết.

Hành giả khi muốn ngồi trước phải ngồi kiết già, chân trái đặt trên vế phải, chân phải đặt trên vế trái, tay phải đặt trong lòng bàn tay trái, hai đầu ngón tay cái giao nhau. Thân mình thẳng mà ngồi, mắt nửa khép nửa mở. Dùng tâm nhãn nhìn lên đảnh Phật quán loa kế (búi thịt) da đầu màu vàng ròng, tóc màu xanh biếc, mỗi sợi tóc xoắn lại thành trôn ốc xương sọ màu trắng tuyết trong ngoài trong suốt, não như pha lê. Kế tưởng não có mười bốn mạch, mỗi mỗi mạch có mười bốn luồng sáng. Từ chân tóc phát ra có bảy vòng xoắn ốc lại từ đầu lông mà vào. Kế tưởng ánh sáng trước từ hai lông mày phát ra. Lại tưởng trán bằng phẳng rộng ngay. Kế tưởng mày cao mà dài như vành trăng khuyết. Kế tưởng giữa chặn mày có tướng lông trắng cuộn lại. Lông mày ở trong rỗng ruột phóng ra ánh sáng sắc vàng ròng từ đầu lông chiếu thẳng vào mình Như Lai, như kinh Quán Phật Tam-muội nói: Như có người quán tưởng bạch hào (lông trắng) trong chốc lát hoặc thấy hoặc không thấy liền trừ hết chín mươi sáu ức na-do-tha hằng hà sa vi trần số kiếp sinh tử trọng tội. Nếu thường khởi quán tưởng này thì rất hay từ chướng diệt tội. Lại được vô lượng công đức, chư Phật hoan hỷ. Sau đó tưởng hai mắt Phật rộng dài trắng đen rõ ràng sáng rỡ trong suốt. Kế tưởng mũi cao thẳng như lưỡi mát đúc. Lại tưởng mặt đầy đặn không hóp, rồi tưởng tai dài dái tai lớn, lỗ có bảy sợi lông, ánh sáng từ lông phóng ra chiếu sáng thân Phật. Tưởng môi sắc đỏ sáng tươi thắm. Kế tưởng răng trắng đều khít như ngọc kha nguyệt trong ngoài trong suốt. Sau tưởng lưỡi dày rộng dài mềm mại. Cuốn lưỡi có hai đường tiết tân dịch đổ vào yết hầu vào thẳng tim chúa. Tim Phật như hoa sen hồng nửa nở nửa khép. Có tám vạn bốn ngàn lá, lá lá xếp lớp, mỗi lá có tám vạn bốn ngàn mạch, mỗi mạch có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, mỗi ánh sáng có trăm sen báu, trên mỗi hoa có Thập Địa Bồ-tát thân vàng ròng tay cầm hương hoa cúng dường Tim chúa… Hành giả khi khởi tưởng này thì diệt trừ tội chướng, được vô lượng công đức, chư Phật Bồ-tát hoan hỷ, thiên thần quỷ thần vui mừng lại kéo tâm hướng lên trên. Kế tưởng có cổ tròn, hai vai tròn trịa. Lại tưởng hai cánh tay tròn dài. Kế tưởng hai bàn tay đầy đặn có ngàn xoắn ốc mười ngón nhọn dài, lóng tay dài, móng màu hồng sáng lại kéo tâm hướng lên. Kế tưởng ngực Phật tròn đầy, chữ Vạn Đức sáng tỏ. Lại tưởng bụng bằng không hiện. Sau tưởng rốn tròn sâu thường có ánh sáng phóng ra. Kế tưởng tướng âm tàng bằng đầy như đêm trăng rằm, phía lưng cũng bằng phẳng không khác. Phật nói nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào tham nhiều sắc dục nên tưởng tướng âm tàng của Như Lai thì dục tâm liền ngưng, tội chướng trừ hết được vô lượng công đức, chư Phật hoan hỷ, Thiên thần quỷ thần hảo tâm ủng hộ, sống lâu an lạc vĩnh viễn không tật bệnh. Kế tưởng hai đùi vế đầu gối tròn trịa. Tiếp tưởng hai bắp chân như chân nai. Lại tưởng hai gót chân như mũi (vòi) voi. Lại tưởng hai mu bàn chân cao như lưng rùa. Rồi tưởng mười ngón chân dài có móng màu đồng đỏ tươi. Kế tưởng Phật ngồi kiết già chân trái đặt trên đùi phải, chân phải đặt trên đùi trái. Kế tưởng hai bàn chân bằng phẳng có ngàn xoắn ốc bánh xe đầy đủ có ánh sáng chiếu khắp mười phương cõi. Từ đảnh xuống chân đến ngàn xoáy ốc thì gọi là quán sắc thân Phật đầy đủ trang nghiêm công đức, gọi là quán thuận. Kế lại tưởng hoa tòa rồi tưởng đài hoa. Kế tưởng cánh hoa, cánh xen lớp nhau, tám vạn bốn ngàn lớp. Trên mỗi mỗi cánh tưởng có trăm ức Bảo Vương trang nghiêm. Trên mỗi bảo có tám vạn bốn ngàn ánh sáng chiếu trên thân Phật. Kế tưởng cành hoa báu có tám mặt, mỗi mỗi mặt có trăm ngàn các báu trang nghiêm phóng ánh sáng lớn trên dưới đều chiếu. Kế tưởng dưới cành hoa nương vào đất báu. Trên đất các báu đều phóng tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng chiếu thân Phật và chiếu cả mười phương sáu đạo. Cũng tưởng tất cả ánh sáng chiếu chạm tự thân hành giả. Khi làm tưởng này thì tội chướng diệt trừ được vô lượng công đức, chư Phật Bồ-tát hoan hỷ các thiên thần quỷ thần cũng vui mừng, ngày đêm theo bảo hộ hành giả, đi đứng ngồi nằm thường được an ổn, sống lâu giàu vui dứt hẳn bệnh tật. Theo lời dạy của Phật được thấy việc Tịnh độ. Nếu thấy chỉ tự biết không được nói với người khác thì có tội lớn, sẽ phải chiêu cảm lấy báo ác bệnh chết non. Nếu thuận theo giáo môn thì khi lâm chung sẽ được vãng sinh nước Phật A-di-đà. Như thế trên dưới đều y theo mười sáu quán trước. Sau mới trụ tâm vào bạch hào giữa chặn mày. Rất cần phải khiến tâm chánh niệm không được tán loạn, tức mất định tâm, Tam-muội khó thành nên biết. Đó gọi là Quán Phật Tam-muội Quán Pháp. Trong mọi lúc thường hồi hướng sinh Tịnh độ. Nhưng chỉ y theo Kinh Quán mười ba quán thì an tâm ắt được không nghi ngờ. Lại xin thưa cùng các hành giả, muốn sinh Tịnh độ chỉ cần trì giới niệm Phật, tụng kinh Di-đà mỗi ngày mười lăm biến, hai năm được một vạn ngày riêng ba mươi biến một năm một vạn ngày riêng niệm một vạn biến Phật. Cũng cần theo thời mà lễ tán. Việc Tịnh độ trang nghiêm phải nên rất tinh tấn. Nếu có người được ba vạn, sáu vạn, mười vạn thì đều là người thượng phẩm thượng sinh. Còn các công đức khác thì đều hồi hướng vãng sinh. Từ trước là nói pháp Quán Phật Tam-muội.

Kinh Ban-chu Tam-muội: Xin hỏi phẩm nói bảy ngày bảy đêm pháp vào đạo tràng niệm Phật Tam-muội (trích Kinh Ban-chu Tammuội).

Phật dạy Bạt-đà-hòa rằng có Tam-muội gọi là mười phương chư Phật đều ở trước. Nếu ngươi làm pháp đó thì mọi hỏi han đều có thể được. Bạt-đà-hòa bạch Phật xin vì nói cho nghe. Nhiều khi qua mười phương được an ổn, vì chúng sinh mà hiện tướng sáng lớn. Phật bảo Bạt-đà-hòa có Tam-muội tên là Định Ý. Người học phải thường giữ gìn tu trì, không được làm các pháp khác. Là hạnh bậc nhất trong các công đức. Phẩm hạnh thứ hai nói: Phật bảo Bồ-tát Bạt-đà-hòa, nếu muốn nhanh chóng được Định ấy, thường lập Đại Tín, đúng pháp mà làm thì có thể được, chớ có nghi ngại dù nhỏ như sợi tóc. Pháp Định Ý ấy gọi là Bồ-tát Siêu Chúng Hạnh.

Lập một niệm
Tín là Pháp
Tùy chỗ nghe
Nghĩ phương ấy
Phải một niệm
Dứt các tưởng
Lập định tín
Chớ hồ nghi
Siêng năng làm
Chớ lười biếng
Chớ khởi tưởng
Có và không
Chớ nghĩ tới
Chớ nghĩ lui
Chớ nghĩ trước
Chớ nghĩ sau
Chớ nghĩ trái
Chớ nghĩ phải
Chớ nghĩ không
Chớ nghĩ có
Chớ nghĩ xa
Chớ nghĩ gần
Chớ nghĩ đau
Chớ nghĩ ngứa
Chớ nghĩ đói
Chớ nghĩ khát
Chớ nghĩ lạnh
Chớ nghĩ nóng
Chớ nghĩ khổ
Chớ nghĩ vui
Chớ nghĩ sinh
Chớ nghĩ già
Chớ nghĩ bệnh
Chớ nghĩ chết
Chớ nghĩ mạng
Chớ nghĩ tuổi thọ
Chớ nghĩ nghèo
Chớ nghĩ giàu
Chớ nghĩ sang
Chớ nghĩ hèn
Chớ nghĩ sắc
Chớ nghĩ dục
Chớ nghĩ nhỏ
Chớ nghĩ lớn
Chớ nghĩ dài
Chớ nghĩ ngắn
Chớ nghĩ tốt
Chớ nghĩ xấu
Chớ nghĩ ác
Chớ nghĩ thiện
Chớ nghĩ giận
Chớ nghĩ mừng
Chớ nghĩ ngồi
Chớ nghĩ dậy
Chớ nghĩ đi
Chớ nghĩ dừng
Chớ nghĩ kinh
Chớ nghĩ pháp
Chớ nghĩ phải
Chớ nghĩ quấy
Chớ nghĩ bỏ
Chớ nghĩ lấy
Chớ nghĩ tưởng
Chớ nghĩ thức
Chớ nghĩ đoạn
Chớ nghĩ trước
Chớ nghĩ không
Chớ nghĩ thật
Chớ nghĩ nhẹ
Chớ nghĩ nặng
Chớ nghĩ khó
Chớ nghĩ dễ
Chớ nghĩ sâu
Chớ nghĩ cạn
Chớ nghĩ rộng
Chớ nghĩ hẹp
Chớ nghĩ cha
Chớ nghĩ mẹ
Chớ nghĩ vợ
Chớ nghĩ con
Chớ nghĩ thân
Chớ nghĩ sơ
Chớ nghĩ ghét
Chớ nghĩ yêu
Chớ nghĩ được
Chớ nghĩ mất
Chớ nghĩ thành
Chớ nghĩ bại
Chớ nghĩ trong
Chớ nghĩ đục
Đoạn các niệm
Niệm nhất thời
Ý không loạn
Luôn tinh tấn
Chớ lo năm
Chớ lo ngày
Lập một niệm
Chớ nửa chừng
Trừ ngủ nghỉ
Luôn tinh ý
Thường riêng ngồi
Chớ tụ hội
Lánh kẻ ác
Gần bạn lành
Gần minh sư
Như thấy Phật
Giữ chí mình
Luôn yếu mềm
Quán bình đẳng
Đối tất cả
Ẩn quê nhà
Xa thân tộc
Bỏ ái dục
Tu thanh tịnh
Làm vô vi
Đoạn các dục
Bỏ loạn ý
Rèn định hạnh
Học văn tuệ
Tất như thiền
Trừ ba uế
Bỏ sáu nhập
Dứt dâm sắc
Lìa các ái
Chớ ham tiền
Nhiều chứa nhóm
Nghĩ tri túc
Chớ ham vị
Các sinh mạng
Chớ giết ăn
Mặc đúng pháp
Chớ lòe loẹt
Chớ chọc phá
Chớ kiêu mạn
Chớ tự đại
Chớ cống cao
Nếu nói kinh
Phải đúng pháp
Hiểu gốc thân
Do như huyễn
Chớ chịu ấm
Chớ vào giới
Ấm như giặc
Thứ như rắn
Là vô thường
Là chịu đựng
Luôn vô chủ
Hiểu vốn không
Nhân duyên hội
Nhân duyên tan
Đều là thế
Biết vốn không
Thêm Từ bi
Đối tất cả
Thí bần cùng
Cứu chẳng nhận đền trả
Đó là định
Hạnh Bồ-tát
Tuệ cốt yếu
Vượt các hạnh.

Đức Phật bảo Bạt-đà-hòa rằng trì hạnh pháp ấy liền được Tammuội, hiện tại chư Phật đều ở trước mắt. Có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đúng pháp tu hành, trì giới đầy đủ riêng ở một chỗ chỉ niệm Tây phương Phật A-di-đà hiện đang ở nước ấy tùy chỗ nghe mà nghĩ rằng cách đây mười vạn ức Phật độ, nước ấy tên là Tu-ma-đề một lòng nghĩ nhớ, một ngày một đêm hoặc bảy ngày bảy đêm, sau bảy ngày bảy đêm trông thấy như thấy trong mộng, không biết đêm ngày cũng chẳng biết trong ngoài chẳng do ngầm bên trong có ngăn ngại cho nên không thấy. Bạt-đà-hòa và bốn chúng thường khởi niệm ấy, trong cảnh giới chư Phật, thì trong các núi lớn hoặc núi Tu-di có chỗ kín đáo đều được mở ra không còn chướng ngại nữa. Bốn chúng ấy không cần thiên nhãn mà thấy suốt, không cần thiên nhĩ mà nghe khắp, không cần thần túc mà đến khắp các Phật sát. Không ở cõi này chết rồi sinh nơi khác, liền ngồi đây mà thấy cả. Phật nói bốn chúng ở cõi này niệm Phật A-di-đà, vì chuyên niệm nên được thấy. Liền hỏi trì pháp nào mà được sinh cõi nước ấy, Phật A-di-đà đáp: Người muốn sinh phải niệm danh hiệu ta không ngừng nghỉ thì liền được vãng sinh. Phật bảo vì chuyên niệm nên được vãng sinh. Tưởng niệm thân Phật ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp sáng rỡ đoan chánh không ai sánh bằng. Ở giữa tăng Bồ-tát nói pháp không lui hoại. Vì sao là sắc không hoại, do niệm sắc thân Phật nên được Tam-muội. Từ trước là nói về pháp niệm Phật Tam-muội.

Khi muốn vào Tam-muội Đạo tràng, y theo phương pháp Phật dạy trước cần phải sửa soạn đạo tràng, bài trí tôn tượng hương nước quét tướt. Nếu không có Phật đường thì phòng sạch cũng được. Quét tướt đúng pháp đặt một tượng Phật vào vách phía Tây. Hành giả trong tháng từ mồng 1 đến mồng 8, hoặc từ ngày mồng 8 đến rằm, hoặc từ rằm đến 23, hoặc từ 23 đến 30. Mỗi tháng bốn lúc tốt nhất. Hành giả tự lượng việc nhà nặng nhẹ mà vào hành đạo Tịnh độ. Hoặc một ngày đến bảy ngày phải luôn ăn mặc sạch sẽ, hài cỏ cũng mới sạch. Trong suốt bảy ngày phải ăn một bữa, trường trai, cơm cháo rau cải sạch nhẹ dễ tiêu và có tiết độ. Ở trong đạo tràng ngày đêm cột tâm, liên tục chuyên tâm niệm Phật A-di-đà. Tâm và tiếng liên tục, chỉ ngồi hoặc đứng trong bảy ngày không được ngủ nghỉ. Cũng chẳng cần đúng lúc lễ Phật tụng kinh lần chuỗi, cũng chẳng cần chỉ biết chắp tay niệm Phật. Niệm niệm phải quán tưởng thấy Phật. Phật nói: Tưởng niệm Phật A-di-đà sắc thân vàng ròng sáng rỡ chiếu khắp, đoan chánh không gì sánh được ở trước tâm nhãn. Ngay khi niệm Phật nếu đứng thì đứng niệm một, hai vạn tiếng, nếu ngồi thì ngồi niệm một, hai vạn tiếng. Trong Đạo Tràng không nên dụm đầu nói lén. Ngày đêm ba hoặc sáu thời. Trình bạch cùng chư Phật tất cả Hiền Thánh, thiên Tào Địa Phủ tất cả nghiệp đạo, phát lồ sám hối. Một đời đến nay thân khẩu ý nghiệp đã tạo ra các tội. Việc phải y thật mà sám hối xong rồi y theo pháp mà niệm Phật. Cảnh giới thấy được không nên vội nói ra. Điều lành thì tự biết, ác thì phải sám hối. Các thứ rượu thịt ngũ tân (hành tỏi…) phát thệ tay không chạm đến, miệng không ăn nuốt. Nếu trái điều này thì nguyện thân miệng sẽ bị ghẻ độc. Hoặc nguyện tụng kinh A-di-đà đủ mười vạn biến. Miệng riêng niệm Phật một vạn biến. Ngày riêng tụng kinh mười lăm biến, hoặc tụng hai mươi biến, ba mươi biến, tùy sức nhiều ít, thề sinh Tịnh độ, nguyện Phật nhiếp thọ. Lại hành giả bệnh hoặc không bệnh khi sắp lâm chung thì cứ y theo pháp niệm Phật Tam-muội thân tâm ngay thẳng xây mặt về hướng Tây. Tâm cũng chuyên chú quán tưởng Phật A-di-đà, tâm miệng tương ưng tiếng tiếng chẳng dứt, quyết định làm tưởng vãng sinh, tưởng hoa đài Thánh chúng đến đón tiếp. Người bệnh nếu thấy cảnh trước liền nói cho người khán bệnh biết.

Đã nghe thấy rồi liền theo lời nói mà ghi chép, nếu người bệnh không nói được thì người khán bệnh luôn luôn hỏi han người bệnh thấy cảnh giới nào. Nếu nói toàn các tướng tội ác thì mọi người phải niệm Phật đồng giúp sám hối, tất cả khiến tội diệt. Nếu tội diệt hoa đài Thánh chúng theo niệm hiện ra thì theo trước mà ghi chép. Lại hành giả có quyến thuộc sáu thân đến thăm bệnh chớ nên ăn uống năm tân rượu thịt, nếu có thì chớ ở gần bệnh nhân sẽ khiến mất chánh niệm, quỷ thần giao loạn, bệnh nhân điên cuồng mà chết phải đọa ba đường ác. Xin các hành giả nên rất cẩn thận tuân giữ lời Phật dạy, cùng làm nhân duyên thấy Phật và người thăm bệnh phải đúng pháp rồi mới vào đạo tràng. Y kinh nói về năm thứ Tăng Thượng Duyên – 19 quyển

  1. Y Kinh Vô Lượng Thọ.
  2. Y Kinh Thập Lục Quán.
  3. Y Kinh Tứ chỉ A-di-đà.
  4. Y Kinh Ban-chu Tam-muội
  5. Y Kinh Thập Vãng Sinh.\
  6. Y kinh Tịnh độ Tam-muội.

Trân trọng theo lời dạy của Phật Thích-ca trong sáu bộ kinh Vãng Sinh nói rõ việc xưng niệm Phật A-di-đà để nguyện sinh Tịnh độ, thì hiện đời được sống lâu không bị chín thứ hoạnh nạn, mỗi mỗi đều đầy đủ như nghĩa năm duyên sau có nói.

Hỏi: Phật khuyên tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề nguyện sinh nước Phật A-di-đà ở Tây phương, lại khuyên tạo tượng Phật A-di-đà, xưng dương lễ bái, hương hoa cúng dường, ngày đêm quán tưởng chẳng dứt. Lại khuyên chuyên niệm danh Phật A-di-đà một vạn, hai vạn, ba vạn, năm vạn cho đến mười vạn tiếng. Hoặc khuyên tụng kinh Di-đà mười lăm, hai mươi, ba mươi, năm mươi đến một trăm hoặc mười vạn biến thì hiện đời được công đức gì, một trăm tuổi bỏ báo thân này rồi thì có lợi ích gì mà được sinh Tịnh độ.

Đáp: Hiện đời và khi bỏ báo thân quyết định có công đức lợi ích lớn theo lời Phật dạy nói rõ năm thứ nhân duyên tăng thượng lợi ích:

  • Tăng thượng duyên diệt tội.
  • Tăng thượng duyên hộ niệm được sống lâu.
  • Tăng thượng duyên thấy Phật.
  • Tăng thượng duyên nhiếp sinh.
  • Tăng thượng duyên chứng sinh.

1) Tăng thượng duyên diệt tội : Tức như trong Kinh Quán người hạ phẩm thượng sinh một đời tạo đủ mười ác trọng tội, người ấy khi bị bệnh sắp chết gặp Thiện tri thức dạy xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà một tiếng thì diệt trừ được năm mươi ức kiếp sinh tử trọng tội, tức đó là tăng thượng duyên hiện đời diệt tội .

Lại như người hạ phẩm trung sinh một đời đối với Phật pháp tạo đủ các tội phá giới, phá trai, ăn dùng các vật của Phật, Pháp, Tăng không biết xấu hổ sám hối. Người này khi bệnh sắp chết, lửa địa ngục một lúc hiện ra. Nhưng gặp Thiện tri thức vì nói Phật A-di-đà có thân tướng công đức, cõi nước trang nghiêm. Người tội nghe xong liền trừ được tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội, địa ngục liền mất. Đây cũng là hiện đời diệt tội tăng thượng duyên.

Lại như người hạ phẩm hạ sinh một đời tạo đủ tội ngũ nghịch cực

nặng phải trải qua các địa ngục chịu khổ vô cùng. Tội nhân bị bệnh sắp chết gặp Thiện tri thức dạy xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà mười tiếng, trong các tiếng trừ diệt được tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Đây cũng là tăng thượng duyên hiện đời diệt tội.

Lại như có người y theo Kinh Quán, vẽ tạo cảnh Tịnh độ trang nghiêm ngày đêm quán tưởng bảo địa, thì hiện đời niệm niệm trừ diệt tám mươi ức kiếp tội sinh tử.

Lại y theo kinh mà vẽ tạo quán tưởng cây báu, ao báu, lầu báu trang nghiêm thì hiện đời diệt trừ được vô lượng ức tăng kỳ kiếp sinh tử tội.

Lại y theo Hoa Tọa Trang Nghiêm Quán ngày đêm quán tưởng thì hiện đời niệm niệm trừ diệt được năm mươi ức kiếp tội sinh tử.

Lại y theo kinh quán tưởng tượng mà quán tưởng chân thân, quán quán Âm Thế Chí v.v… thì hiện đời trong niệm niệm diệt trừ được vô lượng ức kiếp sinh tử tội.

Như trên đã dẫn đều là tăng thượng duyên hiện đời diệt tội .

2) Lại nói tăng thượng duyên hộ niệm , tức như trong quán thứ mười hai nói rằng: Nếu có người trong mọi lúc mọi nơi ngày đêm chí tâm quán tưởng Di-đà Tịnh độ hai báo trang nghiêm, hoặc thấy hoặc không thấy Phật Vô Lượng Thọ hóa làm vô số hóa Phật Quán Âm Thế Chí cũng có vô số hóa thân thường đến chỗ người này. Cũng là hiện tại hộ niệm tăng thượng duyên.

Lại như Kinh Quán văn sau nói: Nếu có người chí tâm luôn niệm A-di-đà Phật và hai vị Bồ-tát Quán Âm Thế Chí thường cùng hành giả kết bạn tốt Thiện tri thức thì thường theo ủng hộ. Đây cũng là tăng thượng duyên hiện đời hộ niệm.

Lại như Quán chân thân thứ chín có nói: Kim sắc thân Phật Adi-đà có hào tướng (lông trắng) sáng suốt khắp chiếu thân chúng sinh ở mười phương, ánh sáng chân lông cũng khắp chiếu chúng sinh, viên quang cũng khắp chiếu chúng sinh, ánh sáng tám vạn bốn ngàn tướng đẹp cũng khắp chiếu chúng sinh. Lại như trước các ánh sáng của thân tướng mỗi mỗi đều khắp mười phương thế giới, chỉ có chúng sinh chuyên niệm Phật A-di-đà thì ánh sáng tâm Phật ấy thường chiếu người ấy mà nhiếp hộ không bỏ. Nói chung bất luận chiếu nhiếp các hạnh nghiệp tạp khác. Đây cũng là tăng thượng duyên hiện đời hộ niệm.

Lại như kinh Thập Vãng Sinh nói: Phật bảo Bồ-tát Sơn Hải Huệ và A-nan rằng: Nếu có người chuyên niệm Tây phương A-di-đà Phật nguyện vãng sinh, ta từ nay trở đi sẽ khiến hai mươi lăm Bồ-tát luôn ủng hộ hành giả, chẳng khiến ác quỷ ác thần não loạn hành giả, ngày đêm thường ủng hộ an ổn. Đây cũng là tăng thượng duyên hiện đời hộ niệm.

