hàn quốc phật giáo

Phật Quang Đại Từ Điển

(韓國佛教) Phật giáo nước Đại hàn. Hàn quốc thời xưa gồm các nước: Triều tiên, Cao cú li, Bách tế, Tân la, Cao li… Cứ theo Tam quốc sử kí quyển 18 chép, thì năm 372, vua Phù kiên đời Tiền Tân của Trung quốc có sai sứ thần và 2 vị cao tăng là ngài Thuận đạo và A đạo mang kinh luận, tượng Phật đến bán đảo Triều tiên. Năm 373, vua Triều tiên ban sắc cho 2 ngài Thuận đạo, và A đạo xây cất chùa Tiếu môn và chùa Y phất lan. Đây là 2 ngôi chùa đầu tiên trên bán đảo này. Năm 384, có vị sa môn Ấn độ tên là Ma la nan đà đến Bách tế truyền đạo, riêng Tân la thì mãi đến năm 528 mới thấy Phật giáo thịnh hành. Lúc mới truyền vào bán đảo Triều tiên, Phật giáo đã dung hòa ngay với tập tục cố hữu của địa phương, mục đích chỉ nhằm cầu phúc. Đó là thời kì đầu du nhập. Đến đầu thế kỉ VI, có nhiều vị danh tăng xuất hiện, như ở Bách tế có ngài Khiêm ích sang Ấn độ cầu pháp, khi trở về nước mang theo tạng A tì đàm và 5 bộ luật bằng tiếng Phạm, ngài dịch bộ luật 72 quyển, trở thành vị Tổ Luật tông đầu tiên của nước Bách tế, rồi 2 ngài Đàm húc và Huệ nhân soạn bộ Luật sớ 36 quyển, tất cả đều được cất giữ ở điện Đài diệu. Năm 595, ngài Huệ từ của Cao cú li đến Nhật bản, cùng với ngài Huệ thông của Bách tế ở chùa Pháp hưng tại Phi điểu và đều được thái tử Thánh đức tôn làm thầy. Trong 3 nước Cao cú li, Bách tế, Tân la thì Phật giáo ở Tân la hưng thịnh hơn cả, rất nhiều vị cao tăng đến Trung quốc, Ấn độ cầu pháp. Trong đó, ngài Viên quang đến Trung quốc vào thời Trần thuộc Nam triều, học thông Niết bàn, Thành thực, Nhiếp luận. Ngài Nguyên hiểu vừa đến Trung quốc vào đời Đường đã chú thích 81 bộ kinh Phật, xiển dương Nhất thừa viên giáo. Ngài Nghĩa tương cũng đến Trung quốc vào đời Đường, tham yết ngài Trí nghiễm, tổ thứ 2 của tông Hoa nghiêm, khi trở về nước ngài chuyên truyền bá tông Hoa nghiêm. Ngài Từ tạng cùng với 10 người đệ tử đến Trung quốc vào đời Đường, khi về nước mang theo các loại phan phướn, một bộ Đại tạng kinh. Vua ban lệnh cho ngài giảng luận Đại thừa ở chùa Phân hoàng, ngài chuyên về Luật học và Hoa nghiêm. Ngài kiến lập giới đàn ở chùa Thông độ và xây tháp ở chùa Đại hòa. Ngài Viên trắc thì 15 tuổi đã đến Trung quốc, tham học tại các trường giảng của các vị cao tăng ở nhiều nơi, chuyên về Duy thức học, được vua Đường thái tông ban cho độ điệp. Ngài Huệ thông là tổ của tông Chân ngôn, hoằng truyền pháp Mật giáo. Đến thời kì Tân la thống nhất (khoảng 668-935), Phật giáo Triều tiên đã dần dần tách khỏi Trung quốc mà lập ra nền giáo học của riêng mình. So với các tông, thì Thiền tông được truyền vào Triều tiên muộn hơn cả, nhưng về sau lại là tông phái hưng thịnh nhất. Người đầu tiên truyền Thiền tông vào Triều tiên là ngài Pháp lãng và đệ tử là sư Tín hạnh (cũng gọi là Thần hạnh). Sư Tín hạnh (704-779) truyền hệ thống Thiền Bắc tông của ngài Thần tú. Sau Tín hạnh, có