Lại như kinh Di-đà nói: Nếu có thiện nam, thiện nữ nào bảy ngày bảy đêm và hết cả một đời nhất tâm chuyên niệm Phật A-di-đà nguyện vãng sinh, thì người này thường được sáu phương hằng hà sa chư Phật cùng đến hộ niệm nên gọi là kinh Hộ niệm. Ý kinh Hộ niệm cũng không khiến các ác quỷ thần được tùy tiện cũng không bị bệnh ngang chết ngang. Nếu có các ách nạn thì tất cả tai chướng đều tự nhiên tiêu tan, trừ những người không chí tâm. Đây cũng là tăng thượng duyên hiện đời hộ niệm.

Lại như kinh Ban-chu Tam-muội, phẩm Hạnh có nói: Phật bảo Bạt-đà-hòa rằng nếu có người bảy ngày bảy đêm ở trong đạo tràng bỏ hết duyên sự dẹp các ngủ nghỉ nhất tâm chuyên niệm sắc thân chân kim của Phật A-di-đà hoặc một ngày ba ngày bảy ngày hoặc mười bốn ngày, ba mươi ngày, bốn mươi chín ngày hoặc đến trăm ngày hoặc hết cả một đời chí tâm quán Phật và niệm xưng tâm niệm thì Phật liền nhiếp thọ. Đã được nhiếp thọ thì nhất định biết tội diệt được sinh Tịnh độ. Phật nói nếu có người chuyên hành niệm Di-đà Phật Tam-muội này thì thường được tất cả các trời và Tứ Đại Thiên Vương Long Thần Bát Bộ theo ủng hộ yêu thích thấy nhau, không bị các ác quỷ thần tai chướng ách nạn gây thêm não loạn đủ như trong phẩm hộ trì có nói. Đây cũng gọi là tăng thượng duyên hiện đời hộ niệm.

Lại y theo kinh Quán Đảnh quyển ba có nói: Nếu người thọ trì Tam quy ngũ giới thì Phật ra lệnh cho Thiên đế ngươi sai thiên thần sáu mươi mốt người ngày, đêm, tháng, năm theo ủng hộ người thọ giới, khiến các ác quỷ thần hoạnh tướng không não hại. Đây cũng gọi là tăng thượng duyên hiện đời hộ niệm.

Lại như kinh Tịnh độ Tam-muội nói Phật bảo vua Bình Sa rằng nếu có thiện nam, thiện nữ nào tháng tháng giữ ngày lục trai và ngày Bát vương hướng về Thiên tào Địa phủ tất cả nghiệp đạo luôn luôn lấy người đứng đầu thọ trì trai giới. Phật ra lệnh cho sáu vua trời cõi Dục đều sai hai mươi lăm thiện thần thường đến ủng hộ người trì giới khiến các ác quỷ thần không đến não hại, cũng không có bệnh chết ngang, các tai chướng luôn được an ổn. Đây cũng gọi là tăng thượng duyên hiện đời hộ niệm.

Lại xin thưa các hành giả chỉ muốn đời này ngày đêm liên tục chuyên niệm Di-đà, chuyên tụng kinh Di-đà, xưng dương lễ tán Tịnh độ Thánh chúng trang nghiêm mà nguyện sinh. Ngày riêng tụng kinh mười lăm, hai mươi, ba mươi biến trở lên hoặc tụng bốn mươi, năm mươi, một trăm biến trở lên. Nguyện đủ mười vạn biến. Lại xưng dương lễ tán Diđà Tịnh độ, Y, Chánh hai báo trang nghiêm. Lại trừ khi vào Tam-muội Đạo Tràng, ngày riêng niệm A-di-đà Phật một vạn tiếng nối tiếp mãi cho đến chết, liền được Di-đà gia niệm, được trừ tội chướng, lại được Phật cùng các Thánh chúng thường đến hộ niệm. Đã được hộ niệm thì tuổi đời sẽ được sống lâu, nhân duyên an lạc mỗi mỗi đều đầy đủ như kinh Thí Dụ. Chỉ không có kinh Tam-muội.

Kinh Tịnh độ Tam-muội nói đến. Đây cũng là tăng thượng duyên hiện đời hộ niệm.

3) Lại nói tăng thượng duyên của Tam-muội Thấy Phật, tức như Kinh Quán nói phu nhân vua nước Ma-kiệt-đề là Vi-đề-hy mỗi khi ở trong cung nguyện thường thấy Phật, xa hướng về núi Kỳ-xà-quật khóc lóc kính lễ. Phật xa biết ý niệm ấy liền ở núi Kỳ xà quật biến mất mà xuất hiện tại vương cung. Phu nhân ngước đầu liền thấy Thế Tôn thân sắc vàng tía ngồi hoa sen báu, Mục-liên, A-nan đứng hầu hai bên, Thích, Phạm trên không tung hoa cúng dường. Phu nhân thấy Phật liền gieo mình xuống đất gào khóc hướng về Phật ai cầu sám hối cúi mong Như Lai dạy con quán luôn ở nghiệp thanh tịnh. Lại như kinh này chứng tỏ rằng không phải chỉ ngay tâm phu nhân thấy Phật mà còn dạy cho hàng phàm phu ở vị lai nếu có tâm nguyện muốn thấy thì phải y theo phu nhân chí tâm nhớ Phật nhất định được thấy vô ngại. Đây tức là ba niệm nguyện lực của Phật A-di-đà gia bị thêm bên ngoài mà được thấy Phật. Nói ba lực, tức như kinh Ban-chu Tam-muội nói:

  1. Do sức thệ nguyện lớn gia niệm nên được thấy.
  2. Do định lực Tam-muội gia niệm nên được thấy Phật.
  3. Do bản công đức lực gia niệm nên được thấy Phật.

Trở đi trong duyên thấy Phật đều nên đồng với nghĩa này, nên gọi là tăng thượng duyên của Tam-muội thấy Phật.

Hỏi: Phu nhân phước lực mạnh mẽ cao quý được Phật gia niệm nên thấy Phật, còn các chúng sinh đời mạt pháp tội lỗi sâu nặng do đâu mà được cùng phu nhân đồng nêu. Lại nghĩa này rất sâu xa rộng lớn, mỗi mỗi đều dẫn đủ kinh Phật để chứng minh?

Đáp: Phật là bậc Thánh nhân đạt ba pháp, sáu thần không chướng, quán cơ bị giáo không chọn cạn sâu chỉ khiến quy thành thì còn nghi ngờ chẳng thấy.

Tức như kinh Quán nói: Phật khen Vi-đề-hy sớm hỏi việc này, A-

nan hãy nhớ lấy rộng vì nhiều người má nói lại.

Phật bảo: Nay Như Lai dạy Vi-đề-hy và tất cả chúng sinh đời vị lai quán tưởng Tây phương Cực lạc thế giới do nguyện lực của Phật thấy cõi nước ấy như cầm gương sáng tự soi mặt mình. Lại kinh này làm chứng cũng là do Phật A-di-đà ba lực ngoại gia, mà được thấy Phật nên gọi là tăng thượng duyên Tam-muội thấy Phật Tịnh độ.

Lại như kinh sau có nói: Phật bảo Vi-đề-hy ngươi là kẻ phàm phu, tâm tưởng lại yếu kém chẳng thể thấy xa, nên khiến chư Phật Như Lai có phương tiện lạ để khiến các ngươi được thấy. Phu nhân bạch Phật rằng con nay nhờ sức Phật nên thấy được cõi nước ấy, nếu Phật diệt độ rồi, chúng sinh ác trược bất thiện, năm khổ bức hiếp thì làm sao thấy được thế giới Cực lạc.

Phật bảo Vi-đề-hy rằng:

-Ngươi và chúng sinh hãy chuyên tâm mẫn niệm, tưởng ở Tây phương dưới có đất báu lưu ly, trên có tràng phang báu trong lầu các báu có các báu trang nghiêm mà chuyên tâm chú ý thì cũng đồng với phu nhân trên mà được thấy. Lại nói mỗi mỗi quán thấy rất rõ ràng, nhắm mắt mở mắt đều thấy rõ. Người tưởng như thế gọi là Thô Kiến. Đây gọi là trong giác tưởng mà thấy, nên nói là Thô Kiến. Nếu được định tâm Tam-muội và khẩu xưng Tam-muội thì tâm nhãn mở ra là thấy cõi Tịnh độ ấy tất cả trang nghiêm nói ra vô cùng tận. Lại do kinh này làm chứng rằng tất cả phàm phu chỉ cốt chú tâm là nhất định thấy. Nghĩa nên biết nếu có người thấy nghe không nên sợ hãi, lạ lùng là vì sao, là do Di-đà Tam-muội lực ngoại gia mà được thấy. Nên gọi là tăng thượng duyên Tam-muội thấy Phật Tịnh độ.

Lại như trong Hoa Tòa Quán nói: Phật bảo A-nan, Vi-đề-hy, Phật sẽ vì ngươi nói pháp trừ khổ não, ngươi phải vì đại chúng phân biệt giải noia. Khi nói lời này, Phật Vô Lượng Thọ và Quán Âm, Thế Chí ứng tiếng hiện ra đứng giữa không trung. Vi-đề-hy thấy Phật liền kính lạy. Lạy xong bạch Phật Thích-ca rằng:

-Nay nhân sức Phật nên được thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Bồ-tát. Khi Phật diệt độ rồi thì các chúng sinh làm sao quán được Phật A-di-đà và hai vị Bồ-tát?

Phật bảo: Ngươi và chúng sinh muốn thấy Phật ấy, phải khởi tưởng niệm trên đất bảy báu mà tưởng hoa sen. Tưởng hoa thành rồi kế mới tưởng Phật. Khi tưởng Phật thì tâm liền tưởng ba mươi hai tướng tốt, từ trên đảnh xuống đến ngồi kiết già xong, mỗi mỗi phần của thân cũng đều tưởng tùy tâm tưởng đủ. Khi đó thân Phật liền hiện. Đây là do Diđà Phật ba lực ngoại gia liền được thấy Phật. Cũng gọi là tăng thượng duyên Tam-muội thấy Phật Tịnh độ .

Lại như kinh sau nói: Người tưởng Phật ấy trước phải tưởng tượng. Thấy một tượng vàng ngồi trên hoa. Tưởng thấy rồi thì tâm nhãn liền mở sáng suốt rõ ràng và thấy tất cả nước ấy trang nghiêm. Đây cũng là Di-đà Phật ba lực ngoại gia mà thấy Phật. Nên gọi là tăng thượng duyên Tam muội thấy Phật.

Lại như kinh sau nói: Kế tưởng hai vị Bồ-tát và các ánh sáng đều thấy rõ ràng. Khi thấy việc này hành giả ở trong Định Tam-muội sẽ nghe tiếng chảy, ánh sáng trang nghiêm v.v… các tiếng nói pháp. Xuất Định nhập Định hành giả thường nghe Diệu Pháp. Đây cũng là Phật A-di-đà ba lực ngoại gia mà thấy Phật. Nên gọi là tăng thượng duyên Tam-muội thấy Phật .

Lại như trong Quán Chân Thân nói: Phật bảo A-nan khi quán tượng thành rồi, kế lại quán Phật Vô Lượng Thọ thân sắc vàng ròng, giữa mày có tướng bạch hào viên quang hóa Phật và các tướng đẹp đẽ sáng suốt, chỉ phải nhớ tưởng khiến tâm nhãn thấy rõ. Thấy rồi liền thấy mười phương tất cả chư Phật, nên gọi là niệm Phật Tam-muội. Lấy văn này làm chứng cũng là Phật A-di-đà ba lực ngoại gia mà thấy Phật.

Nên gọi là tăng thượng duyên Tam-muội thấy Phật.

Lại như kinh sau nói:

Phật bảo: Thế nên người trí nhất tâm quán kỹ Phật Vô Lượng Thọ từ một tướng đẹp mà vào. Chỉ quán giữa chặn mày tướng bạch hào phải thật rõ ràng thì tám vạn bốn ngàn tướng đẹp tự nhiên thấy rõ. Thấy rồi thì liền thấy mười phương tất cả chư Phật. Ở trước Phật thứ lớp thọ ký. Lại lấy kinh này làm chứng thì cũng là Phật A-di-đà ba lực ngoại gia mà thấy Phật, khiến kẻ phàm phu chuyên tâm tưởng thì nhất định được thấy Phật. Nên gọi là tăng thượng duyên Tam-muội thấy Phật .

Lại như Quán Âm, Thế Chí… quán khắp và người chín phẩm dưới một đời khởi làm cho đến bảy ngày, một ngày, mười tiếng, một tiếng khi lâm chung nguyện thấy Phật. Nếu hiện đời gặp được Thiện tri thức, hành giả tự hay tâm miệng xưng niệm Phật A-di-đà, thì Phật liền cùng Thánh chúng hoa đài đến hiện. Hành giả thấy Phật cũng thấy cả Thánh chúng hoa đài v.v… Lại lấy kinh này làm chứng thì cũng là Phật A-di-đà ba lực ngoại gia mà thấy Phật. Nên gọi là tăng thượng duyên Tam-muội thấy Phật.

Lại như kinh sau nói: Phật bảo A-nan, kinh này gọi là kinh quán Cực lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ-tát. Ông nên thọ trì khiến không quên mất. Người hành Tam-muội này hiện đời được thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Bồ-tát. Lại lấy kinh này làm chứng thì cũng là Phật A-di-đà ba lực ngoại gia, đến nổi khiến phàm phu niệm đến thì nhân ba lực tâm mình mà được thấy Phật. Do tâm chí thành, tâm tin, tâm nguyện làm nội nhân, lại nhờ ba nguyện lực của Di-đà làm ngoại duyên, nhân duyên trong ngoài hòa hợp mà liền được thấy Phật, nên gọi là tăng thượng duyên Tam muội thấy Phật.

Lại như kinh Ban-chu Tam-muội nói: Phật bảo Bạt-đà-hòa Bồtát rằng: Có Tam-muội gọi là mười phương chư Phật đều đứng trước. Nếu người muốn chóng được Tam-muội này thì thường phải giữ tập thọ trì không chút nghi ngờ như lông tốc. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bàtắc, Ưu-bà-di muốn học hạnh Tam-muội ấy, thì bảy ngày bảy đêm trừ khi ngủ nghỉ, bỏ các loạn tưởng, ở riêng một mình mà quán tưởng Tây phương Phật A-di-đà thân sắc vàng ròng ba mươi hai tướng ánh sáng chiếu suốt đoan chánh không gì sánh một lòng quán tưởng, tâm nghĩ miệng đọc niệm niệm không dứt Phật nói sau bảy ngày thì thấy. Ví như có người đêm nhìn sao trời, một sao tức là một Phật. Nếu có bốn chúng làm quán tưởng, thấy tất cả sao tức thấy tất cả Phật. Lại lấy kinh này làm chứng thì cũng là Phật A-di-đà ba lực ngoại gia nên thấy Phật. Nói Tam-muội tức là người niệm Phật tâm miệng xưng niệm không có tạp tưởng, niệm niệm trụ tâm, tiếng tiếng liên tục, tâm nhãn liền khai được thấy Phật ấy rõ ràng hiện ra. Nên gọi là định, cũng gọi là Tam-muội. Chính lúc thấy Phật cũng thấy Thánh chúng và các trang nghiêm. Nên gọi là tăng thượng duyên Tam muội thấy Phật Tịnh-độ.

Lại như kinh Nguyệt Đăng Tam-muội nói: Nghĩ tướng tướng đẹp và đức hạnh của Phật thì hay khiến các căn không loạn động, tâm không mê hoặc cùng pháp họp nhau, được nghe được trí như biển lớn. Người trí ở trong Tam-muội đó mà nhiếp niệm đi kinh hành thì có thể thấy được ngàn ức các Như Lai, cũng gặp vô lượng hằng sa Phật. Lại lấy kinh này làm chứng cũng gọi là tăng thượng duyên Tam muội thấy Phật.

Lại như kinh Văn-thù Bát-nhã nói: Văn-thù bạch Phật rằng: Thế nào gọi là Nhất hạnh Tam-muội? Phật bảo nam tử nữ nhân nào ở chỗ vắng vẻ bỏ hết các loạn ý, tùy chỗ Phật thẳng mình ngồi ngay không tưởng hình tướng chỉ chuyên xưng niệm danh hiệu Phật không ngừng nghỉ thì liền ở trong niệm hay thấy ba đời chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Lại lấy kinh này làm chứng, tức là chư Phật đồng thể đại bi niệm lực gia bị mà khiến thấy. Đây cũng là phàm phu được tăng thượng duyên Tam muội thấy Phật.

4)Lại nói tăng thượng duyên nhiếp sinh nhiếp sinh tức như kinh Vô Lượng Thọ trong bốn mươi tám nguyện nói: Phật bảo nếu khi ta thành Phật, mười phương chúng sinh nguyện sinh nước ta, xưng niệm danh tự ta ít nhất mười tiếng nhờ nguyện lực ta nếu không sinh thì ta không thành Chánh giác. Đây tức là người nguyện vãng sinh khi lâm chung nhờ nguyện lực nhiếp mà được vãng sinh, nên gọi là tăng thượng duyên nhiếp sinh.

Lại kinh này quyển thượng nói: Nếu có chúng sinh được sinh nước Phật Vô Lượng Thọ ở Tây phương đều nhờ các nghiệp lực của Đại Nguyện Phật A-di-đà làm tăng thượng duyên tức làm chứng cũng là tăng thượng duyên nhiếp sinh.

Lại kinh sau quyển đầu nói: Phật bảo tất cả chúng sinh căn tánh không đồng có thượng trung hạ, tùy theo căn tánh họ, Phật đều khuyên chuyên niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ. Người ấy khi sắp lâm chung, Phật cùng Thánh chúng sẽ đến đón tiếp đều được vãng sinh. Đây cũng là tăng thượng duyên nhiếp sinh.

Lại như Kinh Quán, Pháp quán thứ 11 và chín phẩm dưới đều là Phật tự nói tu định tán. Hành giả khi sắp chết thì mỗi mỗi đều là Phật Thế Tôn cùng Thánh chúng đài hoa trao tay đón tiếp vãng sinh. Đây cũng là tăng thượng duyên nhiếp sinh.

Lại như trong kinh Tứ Chỉ Di-đà nói: Phật nói có nam tử nữ nhân nào hoặc một ngày, bảy ngày nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Phật Adi-đà, người này khi mạng chung Phật A-di-đà và các Thánh chúng sẽ đến đón tiếp liền được vãng sinh Cực lạc thế giới ở Tây phương. Phật Thích-ca nói ta thấy lợi ấy nên nói lời này, tức làm chứng cũng là tăng thượng duyên nhiếp sinh.

Lại như trong bốn mươi tám nguyện nói: Nếu tôi được thành Phật, chúng sinh mười phương phát tâm Bồ-đề, tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sinh nước ta. Khi lâm chung tôi không cùng đại chúng hiện ra trước người ấy, thì tôi không thành Chánh giác. Đây cũng là tăng thượng duyên nhiếp sinh.

Lại như nguyện sau nói: Nếu tôi thành Phật, chúng sinh mười phương nghe danh hiệu tôi mà nghĩ đến nước tôi, chí tâm hồi hướng nguyện sinh nước tôi nếu không toại nguyện thì tôi không thành Chánh giác. Đây cũng là tăng thượng duyên nhiếp sinh.

Lại như nguyện sau nói: Nếu tôi thành Phật, mười phương thế giới có người nữ nào nghe danh hiệu tôi vui mừng tin ưa, phát tâm Bồ-đề, chán ghét thân nữ, sau khi chết lại làm thân nữ thì tôi không thành Chánh giác. Nghĩa là chính do bổn nguyện lực Di-đà, nên người nữ xưng niệm danh hiệu Phật, ngay khi mạng chung liền chuyển thân nữ thành thân nam. Phật A-di-đà dắt tay Bồ-tát đỡ thân, ngồi trên hoa báu theo Phật vãng sinh vào Đại hội Phật chứng ngộ vô sinh. Lại tất cả người nữ không do nguyện lực danh hiệu Di-đà thì ngàn kiếp muôn kiếp và hằng hà sa kiếp trọn không thể chuyển được thân nữ, nên biết thế. Nay hoặc có đạo tục bảo rằng người nữ không được sinh Tịnh độ, đây là nói dối không nên tin. Lại lấy kinh này làm chứng cũng là tăng thượng duyên nhiếp sinh.

5) Lại nói tăng thượng duyên chứng sinh.

Hỏi: Nay đã thấy bốn mươi tám nguyện Di-đà đã nhiếp tất cả chúng sinh được sinh Tịnh độ, chưa biết nhiếp những chúng sinh nào được sinh lại là người nào bảo chứng được sinh?

Đáp: Tức như Kinh Quán nói, Phật bảo Vi-đề-hy ngươi nay có biết Di-đà cách đây không xa, ngươi phải kế niệm quán kỹ nước ấy, tịnh nghiệp đã thành thì cũng khiến tất cả phàm phu ở đời vị lai được sinh Tây phương Cực lạc quốc độ. Nay lấy kinh này làm chứng, chỉ là sau khi Phật diệt độ, phàm phu nhờ nguyện lực Phật thì nhất định được vãng sinh, tức là tăng thượng duyên chứng sinh.

Lại hỏi rằng đức Thích-ca nói giáo chỉ bày chúng sinh vì sao cùng một thứ Phật pháp mà có người tin và không tin chê trách nhau là do nguyên nhân gì?

Đáp: Phàm phu cơ tánh có hai thứ: Một là tánh thiện; hai là tánh ác.

Người tánh thiện:

  1. Khi nghe liền bỏ ác làm thiện, là người thiện.
  2. Bỏ tà làm chánh là người thiện.
  3. Bỏ dối làm thật là người thiện.
  4. Bỏ quấy làm phải là người thiện.
  5. Bỏ ngụy làm chân là người thiện.

Năm thứ người này hay về với Phật, tức hay tự lợi, lợi tha, tại nhà thì hiếu để, ở ngoài cũng lợi tha. Người ở chỗ mong mỏi thì có uy tín, ở triều gọi là quân tử, thờ vua tận trung nên gọi là người tự tánh thiện.

Người tánh ác:

  1. Chê chân làm ngụy là người ác.
  2. Chê chánh làm tà là người ác.
  3. Chê phải làm quấy là người ác.
  4. Chê thật làm dối là người ác.
  5. Chê thiện làm ác là người ác.

Lại năm thứ người ác này nếu muốn nguyện về với Phật thì không thể tự lợi cũng chẳng lợi tha. Lại ở nhà chẳng hiếu để ở chỗ trông mong thì không có uy tín, ở triều gọi là tiểu nhi thờ vua thì thường ôm lòng gian nịnh gọi là bất trung. Lại các người này chỉ hay phá hại các người hiền đức lấy quấy làm phải, chỉ thấy ác đó nên gọi là người tự tánh ác. Lại trên từ chư Phật Hiền Thánh, trời người sáu đạo lương thiện thì người ác này khinh ghét làm nhục. Người trí nên biết. Như nay mỗi mỗi đều dẫn đủ người thiện ác hai tánh, đạo lý rõ ràng lời đáp đã xong.

Lại kinh sau nói: Phật bảo Vi-đề-hy người và chúng sinh chuyên tâm xưng niệm tưởng một chỗ ở đất Tây phương dưới có tràng phang vàng trên có các báu trang nghiêm. Dưới đến mười ba Quán đã đáp chung hai lời thỉnh của Vi-đề để làm minh chứng là muốn khiến các phàm phu thiện ác đều hồi tâm khởi làm cùng được vãng sinh. Đây cũng là tăng thượng duyên chứng sinh.

Lại như kinh sau nói: Các cõi nước báu có năm trăm ức lầu báu. Trong các lầu báu có vô lượng trời người tấu trỗi các thứ âm nhạc đều nói niệm Phật Pháp Tăng. Tưởng này thành rồi thì khi mạng chung nhất định sinh vào nước ấy. Lại kinh này làm chứng cũng là tăng thượng duyên chứng sinh.

Lại như kinh sau nói Phật bảo A-nan: Như Diệu Hoa này vốn là nguyện lực của Pháp Tạng Tỳ-kheo mà thành. Nếu muốn niệm Phật ấy thì trước phải quán tưởng hoa tòa này, mỗi mỗi đều quán rõ ràng. Khi tưởng này thành rồi nhất định vãng sinh thế giới Cực lạc. Lấy kinh này làm chứng cũng là tăng thượng duyên chứng sinh.

Lại như kinh Vô Lượng Thọ nói: Phật bảo A-nan: Nếu có chúng sinh sinh vào nước ấy thì đều trụ ở Chánh Định. Mười phương chư Phật đều cùng khen ngợi Phật ấy. Nếu có chúng sinh nghe danh hiệu Phật ấy mà tin tưởng vui mừng cho đến một niệm nguyện sinh nước ấy thì liền được vãng sinh trụ bất thoái chuyển. Lại lấy kinh này làm chứng cũng là tăng thượng duyên chứng sinh.

Lại như Kinh Quán phẩm chín nói: trong mỗi phẩm đều dạy chúng sinh rằng nếu Phật đang ở đời hoặc đã diệt độ rồi thì phàm phu ngũ trược gặp được Thiện tri thức khuyên khiến tin tưởng trì giới niệm Phật tụng kinh lễ tán thì quyết định đều vãng sinh, toàn nhờ nguyện lực của Phật mà được vãng sinh. Đây cũng là tăng thượng duyên chứng sinh.

Lại như kinh Di-đà nói: Sáu phương đều có hằng hà sa chư Phật

đều duỗi lưỡi che khắp tam thiên thế giới nói lời thành thật nếu Phật ở đời hoặc Phật đã diệt độ tất cả phàm phu tạo tội chỉ hồi tâm niệm Adi-đà Phật nguyện sinh Tịnh độ thì trên từ trăm năm cho đến bảy ngày, một ngày, mười tiếng, ba tiếng, một tiếng thì khi mạng chung Phật cùng Thánh chúng tự đến đón tiếp liền được vãng sinh. Như trên sáu phương chư Phật đều nói vì phàm phu làm chứng, tội diệt được sinh. Nếu không đúng theo chứng này được sinh, thì sáu phương chư Phật một lần duỗi lưỡi nói ra tất trọn không trở vào mà lại bị hư nát. Đây cũng là tăng thượng duyên chứng sinh.

Lại xin kính thưa tất cả người vãng sinh nếu nghe lời này liền ứng tiếng buồn thương khóc lóc dù nhiều kiếp phải tan xương nát thịt để báo đáp ân đức Phật mới xứng được bổn tâm há dám có tâm tóc tơ chán nản. Lại xin thưa cùng các hành giả tất cả phàm phu tội ác còn được hết tội mà chứng nhiếp được sinh. Huống là Thánh nhân nguyện sinh mà chẳng được ư? Trên là đáp chung lời hỏi những chúng sinh nào được sinh Tịnh độ.

Năm nghĩa tăng thượng duyên đã xong.

Hỏi: Đức Thích-ca ra đời vì độ phàm phu năm trược tức dùng Từ bi khai thị nhân mười ác thì bị báo quả khổ Tam đồ. Lại dùng bình đẳng trí tuệ mà ngộ nhập nhân thiên hồi sinh về nước Phật A-di-đà. Các kinh Đốn giáo văn nghĩa rõ ràng. Nay lại có người công nhiên chẳng tin cùng nhau hủy báng. Chưa biết người này hiện đời và sau khi chết thì bị tội báo gì xin dẫn đủ kinh Phật để làm chứng khiến chúng sinh cải hối tin Phật Đại thừa hồi nguyện sinh Tịnh độ tức làm lợi ích.

Đáp: Y theo kinh Phật mà đáp. Lại người ác này thuộc năm phần tánh ác trên đã nói xong. Nay dẫn thẳng kinh Phật để minh chứng. Tức như kinh Thập Vãng Sinh nói:

Phật bảo Bồ-tát Sơn Hải Tuệ:

-Ông nay vì độ tất cả chúng sinh phải nên thọ trì kinh ấy. Phật lại bảo Sơn Hải Tuệ kinh ấy gọi là kinh Quán A-di-đà Phật sắc thân chánh niệm giải thoát Tam-muội, cũng gọi là kinh Độ Chư Hữu Lưu Sinh Tử Bát Nạn Hữu Duyên Chúng Sinh. Như thế chúng sinh thọ trì chưa có duyên niệm Phật Tam-muội. Kinh ấy hay mở lớn môn Tam-muội, kinh ấy hay vì chúng sinh đóng kín cửa địa ngục, kinh ấy hay vì chúng sinh trừ ác quỷ hại người hướng đều an ổn. Phật bảo Sơn Hải Tuệ rằng như ta đã nói nghĩa đó như thế.

Sơn Hải Tuệ bạch Phật:

-Chúng sinh đời vị lai nhiều người hay hủy báng, người như thế sau này thế nào?

Phật bảo sau này ở Diêm-phù-đề hoặc có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni hoặc nam hay nữ thấy có người đọc tụng khen ngợi kinh ấy mà sân giận chê bai tức là chê bai chánh pháp, nên người ấy hiện đời bị các ác bệnh, thân căn không đầy đủ hoặc bị điếc, mù, thất âm, quỷ mị điên cuồng phong tà lạnh nóng, thủy thủng, thất tâm… như thế các ác bệnh đời đời đeo theo luôn chịu khổ, nằm ngồi không an đại tiểu tiện không thông muốn sống muốn chết cũng chẳng được. Vì chê bai kinh ấy nên phải chịu khổ như thế. Hoặc chết rồi phải đọa vào địa ngục trong tám vạn kiếp chịu khổ não lớn trăm ngàn vạn đời chưa từng nghe tiếng cơm nước, vì chê bai kinh ấy nên bị tội như thế. Hoặc lúc được ra khi sinh trong loài người thì phải làm trâu ngựa heo dê bị người giết hại chịu khỗ não lớn. Vì chê bai kinh ấy, nên sau được thân người thì thường sinh vào hàng hạ tiện trăm ngàn vạn đời không được tự tại, trăm ngàn vạn đời không thấy tên Tam bảo, vì chê bai kinh ấy nên chịu khổ như thế. Thế nên trong người không trí chớ nói kinh ấy. Người chánh quán, chánh niệm, sau đó mới nói. Người không kính kinh ấy thì đọa địa ngục, nếu người ấy kính trọng thì được chánh giải thoát, vãng sinh nước Phật A-diđà. Nay lại lấy kinh này làm chứng cho nên biết người chê và kính, Phật ghi tổn và ích không dối. Nên biết đáp đủ lời hỏi trước đã xong.

Hỏi: Sau khi Phật diệt độ tất cả phàm phu thiện ác đều phát tâm Bồ-đề nguyện sinh nước Phật A-di-đà ngày đêm chú tâm lấy một đời này xưng quán lễ tán hương hoa cúng dường Phật A-di-đà và Quán Âm Thánh chúng Tịnh độ trang nghiêm, niệm niệm quán tưởng Tam-muội hoặc thành chưa thành thì hiện đời được công đức gì, xin dẫn đủ kinh Phật để minh chứng, vì muốn kẻ tu học hoan hỷ ham thích tin nhận vâng làm?

Đáp: Quyết hỏi nghĩa này là đóng dứt nhân hạnh sinh tử sáu đạo, mở hẳn yếu môn Thường lạc Tịnh độ, chẳng phải chỉ đúng nguyện Diđà mà chính chư Phật đều khắp mừng. Nay y kinh đáp đủ. Tức như kinh Ban-chu Tam-muội nói.

Phật bảo Bồ-tát Bạt-đà-hòa rằng:

-Đối trong niệm Phật Tam-muội có bốn việc cúng dường là ăn uống, y phục ngọa cụ, thuốc men giúp chư Phật quá khứ hoan hỷ trì niệm A-di-đà Phật Tam-muội, bốn việc giúp hoan hỷ đều được thành Phật. mười phương chư Phật hiện tại cũng trì niệm Phật Tam-muội bốn việc giúp hoan hỷ đều được làm Phật. Chư Phật vị lai cũng trì niệm Phật Tam-muội bốn việc gúp hoan hỷ đều được làm Phật. Phật bảo Bạt-đà-

10 hòa rằng niệm A-di-đà Phật Tam-muội bốn việc giúp hoan hỷ, ta đối Tam-muội ấy mà nói ít dụ để so sánh công đức niệm Phật. Thí như người sống trăm tuổi suốt đời đi chạy nhanh hơn gió cho đến già chết, có người nào tính được khoảng đường đi của người ấy chăng?

Bạt-đà-hòa thưa:

-Không tính được.

Phật nói: Nên ta bảo ông và các Bồ-tát nếu có người nam người nữ nào lấy số trân bảo bằng khoảng đường đi lại của người ấy mà bố thí được bao nhiêu công đức thì không bằng có người nghe qua niệm A-di-đà Phật Tam-muội bốn việc cúng dường giúp hoan hỷ, công đức còn hơn bố thí trên gấp ngàn vạn ức lần cũng không thể so sánh được. Phật bảo từ thuở lâu xa không thể kể tính số A-tăng-kỳ kiếp có Phật hiệu là Tư-ha-đề ở nước Bạt-đà-hòa, có vua Chuyển luân tên là Tư Kim đến Phật. Phật biết ý vua liền vì nói niệm Phật Tam-muội bốn việc giúp hoan hỷ. Vua nghe xong rất vui mừng đem tất ca trân bảo rải cúng lên Phật. Vua tự nguyện rằng đem công đức ấy khiến mười phương trời người đều được an ổn. Phật nói vua chết rồi sẽ lại sinh nhà ấy làm thái tử tên là Phạm-ma-đạt. Lúc ấy có Tỳ-kheo tên là Trân Bảo thường vì bốn bộ đệ tử nói Niệm Phật Tam-muội ấy. Lúc ấy vua nghe bốn việc giúp hoan hỷ liền đem bảo vật rải cúng Tỳ-kheo, lại đem y phục cúng dường. Vua cùng ngàn người đến chỗ Tỳ-kheo mà xuất gia cầu học Niệm Phật Tam-muội ấy. Lại thường cùng ngàn người hầu hạ thầy trải qua tám ngàn năm ngày đêm không hề lười nhác. Chỉ được một lần nghe qua niệm Phật Tam-muội ấy liền vào trí cao minh, sau đó thấy được sáu vạn tám ngàn chư Phật. Ở mỗi mỗi chỗ Phật đều nghe Niệm Phật Tam-muội ấy mà được thành quả Phật. Phật nói như người ở cách trăm dặm, ngàn dặm, bốn ngàn dặm muốn nghe Niệm Phật Tam-muội ấy còn ắt đến huống là gần mà chẳng cầu học ư? Lại kính thưa các người vãng sinh. Từ trước đã dẫn lời Phật dạy để chứng minh. Mỗi mỗi đều đầy đủ như trong phẩm tứ sự cúng dường công đức nói.

Hỏi: Theo lời Phật dạy tinh cần khổ hạnh ngày đêm sáu thời lễ niệm hành đạo quán tưởng chuyển tụng trai giới, một lòng nhàm chán hoạn nạn sinh tử, sợ khổ tam đồ, trọn đời này nguyện sinh Tịnh độ nước Phật A-di-đà. Lại sợ tai ương bất ngờ hiện ra cùng với tướng mười ác. Nên biết người có chương này làm sao trừ diệt được. Xin dẫn đủ kinh Phật chỉ rõ phương pháp.

Đáp: Y theo kinh Phật mà đáp, tức như kinh Quán Phật Tam-muội hải nói: Phật vì phụ vương và các đại chúng nói ở quá khứ có Phật tên Không Vương Tượng Pháp Trụ Thế. Lúc đó có bốn Tỳ-kheo phá giới phạm trọng tội. Khi ấy Phật Không Vương đêm ở trên không trung lên tiếng bảo bốn Tỳ-kheo rằng:

-Các ông đã phạm điều không thể cứu. Nếu muốn diệt hết tội phải vào trong tháp ta mà quán hình tượng ta chí tâm sám hối thì mới hết tội này.

Khi ấy bốn Tỳ-kheo muôn sự đều bỏ, một lòng tuân lời dạy vào tháp đối trước tượng Phật phát lồ sám hối, như núi lỡ lăn lộn khóc lóc, hướng về Phật ngày đêm tiếp nối nhau đến suốt đời. Sau khi mạng chung được sinh về nước Phật Không Vương. Nay dùng kinh này làm chứng. Các hành giả khi muốn sám hối cũng y theo giáo pháp môn này. Phật nói nếu khi ta diệt độ rồi, các đệ tử Phật lìa bỏ các ác, ưa thích pháp ít nói, ngày đêm sáu thời. Hay ở một thời mà phân làm các thời nhỏ, trong phần nhỏ này trong phút chốc quán tưởng bạch hào của Phật thấy hoặc không thấy thì những người này trừ được tội chín mươi sáu ức na-do-tha hằng hà sa vi trần kiếp sinh tử. Nếu sau có người nghe tiếng Bạch hào mà không kinh sợ nghi ngờ, vui mừng tin nhận thì người này cũng trừ được tội tám mươi ức kiếp sinh tử. Nếu các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc nam hoặc nữ phạm bốn tội căn bản mười ác, tội ngũ nghịch và chê bai Đại thừa v.v… Như thế các người này nếu hay sám hối ngày đêm sáu thời thân tâm không ngưng nghỉ, năm thể sát đất như núi lỡ, gào khóc như mưa chắp tay hướng về Phật quán tưởng tướng sáng bạch hào một ngày đến bảy ngày thì bốn tội trước mới có thể giảm nhẹ. Người quán tưởng bạch hào tối không thấy, phải vào tháp quán tướng bạch hào một ngày đến ba ngày chắp tay khóc lóc lại tạm nghe thì cũng trừ được ba kiếp tội. Phật bảo Phụ Vương và ra lệnh cho A-nan: Ta nay vì mọi người hiện thân tướng sáng suốt. Nếu có kẻ tâm bất thiện hoặc kẻ hủy cấm giới Phật thấy Phật đều không đồng. Lúc đó năm trăm Thích Tử thấy thân tướng Phật cũng như người tro, Tỳ-kheo ngàn người thấy Phật như đất đỏ, mười sáu cư sĩ hai mươi bốn người nữ thấy Phật toàn màu đen. Các Tỳ-kheo-ni thấy Phật như sắc bạc. Lúc đó tứ chúng bạch Phật rằng chúng con nay không thấy được tướng đẹp của Phật, tự bứt tóc nhào lăn xuống đất khóc như mưa tự đày đọa mình. Phật bảo này thiện nam tử, Như Lai xuất hiện chính vì trừ diệt hết tội cho các ông. Các ông nay hãy xưng niệm đảnh lễ bảy Phật quá khứ Phật nói các ông đời trước vì tội tà kiến, nay các ông hãy hướng trước các Đại đức Tăng chúng phát lồ sám hối, theo lời Phật dạy đối trước Phật pháp chúng mà năm thể sát đất như núi lớn lỡ sụp hướng về Phật sám hối. Sám hối xong thì tâm nhãn khai mở thấy sắc thân Phật, tâm rất vui mừng. Phật bảo Tỳ-kheo các ông đời trước vô lượng kiếp đã tà kiến nghi sư không giữ giới luống thọ của tín thí. Vì nhân duyên đó nên đọa vào ngạ quỷ địa ngục tám vạn năm chịu khổ. Nay tuy được ra nhưng ở vô lượng đời không thấy được chư Phật, chỉ nghe tên Phật. Nay thấy sắc thân Như Lai như đất đỏ, dài thẳng năm thước. Phật nói xong thì ngàn Tỳ-kheo hướng về Phật sám hối năm thể sát đất như núi lớn lỡ sụp gào khóc như mưa. Cũng như gió thổi mây đen bay tứ tán hiện dung mạo vàng. Đã thấy Phật rồi các Tỳ-kheo vui mừng phát tâm Bồ-đề.

Phật bảo phụ vương:

-Ngàn Tỳ-kheo này ân cần cầu pháp, tâm không lười biếng, ngưng nghỉ. Phật thọ ký cho đồng hiệu là Nam-mô Quang Chiếu Như Lai. Từ trước là pháp Sám hối xuất hiện Quán Phật Tam-muội Hải kinh quyển hai và ba. Phật nói kinh Quán Phật Tam-muội Hải, phẩm Mật Hạnh thứ mười hai quyển mười. Phật bảo A-nan:

-Chúng sinh vị lai nếu có người được niệm Phật Tam-muội ấy, quán các tướng hảo Phật, được chư Phật hiện tiền Tam-muội thì phải dạy người ấy giữ kín thân, khẩu, ý chớ khởi tà mạng, chớ sinh cống cao. Nếu khởi pháp tà mạng và cống cao, phải biết người này là tăng thượng mạn, phá diệt Phật pháp, phần nhiều khiến chúng sinh khởi tâm bất thiện, làm loạn hòa hợp tăng, bày điều lạ mê hoặc chúng, là bạn của ác ma. Như thế người ác này dầu niệm Phật nhưng mất vị cam lộ. Vì người này sinh chỗ cống cao nên thân luôn bé nhỏ, sinh nhà hạ tiện, bần cùng, thường lấy vô lượng ác nghiệp để trang sức. Chúng sinh phải tự giữ gìn khiến vĩnh viễn không sinh các việc ác này. Nếu người khởi nghiệp tà mạng như thế thì nghiệp tà mạng này cũng như voi điên phá hoại ao hoa sen. Nghiệp tà mang này cũng như thế, phá hoại các thiện căn.

Phật bảo A-nan:

-Có người niệm Phật phải tự giữ gìn chớ nên buông lung. Người niệm Phật Tam-muội nếu không phòng hộ giữ gìn mà sinh cống cao thì gió độc tà mạng sẽ thổi lửa kiêu mạn đốt cháy pháp lành.

Pháp lành là tất cả vô lượng Thiền định, các pháp niệm Phật từ tâm tưởng sinh ra, đó gọi là công đức tạng.

Phật bảo A-nan:

-Kinh này tên là “Hệ tưởng bất động” như thế mà thọ trì; cũng gọi là “Quán Phật bạch hào tướng” như thế mà thọ trì; cũng gọi là “Nghịch thuận quán Như Lai”; cũng gọi là “Nhất nhất mao khổng phân biệt Như Lai thân phần”; cũng gọi là “Quán Tam thập nhị tướng bát thập tùy hình hảo chư trí tuệ quang minh”; cũng gọi là “Quán Phật Tam-muội hải”; cũng gọi là “Niệm Phật Tam-muội môn”; cũng gọi là “Chư Phật Diệu Hoa Trang Nghiêm sắc thân kinh”. Các ông khéo thọ trì cẩn thận chớ quên. Lại như kinh Đại Tập, phẩm Tế Long nói: “Khi đó Bà-già-la Long vương thỉnh Phật vào cung, thiết lễ cúng Phật. Phật nhận lời Long vương cùng Thánh chúng ăn xong. Khi đó Đại Long vương lại thỉnh Phật nói pháp. Bấy giờ Long vương thái tử tên là Hoa Diện đứng trước Phật cúi đầu sát đất khóc than sám hối ở quá khứ đã tạo tội nghiệp gì phải làm thân rồng này. Lại lấy kinh này làm chứng thì cũng là phương pháp chí thành sám hối, nên biết.

Tất cả trong kinh đều có văn này, không thể rộng chép, nay chỉ lược sao ba bộ kinh để chỉ cho người học sau. Trừ người làm không chí tâm. Đều biết Phật không nói dối. Như Mộc Hoàn kinh nói: Khi đó có vua nước Nan Đà tên là Ba Lưu Ly sai sứ đến chỗ Phật đảnh lễ Phật rồi bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, nước tôi đã nhỏ lại ở biên địa, nhiều năm bị giặt cướp, ngũ cốc đắt đỏ, tật bệnh lan tràn… nhân dân khốn khổ tôi luôn đâu được nằm yên, Như Lai pháp tạng đa phần sâu rộng nhưng tôi có việc lo buồn chẳng được tu hành. Cúi mong Thế Tôn vô cùng từ mẫn ban cho tôi pháp yếu để tôi đêm ngày dễ tu hành, đời sau lìa các khổ. Phật bảo sứ giả: “Nói với đại vương của ngươi, đại vương nếu muốn diệt hết phiền não chướng, báo chướng thì phải xỏ một trăm lẻ tám hạt gỗ thường mang theo người, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, luôn phải chí tâm, ý không phân tán, miện niệm tên Phật-đà, Đạt-ma, Tăng-già, mới qua một hạt, như thế hoặc mười, hoặc hai mươi hoặc trăm hoặc ngàn cho đến trăm ngàn vạn, nếu có thể đủ hai mươi vạn biến, thân tâm không loạn, không có các siểm khúc. Khi chết rồi thì được sinh trời Viêm Ma thứ ba, y thực tự nhiên thường được an lạc, được trừ hết một trăm lẻ tám kết nghiệp, ngược dòng sinh tử, được đạo Niết-bàn chứng quả Vô thượng.” Sứ trở về tâu vua, vua rất hoan hỷ cung kính lễ Phật, ở xa bạch Thế Tôn: “Con xin đầu đội nhận lời dạy của Thế Tôn, con nguyện tuân lời Phật dạy”, rồi ra lệnh cho quan dân làm đủ ngàn mộc hoàn, dù hoàng thân quốc thích đều cho một cái. Vua luôn tụng niệm. Dù làm việc quân hay đi xa cũng không phế bỏ. Lại nghĩ Thế Tôn Đại từ khắp ứng tất cả, nếu ta đây khéo được ra khỏi chìm đắm mãi trong biển khổ thì Như Lai sẽ hiện ra vì ta nói pháp. Vua do nguyện mà tâm vui ba ngày không ăn. Phật liền hiện thân cùng Thánh chúng vào cung vì vua nói pháp. Lại lấy đây làm chứng là lòng vua chân thật, niệm niệm chướng hết. Phật biết tội đã hết liền ứng niệm mà hiện. Nên biết.

Quán Niệm A-di-đà Phật Tướng Hải Tam-muội Công Đức Pháp Môn Kinh

AN LẠC TẬP

SỐ 1958

QUYỂN THƯỢNG

Thích Đạo Xước biên soạn.

Trong “Tập An Lạc” này, tổng cộng có mười hai phần lớn, tất cả đều dẫn kinh luận để chứng minh, nhằm khuyên mọi người phát tín tâm cầu sinh Tịnh độ.

PHẦN I

Trước hết là nói rõ về phần lớn thứ nhất. Văn nghĩa phần này tuy nhiều, nhưng đại thể có chín nội dung. Sau khi phân mục rồi sẽ trình bày rõ:

1. Nói rõ nguyên do hưng khởi giáo nghĩa, xét theo căn cơ và thời điểm thích hợp để khuyên người cầu về Tịnh độ.

2. Căn cứ vào các bộ kinh Đại thừa để nói rõ phương pháp và quy tắc xưa người nói và chúng nghe.

3. Căn cứ vào các bộ Đại thừa Thánh giáo để nói rõ chúng sinh phát tâm đã lâu hay mới, cúng dường nhiều hay ít, nhằm khiến thính chúng ở trong hội nổ lực phát tâm.

4. Luận về tôn chỉ khác nhau trong các bộ kinh.

5. Nói rõ về cách đặt tên gọi khác nhau của các kinh, như kinh Niết-bàn, kinh Bát-nhã v.v… căn cứ theo Pháp mà lập danh. Có kinh theo Dụ mà lập danh, có kinh theo sự mà lập danh, cũng có kinh theo Thời và Xứ mà lập danh. Ở đây không chỉ nêu ra một loại. Nay kinh Quán này là dựa theo Nhân và Pháp mà lập danh, trong đó, “Phật” là Nhân danh, còn “Thuyết quán vô lượng thọ” là Pháp danh vậy.

6. Phân biệt về người nói: Các kinh khởi sự nói không ngoài năm loại:

  1. Phật tự nói.
  2. Thánh đệ tử nói.
  3. Chư thiên nói.
  4. Thần tiên nói.
  5. Biến hóa nói.

Trong kinh Quán này, chính do Đức Thế Tôn tự nói.

  1. Nói rõ về chân, ứng nhị thân, và biện giải về chân, ứng nhị độ.
  2. Nói rõ cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà có các phẩm bậc trên dưới, Phàm Thánh cùng ở.
  3. Nói rõ cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà có thuộc về ba cõi hay không.

I. Nội Dung Thứ Nhất:

Ở trong nội dung thứ nhất, nói về lý do hưng khởi giáo pháp, xét theo căn cơ đương thời, khuyên người quy hướng về Tịnh độ.

Nếu giáo hợp thời cơ thì dễ tu dễ ngộ. Nếu giáo và thời cơ trái nhau, thì khó tu khó nhập. Thế nên, ở trong kinh Chánh Pháp Niệm có nói: “Hành giả một khi nhất tâm cầu đạo, thường phải quán sát về phương tiện và thời cơ.” Nếu không đắc thời, không phương tiện, thì gọi là mất, không gọi là lợi. Vì sao? Như dùi củi ướt để lấy lửa, lửa không thể có; đó là chẳng phải thời. Chặt củi khô để tìm nước thì nước cũng không thể có; đó là vô trí.

Thế nên, trong kinh Đại Tập Nguyệt Tạng có nói: “Sau khi Phật diệt độ, năm trăm năm đầu, hàng đệ tử của ta học Tuệ được kiên cố; năm trăm năm thứ hai sau thì học Định kiên cố; năm trăm năm thứ ba, học đa văn đọc tụng kiên cố; năm trăm năm thứ tư thì tạo lập tháp chùa, tu phước sám hối kiên cố; năm trăm năm thứ năm thì bạch pháp ẩn tích ngưng trệ, nhiều tranh cãi, ít có thiện pháp kiên cố.”

Và cũng trong kinh ấy nói: “Chư Phật xuất thế, có bốn cách độ chúng sinh.” Đó là bốn cách gì?

  1. Miệng thuyết mười hai bộ loại trong kinh, tức là pháp thí độ chúng sinh.
  2. Chư Phật Như Lai có vô lượng tướng tốt quang minh. Tất cả chúng sinh có thể để tâm quán sát mà đạt được lợi ích. Đây tức là thân nghiệp độ chúng sinh.
  3. Có vô lượng đức dụng, đạo lực thần thông, các loại biến hóa. Đó tức là thần thông lực độ chúng sinh.
  4. Chư Phật có vô lượng danh hiệu có tổng có biệt, tùy theo tâm niệm chúng sinh xưng niệm, thì hết thảy đều trừ nạn chướng gặp nhiều lợi ích, đều sinh ra đời có Phật. Đó gọi là danh hiệu độ chúng sinh.

Tính theo thời gian bây giờ thì chúng ta cách Phật đã bước qua giai đoạn năm trăm năm thứ tư, chính là thời kỳ sám hối tu phước, là thời nên xưng danh hiệu của Phật. Nếu một niệm xưng danh hiệu “A-di-đà Phật”, tức tiêu trừ hết tội lỗi trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Một niệm còn như vậy, huống chi là thường tu thường niệm, tức là người thường sám hối vậy. Lại như cách đời Thánh đức chưa bao xa, tức là người trước lấy việc tu định tuệ làm chánh học, còn người sau thì kiêm cả. Nếu cách Phật đã xa, thì người sau lấy việc xưng danh là chánh, người trước thì kiêm cả.