các sư Phổ chiếu, Hồng trắc truyền bá Thiền Nam tông của Lục tổ Tuệ năng. Đó là nguồn gốc của Thiền môn cửu sơn của Phật giáo Triều tiên. Thiền môn cửu sơn nghĩa là Thiền tông của Triều tiên gồm có 9 phái: Thực tướng sơn, Ca trí sơn, Xà quật sơn, Đồng lí sơn, Thánh trụ sơn, Sư tử sơn, Hi dương sơn và Tu di sơn. Ngoài ra, tín ngưỡng về Tịnh độ cũng rất thịnh hành. Năm 935, nước Tân la bị nước Cao li đánh bại, từ đó Phật giáo cũng mang một sắc thái mới. Thời đại Cao li (935-1392), Giáo tông và Thiền tông đều hưng thịnh, nhất là Thiền tông, nhờ tiếp nối thế lực ở cuối thời Tân la mà được thịnh hành suốt thời Cao li. Đồng thời, các tông Hoa nghiêm, Pháp tướng cũng được hình thành. Từ quốc sư Đại giác Nghĩa thiên trở về sau, tông Thiên thai được thành lập, có ảnh hưởng rất lớn đối với các tông khác. Thời đại Cao li đất nước ở trong tình trạng ngoại xâm nội loạn, vì muốn nhờ Phật lực che chở nên triều đình đã tổ chức các Phật sự như Pháp hội, giảng tọa, đạo tràng, thiết trai, v.v… do đó mà tư tưởng quốc gia cầu phúc trừ họa, trấn giữ đất nước được hình thành. Cứ theo Đông quốc thông giám chép, năm 918, khi Thái tổ lên ngôi, liền tổ chức hội Bát quan trai, hội thắp đèn. Năm 919, vua dời đô đến Khai thành; cùng với việc kiến thiết cung điện, vua cho xây dựng 10 ngôi chùa tại kinh đô là: Pháp vương, Từ vân, Vương luân, Nội đế thích, Xá na, Thiên thiền, Tân hưng, Văn thù, Viên thông và Địa tạng. Vua Quang tông (ở ngôi 950-976) xây chùa Đại báo ân để truy tiến cầu siêu cho Thái tổ; đồng thời, thiết lập chế độ Tăng chức, định ngôi vị Quốc sư, Vương sư. Bấy giờ, các Phật sự như: Tì lô giá na sám pháp, hội Vô già thủy lục, trai tăng… rất thịnh hành. Thời vua Hiển tông (ở ngôi 1010-1031), Cao li bị quân Khất đan đánh phá, vua phát nguyện khắc Đại tạng kinh để mong trừ quốc nạn. Đây là bản khắc đầu tiên của tạng kinh Cao li và được cất giữ ở chùa Phù nhân, đến khi quân Mông cổ xâm lăng Cao li vào đầu thế kỉ XIII thì toàn bộ bản khắc này bị đốt cháy. Đến năm 1251 Tây lịch, sau nhiều năm nỗ lực, bản khắc Đại tạng kinh thứ 2 mới được hoàn thành, gồm 6529 quyển, 81.258 bản gỗ, được cất giữ ở Đại tạng kinh bản đường phía ngoài cửa tây của thành Giang hoa, sau được dời đến chùa Hải ấn tàng trữ cho đến nay. Ở thời đại Cao li có rất nhiều vị cao tăng xuất hiện, như các ngài: Đạo tân, Quảng học, Đại duyên, Pháp ấn, Lợi nghiêm, Khánh phủ, Lợi nhượng, Xán u, Doãn đa v.v… trong đó, ngài Lợi nghiêm là thầy của vua Thái tổ, ngài Xán u từng đến Trung quốc (đời Đường) theo ngài Đại đồng tu học ở núi Đầu tử và được truyền tâm ấn. Sau khi về nước, ngài được 4 đời vua là Thái tổ, Huệ tông, Định tông và Quang tông qui y, đặc biệt vua Quang tông ban hiệu cho ngài là Chứng chân đại sư , đồng thời được phong làm Quốc sư. Ngoài ra, các ngài Trí tông, Đạo phong cũng từng đến Trung quốc (đời Tống) tham học ngài Vĩnh minh Diên thọ, sau