Ý này là thế nào? Chính là do chúng sinh cách Phật lâu xa đó thôi, nên căn cơ phần nhiều đã ám độn. Cho nên Vi-đề phu nhân từ đó mà đem lòng thương xót chúng sinh trong thời mạt thế ngũ trược, luân hồi trong nhiều kiếp, phải chịu nhiều nỗi thống khổ, cho nên Ngài gặp cảnh khổ duyên thì liền khai mở. Bậc đại Thánh gia từ khuyến hóa để người quy về Cực lạc. Nếu như muốn tiến thú ở đây, thì bậc Thánh, quả khó mà đạt được. Duy chỉ có cõi Tịnh độ là nơi dễ tu tập quy hướng. Nếu như truy tìm ở trong các kinh điển, thì nên đem tập chân ngôn trợ tu để được thêm ích lợi.

Vì sao? Vì muốn đem lời người trước dẫn dắt cho người sau. Người sau noi theo người trước liên tục không ngừng, nguyện không gián đoạn, cho đến khi dứt tận hết nghiệp sinh tử khổ hải.

II. Nội Dung Thứ Hai:

Căn cứ trong các bộ Đại thừa, nói rõ quy tắc về người nói, người nghe. Gồm có sáu quy tắc.

  1. Kinh Đại Tập nói: “Đối với người thuyết pháp, nghĩ tưởng là vị y vương (thầy thuốc) cứu hết bệnh khổ chúng sinh. Nghĩ tưởng nói ra các pháp cam lồ, là pháp đề hồ. Người nghe thì nghĩ tưởng tăng trưởng thắng giải, nghĩ tưởng tiêu trừ bệnh khổ. Nếu được như thế thì người nói người nghe đều có thể kham lãnh thiệu long Thánh chủng, xiển dương chánh giáo, thường sinh ra đời có Phật.”
  2. Trong Đại Trí Độ luận nói: “Người nghe nhìn thẳng Pháp sư như người khát muốn uống nước, nhất tâm thu nhận nghĩa ngữ và, nghe pháp xong tâm vui mừng hoan hỷ. Đối với người như thế thì nên nói pháp.”
  3. Trong luận Trí Độ lại nói: “Có hai loại người đạt được phước vô lượng vô biên: Thứ nhất là người thích nghe pháp; thứ hai là người thích nói pháp.” Cho nên, Tôn giả A-nan bạch Phật rằng:

– Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, vì sao lại được trí tuệ và thần thông đệ nhất? Ở trong các vị Thánh đệ tử lại là người thù thắng hơn cả?

Phật bảo A-nan:

– Hai người này, ở trong thời gian tu nhân, vì nhân duyên nói pháp mà ngàn dặm chẳng ngại khó, cho nên nay là bậc Thánh thù thắng đệ nhất trong chúng.

4. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu người không có căn bản thiện, thì không nghe được kinh này. Người thanh tịnh giữ giới, mới được nghe chánh pháp.”

5. Nếu từng thấy Đức Thế Tôn, thì có thể tin được việc này. Phụng sự Đức Như Lai, thích nghe thuyết giáo pháp.

6. Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Giác có nói: “Thiện nam, thiện nữ nghe thuyết pháp môn Tịnh độ, tâm sinh vui mừng bi thiết, thì lông trên người thẳng đứng như nhổ lên vậy. Nên biết, người này, trong thời quá khứ, bổn mạng đã từng tu Phật đạo. Nếu lại có người nghe khai pháp môn Tịnh độ không sinh lòng tin, nên biết người này đời trước từ tam ác đạo đến, ương nghiệp đã lâu chưa dứt, cho nên không tin hướng theo vậy, ta nói hạng người này chưa thể được giải thoát.”

Thế nên, trong kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Người kiêu mạn, giải đãi khó mà tin được pháp này.”

III. Nội Dung Thứ Ba:

Căn cứ vào Đại thừa Thánh giáo, nói rõ chúng sinh phát tâm đã lâu, hay gần đây, học Phật nhiều hay ít.

Như kinh Niết-bàn nói:

Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp :

– Nếu có chúng sinh đã từng phát tâm Bồ-đề ở trong hằng hà sa kiếp, thì sau sinh vào đời ác thế nghe kinh Đại thừa, không sinh hủy báng. Nếu ở trong hằng hà sa chư Phật phát tâm Bồ-đề, thì sau ở trong đời ác nghe kinh Đại thừa sẽ không khởi lên tâm niệm hủy báng pháp này, mà lại sinh lòng yêu thích. Nếu ở trong hằng hà sa chư Phật phát tâm Bồ-đề, thì sau ở trong thời ác thế không sinh tâm hủy báng, mà lại tín lạc chánh giải, thọ trì đọc tụng. Nếu ở trong hằng hà sa chư Phật phát tâm Bồ-đề, thì sau ở trong đời ác sẽ không sinh phỉ báng chánh pháp, mà lại biên chép kinh quyển. Tuy vì người nói, mà thâm nghĩa chưa thể hiểu rõ nghĩa sâu xa.

Vì sao cần phải như lời kinh đây mà so lường? Vì làm rõ ngày nay người biết nghe kinh này là, từng đã phát tâm cúng dường hằng hà sa chư Phật, lại hiển bày uy lực kinh điển Đại thừa bất khả tư nghì. Cho nên trong kinh nói: “Nếu có chúng sinh nghe kinh điển này, trải qua trăm ngàn kiếp không đọa vào địa ngục ác đạo.” Vì sao? Vì kinh điển vi diệu được lưu truyền nơi đó, thì biết đất đó là Kim cang, người sống ở trong đó cũng như Kim cang. Vậy người nghe kinh sinh lòng tin đó, đều đạt được lợi ích bất khả tư nghì vậy.

IV. Nội Dung Thứ Tư:

Kế đến là luận về tông chỉ bất đồng của các bộ kinh.

Nếu căn cứ kinh Niết-bàn thì lấy Phật tánh làm Tông; Kinh Duyma thì lấy Bất khả tư nghì giải thoát làm Tông. Nếu y vào kinh Bátnhã thì lấy “Không tuệ” làm Tông; Kinh Đại Tập, thì lấy Đà-la-ni làm Tông. Nay trong Kinh quán này thì lấy quán Phật Tam-muội làm Tông. Nếu luận về sở quán, chẳng qua là căn cứ vào y báo và chánh báo, như trong Kinh quán phần dưới có nói rõ. Nếu y vào kinh Quán Phật Tammuội thì nói:

Phật nói với phụ vương:

Chư Phật ra đời có ba điều lợi ích:

1. Miệng nói mười hai bộ loại trong kinh, ban pháp thí làm lợi ích chúng sinh, trừ hết mọi vô minh ám chướng, mở ra con mắt trí tuệ, khiến chúng sanh ra đời đều có chư Phật, sớm đắc quả Vô thượng Bồ-đề.

2. Chư Phật Như Lai có thân tướng quang minh, vô lượng diệu hảo. Nếu có chúng sinh quan sát xưng niệm, nếu là tổng tướng biệt tướng, không hỏi Phật thân trong hiện tại, quá khứ, đều có thể trừ diệt tứ trọng ngũ nghịch của chúng sinh, vĩnh viễn xa lìa tam đồ ác đạo, tùy niệm mà được thọ vui, thường sinh Tịnh độ, tu hành cho đến thành Phật đạo.

3. Phật khuyên Phụ vương hành trì pháp niệm Phật Tam-muội.

Phụ vương bạch với Phật:

– Nếu quả đức của Phật địa là thật tướng chân như Đệ nhất nghĩa Không, sao lại không bảo đệ tử hành trì theo?

Phật bảo phụ vương:

– Quả đức của Phật có vô lượng cảnh giới thâm diệu, có thần thông giải thoát, chẳng phải là cảnh giới hành trì của phàm phu, cho nên chỉ khuyên phụ vương niệm Phật Tam-muội.

Phụ vương bạch Phật: Công đức niệm Phật, hình trạng như thế nào?

Phật bảo: Như rừng Y lan, vuông vức bốn mươi do-tuần, có một cây Khoa-ngưu-đầu chiên-đàn, tuy là có rễ mầm, mà vẫn chưa ra khỏi mặt đất. Trong rừng Y lan duy chỉ có mùi hôi mà không có hương thơm. Nếu ai ăn phải hoa quả ở đó thì phát cuồng lên mà chết. Sau đó cây chiên đàn mầm rễ lần lần phát triển, gần như thành cây, khí hương tỏa đầy, có thể làm cải biến hết, cả rừng cây này tỏa ra mùi hương thơm ngát. Chúng sinh trông thấy, đều sinh lòng tâm tưởng là việc hy hữu.

Phật bảo Phụ vương:

– Tất cả chúng sinh, tâm nghĩ đến Phật của họ ở trong sinh tử cũng như thế, hễ buộc niệm không ngừng, nhất định sẽ sinh ra đời có Phật. Một khi được vãng sinh, liền thay đổi hết ác nghiệp, thành tựu tâm đại bi, như cây tỏa hương làm thay đổi cả rừng Y lan vậy.

Nói rừng Y lan đó là dụ cho tam độc, tam chướng, vô biên trọng tội ở trong thân chúng sinh. Nói chiên-đàn là dụ cho tâm niệm Phật của chúng sinh. Vừa muốn thành cây đó nghĩa là tất cả chúng sinh hễ niệm Phật không dứt đoạn, thì nghiệp đạo ắt sẽ thành tựu.

Hỏi: Công đức niệm Phật của chúng sinh bao nhiêu cũng có thể tính biết, vì sao chỉ do một niệm mà có thể đoạn trừ ác nghiệp? Như một loài cây tỏa hương có thể làm thay đổi cả rừng cây bốn mươi do-tuần, làm cho cả khu rừng đều tỏa hương thơm ngát?

Đáp: Đó là căn cứ vào các bộ kinh Đại thừa mà hiển bày ra công năng niệm Phật Tam-muội là bất khả tư nghì. Vì sao? Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Ví như có người dùng gân sư tử để tạo ra đàn huyền, âm thanh một khi tấu lên, thì các âm thanh khác đều bị tan biến mất hết. Nếu người phát tâm Bồ-đề, thực hành niệm Phật Tam-muội, thì tất cả phiền não, tất cả hoặc chướng thảy đều đoạn diệt. Cũng như có người vắt hết sữa trâu dê, lừa ngựa cho vào trong cái chậu. Nếu lại vắt sữa sư tử đổ vào, thì các loại sữa kia đều biến thành nước lã. Nếu người ở trong tâm Bồ-đề mà hành trì niệm Phật Tam-muội thì tất cả ác thú đều trở thành vô hại.”

Và cũng trong kinh ấy nói: “Thí như có người, trong thân họ tẩm thuốc tàng hình, nếu có đi du hành qua lại các nơi, thì tất cả mọi người đều không ai nhìn thấy họ. Nếu người ở trong tâm Bồ-đề hành niệm Phật Tam-muội, thì tất cả ác thần, các thứ chướng ngại đều không nhìn thấy họ. Tùy theo chỗ đến, đều không làm chướng ngại.”

Vì sao lại có thể được như thế? Vì niệm Phật Tam-muội là vua trong tất cả các pháp Tam-muội.

V. Nội Dung Thứ Năm:

Như trên đã nói, kinh quán vô lượng thọ Phật được đặt tên theo người và Pháp. Người là Phật. Pháp là pháp.?

VI. Nội Dung Thứ Sáu: Phân biệt người nói tức Phật tự nói.

VII. Nội Dung Thứ Bảy:

Lược nói rõ về nghĩa ba thân, ba độ (cõi).

Hỏi: Hiện nay thân của Phật A-di-đà là thân gì? Nước Cực lạc là cõi nào?

Đáp: Thân Phật A-di-đà hiện nay là Báo thân. Nước Cực lạc trang nghiêm là Báo độ. Nhưng xưa nay tương truyền đều cho Phật A-di-đà là Hóa thân, cõi nước cũng là Hóa độ. Đây là sự sai lầm lớn. Nếu như vậy thì cõi Uế độ này cũng là nơi cư trú của Hóa thân, cõi Tịnh độ cũng là Hóa thân ở. Vậy thì Báo thân của Như Lai ở trong cõi nước nào? Nay y vào kinh Đại thừa Đồng Tánh mà biện luận về Báo, Hóa, Tịnh và uế độ.

Kinh nói: “Người trong cõi Tịnh độ thành Phật, chính là Báo thân. Trong cõi uế độ thành Phật thì là Hóa thân.”

Kinh kia lại nói: “A-di-đà Như Lai, Liên Hoa khai phu Tinh Vương Như Lai, Long Chủ Vương Như Lai, Bảo Đức Như Lai v.v… ở nơi cõi Phật thanh tịnh niên đắc đạo quả đạo quả, tất cả các đức Như lai như thế là Báo thân của Phật cả. Thế nào là Hóa thân Như Lai . Như ngày nay có các Đức Như Lai: Dõng Giới Thuộc Như Lai, Ma Khủng Bố Như Lai. Các Đức Như Lai này ở trong đời uế trược hiện thành Phật, sẽ thành Phật, từ cung trời Đâu-suất giáng sinh xuống, cho đến trụ trì tất cả thời chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp, tạo các sự nghiệp giáo hóa thế đều là Hóa thân Phật.

Thế nào là Pháp thân Như Lai? Đó là chân thân của Như Lai, là vô sắc, vô hình, vô hiện, vô trước, không thể nhìn thấy được, không nói năng, không trụ xứ, không sinh không diệt, đó là nghĩa chân Pháp thân.

Hỏi: Báo thân của Như Lai là thường trụ. Vì sao trong kinh Quán Âm Thọ Ký lại nói: “Phật A-di-đà sau khi nhập Niết-bàn thì Quán Âm Bồ-tát là vị Bổ xứ thành Phật tiếp sau?”

Đáp: Báo thân này, thị hiện tướng ẩn giấu, không phải là diệt độ vậy.

Kinh nói: “Phật A-di-đà sau khi nhập Niết-bàn, lại có chúng sinh có thiện căn sâu dày, thấy Phật như cũ không khác.” Tức là tu chứng.

Lại trong luận Bảo Tánh nói: “Báo thân có năm loại tướng thuyết pháp và có thể nhìn thấy, các nghiệp không ngưng nghĩ, và ngưng nghĩ ẩn giấu, và thị hiện không phải là thực thể.” Tức là chứng vậy.

Hỏi: Báo thân và Báo độ của đức Thích-ca Như lai thì ở tại phương nào?

Đáp: Kinh Niết-bàn nói: “Cõi Tây phương cách đây bốn mươi hai hằng hà sa quốc độ, có thế giới tên là Vô thắng. Cõi này cũng thật trang nghiêm như nước Cực lạc Tây phương vậy. Ta hiện thân ra ở cõi Ta-bà để giáo hóa chúng sinh, nhưng chẳng phải hiện thân ở cõi này. Tất cả các Đức Như Lai cũng đều như thế.” Đây là chứng vậy.

Hỏi: Trong kinh Cổ Âm nói: “Phật A-di-đà có cha mẹ.” Vậy đủ biết là chẳng phải Báo thân, Báo độ vậy.

Đáp: Ông chỉ nghe nói mà không nghiên cứu kỹ trong kinh. Sự nghi lầm này có thể gọi là “Sai một ly đi ngàn dặm”. Nhưng Phật A-diđà cũng có đầy đủ ba thân. Thân hiện ở cõi Cực lạc chính là Báo thân. Nay nói Phật có cha mẹ đó, là ở trong cõi uế độ thị hiện Hóa thân ra có cha mẹ vậy. Cũng như Phật Thích-ca, ở trong cõi Tịnh độ thành tựu được Báo thân, ứng hiện ra cõi này có cha mẹ, đó là Hóa thân. Phật A Di-đà cũng vậy.

Lại như trong kinh Cổ Âm có nói: “Bấy giờ Phật A-di-đà cùng đầy đủ chúng Thanh văn, trong cõi nước có tên là Thanh thái, là nơi ở của bậc Thánh vương. Kinh thành này rộng dài đến mười ngàn do-tuần, cha của Phật làm Chuyển luân Thánh vương, tên là Nguyệt Thượng, mẹ tên là Thù Thắng Diệu Nhan, ma vương tên là Vô Thắng, con Phật tên là Nguyệt Minh, Đề-bà-đạt-đa tên là Tịch Ý, đệ tử thị giả tên là Vô-cấu-xưng.”

Các việc nói ở trên đều là hiện tướng Hóa thân. Nếu là Tịnh độ, há lại có Luân vương thành trì và người nữ sao? Văn nghĩa này rất rõ ràng, đâu cần phải phân biệt? Do không khéo tìm tôi nghiên cứu, từ đó mê muội chấp lầm theo danh tự.

Hỏi: Nếu Báo thân có tướng ẩn mất ngưng nghỉ thì cõi Tịnh độ có việc thành hoại sao?

Đáp: Câu hỏi này, từ trước đến nay, nghĩa vẫn khó thông. Tuy nhiên, nay dẫn trong kinh ra để làm chứng, nghĩa cũng có thể biết. Ví như thân Phật thường trụ, chúng sinh thấy có Niết-bàn. Tịnh độ cũng thế, thể chẳng có thành hoại, tùy theo chỗ thấy của chúng sinh mà có thành hoại. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Như thấy bậc Đạo sư có vô lượng thân sắc, tùy theo tâm hành của chúng sinh, nên thấy cõi Phật cũng vậy.” Cho nên trong Tịnh độ luận nói: “Một chất không thành, nên Tịnh và uế có thiếu có đủ. Khác chất không thành nên tìm nguồn thì hợp với một.” Vậy căn cứ vào pháp tánh Tịnh độ, thì không luận là thanh hay trọc; mà căn cứ vào lòng đại Bi báo, hóa, thì không phải không có tịnh hay uế.

Lại nói rộng về Phật độ đối với cơ cảm bất đồng, thì có ba loại sai biệt là:

1/ Theo Chân đưa đến Báo, nên gọi là Báo độ. Như ánh sáng mặt trời chiếu khắp nơi, Pháp thân như mặt trời, Báo thân, Hóa thân như ánh sáng.

2/ Không mà chợt có gọi đó là Hóa. Như trong Tứ Phần luật có nói: “Định Quang Như Lai hóa ra thành Đề-bà cùng thành Bạt-đề. Hai thành này ở gần nhau chung sống hòa thuận qua lại. Về sau đột nhiên hóa thành lửa thiêu đốt, là muốn cho chúng sinh thấy được sự vô thường, sinh tâm nhàm chán, quy hướng về đạo.”

Vì vậy kinh nói: “Hoặc hiện ra kiếp lửa, trời đất đều rõ ràng, để cho chúng sinh thấy biết sự thể là vô thường. Bồ-tát vì cứu kẻ nghèo khéo hiện, lập ra kho tàng, tùy duyên chỉ dẫn rộng bày, khiến chúng sinh phát tâm Bồ-đề.”

3/ Ẩn uế hiển tịnh. Như trong kinh Duy-ma nói: “Phật dùng ngón chân ấn xuống đất, làm cho ba ngàn quốc độ đều được nghiêm tịnh. Nay cõi nước Vô lượng thọ này thật là quốc độ theo Chân hiện báo mà thôi.”

Làm sao biết? Dựa vào kinh Quán Âm Thọ Ký nói: “Đời vị lai Đức Quán Thế Âm thành Phật, thay vào chỗ Đức Di-đà.” Cho nên biết đó là Báo thân vậy.

VIII. Nội Dung Thứ Tám:

Thứ tám là nói rõ về cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà; quả vị bao quát cả thượng hạ, phàm Thánh cùng ở chung. Nay đây ở cõi nước Vô lượng thọ là báo Tịnh độ. Do nguyện lực của Phật mà bao quát cả trên dưới, để cho chúng sinh tu thiện pháp cầu vãng sinh về. Do bao hàm các bậc thiện căn mà ngài Thiên Thân, Long Thọ cùng các bậc Thượng địa Bồ-tát cùng cầu sinh về. Cho nên, trong Đại kinh nói rằng:

Bồ-tát Di-lặc hỏi Phật:

Không biết ở cõi Cực lạc có bao nhiêu Bồ-tát bất thoái được sinh về đó?

Đức Thế Tôn bảo:

Ở thế giới Ta-bà này có sáu mươi bảy ức Bồ-tát đều được vãng sinh về.

Hỏi: Tịnh độ của Phật A-di-đà đã gọi là bao quát cả thượng căn hạ căn, thì Phàm Thánh đều chung ở. Không chỉ những vị tu vô tướng được vãng sinh, mà hạng phàm phu hữu tướng cũng được sinh về sao?

Đáp: Phàm phu trí cạn, dựa nhiều vào tướng mà cầu, quyết được vãng sinh, nhưng do lực thiện còn yếu nên chỗ sinh ra, duy chỉ thấy Báo thân và Hóa Phật. Cho nên, phẩm Bồ-tát Bản Hạnh của kinh Quán Phật Tam-muội nói: “Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: Trong vô lượng kiếp quá khứ, khi con còn là phàm phu, ở trong đời đó có Đức Phật tên là Bảo Uy Đức Thượng Vương Như Lai, khi Phật xuất thế cũng như ngày nay vậy. Đức Phật đó thân cao sáu trượng, tỏa sắc vàng tía, thuyết pháp Tam-thừa như Đức Thích-ca vậy.”

Bấy giờ ở cõi nước kia có vị đại trưởng giả, tên là Nhất Thiết Thí. Vị trưởng giả có một người con, tên là Giới Hộ. Khi mẹ mang thai, lòng bà rất kính tin, dự định sẽ cho con thọ Tam quy y. Khi con sinh ra, vừa lên tám tuổi, cha mẹ thỉnh Phật về nhà cúng dường, người con thấy Phật liền làm lễ, tâm cung kính Phật thật sâu xa, mắt chiêm ngưỡng không rời. Một khi đã nhìn thấy Phật, liền tiêu trừ hết tội trong vô lượng nado-tha kiếp sinh tử. Từ đó về sau, thường sinh về cõi Tịnh độ. Tức liền gặp được hằng hà sa số chư Phật, đều là những bậc Thế Tôn có đầy đủ tướng hảo độ thoát vô số chúng sinh. Bấy giờ, Đồng tử mỗi mỗi đều theo hầu Phật, lễ bái cúng dường, chấp tay quán Phật. Vì nhân duyên đó, nên được gặp trăm vạn A-tăng-kỳ Phật. Chư Phật kia cũng có sắc thân tướng hảo hóa độ chúng sinh. Từ đó về sau, thường đắc trăm vạn ức niệm Phật Tam-muội, lại có được A-tăng-kỳ pháp môn Đà-la-ni.

Khi đã đắc ngộ, thường ở trước chư Phật, được thuyết pháp vô tướng. Chỉ trong khoảnh khắc đắc được Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội. Bấy giờ, Đồng tử chỉ thọ tam quy, vừa lễ Phật rồi, được quán tưởng thân Phật, tâm không nhàm chán. Do nhân duyên này, mà được gặp vô số Phật. Huống gì luôn buộc niệm tư duy đầy đủ, quán sắc thân Phật. Bấy giờ Đồng tử lúc ấy, đâu là người khác, mà chính là thân con . Bấy giờ, Đức Thế Tôn tán thán ngài Văn-thù rằng:

Thiện tai! Thiện tai! Ông chỉ lễ Phật một lần mà được gặp vô số chư Phật, huống gì chúng sinh ở đời vị lai, hàng đệ tử của ta, nếu siêng năng quán Phật, niệm Phật!

Phật lại bảo A-nan:

Ông đem lời của Văn-thù nói lại cho mọi người biết trong hiện tại này và đời vị lai sau, nếu người nào có thể lễ Phật, có thể niệm Phật, quán tưởng Phật, nên biết người này cùng Văn-thù-sư-lợi không khác. Xả thân ở đời này, sẽ cùng trụ xứ với Văn-thù.

Do văn này làm chứng, nên biết cõi Tịnh độ đó bao quát hết các quốc độ và sự vãng sinh là không sai . Nếu biết lấy vô tướng lìa niệm làm thể, mà duyên vào đó cầu sinh thì phần nhiều là hạng thượng phẩm vãng sinh.

Cho nên, Bồ-tát Thiên Thân mới luận rằng: “Nếu có thể quán hai mươi chín loại trang nghiêm thanh tịnh, tức tóm lược đi vào một câu pháp. Một câu pháp đó có nghĩa là câu thanh tịnh. Câu Thanh tịnh, tức lấy trí tuệ vô vi Pháp thân. Vì sao cần phải rộng lược hòa nhập vào nhau? Vì chư Phật Bồ-tát có hai loại Pháp thân: Một là pháp thân pháp tánh; hai là pháp thân phương tiện.