khi về nước, hoằng dương Phật pháp, nổi tiếng một thời. Ngài Đại giác Nghĩa thiên, người sáng lập tông Thiên thai, là con thứ 4 của vua Văn tông. Năm 11 tuổi, y vào ngài Lạn viên ở chùa Linh thông xuất gia, tu học giáo pháp Hoa nghiêm. Năm 1085, ngài đến Trung quốc (đời Tống), khi về nước mang theo hơn 3.000 quyển kinh sớ… sau biên thành Tân biên chư tông giáo tạng mục lục 3 quyển và soạn Tân tập viên tông văn loại hơn 10 bộ trên 300 quyển. Phật giáo ở thời đại Cao li được triều đình bảo hộ nên rất hưng thịnh, đến năm 1392, Cao li diệt vong, Phật giáo cũng theo đó mà suy vi dần. Sau khi nhà Lí dựng nước, phong trào chấn hưng Nho học và bài xích Phật giáo bùng nổ, là thời đại Phật giáo bị hạn chế và đàn áp. Vua Duệ tông (ở ngôi 1469) sửa đổi và định lại qui chế về độ điệp, chia ra Thiền tông, Giáo tông, mỗi tông đều có 30 viên chức chính ngạch. Ngoài ra, còn cấm xây dựng chùa tháp. Các vua về sau như Thành tông (ở ngôi 1470-1494), Yên sơn quân (ở ngôi 1495-1505), Trung tông (ở ngôi 1506-1544), v.v… đều thi hành chính sách bài Phật. Đến đầu năm Minh tông (ở ngôi 1546- 1567), Thái hậu nhiếp chính, làm cho Phật giáo hưng thịnh một thời gian, nhưng sau khi vua Minh tông đích thân cầm quyền, khôi phục chính sách phù Nho bài Phật thì Phật giáo lại rơi vào tình trạng suy đồi như cũ. Tuy vậy, thời kì này vẫn còn có các vị cao tăng đại đức, như ngài Vô chuẩn Kỉ hòa (1376-1433) soạn luận Hiển chính để bác lại luận Bài Phật; ngài Tây sơn Hưu tĩnh (1520-1604) phát huy Thiền học, tăng ni và tín đồ Phật giáo ở Hàn quốc hiện nay phần nhiều thuộc về pháp hệ này. Sánh ngang với pháp hệ của ngài Hưu tĩnh, có pháp hệ của ngài Phù hưu Thiện tu (1543-1649) và pháp hệ của ngài Bích nham Giác tính (1575- 1660). Ngoài ra, còn có ngài Hối am Định tuệ (1685-1741) soạn Hoa nghiêm kinh sớ ẩn khoa, Thiền nguyên tập đô tự trứ bính. Ngài Hối am Định tuệ và ngài Kính nghiêm Ưng doãn (1703-1804) được gọi là Đại tông sư của Giáo tông và Thiền tông. Vào cuối triều Lí, nhờ các sư nỗ lực vận động, cuối cùng, năm 1895, lệnh cấm tăng sĩ vào kinh đô được bãi bỏ. Bốn năm sau, chùa Nguyên hưng được xây cất và Sở Triều tiên Phật giáo tổng tông vụ được thiết lập tại kinh đô. Từ đó, Phật giáo Triều tiên được phục hưng. Năm 1910, Nhật bản xâm chiếm Triều tiên, 1911 ban bố Triều tiên tổng đốc phủ tự sát lệnh và Tự sát lệnh thi hành qui tắc , chia Giáo đoàn làm 30 bản sơn (năm 1924 thêm chùa Hoa nghiêm nữa thành 31 bản sơn), hình thành 30 giáo khu. Năm 1912, Phật giáo Triều tiên được gọi là Giáo Thiền Lưỡng Tông , đồng thời, lấy chùa Giác hoàng làm cơ quan truyền giáo trung ương và là trụ sở hội nghị của 30 bản sơn và qui định qui củ Thiền môn. Sau vì phản đối việc phủ Tổng đốc chi phối giáo đoàn, nên vào năm 1921, một đại hội chư tăng toàn quốc được triệu tập và lấy quyết nghị thiết lập Viện Triều Tiên Phật Giáo Thiền Giáo Lưỡng Tông Trung