Do Pháp tánh Pháp thân mà sinh ra phương tiện Pháp thân. Do Phương tiện Pháp thân, mà hiển xuất ra Pháp tánh Pháp thân. Hai loại Pháp thân này, khác mà lại khó phân biệt ra, một mà không thể đồng. Đó chính là rộng lược hòa nhập vào nhau. Bồ-tát nếu không biết rộng lược tương hòa, thì không thể tự lợi lợi tha. Pháp thân vô vi đó tức là Pháp tánh thân. Vì Pháp tánh tịch diệt nên tức là vô tướng Pháp thân và Pháp thân vô tướng nên không có gì không là tướng. Cho nên tướng hảo trang nghiêm tức là Pháp thân. Pháp thân vô tri, mà không gì không biết. Vậy nên, tất cả chủng trí chính là chân thật trí tuệ vậy. Tuy biết do duyên quán hai câu tổng, biệt, nhưng chẳng gì không phải là thật tướng. Vì biết thật tướng, tức là biết tướng hư vọng của chúng sanh trong ba cõi mà khởi lên chân thật tánh từ bi. Vì chân thật từ bi đó, tức là khởi ra chân thật quy y vậy.”

Nay hành giả, bất kể tăng tục, nếu có thể biết sinh vô sinh không trái với nhị đế, thì phần nhiều sẽ được vào hạng thượng phẩm vãng sinh.

IX. Nội Dung Thứ Chín:

Nói rõ về cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà có thuộc ở trong ba cõi hay không.

Hỏi: Cõi nước An lạc thuộc cõi nào trong ba cõi?

Đáp: Cõi Tịnh độ rất thắng diệu, thể của nó vượt ra ngoài thế gian. Ba cõi này là nơi nhà tối của phàm phu sinh tử. Tuy có khổ vui ít khác dài ngắn có khác, nhưng nhìn chung đều là bến hữu lậu lâu dài xoay chuyển tuần hoàn không bờ mé, lẫn lộn các loài sinh ra, tiếp xúc thọ nhận bốn thứ, nơi tứ điên đảo cấu uế; lâu ngày nào là nhân, nào là quả, hư ngụy tập tành thói quen, thật là đáng chán. Cho nên cõi Tịnh độ không thuộc trong ba cõi.

Lại nữa, theo Trí Độ luận nói: “Quả báo của cõi Tịnh độ là vô dục, nên không phải Dục giới. Vì cõi Địa cư nên không phải Sắc giới; có hình sắc, nên không phải Vô sắc giới. Tuy nói là Địa cư, nhưng cõi này tinh thắng diệu tuyệt.”

Thế nên, trong Thiên Thân luận có nói: “Xét thấy tướng thế giới kia, vượt xa ba cõi, cứu cánh như hư không, rộng lớn không biên hạn.” Thế nên, Địa kinh có lời tán thán rằng:

Tịnh độ rộng lớn siêu số hạn
Tự nhiên bảy báu cùng hợp thành
Do nguyện lực của Phật mà trang nghiêm
Kính lễ bậc thanh tịnh đại nhiếp thọ.
Thế giới quang huy diệu thắng tuyệt,
Cùng vui an lạc không bốn thời,
Tự lợi lợi tha lực viên mãn,
Kính lễ phương tiện xảo trang nghiêm.

 

PHẦN II

Trong phần thứ hai này được chia làm ba nội dung:

I. Nói rõ về phát Bồ-đề tâm.
II. Phá dị kiến tà chấp.
III. Rộng nếu vấn đáp để giải thích và trừ bỏ nghi tình.

I. Phát Bồ-Đề Tâm:

Phát Bồ-đề tâm gồm có bốn ý:

  • Nêu công dụng của tâm Bồ-đề.
  • Nêu danh thể của tâm Bồ-đề.
  • Nói rõ phát tâm có khác biệt.
  • Vấn đáp giải thích.

1- Công dụng của tâm Bồ-đề.

Trong Đại kinh nói: “Phàm muốn vãng sinh về cõi Tịnh độ, cần phát tâm Bồ-đề làm căn bản.” Thế nào là Bồ-đề? Đó là tên gọi của Vô thượng Phật đạo. Nếu muốn phát tâm làm Phật, thì tâm này phải rất rộng lớn, biến cùng khắp pháp giới; tâm ấy phải rốt ráo bình đẳng như hư không; tâm này phải sâu xa rộng lớn cho đến tận vị lai; tâm này phổ biến lìa hết chướng Nhị thừa. Nếu một khi phát tâm này, thì liền tiêu trừ mọi sự sinh tử khổ hải từ vô thỉ, mọi đủ công đức, đều hồi hướng Bồ-đề, về lâu có thể thành tựu Phật quả, không sợ thoái chuyển. Ví như loài hoa đẹp có năm đặc tính thanh tịnh, gió thổi, nắng soi cũng không rơi rụng, như nước sông thuỷ vân không bao giờ cạn.

2- Danh thể của Bồ-đề.

Bồ-đề có ba loại:

  1. Pháp thân Bồ-đề.
  2. Báo thân Bồ-đề.
  3. Hoá thân Bồ-đề.

-Nói Pháp thân Bồ-đề là nói chân như, thật tướng, đệ nhất nghĩa Không, tự tánh thanh tịnh; thể của nó không có uế nhiễm, lý vượt ra ngoài thiên chân, không mượn thân đó để thành tựu sự tu hành, nên gọi là Pháp thân; vì nó là bản thể của Phật đạo nên gọi là Bồ-đề.

-Nói Báo thân Bồ-đề đó, tu đầy đủ vạn hạnh, có thể cảm quả báo Phật, lấy quả để đáp nhân nên gọi là Báo thân; vì nó viên thông vô ngại nên gọi là Bồ-đề.

-Nói Hóa thân Bồ-đề đó, nghĩa là từ báo khởi dụng, có thể hướng đến vạn cơ, nên gọi là Hóa thân; vì nó viên thông đầy đủ, nên gọi là Bồ-đề.

3) Nói rõ sự phát tâm có khác biệt.

Nay nói, hành giả muốn phát tâm tu nhân thì cần phải hiểu đầy đủ ba thứ:

-Cần thông suốt Có-Không từ xưa đến nay tự tánh đều thanh tịnh.

-Duyên tu vạn hạnh tám vạn bốn ngàn các pháp môn Ba-la-mật.

-Phải lấy đại Từ bi làm căn bản, thường nghĩ đến việc cứu độ chúng sinh làm bổn hoài.

Ba nhân này có thể cùng tương ưng với đại Bồ-đề, cho nên gọi là phát tâm Bồ-đề.

Lại căn cứ vào Tịnh độ luận có nói: “Nay nói phát tâm Bồ-đề đó, tức là nguyện thành Phật tâm. Nguyện thành Phật tâm đó tức là tâm nguyện độ chúng sinh. Tâm độ chúng sinh đó tức là nhiếp giữ chúng sinh, có tâm Phật quốc độ. Nay đã nguyện sinh Tịnh độ, cho nên trước tiên cần phải phát tâm Bồ-đề.” 4) Vấn đáp giải thích.

Hỏi: Như tu vạn hạnh đầy đủ, có thể cảm quả Bồ-đề, thành tựu Phật đạo. Vì sao trong kinh Chư Pháp Vô Hành nói: “Nếu người cầu Bồ-đề, tức không có Bồ-đề, là xa rời Bồ-đề, cũng như trời với đất vậy sao?”

Đáp: Chánh thể của Bồ-đề, tức cầu vô tướng. Nay tạo tướng cầu, không phù hợp với lý thật, cho nên gọi là người xa rời Bồ-đề. Vì vậy trong kinh nói: “Bồ-đề đó, không thể dùng tâm mà đạt được, cũng không thể dùng thân mà đạt được.”

Nay cho rằng, hành giả tuy biết tu hành tướng để cầu, biết rõ ràng lý thể là không có thể cầu nhưng vẫn không hoại giả danh, cho nên tu hành đầy đủ cả vạn hạnh, chắc chắn có cảm ứng. Do đó, trong Đại Trí Độ luận nói: “Nếu người thấy Bát-nhã, liền bị buộc ràng, nếu không thấy Bát-nhã thì cũng bị ràng buộc. Nếu người thấy Bát-nhã thì được giải thoát; nếu không thấy Bát-nhã thì cũng được giải thoát.”

Ngài Long Thọ Bồ-tát nói: “Nếu không lìa bốn câu này là bị triền phược. Nếu lìa bốn câu này thì được giải thoát.”

Nay cầu Bồ-đề, thì cần phải tu như đây, tức là không hành mà hành. Không hành mà hành đó là không trái với đại đạo lý của Nhị đế vậy.

Lại y vào Tịnh độ luận của ngài Thiên Thân nói “Phàm muốn phát tâm hội nhập quả Bồ-đề Vô thượng thì có hai nghĩa: Một là phải xa lìa ba thứ trái với đạo Bồ-đề; hai là phải hiểu rõ hai pháp thuận với đạo Bồ-đề.”

Ba thứ trái với đạo Bồ-đề gồm những gì?

  1. Nương trí tuệ môn, không cầu tự lạc, xa lìa ngã tâm và sự tham trước của tự thân.
  2. Nương vào từ bi môn, bạt trừ hết khổ não của chúng sinh, xa lìa tâm bất an phiền hoặc.
  3. Nương vào phương tiện môn, tâm gần gũi thương tất cả tâm chúng sinh, tâm xa lìa cung kính cung dưỡng của tự thân.

Đó gọi là xa lìa ba pháp trái Bồ-đề.

Thuận Bồ-đề môn đó, tức là khi Bồ-tát xa lìa ba pháp trái Bồ-đề thì sẽ đạt được ba pháp thuận Bồ-đề môn. Đó là ba pháp gì?

1- Được tâm thanh tịnh vô nhiễm, không vì tự thân cầu các sự khoái lạc. Bồ-đề là chỗ thanh tịnh vô nhiễm; nếu vì tự thân cầu lạc, tức là trái với Bồ-đề môn. Cho nên tâm thanh tịnh vô nhiễm là thuận Bồ-đề môn.

2- Được tâm thanh tịnh an ổn, vì muốn bạt trừ khổ não của chúng sinh. Tâm Bồ-đề an ổn tất cả chỗ thanh tịnh của chúng sinh. Nếu không đem tâm khiến cho chúng sinh xa lìa khổ não của chúng sinh, thì trái với Bồ-đề. Như vậy thì bạt tất cả khổ não sinh tử của chúng sinh là thuận với Bồ-đề môn.

3- Được tâm thanh tịnh an lạc, khiến cho tất cả chúng sinh được thường lạc cứu cánh, đắc đại Bồ-đề, nhiếp thủ họ sinh về nước kia. Vì Bồ-đề là cứu cánh lạc xứ, nếu không làm cho chúng sinh đắc quả thường lạc cứu cánh là trái với đạo Bồ-đề. Như vậy thì quả thường lạc cuối cùng do đâu mà đạt được. Đại nghĩa môn là cõi Cực lạc Phật quốc vậy. Vậy chúng ta cần phải phát tâm nguyện sinh về nước kia để sớm được hội nhập quả Vô thượng Bồ-đề.

II. Phá Dị Kiến Tà Chấp:

Trong nội dung này có chín ý:

  1. Phá vọng kiến cho Đại thừa là vô tướng và các dị kiến cố chấp khác.
  2. Nói rõ tâm đại bi ái kiến của Bồ-tát.
  3. Phá những thắc mắc cho rằng ngoài tâm không có pháp.
  4. Phá bỏ tâm nguyện sinh uế độ mà không nguyện sinh Tịnh độ.
  5. Phá tâm cho rằng nếu sinh về Tịnh độ chỉ đắm trước hỷ lạc.
  6. Phá tâm cho rằng, cầu sinh Tịnh độ không phải là pháp của Tiểu thừa.
  7. Phá tâm chỉ cầu sinh Đâu-suất chứ không cầu sinh Tịnh độ.
  8. Nói rõ nếu cầu Tịnh độ mười phương thì không bằng cầu về Tây phương.
  9. Lược nói về các ý riêng biệt.

1) Phá vọng chấp cho Đại thừa là vô tướng. Trong đây lại có hai ý nhỏ:

a. Thứ nhất là nói tổng quát về sinh khởi, nhằm giúp kẻ hậu học hiểu rõ phải trái để bỏ tà quy chánh.

b. Thứ hai là rộng nói về sự ràng buộc, hiển bày chánh để phá trừ nghi hoặc.

Nói tổng quát về sinh khởi, thì trong thâm tạng Đại thừa, danh nghĩa nhiều vô số. Vì vậy trong kinh Niết-bàn có nói: “Một tên có vô lượng nghĩa; một nghĩa có vô lượng tên.”

Nên cần xem nhiều kinh điển, mới hiểu tôn chỉ. Chẳng phải như các sách thế tục Tiểu thừa, xét theo văn mà đầy đủ nghĩa. Ý này là như thế nào? Là chỉ cho cõi Tịnh độ sâu xa rộng lớn, kinh luận ẩn hiện, khiến cho các loại phàm tình đều được cứu độ; chỉ sợ rằng nghe theo những lời đàm tiếu, gây nên bao sự mê mờ lầm chấp tạp loạn vô tri, làm phương ngại sự vãng sinh. Nay nêu ra một vài điều để từ từ phá chấp.

Hỏi: Hoặc có người nói rằng: “Đại thừa là vô tướng, chớ niệm kia đây.” Nếu nguyện sinh Tịnh độ, đó là chấp tướng, làm tăng thêm lậu hoặc, thì cần gì phải để cầu?

Đáp: Nếu kể như vậy thì thật không phải. Vì sao? Chư Phật thuyết pháp cần đầy đủ hai duyên: Một là nương vào thật lý của pháp tánh; Hai là cần thuận theo Nhị đế. Kia chấp Đại thừa vô niệm là chỉ nương vào pháp tánh, nhưng hủy báng không có duyên cầu, tức là không thuận với Nhị đế. Như chỗ kiến giải này, là đọa vào chỗ diệt không. Cho nên trong kinh Vô Thượng Y có nói: “Phật bảo A-nan: Tất cả chúng sinh nếu khởi ra ngã kiến như núi Tu-di, thì ta vốn không sợ. Vì sao? Người này chưa được xa lìa ngay nên không hoại nhân quả, không bị mất quả báo. Nếu khởi lên Không kiến như hạt cải, thì sự chấp ngã Không ấy là không nên. Vì sao? Vì kiến chấp này phá tán hết nhân quả, phần nhiều đọa vào ác đạo, nên chỗ sinh ra trong đời vị lai, ắt trái với sự giáo hóa của ta.”

Nay xin khuyên chư hành giả, lý tuy là vô sinh, nhưng đạo lý của Nhị đế không phải vô duyên cầu mà tất cả được vãng sinh.

Thế nên trong kinh Duy-ma nói: “Tuy quán tưởng quốc độ của chư Phật và chúng sinh đều không, nhưng vẫn thường tu Tịnh độ, giáo hóa mọi chúng sinh.”

Lại nữa, kinh đó cũng nói: “Tuy làm mà không làm, và hiện ra thọ thân, là hạnh Bồ-tát. Tuy hành mà không khởi, và khởi ra tất cả thiện hạnh, đó là Bồ-tát hạnh.” Đó thật là tu chứng chân chánh.

Hỏi: Nay thế gian có người hành Đại thừa vô tướng, cũng không giữ tướng nào, tại ở kia đây, hoàn toàn không hộ trì giới tướng, việc này là như thế nào?

Đáp: Tính theo đây, thì điều tệ hại càng nhiều. Vì sao? Trong kinh Đại Phương Đẳng nói: “Phật vì hàng Ưu-bà-tắc mà chế giới là không được lui tới nhà các quả phụ, nhà của xử nữ, tửu quán, nhà ép dầu, thuộc da v.v…

A-nan bạch Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn! Vì những người nào mà Phật chế ra những giới này?

Phật bảo A-nan:

-Vì hai loại người: Một là, người hành động ở thế gian. Hai là người hành động xuất thế gian. Với người xuất thế thì ta không chế ra giới trên. Với người tại gia nên ta mới chế ra giới này. Vì sao? Tất cả chúng sinh đều là con ta. Phật là cha mẹ của tất cả chúng sinh, nên phải dùng giới luật khuôn phép để khuyến hóa, để cho các con mau sớm ra khỏi thế gian, đắc quả Niết-bàn.”

2) Nói rõ tâm đại bi ái kiến của Bồ-tát.

Hỏi: Theo Đại thừa Thánh giáo, Bồ-tát đối với chúng sinh, nếu khởi lòng đại bi ái kiến, tức phải nên lìa bỏ. Nay khuyên chúng sinh cùng sinh về Tịnh độ, há chẳng phải là ái kiến chấp tướng sao? Nếu thế tránh sao khỏi bị trần lụy?

Đáp: Bồ tát hành pháp có hai công dụng: Một là chứng không tuệ Bát-nhã. Hai là đầy đủ lòng Từ bi.

Nhờ lực tu Bát-nhã tu Không tuệ, nên dù ra vào trong sáu đường sinh tử mà không bị trần nhiễm ràng buộc .

Vì đem lòng đại bi nghĩ tưởng đến chúng sinh, nên không trụ ở Niết-bàn. Bồ-tát tuy ở nơi Nhị đế, mà thường khéo xả ở Có-Không. Thủ xả đắc trong đạo mà không trái với đạo lý Đại thừa.

Cho nên trong kinh Duy-ma-cật nói: “Như có người ở nơi đất trống, tạo lập ra cung điện nhà ở, đều được tùy ý vô ngại. Nếu ở nơi hư không, thì không thể làm được. Bồ-tát cũng như thế, vì muốn thành tựu cho chúng sinh, nguyện giữ lấy Phật quốc, chẳng phải nơi hư không vậy.”

3) Phá vọng chấp ngoài tâm không có pháp.

Trong đây gồm có hai ý: Một là Phá chấp tình. Hai là giải thích các câu hỏi đáp.

Hỏi: Phá chấp Hoặc có người nói: “Tịnh cảnh, sở quán là căn cứ ở nội tâm, cõi Tịnh dung thông chính la tâm tịnh ; Ngoài tâm không có pháp nào cả, sao lại cầu về Tây phương?

Đáp: Chỉ có pháp tánh Tịnh độ, về lý thì hư dung, thể không có biến đổi. Đây là sinh của vô sinh, là chỗ thâm nhập của bậc Thượng sĩ.

Cho nên, Kinh Vô Tự Bảo Khiếp nói: Mà “Thiện nam tử! Lại có một pháp, Phật đã giác ngộ ra. Đó là các pháp bất khứ bất lai-vô nhân vô duyên-vô sinh vô diệt-vô tư vô bất tư-vô tăng vô giảm.”

Phật bảo La-hầu-la:

-Ông nay thọ trì giới của ta, có nghĩa chánh pháp không?

Bấy giờ, mười phương thế giới gồm có chín ức Bồ-tát liền bạch Phật rằng:

-Chúng ta đều phải gìn giữ pháp môn này, nên vì chúng sinh lưu truyền ra đừng để cho dứt.

Thế Tôn đáp:

-Này thiện nam! Hai vai gánh vác đạo Bồ-đề, thì ắt không đoạn trừ biện tài, được thể nhập thế giới thanh tịnh của chư Phật. Khi mạng chung, liền thấy Đức Phật A-di-đà cùng chư Thánh chúng ở trước mặt, liền được vãng sinh.

Như những người, căn cơ trung hạ chưa thể phá tướng, cần nương vào nhân duyên tin Phật, cầu sinh về Tịnh độ. Tuy có sinh về nước kia, nhưng vẫn đi lại nơi cõi này.

Lại nói: “Nếu nhiếp duyên từ gốc, tức là ngoài tâm không có pháp. Nếu phân rõ nghĩa Nhị đế, thì cõi Tịnh độ không ngại là pháp ở ngoài tâm vậy.”

Giải thích vấn đáp:

Hỏi: Trước nói sinh vô sinh là chỉ bậc Thượng sĩ mới có thể nhập, bực trung hạ không thể vào được, ấy là căn cứ nơi người, hoặc pháp mà phán định như thế, hay là có Thánh giáo làm chứng?

Đáp: Theo Trí Độ luận có nói: “Hàng Bồ-tát mới phát tâm, căn cơ lý giải còn yếu, tuy nói là phát tâm, phần nhiều đều nguyện sinh về Tịnh độ.” Đây là ý gì? Ví như đứa trẻ, nếu không gần cha mẹ để được dạy dỗ khuyên răn, thì hoặc là rơi hầm lọt giếng, gặp nạn lửa thù, hoặc thiếu sữa rồi chết, nên cần có cha mẹ tắm rửa dạy bảo mới có thể lớn khôn, thừa tiếp gia nghiệp.

Bồ-tát cũng như thế, nếu có thể phát tâm Bồ-đề, nguyện sinh về cõi Tịnh độ, gần gũi chư Phật, tăng trưởng Pháp thân, thì mới nối tiếp gia nghiệp của Bồ-tát, mười phương đều được lợi ích cứu độ, cho nên phần nhiều nguyện sinh về Tịnh độ.

Lại nữa, trong luận ấy cũng nói rằng: “Ví như chim quạ con lông cánh chưa đủ, không thể vỗ cánh bay cao. Trước tiên cần chuyền từng cành cây tập bay. Khi lông cánh đã đủ đầy, thì mới có thể rời rừng bay lên không trung. Các vị tân học Bồ-tát cũng như thế, trước cần nương nguyện cầu sinh về Phật quốc, Pháp thân dần trưởng thành, tùy cảm mà tu tiến đắc ngộ.”

A-nan lại bạch Phật:

-Pháp môn vô tướng Ba-la-mật này Phật nói ở đâu?

Phật bảo:

-Pháp môn này, ta nói ở trong A-tỳ-bạt-trí địa. Vì sao? Vì có các hàng tân phát tâm Bồ-tát nghe pháp môn Ba-la-mật vô tướng này, nếu có thiện căn thanh tịnh, thảy đều diệt hết. Lại khi nào đến cõi kia, thì tất cả các sự việc đều xong, đâu cần tranh luận nghĩa lý sâu cạn.

4) Phá tâm chấp nguyện sinh uế độ, không nguyện sinh Tịnh độ.

Hỏi: Hoặc có người nói: “Nguyện sinh vào cõi uế trược để giáo hóa chúng sinh, không nguyện sinh về Tịnh độ.” Ý này là như thế nào?

Đáp: Người này ý cũng chỉ có một. Vì sao? Như thân đã trụ nơi bất thoái rồi, vì để hóa độ chúng sinh ở nơi tạp ác, nên có thể nơi chỗ nhiễm mà không nhiễm, gặp điều ác cũng không biến đổi. Như loài ngỗng vịt bơi trong nước, mà không bị ướt. Những người này, có thể vào cõi uế trược để cứu khổ. Nếu còn là hàng phàm phu, chỉ sợ hạnh của bản thân chưa đứng vững, gặp khổ thì biến tâm, muốn cứu giúp người khác, e rằng cùng họ sa vào nẻo ác. Cũng như bắt gà cho vào nước, lẽ nào không bị ướt sao?

Cho nên trong Trí Độ Luận nói: “Nếu là hàng phàm phu phát tâm, nguyện ở cõi uế trược cứu giúp chúng sinh, thì không phù hợp với Thánh ý .” Ý này là như thế nào? Bồ-tát Long Thọ giải thích: “Ví như một tảng băng dài bốn mươi dặm, như có một người lấy một thăng nước sôi đổ vào, lúc ấy dường như băng giảm lạnh đi; nếu trải qua đêm cho đến sáng, thì khí lạnh càng cao hơn trước. Hàng phàm phu giữ lấy phát tâm cứu khổ này cũng lại như thế. Vì các cảnh tham sân trái thuận nhiều, nên trái lại tự mình khởi tâm phiền não, mà phải đọa vào ác đạo.”

5) Phá vọng chấp cho rằng, sinh vào Tịnh độ là đắm trước lạc cảnh.

Hỏi: Hoặc có người nói: “Trong cảnh Tịnh độ chỉ có việc vui, nhiều đắm trước vào lạc cảnh, sẽ ảnh hưởng trở ngại sự tu đạo. Như vậy tại sao lại cầu vãng sinh?”

Đáp: Đã gọi là Tịnh độ, thì không còn uế trược. Nếu nói đam trước sự vui, thì chính là tham ái phiền não, đâu gọi là tịnh? Cho nên trong Đại kinh nói: “Chúng trời người ở cõi kia tiến lui qua lại, đều không buộc tình đắm trước.”

Lại trong nguyện thứ bốn mươi tám có nói: “Mười phương hàng trời người cầu sinh về nước ta, nếu tâm khởi niệm tham chấp nơi thân, thì ta thề không giữ Chánh giác.”

Đại Kinh lại nói: “Người và trời ở cõi kia vốn chẳng có chỗ nào  mà không thích hợp, làm gì có lý đắm trước?”

6) Phá vọng chấp cho rằng, cầu sinh Tịnh độ là pháp Tiểu thừa.

Hỏi: Hoặc có người nói: “Cầu sinh Tịnh độ chính là tu theo Tiểu thừa.” Vậy sao lại tu theo đó?

Đáp: Lý này cũng không phải vậy. Vì sao? Chỉ có giáo pháp Tiểu thừa hoàn toàn không nói về Tịnh độ.

7) Nói rõ nguyện sinh Đâu-suất và khuyên cầu sinh Tịnh độ.

Hỏi: Hoặc có người nói: “Nguyện sinh Đâu-suất, không nguyện sinh về Tây phương.” Việc này là như thế nào?

Đáp: Nghĩa này không đồng, chỉ có ít phần tương tợ. Căn cứ vào thể đại khái có khác bốn loại:

1/ Đức Di-lặc vì Thiên chúng mà chuyển pháp luân bất thoái, người nghe pháp sinh lòng tin mà được lợi ích, gọi là tương tự giống với vãng sinh cực lạc. Nhưng người đắm trước lạc cảnh mà không tin số chẳng phải ít. Lại nữa, dù sinh vào cung trời Đâu-suất, nhưng ngôi vị vẫn còn thoái chuyển, cho nên trong kinh nói: “Ba cõi không an, dụ như nhà lửa.”

2/ Vãng sinh về Đâu-suất, thọ mạng bốn ngàn tuổi. Sau khi mạng chung, thì vẫn không tránh khỏi bị thoái đọa.

3/ Cõi trời Đâu-suất tuy cũng có nước, chim, cây rừng hòa tiếng kêu hòa nhã. Nhưng cùng với chư Thiên lấy sự vui chơi làm chính thuận theo ngũ dục, không mong cầu Thánh đạo. Nếu hướng về cõi Di-đà Tịnh quốc, một khi được vãng sinh về, nhất định sẽ đạt đến A-tỳ-bạt-trí, không còn thoái chuyển và không có tạp cư. Ngôi vị lại ở nơi vô lậu, vượt qua ba cõi, vĩnh viễn không còn luân hồi.

Luận về thọ mạng, thì cũng đồng với Phật, chẳng thể dùng toán số mà tính biết được. Trong đây có chim, nước, rừng cây v.v… đều có thể thuyết pháp, khiến cho người ngộ giải, chứng vào hội Vô sinh.

4/ Căn cứ vào “Đại kinh”, tạm dùng một loại âm nhạc để so sánh.

Trong kinh tán thán rằng:

Từ vua cõi thế đến Lục Thiên
Âm nhạc hòa reo đến tám trùng
Thánh thót giao hoà tăng vạn bực
Nhạc hoà cây báu cũng vang đưa
Lại có nhạc trời hoà trong gió
Pháp âm trong lành vui tâm thần
Ánh sáng uyển chuyển chiếu mười phương
Vì vậy kính lễ cõi thanh tịnh.

8) Nguyện sinh về mười phương Tịnh độ không bằng quy hướng Tây phương.

Hỏi: Hoặc có người nói: “Nguyện sinh về mười phương Tịnh quốc, không nguyện quy về Tây phương.” Điều đó là nghĩa gì?

Đáp: Có ba nghĩa không đồng:

1/ Mười phương Phật quốc tuy chẳng phải là nơi bất tịnh, nhưng cảnh rộng thì tâm mê muội; cảnh hẹp thì ý mới chuyên. Vậy nên trong Thập phương tùy nguyện vãng sinh có nói: “Bồ-tát Phổ Quảng bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Mười phương Phật độ đều là nghiêm tịnh, tại sao trong các kinh chỉ riêng tán thán cõi Tây phương Cực lạc của Phật A-diđà, khuyên cầu vãng sinh?

Phật bảo Bồ-tát Phổ Quảng:

-Tất cả chúng sinh, phần nhiều đều bị não loạn phiền trược, chánh niệm thì ít. Muốn khiến cho chúng sinh chuyên tâm vào đó, cho nên mới tán thán cõi này một cách đặc biệt vậy. Nếu có thể y vào nguyện mà tu hành, thì lợi ích thật vô cùng.

2/ Mười phương Tịnh độ tuy đều là nghiêm tịnh, mà sâu cạn khó biết. Tịnh quốc của Phật A-di-đà là cửa ngõ của cõi Tịnh độ. Sao biết được điều này?

Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một kiếp ở thế giới Ta-bà, bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực lạc. Thế giới Cực lạc một kiếp, bằng thế giới Ca-sa-tràng một ngày một đêm.” Như thế, so sánh hơn kém, mới có mười A-tăng-kỳ. Vậy nên biết vì là sơ môn của cõi Tịnh độ mà chư Phật cùng khuyên cầu sinh về đó. Các cõi Phật khác đều không bằng, cho nên người tin ngưỡng, phần nhiều đều nguyện sinh về.

3/ Tịnh độ của Phật A-di-đà đã là sơ môn của Tịnh độ, thế giới Ta-bà tức là cõi uế độ. Vì sao lại biết như thế? Như trong kinh Chánh pháp niệm có nói: “Từ đây đi về phía Đông bắc, có một thế giới tên là Tư-ha. Đất đai chỉ có cát đá ba góc ; mỗi năm mưa ba lần; mỗi lần mưa ướt thấm không quá năm tấc đất. Dân chúng ở đó duy chỉ ăn cây trái, vỏ cây làm y phục, cầu sống không được, cầu chết cũng không xong. Lại có một thế giới, tất cả các loài hổ báo cầm thú, cho đến loài rắn, bò cạp, thảy đều có cánh bay, hễ gặp nhau là ăn thịt, không phân thiện ác. Đây há chẳng gọi là uế độ đầu tiên sao?”

Tuy vậy, xét về y báo thì cõi Ta-bà này vốn cùng hàng với Hiền Thánh. Mặc dù là uế độ, nhưng đây là cõi uế độ cuối cùng. Thế giới An

Lạc đã là Tịnh độ sơ môn, tức là cảnh giới nối tiếp với phương này, cầu 36 vãng sinh qua đó rất tiện lợi, vì sao lại không đi?

9) So sánh sự khác nhau giữa Nhiếp luận và kinh này.

Căn cứ vào Nhiếp luận thì nói là “Biệt thời ý ngữ”. Trong Kinh quán, Phật nói hạng Hạ phẩm sinh tạo ra nghiệp trọng, khi lâm chung gặp Thiện tri thức chỉ bảo niệm mười niệm thành tựu mà được vãng sinh. Còn theo Nhiếp luận nói: Đây là biệt thời ý ngữ của Phật (Phật nói ý trong thời gian đặc biệt mà thôi). Xưa nay, các Luận gia, phần nhiều đều phán định bài văn này: “Khi lâm chung chỉ có mười niệm, chưa chắc là được vãng sinh. Như lấy một đồng tiền vàng mà đổi được ngàn đồng tiền vàng, chẳng phải một ngày mà có được.” Cho nên mười niệm thành tựu đó, chỉ là tác nhân, chưa được vãng sinh, cho nên gọi là “Biệt thời ý ngữ”.

Nếu giải thích như thế thì cũng chưa thật đúng. Vì sao? Phàm Bồtát, làm luận giải thích kinh, đều muốn xa thì phò trợ ý Phật, khế hợp với Thánh tình. Nếu luận văn trái với kinh, thì không có điều ấy. Nay giải thích “Biệt thời ý ngữ” đó, nghĩa là Phật thường thuyết pháp đều nói rõ về nhân trước quả sau, lý số đều rõ ràng. Nay trong kinh này chỉ nói một đời tạo tội, khi lâm chung một niệm thành tựu mà được vãng sinh. Bất luận người ấy trong quá khứ có nhân hay không có nhân cầu vãng sinh. Đây chỉ là đức Thế Tôn muốn tiếp dẫn chúng sanh tạo nghiệp ác ở đương lai, khiến cho khi đến ngày lâm chung, bỏ ác quy thiện, nương niệm đó mà được vãng sinh. Đó chính là do ẩn nhân đời trước. Đức Thế Tôn ẩn thỉ hiển chung, ẩn nhân nói quả, gọi là “Biệt thời ý ngữ”.

Vì sao biết chỉ khiến cho mười niệm thành tựu là đều có nhân trong thời quá khứ? Như kinh Niết-bàn có nói: “Nếu người ở trong thời quá khứ đã từng cúng dường chỉ nửa hằng hà sa chư Phật. Lại từng phát tâm, mà lại có thể trong đời ác trược nghe thuyết Đại thừa kinh giáo, chỉ là không hủy báng chứ không có công đức gì khác. Nếu từng cúng dường một hằng hà sa chư Phật và từng phát tâm, về sau nghe Đại thừa kinh giáo, đã không hủy báng, lại thêm yêu thích.”

Dẫn chứng qua các bộ kinh này, đủ biết là trong mười niệm thành tựu, đều thật là nhân trong quá khứ. Nếu không có nhân trong quá khứ, thì không thể gặp được Thiện tri thức, huống gì mười niệm lại thành tựu được sao?

Luận nói: “Lấy một đồng tiền vàng mà đổi được ngàn tiền vàng, chẳng phải một ngày mà được.” Nếu căn cứ vào ý Phật, muốn khiến cho chúng sinh tích tụ nhiều nhân thiện, rồi nương theo niệm mà được vãng sinh. Như theo cách giải luận chủ, nương hết vào nhân quá khứ, lý cũng không trái. Nếu giải theo đây, thì trên thuận với kinh Phật, dưới hợp với ý luận, tức là phù hợp với kinh luận, thì sự vãng sinh sẽ thông suốt, không còn nghi hoặc.

III. Rộng Nêu Vấn Đáp Để Trừ Bỏ Nghi Tình:

Từ đây về sau chính là rộng bày nghĩa vấn đáp ở trong Trí Độ luận.

Hỏi: Tất cả chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay, tạo ra đủ các nghiệp hữu lậu, hệ thuộc trong ba cõi. Vì sao lại không đoạn trừ hết các nghiệp ràng buộc này mà chỉ một ít thời gian niệm Phật A-di-đà, liền được vãng sinh ra khỏi ba cõi? Vậy nghĩa nghiệp ràng buộc muốn nói là gì?

Đáp: Có hai cách giải thích:

  • Y theo pháp để đả phá.
  • Dùng thí dụ để làm rõ.

Nói y theo pháp để đả phá tức là chư Phật có bất khả tư nghì trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Bất tư nghì trí lực đó là lấy ít làm nhiều, lấy nhiều làm ít; lấy gần làm xa, lấy xa làm gần; lấy khinh làm trọng, lấy trọng làm khinh. Có các loại trí như thế, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn.

Cách thứ hai sau đây; đều mượn bảy thí dụ để làm rõ.

1- Ví như có trăm kẻ tiều phu tích chứa củi cả trăm năm cao cả ngàn thước, rồi cho một mồi lửa vào, chỉ trong nửa ngày là đốt sạch. Lẽ nào không được nói chứa củi trăm năm chỉ đốt trong một ngày mà hết?

2- Thí như người bị què, đi trên thuyền của người, nhờ gió to thổi, trong một ngày đi được cả ngàn dặm. Há không thể nói một ngày người què đi cả ngàn dặm?

3- Cũng như người nghèo có được báo vật đem dâng cho vua, vua rất vui liền trọng thưởng cho. Trong khoảnh khắc người này bỗng trở nên giàu có. Lẽ nào không được nói cực khổ bao nhiêu năm, liền đạt được như vậy. Nói sự phú quý đó, là việc chẳng có.

4- Cũng như kẻ hèn yếu dùng hết sức mình cưỡi lừa bay lên mà không được. Nếu nương theo Luân vương mà đi thì liền bay lên hư không, qua lại tự tại. Há không được nói là sức kẻ hèn yếu có thể bay vào hư không?

5- Lại như bị dây quấn cả mười vòng, cả ngàn người không kiềm chế được, nhưng đứa bé vung kiếm ra liền đứt làm đôi. Lẽ nào không 38 được nói lực của đứa trẻ có thể cắt đứt được sao?

6- Lại như loài chim chạm vào nước, thì các loài trai đều chết. Tê giác chạm bùn, người chết liền sống lại. Há không được nói tánh mạng một khi dứt đi là có thể sống lại?

7- Ví như hạc vàng kêu Tử An, Tử An liền sống lại. Há không được nói người chết là thiên thu, mà có thể sống lại? Tất cả vạn pháp đều có tự lực và tha lực, tự nhiếp và tha nhiếp, có thiên khai vạn bế, vô lượng vô biên, ông há lại dùng thức hữu ngại, nghi pháp vô ngại kia sao?

Lại nữa, trong năm thứ bất tư nghì, thì Phật pháp là nghĩa tối bất tư nghì hơn hết. Ông lấy nghiệp ràng buộc ba cõi làm trọng, nghi việc niệm Phật chút ít thời gian là khinh. Người đã nhập vào Chánh định tụ, không được vãng sinh Cực lạc, thì sự việc ấy không thể có.

Hỏi: Trong kinh Đại thừa nói: “Nghiệp đạo như cái cân, bên nặng thì kéo trước.” Tại sao chúng sinh từ một thân hình ấy, hoặc trăm năm, hoặc mười năm, cho đến ngày nay không lúc nào là không tạo việc ác. Tại sao khi lâm chung gặp được Thiện tri thức, niệm liên tục mười niệm, thì được vãng sinh? Nếu như thế thì đối với nghĩa nêu ra trước, lấy gì để làm tin?

Đáp: Ông cho một đời ác nghiệp là trọng. Người Hạ phẩm vãng sinh chỉ có mười niệm thiện cho là nhẹ. Nay đem nghĩa khinh trọng để so sánh, chính rõ ở tại tâm, tại duyên, tại nơi sự quyết định, mà không dựa vào thời tiết ít nhiều lâu, mau.

Tại sao nói là tại tâm? Nghĩa là người kia lúc tạo nghiệp, là đã y chỉ vào chỗ hư vọng điên đảo do tâm sinh ra. Mười niệm này, là nhờ sự khuyến tấn an ủi của Thiện tri thức, nghe được thật tướng pháp tánh. Một thật một hư, lẽ nào lại đem so sánh được. Vì sao? Ví như ngàn năm ở trong nhà tối, nếu như có chút ánh sáng thì liền tỏ rõ ngay, đâu có thể nói người ở trong nhà tối mãi không ra? Thế nên trong kinh Di Nhật Ma Ni Bảo có nói: “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: Chúng sinh tuy muôn lượng kiếp trôi lăn trong ái dục, do tội chướng che lấp. Nếu nghe được kinh Phật trở lại niệm thiện, thì tội liền tiêu diệt vậy.” Đây là chính do tại tâm.

Vì sao nói là tại duyên? Nghĩa là, người kia tạo tội là do vọng tưởng khởi lên, vì phiền não quả báo mà thành chúng sinh. Nay mười niệm này là y vào Vô thượng tín tâm; nương vào danh hiệu công đức vô lượng, thanh tịnh chân thật của Phật A-di-đà. Ví như có người bị tên độc thấm vào gân cốt, nếu nghe được tiếng trống nhạc diệt trừ, thì tên độc liền được rút ra. Như vậy đâu có thể nói là bị tên độc đã thấm sâu, nghe được âm thanh cũng không thể nhổ ra được? Đây gọi là tại duyên.

Tại sao nói là do quyết định? Vì lúc người kia tạo tội, tự y chỉ vào có hậu tâm có gián tâm. Nay trong mười niệm này, là do vô hậu tâm, vô gián tâm khởi lên, đó là quyết định.

Lại như trong Trí Độ luận có nói: “Tất cả chúng sinh khi lâm chung, gió đao vây bủa lấy mình, ma tử khổ lại đến bức bách, sinh tâm rất lo sợ. Nếu như gặp được Thiện tri thức, phát tâm dõng mãnh, tâm tâm tương tục trong mười niệm, tức là tăng thượng thiện căn, liền được vãng sinh.”

Ví như có người ra trận đối đầu phá quân địch, đem hết sức mình ra chiến đấu; mười niệm thiện cũng như thế. Còn như người khi lâm chung khởi sinh một niệm tà kiến, tăng trưởng ác tâm, thì làm tiêu hết phước trong ba đời, liền rơi vào ác đạo.

Hỏi: Đã gọi là niệm mười điều lành trước lúc lâm chung, làm tiêu hết mọi chướng nghiệp, được sinh Tịnh độ, vậy biết lúc nào là mười niệm?

Đáp: Như trong kinh nói: “Trăm lần sinh diệt thành một sát-na; cứ sáu mươi sát-na là một niệm.” Nay y vào kinh luận mà giải về niệm này vậy.

Giải về niệm này là không chỉ về thời tiết, mà chỉ nhớ niệm A-diđà. Như đối với tổng tướng và biệt tướng, tùy theo sở duyên mà quán, trải qua mười niệm, không có niệm khác xen tạp vào, ấy mới gọi là mười niệm. Lại nói mười niệm tương tục đó là bậc Thánh trong các bậc Thánh, chỉ do nơi tích niệm, ngưng hết mọi suy tư, không duyên vào việc khác, thì khiến cho nghiệp đạo thành tựu.

Lại nói nếu hành niệm lâu ngày, phần nhiều y vào đây. Nếu người mới hành niệm, nhớ số cũng tốt. Ở đây cũng y vào Thánh giáo mà nói.

Lại hỏi: Nay muốn nương vào đó để khuyên người hành trì niệm Phật Tam-muội, chưa biết niệm đó tướng trạng như thế nào?

Đáp: Ví như có người đi giữa đồng trống trở về, bỗng gặp bọn cướp, đang hùng hổ cầm dao muốn giết. Người này băng qua đường tắt bỏ chạy, nhìn thấy một dòng sông. Chạy chưa tới người ấy đã vội nghĩ rằng: “Ta mau chạy tới bờ sông này, vậy cởi áo lội qua sông hay mặc áo để lội? Nếu cởi áo e rằng sẽ không kịp. Nếu không cởi y phục thì e rằng khó bảo toàn.” Bây giờ chỉ có nhất tâm tìm phương tiện để vượt qua sông, không có tâm tưởng nào xen tạp. Hành giả tu tập cũng như thế. Khi niệm: “A-di-đà Phật”, cũng như người nghĩ sẽ lội qua sông, 0 niệm niệm tương tục, không có tâm nào xen vào. Hoặc niệm Pháp thân Phật; hoặc niệm thần lực Phật; hoặc niệm trí tuệ Phật; hoặc niệm tướng bạch hào của Phật; hoặc niệm bổn nguyện của Phật. Xưng danh cũng như thế, chỉ có thể chuyên một niệm không dứt, thì nhứt định sẽ được vãng sinh.

Nay khuyên người học về sau, muốn hội nhập vào Nhị đế, chỉ biết niệm niệm là bất khả đắc, đó chính là cửa trí tuệ. Nếu có thể buộc niệm liên tục không đứt đoạn tức là cửa công đức. Cho nên trong kinh nói: “Đại Bồ-tát hằng đem công đức trí tuệ để tu dưỡng tâm.” Nếu người mới học, chưa thể phá tướng, chỉ có thể y tướng mà chuyên tu thì chắc chắn được vãng sinh không còn nghi ngờ gì nữa.

Lại hỏi: Trong Đại kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Mười phương chúng sinh đều nhất tâm tin ưa, muốn sinh về nước ta, nhẫn đến mười niệm, nếu không vãng sinh về Tịnh quốc, thì ta không thành Chánh giác.”

Nay có người nghe được lời Thánh giáo, hiện đời không có một tâm niệm nào, đến khi gần lâm chung mới tu niệm, đó là việc gì?

Đáp: Việc này là không đúng. Vì sao? Kinh nói: “Mười niệm tương tục tưởng như không khó. Nhưng chúng sinh phàm phu, tâm như ngựa hoang, thức như loài khỉ, níu kéo theo lục trần, biết bao giờ mới dừng nghĩ.” Vậy cần phát tín tâm, để khắc niệm, khiến cho tích tập lâu ngày thành tánh, từ đó mà thiện căn thêm kiên cố. Như Phật bảo với Đại vương: “Người tích tụ hạnh thiện, khi chết không khởi lên ác niệm. Như cây trước khi nghiêng, tất phải tùy theo hướng cây cong mà ngã. Như gió đao một khi thổi đến, thì trăm sự khổ sẽ theo bức bách thân.” Nếu không tích tập tu thì hoài niệm lấy gì để biện luận? Vậy khuyên các vị đồng tu, nên dự kết lấy lời ngôn yếu này, lúc lâm chung cần nhất tâm xưng niệm A-di-đà Phật, nguyện sinh về nước An lạc. Mỗi mỗi nối tiếp tức sẽ thành mười niệm, như vậy cho đến khi dứt hơi thở, liền được vãng sinh về Tịnh quốc. Một khi đã nhập vào chánh định tụ, thì còn lo âu gì nữa. Các vị nên so sánh các điều lợi lớn, tại sao lại không dự bị khắc niệm!

Lại hỏi: Trong tất cả các kinh luận Đại thừa đều nói, tất cả chúng sinh, cuối cùng là vô sinh, dụ như hư không. Vậy sao nói các vị Long Thọ, Thiên Thân lại nguyện vãng sinh?

Đáp: Nói chúng sinh cuối cùng cũng trở thành vô sinh như hư không là có hai nghĩa:

1. Như sở kiến của người phàm phu, thì thật là chúng sinh, thật là sinh tử vậy. Nếu căn cứ vào sự vãng sinh của Bồ-tát mà nói, thì cứu cánh như hư không, như sừng thỏ.

2. Nay nói sinh đó là do nhân duyên sinh. Nhân duyên sinh chính là do giả danh mà sinh ra. Giả danh sinh tức là vô sinh, tức không trái với lý đại đạo. Chẳng phải như phàm phu, nghĩa thật là chúng sinh, thật là sinh tử.

Lại hỏi rằng: Phàm sinh ra phải có căn nguyên, đó là căn nguyên của khổ lụy. Nếu biết lỗi này, thì bỏ sinh mà cầu vô sinh, tất sẽ được giải thoát. Nay đã khuyên sinh về Tịnh độ, tất là bỏ sinh để cầu sinh, thì sinh nào có thể dứt tận?

Đáp: Nhưng cõi Tịnh độ là nơi vãng sinh vô sinh của Phật A-diđà thanh tịnh bản nguyện, chẳng phải như chúng sinh trong ba cõi chấp trước trong chỗ sinh hư vọng ái nhiễm. Vì sao? Phàm pháp tánh thanh tịnh cứu cánh ấy là vô sinh, mà nói sinh đó chính là do phàm tình sinh ra.

Lại hỏi: Như trên nói thì biết sinh vốn là Vô sinh, đó là những bậc sinh trong hàng Thượng phẩm. Như vậy, người sinh trong Hạ phẩm nương vào mười niệm mà được vãng sinh, há chẳng phải là chấp chỗ thật sinh sao? Nếu thật sinh đó tức là rơi vào hai lưới nghi: Một là sợ không được vãng sinh; Hai là tướng thiện này không thể làm nhân cho vô sinh vậy.

Đáp: Để giải thích điều này, gồm có hai ý:

1/ Ví như đem hạt ma-ni châu tịnh khiết đặt dưới nước bùn nhơ. Nhờ uy lực của hạt châu liền làm cho nước lắng trong ngay. Như vậy, dù người bị tội nghiệp sinh tử vô lượng, nếu nghe danh hiệu Phật A-di-đà chí cực thanh tịnh vô sinh như bảo châu, đem ném vào tâm ô trược, thì trong mỗi niệm tội diệt, tâm liền thanh tịnh, liền được vãng sinh.

2/ Như ngọc ma-ni trong suốt, gói vào trong vải màu vàng huyền ném xuống nước, nước liền trở thành màu vàng đen, màu sắc như vật vậy. Cõi Phật thanh tịnh có danh hiệu A-di-đà Như Lai Bảo Châu Vô Thượng, được vô lượng công đức bao bọc thành tựu, nếu ném tâm vào trong cõi vãng sinh, há không thể chuyển từ sinh thành Vô sinh sao? Cũng như băng ở trên lửa, lửa lớn thì băng tan, băng tan thì lửa tắt. Nếu vãng sinh trong cõi Hạ phẩm, tuy không biết pháp tánh Vô sinh, nhưng do xưng danh hiệu Phật, tác ý vãng sinh, nguyện sinh về cõi kia, đã đến thời Vô sinh giới, thì thấy lửa sinh tự nhiên diệt.

Lại hỏi rằng: Nương vào thân nào để nói vãng sinh?

Đáp: Ở đây nói người giả danh tu các hạnh môn, niệm trước cùng niệm sau làm nhân. Người giả danh ở uế độ thì Tịnh độ cũng giả danh, không nhất định là một, không nhất định khác. Tâm trước tâm sau cũng như thế. Vì sao? Nếu quyết định là một, thì không có nhân quả; nếu quyết định là khác, thì chẳng phải tương tục. Vì nghĩa đó, mà ngang dọc tuy có khác, trước sau cũng chỉ một người hành trì.

Hỏi: Nếu người chỉ có thể xưng danh hiệu Phật, thì hoặc chướng sẽ tiêu trừ hết. Cũng vậy, ví như người lấy tay chỉ mặt trăng, thì ngón tay này nên có thể phá trừ hết tăm tối vậy?

Đáp: Vạn pháp đều sai biệt, không thể một lần mà khái quát cả. Vì sao? Từ có danh mà có pháp, tự nơi có danh mà khác pháp. Có danh tức là pháp đó. Cũng như danh hiệu của chư Phật và Bồ-tát là do phiên âm từ tiếng Phạm mà ra; chương cú Tu-đa-la cũng vậy. Như từ ngữ Phạm chú nói: “Mặt trời xuất hiện ở phương Đông, khi đỏ khi vàng, giờ Dậu giờ hợi thì lại lặn”, người gặp hoạn nạn cũng qua khỏi. Như có người bị chó cắn, nấu cao hổ cốt thoa vào thì hoạn đó liền giảm. Hoặc không có xương cốt, gặp lúc nguy hiểm, tay nắm lại miệng nói hổ đến hổ đến, thì bệnh cũng dứt. Hoặc có bị đau từ chân chuyển vào gân, thì nấu cây Mộc qua xức vào, hoạn kia liền hết. Nếu không có Mộc qua, thì lấy tay chà lên đó miệng gọi “Mộc qua, Mộc qua” thì bệnh cũng hết. Thân ta đạt được công hiệu như vậy là vì sao? Vì danh tức là pháp vậy. Có danh mà khác pháp đó, như lấy tay chỉ vào mặt trăng vậy.