Ương Tổng Vụ tại chùa Giác hoàng để quản lí các chùa viện trên cả nước. Năm 1922, phái phản đối cũng lập Viện Triều Tiên Phật Giáo Thiền Giáo Lưỡng Tông Trung Ương Giáo Vụ ở chùa Giác hoàng. Năm 1925, 2 viện hiệp nghị với nhau tổ chức thành một viện: Tài Đoàn Pháp Nhân Triều Tiên Phật Giáo Trung Ương Giáo Vụ làm cơ quan tông vụ trung ương thống nhất để cai quản 31 bản sơn trên toàn quốc; về sau đổi tên thành tông Tào khê và kiến lập chùa Thái cổ làm Tổng bản sơn. Ngoài ra, Viên Phật Giáo là một tông phái mới hưng khởi ở đầu thế kỉ XX do ngài Thiếu thái sơn (1891-1943) sáng lập. Giáo nghĩa cơ bản của phái này là Tu hành môn (Chân không diệu hữu) và Tín ngưỡng môn (Nhân quả báo ứng), thành lập 3 học thuyết: Tinh thần tu dưỡng, Sự lí nghiên cứu và Tác nghiệp thủ xả để giáo hóa tín đồ. Đồng thời mở trường Đại học Viên quang để đào tạo nhân tài. Tông pháp này có thế lực rất mạnh. Về phương diện giáo dục, năm 1906 chùa Nguyên hưng mở trường Minh tiến làm cơ sở giáo dục tăng chúng, trường này sau được đổi làm trường Sư phạm Phật giáo. Năm 1916, viện Trung ương tổng vụ lập Phật Giáo Trung Ương Học Lâm tại Hán thành để bồi dưỡng tăng sĩ trẻ với các môn học như: Tu thân, Tông thừa, Dư thừa, Tông giáo học, Bố giáo pháp, Triết học, Lí, Số, Sử, Địa, v.v… Đồng thời, cũng thành lập các Học lâm ở các địa phương lấy chùa viện làm trung tâm. Nhưng vì Học lâm trung ương trước kia từng là căn cứ địa của cuộc vận động độc lập cho Hàn quốc nên vào năm 1922 bị bãi bỏ. Qua nhiều lần đổi thay, sau thế chiến thứ 2, cơ sở này đã trở thành Đại học Đông quốc. Ngoài những cơ sở giáo dục nói trên, còn có Đại học Tăng già trung ương và các giảng viện phụ đặt ở các chùa. Trong đó, Đại học Đông quốc và Đại học Viên quang là 2 trung tâm nghiên cứu Phật giáo lớn nhất và đã đào tạo được nhiều học giả kiệt xuất. Về phương diện báo chí, thì từ sau năm 1910, Phật giáo Hàn quốc đã phát hành các tạp chí như: Viên tông, Triều tiên Phật giáo nguyệt san, Hải đông Phật giáo, Phật giáo chấn hưng hội nguyệt báo, Triều tiên Phật giáo giới, Phật giáo, Phật giáo học báo, Hàn quốc Phật giáo học, Hàn quốc tông giáo, Viên Phật giáo tư tưởng, v.v… Hiện nay, Phật giáo Hàn quốc chia làm 18 tông phái, trong đó, tông Tào khê và tông Thái cổ là 2 phái chủ đạo lớn. Cứ theo Hàn quốc tự sát tư liệu tùng thư 4 (1983), thì Hàn quốc hiện có 20.755 tăng sĩ và 11.130.000 tín đồ thuộc tất cả các tông phái. Ngoài Phật giáo, Hàn quốc còn có các tông giáo khác như Cơ đốc giáo, Thiên chúa giáo, Nho giáo, Thiên đạo giáo… Thiên chúa giáo truyền vào Hàn quốc cách đây khoảng 200 năm. Sau thế chiến, Cơ đốc giáo rất thịnh. Đến năm 1933, số tín đồ đã lên tới 940.000 người. [X. Nhật Hàn Phật giáo nghiên cứu (Hiện đại Phật giáo học thuật tùng san 82); Triều tiên Phật giáo thông sử (Lí năng hòa); Hàn quốc Phật giáo sử (Ái đãng Hiển xương); Hàn quốc Phật giáo sử (Kim anh thái)].