Lại hỏi rằng: Nếu người chỉ xưng niệm danh hiệu Di-đà, có thể làm tiêu trừ vô minh hắc ám của chúng sinh thì được sinh qua đó. Nhưng có chúng sinh xưng danh nhớ niệm, mà vô minh vẫn còn, không đủ như sở nguyện, là ý thế nào?

Đáp: Do tu hành không như thật, cùng danh nghĩa không có tương ưng. Vì sao? Là do không biết thân của Như Lai là thật tướng.

Lại có ba loại bất tương ưng:

  1. Tín tâm không dừng, như còn như mất.
  2. Tín tâm bất nhất, nghĩa là không quyết định.
  3. Tín tâm không tương tục, vì xen tạp các niệm khác, mất đi tướng thâu nhiếp. Nếu có thể tương tục thì là nhất tâm. Chỉ khi nhất tâm mới có thể dừng tâm. Ba tâm này một khi đã có đủ, nếu không vãng sinh là không có vậy.

PHẦN 3

Trong phần thứ ba này được chia làm bốn nội dung:

  • Nói về việc nan hành đạo, dị hành đạo.
  • Nói về kiếp lớn nhỏ không đồng.
  • Nói về vô thỉ kiếp đến nay, ở trong ba cõi năm đường, nương theo hai nghiệp thiện ác, thọ hai báo khổ vui , luân hồi đến vô tận, thọ sinh tử vô số.
  • Đem Thánh giáo chứng thành, khuyên chúng sinh đời sau gắng siêng tin tưởng cầu vãng sinh.

I. Nói Về Nan Hành Đạo Và Dị Hành Đạo:

Trong nội dung này gồm có hai ý:

  1. Nêu ra hai thứ đạo nan và dị.
  2. Phần vấn đáp giải thích.

Ta đang ở trong nhà lửa, nghĩ thật đáng sợ. Ngưỡng mong ba xe của Đại Thánh chiêu cảm an ủi. Vả lại, các loại xe nai, xe dê rằng khó đạt được đến đích. Phật quở trách tà chấp, làm chướng ngại cầu quả Bồ-đề, về sau có hồi hướng cũng là quanh co. Như đi đường tắt bằng xe lớn cũng chỉ một đường, chỉ sợ là ở nơi hiện cư thối vị, đường hiểm lâu xa, đức quả chưa lập, khó mà tiến tới được. Cho nên, Bồ-tát Long Thọ nói: “Cầu quả A-bệ-bạt trí có hai thứ: Một là Nan hành đạo; Hai là Dị hành đạo.”

Nói Nan hành đạo đó, nghĩa là ở trong đời ngũ trược, vào thời không có Phật, cầu quả A-bệ-bạt trí thật là khó. Khó này là do có nhiều đường, lược thuật lại thì có năm thứ:

  1. Làm thiện như ngoại đạo, làm não loạn đạo Bồ-đề.
  2. Chúng Thanh văn tự lợi, làm chướng tâm đại Bi.
  3. Bị ác nhân phá hết thắng đức.
  4. Hàng nhân Thiên thiện quả điên đảo, làm hoại phạm hạnh của người.
  5. Chỉ có tự lợi, không trì tha lực. Như các việc này, chạm mắt đều thấy rõ.

Ví như trên đất bằng, đi bộ thì khổ, cho nên nói là Nan hành đạo.

Còn gọi là Dị hành đạo tức là lấy nhân duyên tin Phật, nguyện sinh về Tịnh độ, khởi tâm lập đức, tu các hạnh nghiệp, nhờ nguyện lực của Phật, liền được vãng sinh. Vì Phật lực trụ trì, liền nhập vào Đại thừa Chánh định tụ. Chánh định tụ đó tức là A-tỳ-bạt-trí bất thoái vị. Ví như đường thủy, đi thuyền thì vui, cho nên nói là Dị hành đạo.

Hỏi: Bồ-đề là một, tu nhân chẳng phải là hai. Tại sao ở đây nói tu nhân hướng Phật quả thì tên gọi là Nan hành còn vãng sinh Tịnh độ, đắc đại Bồ-đề thì gọi là Dị hành đạo?

Đáp: Các kinh Đại thừa đều nói, tất cả hành pháp, đều có tự lực tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp.

Sao gọi là tự lực? Ví như có người sợ việc sinh tử, phát tâm xuất gia, tu định phát thông tuệ, du hành khắp bốn phương, đó gọi là tự lực.

Sao gọi là tha lực? Như có hạng phàm phu, tự thân mình không thể vươn lên. Nếu nương theo bánh xe của Luân Vương thì có thể bay lên hư không, du hành khắp thiên hạ. Đây là nhờ vào uy lực của Luân Vương, cho nên gọi là tha lực.

Chúng sinh cũng như vậy, ở đây khởi tâm lập hạnh, nguyện sinh về Tịnh độ, đây là do tự lực. Khi sắp lâm chung, Phật A-di-đà phóng quang tiếp dẫn, liền được vãng sinh đó tức là tha lực. Cho nên trong Đại kinh nói: “Trời người trong mười phương muốn cầu sinh về nước ta, đều nhờ nguyện lực của Phật A-di-đà làm tăng thượng duyên.” Nếu không như thế, thì bốn mươi tám nguyện làm sao có thể lập được? Người học Phật nhờ có tha lực để nương nhờ, không còn tự hạn chế nơi mình ở trong nhà lửa.

II. Nói Về Đại Kiếp Và Tiểu Kiếp:

Như trong Trí Độ luận nói: “Kiếp có ba loại: Một là tiểu kiếp; hai là trung kiếp; ba là đại kiếp.”

Ví như một kinh thành, vuông vức rộng bốn mươi dặm, cao, rộng cũng vậy. Trong thành đó chứa đầy hạt cải, có chư Thiên trường thọ, cứ ba năm thì gieo một hạt cải, cho đến khi nào hết số hạt cải ấy thì đó là một tiểu kiếp.

Hoặc thành vuông tám mươi dặm, cao rộng đều như thế, có đầy hạt cải ở trong, rải cho hết như ở trên, đó là một trung kiếp.

Hoặc có thành cao rộng đều một trăm hai mươi dặm, chứa đầy hạt cải trong đó, và cũng đem rải hết như đã nói ở trước, đó gọi là một đại kiếp.

III. Nói Về Vô Thỉ Kiếp Đến Nay:

Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, luân hồi sinh tử không dứt, thọ thân vô số. Như trong Trí Độ luận nói: “Loài người ở trong đó, hoặc từ nhà họ Trương chết đi rồi sinh vào nhà họ Vương; hoặc từ nhà họ Vương chết đi rồi sinh vào nhà họ Lý. Cứ như thế sinh cùng trong pháp giới. Hoặc sinh vào trùng nhà, hoặc sinh vào khác nhà, hoặc chết ở cõi Diêm-phù-đề rồi sinh vào cõi Tây Câu-da-ni. Các cõi khác cũng như thế. Hoặc như người trong bốn châu thiên hạ chết đi, sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương như thế. Hoặc người ở Tứ Thiên vương chết, sinh vào Đao lợi thiên. Người ở Đao lợi thiên chết lại sinh vào cõi Tứ Thiên cũng đều thế cả. Sắc giới có mười tám cõi trời; Vô sắc giới có bốn tầng trời. Ở đây chết thì sinh vào nơi kia, mỗi mỗi đều biến cũng thế. Hoặc trong cõi Sắc giới chết lại sinh vào trong A-tỳ địa ngục. Trong A-tỳ địa ngục chết lại sinh vào các địa ngục nhẹ hơn. Trong các địa ngục nhẹ hơn khi chết lại sinh vào loài súc sinh. Trong loài súc sinh chết lại sinh vào ngạ quỷ. Ngạ quỷ chết hoặc lại sinh vào trời người. Như thế, chúng sinh luân hồi trong lục đạo, thọ hai quả báo khổ vui, sinh tử vô cùng. Trong loài thai sinh đã như thế, ba loài khác cũng thế. Cho nên trong kinh Chánh Pháp Niệm có nói: “Bồ-tát hóa sinh bảo chư Thiên chúng: Phàm phu trải qua trăm ngàn lần sinh, đắm trước phóng dật trong lạc thú không lo tu đạo; không biết là khi phước hết, sẽ trở lại đọa trong tam đồ khổ não.” Cho nên, trong kinh Niết-bàn nói: “Thân này là tích tập các điều khổ, tất cả đều là bất tịnh, triền phược, cho đến thân của hàng chư Thiên ở trên cũng lại như thế.”

Vì vậy kinh ấy cũng khuyên tu bất phóng dật. Vì sao? Vì phóng dật là căn bản của tội ác. Không phóng dật là cội nguồn của điều thiện.

Như ánh nhật nguyệt là tối thượng trong các thứ ánh sáng, pháp bất phóng dật cũng như thế, ở trong các pháp thiện nó là tối thượng. Cũng như Tu-di là vua trong các núi, pháp bất phóng dật cũng như thế, là tối thiện trong các pháp thiện. Vì sao? Vì tất cả pháp ác đều do phóng dật sinh ra; tất cả pháp thiện đều lấy bất phóng dật làm căn bản.

Hỏi: Tuy nói là từ vô thỉ kiếp đến nay chúng sinh luân hồi vô tận, mà chưa biết ở trong một kiếp thọ biết bao nhiêu là thân chúng sinh?

Đáp: Như kinh Niết-bàn nói: “Đem cây cỏ trong ba ngàn đại thiên thế giới, cắt ra thành bốn tấc, để đếm số thân cha mẹ đã làm ở trong một kiếp cũng không thể hết.” Hoặc nói: “Một kiếp uống sữa mẹ nhiều hơn bốn biển lớn.” Hoặc nói: “Trong một kiếp tích thân cốt như núi Tỳphú-la.” Như thế, từ kiếp lâu xa đến nay, chúng sinh luân hồi sinh tử cho đến nay không thể tính hết. Thật là thương xót!

Lại hỏi: Đã nói là từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng sinh thọ thân vô số ấy là nói tổng quát, làm cho người nghe nhàm chán, hay là cũng có kinh luận làm chứng?

Đáp: Đây đều là Thánh giáo văn tữ rõ ràng. Vì sao? Như kinh Pháp Hoa có nói: “Trong kiếp quá khứ lâu xa không thể nói, có Đức Phật ra đời hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Bấy giờ có mười sáu vị vương tử, cùng thăng toà thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh. Mỗi vị vương tử đều giáo hóa sáu trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sinh. Từ khi Đức Phật diệt độ đến nay, thật là lâu xa, vẫn không thể tính biết.” Vì sao? Kinh nói: “Thâu lấy tất cả đại địa trong tam thiên thế giới mài làm mực.” Phật nói: “Có người đi qua một ngàn nước lấy mực chấm một điểm. Trải qua như thế cho khắp hết các đại địa.” Phật bảo: “Người đó đi qua các quốc độ, nếu có chấm hay không chấm, cho đến hết các vi trần, mỗi trần là một kiếp. Từ khi Đức Phật ấy diệt độ đến nay, trải qua các số vi trần hơn thế. Chúng sinh ngày nay chính đã từng thọ giáo pháp của mười sáu vị vương tử kia.” Cho nên trong kinh nói: “Vì bản nhân duyên như thế, nên Phật thuyết kinh Pháp Hoa.”

Kinh Niết-bàn lại nói: “Dù là vương tử, là người nghèo, hai người như thế cùng qua lại.” Nói vương tử đó chính là Đức Thích-ca bây giờ, là vị vương tử thứ mười sáu vậy. Nói người nghèo đó, là chúng sinh vậy.

Hỏi: Ở đây nói chúng sinh luân hồi trong nhiều kiếp. Nhưng ở trong ba cõi, vào nẻo (thú) nào nhiều?

Đáp: Tuy nói là lưu chuyển, nhưng thọ nhận trong ba nẻo ác là nhiều. Như kinh nói: “Ở trong hư không lấy vuông vức tám khuỷu tay. Từ đất cho đến trời Sắc cứu cánh, ở đây có thể nhìn thấy chúng sinh rất nhiều trong tam thiên đại thiên thế giới.” Như vậy đủ biết thân chúng sinh ở trong ba nẻo ác rất nhiều. Vì sao? Vì ác pháp dễ khởi, thiện tâm khó sinh. Nay chỉ xem những chúng sinh trong hiện tại, nếu được phú quý thì duy chỉ phóng dật phá giới mà thôi. Trong cõi trời lại đắm trước vào lạc cảnh. Cho nên trong kinh nói: “Chúng sinh lưu chuyển, thường lấy ba nẻo ác làm nhà. Cõi trời người chỉ tạm đến rồi đi, nên gọi đó là khách xá vậy.”

Nay dựa vào Đại Trang Nghiêm luận, khuyên tất cả chúng sinh cần nên buộc niệm hiện tiền. Kệ nói:

Khi đương thời chẳng lo
Giải đãi không tinh tấn
Tham làm việc mưu sinh
Không tu thí giới thiền
Đến khi sinh tử đến
Mới hối cầu tu thiện.
Người trí nên quán xét
Trừ đoạn năm dục tưởng.
Tinh cần tu tập tâm
Trọn đời không hối hận
Tâm ý đã chuyên chú
Không một niệm thác loạn
Người trí cần chuyên tâm
Lâm chung ý không tán.
Không tập tâm chuyên chú
Lâm chung ắt tán loạn
Nếu lúc tâm tán loạn
Như điều ngựa, dùng cương
Như lúc đang chiến đấu
Xoay chuyển không đi thẳng.

Hỏi: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Vậy thì muôn số kiếp đến nay, đáng lý phải gặp nhiều Đức Phật ra đời, cớ sao cứ mãi luân hồi trong sinh tử, chưa ra khỏi nhà lửa?

Đáp: Xét theo Đại thừa Thánh giáo, bởi chúng sinh không đạt được hai loại thắng pháp để thoát ly sinh tử, cho nên không thể ra khỏi nhà lửa. Hai thắng pháp đó là gì? Một là Thánh đạo; hai là vãng sinh Tịnh độ. Nói Thánh đạo đó thì đời nay rất khó chứng. Bởi thứ nhất là do cách bậc Thánh đã lâu; thứ hai là do lý sâu mà hiểu cạn. Cho nên trong kinh Đại Tập Nguyệt Tạng nói: “Trong đời mạt pháp, tuy có ức ức chúng sinh tu đạo khởi hạnh, nhưng chưa có người nào đắc đạo”. Nay đời mạt pháp ngũ trược ác thế, chỉ có nhị môn Tịnh độ là có một thể thông nhập cho tất cả chúng sinh. Cho nên trong Đại kinh nói: “Như có chúng sinh, một đời tạo nghiệp ác, khi sắp lâm chung, niệm liên tục mười niệm, xưng danh hiệu của ta, nếu không vãng sinh về Cực lạc thì ta không thành Chánh giác.”

Lại có chúng sinh không thể tự lượng. Nếu căn cứ vào các pháp, Chân như, Thật tướng, Đại thừa Đệ nhất nghĩa không thì họ chưa từng dựa vào tâm. Nếu luận theo Tiểu thừa, tu nhập vào kiến đế tu đạo, thì từ Tu-đà-hoàn cho đến A-na-hàm, A-la-hán, từ đoạn năm phần hẹ kiết sử, đến trừ năm phần thượng kiết sử, không kể đạo tục, chưa có thể phân định. Giả như có quả báo của hàng nhân Thiên, đều là do tu năm giới, mười thiện mà chiêu lấy báo này, nhưng người đạt được rất ít. Nếu luận về khởi ác tạo nghiệp, thì chẳng khác gì mưa to gió lớn! Vì lòng Từ bi mà chư Phật khuyên tu Tịnh độ. Giả như một đời tạo nghiệp, chỉ có thể buộc niệm chuyên tinh, thường có thể niệm Phật, thì tất cả chướng ngại tự nhiên cũng được tiêu trừ, nhất định sẽ được vãng sinh. Vì sao chúng ta không tư duy suy lượng, mà tất cả lại không dụng tâm vậy?

IV. Dẫn Kinh Llàm Chứng, Khuyến Tín Vãng Sinh:

Nội dung thứ tư từ đây trở đi. Đều dẫn kinh luận làm chứng, khuyên chúng sinh phát tín tâm cầu vãng sinh.

Theo kinh Quán Phật Tam-muội nói : “Bấy giờ, trong hội có Bồtát Tài Thủ bạch Phật rằng:

-Bạch Đức Thế Tôn! Con nhớ trong quá khứ vô lượng kiếp, có Phật ra đời, cũng danh hiệu là Thích-ca Mâu Ni. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, có một vị vương tử tên là Kim Tràng, kiêu mạn tà kiến, không tin chánh pháp.

Có Tỳ-kheo tri thức tên là Định Tự Tại, bảo Vương tử rằng:

-Đời có tượng Phật, rất là đẹp, có thể tạm vào trong tháp, quán hình tượng Phật.”

Bấy giờ vương tử theo lời thiện hữu, vào tháp quán tượng, thấy tướng hảo của tượng, bèn nói rằng:

-Thưa Tỳ-kheo, tượng Phật đoan nghiêm, còn đẹp như thế , huống là thân Phật thật.

Tỳ-kheo bảo:

-Vương tử nay thấy tượng Phật đó, nếu không đảnh lễ thì nên xưng Nam-mô Phật. Vương tử trở về cung suy nghĩ, nghĩ tượng ở trong tháp, tức thì sau đêm đó Vương tử mộng thấy tượng Phật, tâm rất hoan hỷ, xa lìa tà kiến, quy y Tam bảo. Nhờ đó, sau khi mạng chung, do công đức lúc trước vào tháp xưng danh hiệu Phật, liền gặp được chín trăm ức na-do-tha Phật. Đối với chư Phật thì chuyên cần tinh tấn, thường đắc niệm Phật Tam-muội, được lực niệm Phật Tam-muội, chư Phật hiện tiền đều cùng thọ ký. Từ đó đến nay, trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp, vương tử ấy không đọa ác đạo, nhẫn đến hôm nay đắc được Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội. Vương tử đó nay chính là Tài Thủ con vậy.

Bấy giờ, trong hội liền có chư Đại Bồ-tát mười phương, số nhiều vô lượng, mỗi vị đều nói về bổn duyên, đều do niệm Phật mà được. Phật bảo A-nan:

-Quán niệm Phật Tam-muội, là vị thuốc trị cho tất cả chúng sinh phạm tội , bảo hộ người phá giới, hướng đạo người lạc đường, mắt cho người bị mù lòa, là trí tuệ cho kẻ ngu si ám độn, là ngọn đèn nơi tăm tối, là vị tướng đại dũng mãnh đối với giặc phiền não. Nơi chư Phật thường qua lại là Thủ-lăng-nghiêm, các đại Tam-muội thường xuất ra ở đây.

Phật lại bảo A-nan:

-Ông nên khéo thọ trì, chớ để quên mất. Ba đời chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều thuyết giảng về Tam-muội này như vậy.

Ta cùng với mười phương chư Phật và một ngàn vị Phật trong đời Hiền kiếp, từ sơ phát tâm, đều nhân có lực niệm Phật Tam-muội mà được Nhất-thiết-chủng-trí.

Lại như trong kinh Mục-liên Sở Vấn, Phật bảo Mục-liên:

-Ví như vạn dòng sông chảy dài, có bọng cây nổi lên, trước không nhìn sau, sau không nhìn trước, cùng tuôn vào biển lớn. Thế gian cũng như vậy, tuy là có người hào quý, giàu có sung sướng tự tại, thảy không tránh khỏi sinh, lão, bệnh, tử. Chỉ do không tin vào kinh Phật, đời sau làm người, lại càng khốn khổ hơn, không thể được sinh vào ngàn Phật quốc. Cho nên ta nói nước Vô lượng thọ là nơi dễ đến dễ giữ. Mà nếu người không tu niệm cầu vãng sinh, lại tin theo ngoại đạo, ta cho đó là người vô trí không có mắt, không có tai.

Kinh giáo đã nói như vậy, tại sao chúng ta lại không bỏ việc khó, y vào sự dễ để hành đạo?

Pages: 1 2

LƯỢC LUẬN AN LẠC TỊNH ĐỘ NGHĨA

SỐ 1957

Thích Đàm Loan soạn

Hỏi: Cõi Tịnh độ an lạc được nhiếp vào cõi nào ở trong ba cõi?

Đáp: Như Thích Luận nói: Như cõi Tịnh độ này, chẳng phải nhiếp thuộc trong ba cõi. Vì sao? Vì Tịnh độ vô dục, nên chẳng phải Dục giới, vì có địa cư nên chẳng phải Sắc giới; và vì quả có hình sắc cho nên chẳng phải Vô sắc giới. Kinh dạy rằng: Khi xưa Đức Phật A-di-đà tu hành Bồ-tát đạo, làm Tỳ-kheo tên Pháp Tạng ở đời Đức Phật Tự Tại Vương thỉnh hỏi bản hạnh của chư Phật ở cõi Tịnh độ. Lúc đó, đức Tự Tại Vương vì Bồ-tát mà nói về bản hạnh của hai trăm mười ức cõi nước của chư Phật, hàng thiên nhân thiện ác, cõi nước đẹp, xấu thảy đều hiện ra. Lúc bấy giờ Pháp Tạng Bồ-tát liền ở trước Đức Phật, phát nguyện rộng lớn chọn lấy cõi nước của chư Phật. Ở vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, như lời phát nguyện hành Ba-la-mật. Vạn điều lành đều được viên mãn, thành Vô thượng đạo. Do biệt nghiệp mà chứng đắc chứ chẳng phải thuộc ba cõi vậy.

Hỏi: Cõi nước An lạc có bao nhiêu thứ trang nghiêm mà gọi là Tịnh độ?

Đáp: Nếu nương vào kinh, căn cứ vào nghĩa, thì bốn mươi tám lời nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng, tức là những việc kia tìm đọc có thể biết được, không cần chép lại. Nếu nương vào luận Vô Lượng Thọ, thì dùng hai thứ thanh tịnh thâu nhiếp hai mươi chín thứ trang nghiêm thành tựu. Hai thứ thanh tịnh ấy là Khí thế gian thanh tịnh và Chúng sinh thế gian thanh tịnh.

– Khí thế gian thanh tịnh gồm có mười bảy thứ trang nghiêm thành tựu:

  1. Tướng quốc độ, thù thắng hơn ba cõi.
  2. Quốc độ kia rộng lớn, lượng như hư không, không có bờ bến.
  3. Chánh đạo đại Từ bi của Bồ-tát sinh khởi thiện căn xuất thế gian.
  4. Hào quang thanh tịnh viên mãn trang nghiêm.
  5. Đầy đủ tánh trân bảo đệ nhất, vượt hẳn các vật báu kỳ diệu.
  6. Thanh tịnh sáng suốt thường chiếu khắp thế gian.
  7. Các vật báu ở quốc độ kia mềm mại, chạm vào sinh tâm ưa thích, phát sinh sự an lạc thù thắng.
  8. Ngàn vạn loại hoa quý trang nghiêm ao hồ, các thứ cung điện lầu gác, hàng cây bằng báu, ánh sáng màu sắc xen lẫn, chiếu sáng khắp thế giới. Vô lượng lưới báu giăng đầy hư không, bốn phía treo linh thường rung tiếng pháp âm.
  9. Ở trong hư không, tự nhiên thường có mùi thơm của mưa trời, hoa trời và nhạc trời, trang nghiêm xông khắp mọi nơi.
  10. Hào quang trí tuệ của Đức Phật, chiếu cùng khắp trừ hết những tối tăm.
  11. Tiếng Phạm âm khai ngộ vang khắp mười phương.
  12. Đức Phật A-di-đà là đấng Pháp vương vô thượng dùng thiện lực giữ gìn.
  13. Từ hoa Như Lai thanh tịnh hóa sinh.
  14. Ưa thích vị Phật pháp, lấy thiền định làm thức ăn.
  15. Vĩnh viễn xa lìa các khổ của thân tâm, thọ vui không gián đoạn.
  16. Cho đến không nghe cả tên hàng Nhị thừa, người nữ và người thiếu căn.
  17. Chúng sinh có sở thích an lạc thì tùy tâm xứng ý đều được đầy đủ. Như vậy mười bảy thứ ấy được gọi là khí thế gian thanh tịnh.

– Chúng sinh thế gian thanh tịnh có mười hai thứ trang nghiêm thành tựu:

  1. Một là, vô lượng đại trân bảo vương vi diệu, đài hoa dùng làm tòa Phật.
  2. Vô lượng tướng hảo, vô lượng hào quang trang nghiêm thân Phật.
  3. Đức Phật vô lượng biện tài ứng cơ thuyết pháp, đầy đủ thanh tịnh, khiến người ưa nghe, người nghe ắt hiểu ngộ, lời nói không hư dối.
  4. Chân như trí tuệ của Đức Phật như hư không, chiếu rõ tổng tướng và biệt tướng của các pháp, tâm không phân biệt.
  5. Chúng nhân thiên bất động, rộng lớn trang nghiêm, ví như núi Tu-di chiếu khắp bốn biển lớn, đầy đủ tướng pháp vương.
  6. Thành tựu vô thượng không còn ai sánh kịp, huống chi là hơn.
  7. Làm bậc Điều ngự, thầy, bậc Trượng phu trong chúng trời người, đại chúng cung kính vây quanh, như loài sư tử vây quanh sư tử chúa vậy.
  8. Bản nguyện lực của Đức Phật trang nghiêm giữ gìn các công đức, người gặp đều được lợi ích, mau chóng được đầy đủ mọi công đức như biển. Những Bồ tát chưa chứng được tâm thanh tịnh cùng với các Bồ tát tâm đã thanh tịnh Bồ tát đã đăng ngôi Địa thì cuối cùng đều được chứng pháp thân bình đẳng tịch diệt bình đẳng.
  9. Các chúng Bồ-tát ở cõi nước An lạc thân không lay động mà biến đến mười phương ứng hóa đủ loại, như thật tu hành, thường làm Phật sự.
  10. Bồ-tát ứng hóa thân như vậy, tất cả thời không trước không sau, nhất tâm nhất niệm phóng hào quang lớn thảy đều biến đến mười phương thế giới, giáo hóa chúng sinh, tạo các phương tiện tu hành, diệt trừ khổ não cho tất cả chúng sinh.
  11. Bồ-tát bình đẳng ở trong tất cả thế giới, chiếu khắp các đại hội của chư Phật rộng lớn vô biên, không có chỗ nào thiếu sót, cúng dường cung kính tán thán công đức của Đức Phật rộng lớn vô biên không có chỗ nào thiếu sót.
  12. Bồ-tát trong mười phương tất cả thế giới, chỗ nào không có Tam bảo thì giữ gìn trang nghiêm Phật Pháp và Tăng bảo, công đức lớn như biển, biến hiện khắp khiến chúng sinh hiểu ngộ như thật tu hành. Đấng pháp vương như vậy là đã thành tựu tám thứ công đức trang nghiêm. Còn Bồ-tát như vậy là đã thành tựu bốn thứ công đức trang nghiêm, cho nên gọi là chúng sinh thế gian thanh tịnh. Cõi nước An lạc đã thành tựu đầy đủ hai mươi chín thứ công đức trang nghiêm như vậy, cho nên gọi là Tịnh độ.

Hỏi: Cõi nước An lạc có bao nhiêu phẩm bậc? Có bao nhiêu nhân duyên?

Đáp: Trong kinh Vô Lượng Thọ dạy, chỉ có ba phẩm Thượng, Trung, Hạ. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy, một phẩm phân làm Thượng, Trung, Hạ, ba lần ba là chín, hợp làm chín phẩm. Nay nương vào sự tán thán kinh Vô Lượng Thọ, căn cứ vào đó để luận về ba phẩm:

Thượng phẩm sinh có năm nhân duyên:

  1. Bỏ nhà lìa dục mà làm Sa-môn.
  2. Phát tâm Vô thượng Bồ-đề.
  3. Nhất hướng chuyên niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ.
  4. Tu các công đức.
  5. Nguyện sinh an lạc.

Nếu đầy đủ năm nhân duyên này, thì khi sắp lâm chung Đức Phật Vô Lượng Thọ cùng các đại chúng hiện ở trước mặt, người đó liền theo Đức Phật vãng sinh về cõi An lạc, ở trong hoa sen bảy báu tự nhiên hóa sinh trú bất thoái chuyển, trí tuệ dũng mãnh, thần thông tự tại.

Trung phẩm sinh thì có bảy nhân duyên:

  1. Phát tâm vô thượng Bồ-đề.
  2. Nhất hướng chuyên niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ.
  3. Tu thiện nhiều ít, phụng trì trai giới.
  4. Tạo lập tháp tượng.
  5. Cúng dường Sa-môn.
  6. Treo cờ thắp đèn, rải hoa, đốt hương.
  7. Đem công đức này hồi hướng nguyện sinh cõi An lạc.

Khi sắp lâm chung, Đức Phật Vô Lượng Thọ sẽ hóa hiện, hào quang tướng hảo đầy đủ như thân Phật, cùng các đại chúng hiện trước mặt người kia, liền tùy hóa Phật vãng sinh cõi An lạc, trú vị bất thoái chuyển. Công đức trí tuệ cũng được như bậc thượng phẩm.

Hạ phẩm sinh có ba nhân duyên:

  1. Giả sử không thể tạo tác các công đức thì phải phát tâm vô thượng Bồ-đề.
  2. Nhất hướng chuyên nhớ đến Phật, cho đến niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ mười niệm.
  3. Tâm chí thành nguyện sinh cõi nước An lạc.

Khi lâm chung, mộng thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ, thì cũng được vãng sinh. Công đức trí tuệ của phẩm này cũng đồng với Trung phẩm.

Lại có một hạng vãng sinh cõi An lạc mà không được kể vào trong ba phẩm này. Nghĩa là, đem tâm nghi ngờ tu các công đức nguyện sinh cõi An lạc. Hạng này không hiểu biết Phật trí, bất tư nghì trí, trí Đại thừa rộng lớn, trí tối thắng tối thượng không có gì sánh bằng. Đối với các trí này, họ nghi hoặc không tin, nhưng tin có tội phước, nên đã tu tập thiện căn, ắt sinh nước An lạc, có cung điện bảy báu rộng từ một trăm đến năm trăm do-tuần. Mỗi mỗi ở trong đó đều được hưởng các khoái lạc như cõi trời Đao lợi. Trong năm trăm năm, thường không thấy Phật, thường không nghe kinh pháp, không thấy Bồ-tát, Thanh văn và Thánh chúng. Cõi nước An lạc đó gọi là biên địa, cũng gọi là thai sinh. “Biên địa” tức là chốn biên địa ấy trong năm trăm năm không thấy nghe Tam bảo, nghĩa đồng với nạn biên địa, hoặc cũng gọi là biên địa của cõi nước An lạc. “Thai sinh” là thí như thai người sinh, khi mới sinh, nhân pháp chưa thành, gọi là “biên” tức chỗ bị nạn, gọi là thai tức là chỗ tối tăm. Hai chữ này là mượn để so sánh thôi. Chẳng phải là biên địa trong tám nạn, chẳng phải bào thai trong thai sinh. Vì sao? Vì cõi An lạc hóa sinh, chẳng phải thật có thai sinh. Vì sau năm trăm năm lại được thấy nghe Tam bảo, cho nên biết chẳng phải là biên địa trong tám nạn.

Hỏi: Loài thai sinh kia ở trong cung điện bảy báu có được thọ hưởng vui sướng không? Nhớ nghĩ về điều gì?

Đáp: Kinh thí Dụ rằng: “Ví như con của Chuyển Luân vương đắc tội với vua cha, bị giam lỏng trong hậu cung, vàng bạc ngọc ngà cung cấp đầy đủ, tất cả không thiếu thứ gì cũng như vua. Vương tử tuy có đầy đủ những thứ tốt đẹp quý báu để hưởng lạc, nhưng tâm không thọ lạc, chỉ nghĩ ra các phương cách mong cầu thoát khỏi.” Loài thai sinh kia cũng lại như vậy, tuy ở trong cung điện bảy báu, có đầy đủ sắc, hương, vị, xúc tốt đẹp, nhưng không cho đó là vui. Vì không thấy Tam bảo, không được cúng dường, tu các thiện căn, nên cho đó là khổ. Hiểu được nguyên nhân của tội kia, họ rất hối hận, tự trách mình và mong cầu xa lìa chỗ kia thì được như ý, trở lại đồng với ba phẩm vãng sinh. Như vậy là phải đến hết năm trăm năm, họ mới biết tội mà sám hối.

Hỏi: Tâm nghi ngờ mà cũng vãng sinh cõi An lạc và được gọi là thai sinh. Tại sao lại khởi nghi?

Đáp: Trong kinh chỉ nói nghi hoặc không tin, chứ không nêu lên ý tại sao nghi. Năm câu không hiểu là chỉ dùng để đối trị câu; không hiểu Phật trí, là không tin hiểu Nhất-thiết-chủng-trí của Đức Phật. Vì không hiểu nên sinh nghi. Một câu này là tổng quát sự nghi ngờ, còn bốn câu dưới mỗi mỗi đều để đối trị chỗ nghi. Nghi có bốn thứ:

1/ Hoài nghi rằng, nếu chỉ nghĩ nhớ đến Phật A-di-đà thì không chắc được vãng sinh cõi An lạc. Vì sao vậy? Kinh dạy: “Nghiệp đạo như bàn cân, bên nào nặng thì lôi kéo trước.” Vì sao một đời hoặc một trăm năm, hoặc mười năm hoặc một tháng, thì không việc ác gì mà không tạo, thế mà chỉ niệm mười niệm liên tục, thì liền được vãng sinh, liền nhập chánh định rốt ráo, được địa vị bất thoái, cùng các khổ trong đường vĩnh viễn chấm dứt ư? Nếu vậy thì nghĩa lôi kéo trước làm sao tin được? Lại nữa, trải qua nhiều kiếp đến nay, tạo đủ các hành pháp hữu lậu, trói buộc trong ba cõi, tại sao không đoạn kiết hoặc trong ba cõi, mà lại nói dùng ít thời gian niệm Phật A-di-đà thì liền ra khỏi ba cõi? Nghĩa trói buộc của nghiệp lại muốn như thế nào? Muốn đối trị điều nghi này, cho nên nói chẳng nghĩ bàn. Trí bất tư nghì tức là trí lực của Đức Phật, có khả năng lấy ít làm nhiều, lấy nhiều làm ít, lấy gần làm xa, lấy xa làm gần, lấy khinh làm trọng, lấy trọng làm khinh, lấy dài làm ngắn, lấy ngắn làm dài. Trí của Đức Phật vô lượng vô biên như vậy nên không thể nghĩ bàn. Thí như một trăm người tiều phu dồn chứa cỏ suốt một trăm năm chất cao đến một ngàn nhận (khoảng tám ngàn thước), dùng lửa đốt nửa ngày liền cháy hết. Đâu có thể nói cỏ chứa một trăm năm thì lửa đốt nửa ngày không hết? Lại như người bị què hai chân, nhờ thuyền người khác chở, nhân có gió thổi mạnh chỉ một ngày thuyền đi đến ngàn dặm. Đâu có thể nói người què vì sao một ngày đi đến ngàn dặm? Lại như người hạ tiện nghèo khổ, được vật bằng ngọc quý, đem dâng cho chủ, người chủ vui mừng được ngọc liền trọng thưởng cho người kia. Người này chỉ trong chốc lát giàu có đầy tràn. Đâu có thể nói có người học trò trải qua mười năm học, chịu đủ mọi cực khổ cay đắng mà cuối cùng không đạt được gì? Nói sự giàu có kia không được như vậy ư? Lại như kẻ yếu sức, dùng hết sức mình leo chồm lên con lừa mà không lên nổi và nếu nương theo vua Chuyển luân đi, cỡi lên hư không bay nhảy tự nhiên, vậy có thể đem người đàn ông sức yếu đặt lên lưng lừa mà quyết nói không thể nương hư không ư? Lại như có sợi dây dài mười thước, một ngàn người đàn ông không thể cắt được, mà đứa trẻ con vung kiếm trong nháy mắt lại làm đứt hai. Đâu có thể nói sức của đứa trẻ không thể cắt đứt dây ư? Lại như con chim chạm vào trong nước, thì loài trai đều chết tiêu hết. Con tê giác chạm vào đất bùn thì người chết đều đứng dậy. Đâu có thể nói sinh mạng một khi đã chết rồi thì không thể sống lại được? Lại như con ngỗng vàng gọi Tử An. Tử An sống trở lại, vậy đâu có thể được nói thây chết dưới phần mộ ngàn năm quyết không thể sống lại được? Tất cả vạn pháp đều có sức mình sức người, nhiếp mình nhiếp người, ngàn mở vạn đóng, vô lượng vô biên, đâu có thể lấy sự hiểu có ngăn ngại mà nghi pháp kia không ngăn ngại được? Vả lại nếu cho rằng, việc ác trong một trăm năm là trọng, còn nghi niệm Phật mười niệm là khinh, nên không được vãng sinh cõi An lạc, không được nhập vào chánh định, thì việc đó không phải như vậy.

2/ Hoài nghi về trí Phật đối với người vốn không cách nhau. Vì sao vậy? Luận nói rằng, tất cả danh tự cũng từ tướng đối đãi mà sinh. Trí giác là từ bất giác mà sinh, như người mù mờ phương hướng, do nhớ lại mới sinh. Giả sử người mê muội mà không biết mê, ắt cuối cùng cũng không hiểu. Nếu có thể hiểu thì chắc hẳn hết mê, cũng có thể nói là người hiểu mê. Mê hiểu và hiểu mê cũng như bàn tay tráo trở mà thôi. Nếu cho rằng sáng tối là sai khác nhau, thì đâu còn siêu việt? Do khởi nghi này, nên đối với trí tuệ của Đức Phật mà họ sinh nghi không tin. Để đối trị cho nên nói trí Phật là không thể xưng. Trí không thể xưng tức nói trí của Đức Phật bặt dứt danh xưng tên gọi, chẳng phải hình tướng đối đãi. Vì sao? Vì pháp nếu là có thì chắc hẳn có trí hiểu biết có, pháp nếu là không lẽ ra cũng có trí hiểu biết không. Các pháp vốn lìa có và không, Đức Phật hiểu sâu xa các pháp, nên trí Phật cũng bặt dứt tướng đối đãi. Ông dẫn dụ ngộ và mê làm thí dụ thì cũng như là một thứ mê thôi, chứ không thành mê ngộ. Cũng như trong mộng mà giải mộng cho người khác. Tuy nói giải mộng mà chẳng phải là không mộng. Dùng tri kiến để hiểu Phật, thì không thể gọi là biết Phật. Vì không biết cách hiểu Phật, nên chẳng phải biết Phật. Dùng cái chẳng phải biết, chẳng phải không biết Phật, cũng chẳng phải biết Phật. Vì cái chẳng phải chẳng biết, chẳng phải chẳng không biết Phật để mà biết Phật thỉ cũng chẳng phải biết Phật. Phật trí vốn lìa bốn câu này, như nói: “Tâm hành xứ diệt, ngôn ngữ đạo đoạn.” Do vì nghĩa này nên Thích luận nói rằng: “Nếu người nào thấy Bát-nhã, thời là bị trói buộc; nếu không thấy Bátnhã thì cũng là bị trói buộc. Nếu người nào thấy Bát-nhã thời là giải thoát, nếu không thấy Bát-nhã thì cũng là giải thoát.” Trong kệ này nói, không lìa bốn câu ấy là trói buộc, lìa bốn câu ấy là giải thoát. Ông nghi trí Phật cùng với người không khác nhau, việc đó không như vậy.

3/ Hoài nghi Đức Phật không thể độ tất cả chúng sinh. Vì sao vậy? Vì đời quá khứ, có vô lượng A-tăng-kỳ hằng sa chư Phật. Hiện tại ở mười phương thế giới cũng có vô lượng vô biên A-tăng-kỳ hằng sa chư Phật. Giả sử, Đức Phật có thế độ tất cả chúng sinh, thì lẽ ra từ lâu đã không có ba cõi. Đức Phật thứ hai lẽ ra không còn vì chúng sinh mà phát tâm Bồ-đề, tu tập công đức Tịnh độ, nhiếp thọ chúng sinh. Vả lại, có Đức Phật thứ hai nhiếp thọ chúng sinh, cho đến có ba đời mười phương vô lượng chư Phật nhiếp thọ chúng sinh, thì biết rằng Đức Phật không thể độ tất cả chúng sinh. Vì người ấy khởi sự hoài nghi này, nên đối với Phật A-di-đà liền sinh ra hữu lượng tưởng. Và để đối trị nghi này, nên nói trí Đại thừa rộng lớn. Trí Đại thừa rộng lớn: Nghĩa là nói không pháp nào mà không biết, không phiền não nào mà không đoạn, không việc thiện nào mà không đầy đủ, không có chúng sinh nào mà không độ. Sở dĩ có ba đời mười phương là có năm nghĩa:

a. Giả sử không có Đức Phật thứ hai, cho đến không có A-tăng-kỳ hằng sa chư Phật, thì Đức Phật không thể độ tất cả chúng sinh. Vì có khả năng độ tất cả chúng sinh, mới có mười phương vô lượng chư Phật. Vô lượng chư Phật tức là Đức Phật quá khứ độ chúng sinh.

b. Nếu một Đức Phật độ hết tất cả chúng sinh, thì sau không lẽ lại có Đức Phật? Vì sao vậy? Nếu không có nghĩa giác tha, thì nương vào nghĩa nào mà nói có ba đời chư Phật? Do nương nghĩa giác tha nên nói mỗi Đức Phật đều độ tất cả chúng sinh.

c. Đức Phật sau năng độ, cũng như Đức Phật trước năng độ. Vì sao vậy? Do vì có Đức Phật trước nên có Đức Phật sau. Thí như Đế vương có tướng nối dõi, vua sau có khả năng nối dõi vua trước.

d. Phật tuy có khả năng độ tất cả chúng sinh, nhưng cốt yếu cần phải có nhân duyên. Nếu chúng sinh cùng với Đức Phật trước không có nhân duyên, thì phải đợi Đức Phật sau. Chúng sinh vô duyên như vậy cần phải trải qua trăm ngàn vạn Đức Phật mà còn không nghe không thấy, đó chẳng phải vì Phật lực yếu kém. Ví như ánh sáng của mặt trăng và mặt trời chiếu khắp bốn châu thiên hạ, phá tan mọi tối tăm, nhưng vì người mù không thấy chứ không phải mặt trời không sáng. Như sấm chớp làm động đất, mà do người điếc không nghe, chứ chẳng phải âm thanh không lớn. Nếu hiểu rõ được lý của các duyên thì gọi là Phật hoặc chí nguyện mạnh mà lý trái với các duyên thì chẳng phải là chánh giác. Vì vậy, cho nên chúng sinh có vô lượng, thì Đức Phật cũng vô lượng. Dẫn chứng Đức Phật tuyệt nhiên không có duyên hay vô duyên, vì sao không độ hết tất cả chúng sinh, thì đó chẳng phải là theo lý mà nói.

e. Chúng sinh nếu hết ở thế gian thì liền đọa vào “Hữu biên”. Do nghĩa này tức là có vô lượng chư Phật độ tất cả chúng sinh.

Hỏi: Nếu chúng sinh không thể cùng tận, thì thế gian phải rơi vào “Vô biên”. Vì rơi vào vô biên nên Phật không thể thật độ tất cả chúng sinh?

Đáp: Thế gian chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên, ở đây cũng bặt dứt bốn câu. Đức Phật khiến chúng sinh lìa bốn câu này, nên gọi là độ chúng sinh, mà thật sự chẳng phải độ, chẳng phải không độ, chẳng phải hết, chẳng phải không hết. Thí như người nằm mộng thấy mình qua sông lớn gặp nạn sóng dữ, người kia sợ hãi kêu vang thấu bên ngoài, người bên ngoài gọi thức dậy vẫn thản nhiên không lo buồn, tức đó chỉ vì mộng qua sông chứ không phải qua sông thật.

Hỏi: Nói độ cùng với không độ đều rơi vào biên kiến, vậy vì sao

chỉ nói độ tất cả chúng sinh là trí rộng lớn của Đại thừa, mà không nói không độ chúng sinh là trí rộng lớn của Đại thừa?

Đáp: Chúng sinh đều nhàm chán khổ mà cầu an lạc, sợ trói buộc mà cầu giải thoát. Nghe độ thì đều quy hướng, nghe không độ thì không biết do đâu mà không độ, bèn nói rằng Phật không có lòng Từ bi lớn nên không quy hướng, vì không quy hướng nên họ cứ mộng mị lâu dài không thể dừng nghỉ. Vì những người này nên phần nhiều Phật nói độ mà không nói là không độ. Lại nữa, trong kinh Vô Hành nói, Đức Phật vốn không đắc Phật đạo, cũng không độ chúng sinh. Vì phàm phu nên gượng ép phân biệt nói Phật độ chúng sinh. Nói độ chúng sinh là nghĩa của đối trị tất đàn, nói không độ chúng sinh là đệ nhất nghĩa tất đàn. Hai câu nói này mỗi mỗi đều có nguyên nhân, không chống trái lẫn nhau.

Hỏi: Như người mộng dứt há không phải là độ ư? Nếu tất cả chúng sinh đều hết mộng, thì thế gian lại không hết sao?

Đáp: Nói thế gian là mộng, nếu mộng hết thì không còn người nằm mộng. Nếu không có người nằm mộng thì cũng không nói người được độ. Như vậy phải biết, thế gian tức là xuất thế gian, và dù có độ vô lượng chúng sinh nhưng không rơi vào điên đảo.

4/ Hoài nghi Đức Phật không chứng đắc Nhất-thiết-chủng-trí. Vì sao vậy? Vì nếu có thể biết tất cả các pháp thì các pháp rơi vào hữu biên. Nếu không biết thì chẳng phải Nhất-thiết-chủng-trí. Để đối trị sự nghi này, cho nên nói trí thù thắng tối thượng, tức là trí của phàm phu thì hư vọng, trí của Đức Phật thì như thật, hư và thật khác nhau xa lý không bình đẳng, cho nên nói là vô đẳng. Hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật muốn có sở tri nhập định mới biết xuất định không biết. Lại nữa, khi biết cũng có hạn lượng. Đức Phật chứng đắc Tam-muội như thật, thường ở trong thiền định biết khắp, chiếu soi vạn pháp nhị cùng bất nhị, hiểu sâu các pháp chẳng có gì so sánh được, cho nên nói là vô luân. Bồ-tát từ Bát địa trở lên, tuy được báo sinh Tam-muội, công dụng không có xuất nhập, nhưng còn tập khí vi tế huân tập. Tam-muội chưa sáng suốt thanh tịnh trọn vẹn và so với Phật trí vẫn còn thấp hơn. Phật trí xét đoán đầy đủ, như pháp chiếu soi; vì pháp vô lượng nên pháp chiếu soi cũng vô lượng. Ví như cái hộp lớn nên nắp cũng lớn, do đó nói là tối thượng. Ba câu này cũng có thể xoay chuyển nương nhau mà thành. Do vì Phật trí không ai sánh bằng nên nói là vô luân. Vì vô luân nên nói là tối thắng tối thượng; vì nói là tối thượng tối thắng cho nên gọi là vô đẳng, vì vô đẳng cho nên nói là vô luân, vậy chỉ nói vô đẳng là đầy đủ, tại vì sao lại cần dùng hai câu dưới? Vì như trí của bậc Tu-đà-hoàn thì không thể sánh với A-la-hán được, chính là loại này. Từ sơ địa cho đến Thập địa này cũng như vậy. Trí tuy không bình đẳng, nhưng không có gì là không bình đẳng, vì chẳng phải tối thượng. Ông cần phải biết hữu biên là nạn, nghi Đức Phật chẳng có nhất thiết trí, việc này không thể nói như vậy được.

Hỏi: Trong hạng Hạ phẩm sinh, nói rằng chỉ cần xưng mười niệm liên tục thì được vãng sinh. Thế nào gọi là mười niệm liên tục?

Đáp: Ví như có người đi trên đường, đến chỗ trống vắng thì gặp oán tặc rút dao chặn lại muốn giết. Người kia sợ bị giết nên bỏ chạy, thấy một con sông muốn vượt qua. Nếu qua sông được thì người được an toàn. Lúc đó người ấy chỉ nghĩ đến phương tiện qua sông. Ta đến bờ sông nên mặc áo hay cởi áo mà qua? Nếu mặc áo mà qua thì sợ không qua được; còn nếu cỡi áo thì sợ không kịp. Người ấy chỉ nghĩ về điều này mà không nghĩ gì khác, tức chỉ nghĩ làm thế nào để được qua sông. Tâm chuyên một niệm, không xen lộn các niệm khác, thì gọi đó là mười niệm liên tục. Hành giả cũng như vậy, niệm Đức Phật A-di-đà cũng phải như nghĩ đến việc qua sông kia, trải qua mười niệm như thế, hoặc là niệm danh tự của Đức Phật, hoặc niệm tướng hảo của Phật, hoặc niệm hào quang của Phật, hoặc niệm thần lực của Phật, hoặc niệm công đức của Phật, hoặc niệm trí tuệ của Phật hoặc niệm bổn nguyện của Phật, đều không được xen lẫn niệm khác, tâm tâm tiếp nối nhau cho đến mười niệm, thì gọi là thập niệm tương tục. Nói tổng quát mười niệm tương tục về trước, tợ như không khó, nhưng phàm phu chúng sinh tâm như con ngựa hoang, ý thức dữ dội như vượn khỉ, bôn ba rong ruỗi trong sáu trần, không tạm dừng nghỉ. Phải chí tâm tín niệm luôn luôn niệm trước, khiến tích chứa thành tánh thiện căn kiên cố. Như Đức Phật bảo vua Tần-bà-sa-la, con người tích chứa việc lành, khi chết không có ác niệm, như cây bị nghiêng về phía Tây, thì chắc phải ngã phía tây. Ngọn gió đao một phen đến, thì trăm thứ khổ dồn hết vào thân. Nếu tập khí trước không chứa trong lòng, thì niệm nào có thể đủ. Lại nên cùng với năm, ba người đồng tâm đồng chí kết lời giao ước, nếu có người sắp lâm chung đều cùng nhau đến hộ niệm, xưng danh hiệu của Đức Phật A-di-đà, nguyện sinh cõi An lạc. Mỗi âm thanh phải nối tiếp nhau thành mười niệm. Thí như khuôn dấu sáp ong in xuống đất bùn, dấu vết tuy bị hoại nhưng văn thì đã thành. Khi mạng này đoạn, tức thời sinh về An lạc, một phen nhập Chánh Định Tụ, đâu còn gì lo lắng?