DIỄN GIẢNG
Tập I
Thiên vận ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Hợi (13-15-1959)
[Hòa Thượng] Quảng Đức, trụ trì chùa Thiên Phước

 

Lời nói đầu

Giáo pháp của Phật ví như phương thuốc chữa bệnh. Thuốc ở đời chữa về thân bệnh, thuốc của Phật chữa về tâm bịnh. Vì chúng sanh nhiều bịnh nên Phật chế ra nhiều thuốc.

Chúng sanh vô lượng, pháp môn vô lượng. Phật tùy bịnh cho thuốc. Người căn tánh sáng suốt, Phật dạy giáo lý cao. Kẻ căn tánh ám độn Phật dạy giáo lý thấp. Giáo lý ấy được ghi bên trong ba tạng: kinh, luật, luận, có hằng vạn quyển. Vì thế người ta thường gọi là rừng Nho sách vở đạo Khổng, biển Thích kinh sách đạo Phật. Nghĩa là kinh sách nhiều không kể xiết được.Và người tu được học trọn đời không thể hiểu hết được giáo lý của Phật nếu không chứng ngộ bởi rừng giáo điển vô tận, nghĩa lý siêu huyền. Nên có nhiều giáo hữu thường phàn nàn kinh sách đạo Phật nhiều mà nghĩa lý lại khó, nhất là viết bằng Hán văn. Mỗi bộ nói mỗi khác, chỗ này nói có, nơi kia nói không. Nào là Tính tông, nào là Tướng tông, nào là Đại thừa, nào là Tiểu thừa. Chúng tôi không biết tu học thế nào cho phải. Chúng tôi cũng đồng quan điểm ấy.

Vì kinh sách xuất bản thường tụng hằng ngày, hoặc bằng Hán văn, hoặc đã dịch ra Việt văn. Chính những bộ ấy nghĩa lý lại sâu xa khiến người tụng đọc khó hiểu khó tin nếu không có thầy chỉ dẫn. Ví như Kinh Di Đà, Dược Sư, Địa Tạng, v.v…, vì lẽ khó hiểu khó tin ấy nên chúng tôi chẳng quản tài  sơ trí tiện tham khảo trong các kinh sách, mạnh dạn soạn tập sách này để giúp ích các giáo hữu mới vào đạo hay sắp vào đạo có một nấc thang tu học Phật pháp từ thấp lên cao, từ dễ tới khó, một đức tin sáng suốt vững chắc nơi đạo Phật, một nhận thức chân chánh về đạo Phật, một nếp sống mới, sống theo tinh thần giáo lý đạo Phật để lợi ích cho mình và người.

Có tin, hiểu, làm như thế chúng ta mới mong đời sống hiện tại bớt khổ thêm vui và một ngày kia sẽ được giác ngộ giải thoát như Phật.

Nội dung tập này gồm có phần giáo lý phổ thông, lịch sử, tiền thân Phật, câu chuyện đạo, thanh thiếu niên gia đình Phật tử. Những bài học giáo lý cũng như về lịch sử. Cuối mỗi bài có chú thích những chữ khó và đặt thành những câu hỏi cho dễ hiểu.

Vậy tập sách này nếu được hữu duyên tới tay quý vị, chúng tôi xin thành thật hoanh nghênh những phê bình và lời chỉ giáo chỗ khuyết điểm để chúng tôi tiếp tục biên soạn tập hai, tập ba, cho được hoàn bị hơn.

Tập sách này thuộc sơ bộ nên chúng tôi không thể trình bày được những điểm cao siêu của đạo Phật mà chỉ là những giáo lý phổ thông. Nhất là nó phải nằm trong địa hạt giáo khoa. Hai tập sau cũng trong phạm vi đó nhưng đầu bài khó hơn, có nghĩa là từ dễ đến khó. Chúng tôi hy vọng sau khi hoàn thành ba tập giáo khoa sẽ biên tập loại sách nghiên cứu.

Khi ấy chúng tôi mới có thể trình bày được nhiều cái cao, hay, đẹp của giáo lý Phật Đà để giúp quý vị cũng như các bạn tham khảo. Sau hết, chúng tôi xin ghi tạc những vị trước tác, dịch thuật đã cho những tài liệu quý giá để biên soạn tập sách giáo khóa này. Chúng tôi cũng thành thật tri ân các Thượng tọa, Đại đức cùng quý Phật tử xa gần đã trợ giúp về sự xuất bản để phổ biến giáo lý đạo Phật cho hết thảy quần sanh.

Hai: Phần giáo lý

I. Đạo Phật

Đạo Phật là con đường giác ngộ. Giác ngộ cho mình sáng suốt rồi giác ngộ cho người sáng suốt. Ngài đã tìm ra con đường giác ngộ và chỉ vẽ con đường ấy cho ta là đức Phật Thích Ca Mâu Ni vậy.

Đạo Phật đã cho ta một đời sống thanh thoát, bình giản, không xa hoa, hiếu kỳ, lập dị, một tinh thần độc lập, tự chủ, không khuất phục trước quyền thế bất công, một tâm hồn cao thượng vị tha, không hẹp hòi cố chấp, một ý chí hùng mạnh quả cảm, quyết tranh đấu cho chân lý, một đầu óc tiến thủ, sáng suốt, nhanh nhẹn, không hủ lậu thái hóa, không mê tín dị đoan, không mù quáng trước bả lợi danh bất chính.

Đạo Phật là mạch sống vô tận, là nguồn hạnh phúc vô biên. Đạo Phật là đạo của hết thảy, của mọi thời gian và phương sở [nơi chốn]. Người ta cần ánh sáng và không khí thế nào thì cũng phải cần đạo Phật như thế ấy. Nhờ giáo pháp của Phật Đà tâm ta rộng, trí ta sáng, ý chí ta hùng mạnh, ta làm những việc đáng làm, hy sinh những việc đáng hy sinh. Vậy ta phải quyết tâm tin theo đạo Phật, truyền bá chánh Pháp của Phật, cảm hóa mọi người theo đạo Phật.

Giải nghĩa
• Giác ngộ: hiểu biết, tỉnh ngộ.
• Thanh thoát: thanh tịnh, giải thoát.
• Bình giản: giản dị, bình thường.
• Xa hoa: lòe loẹt, hào nhoáng bề ngoài.
• Hiếu kỳ: ưa sự kỳ lạ.
• Lập dị: làm ra vẻ khác người.

• Khuất phục: chịu hèn theo người.
• Thoái hóa: thụt lùi.
• Dị đoan: điều lạ lùng.
• Hủ lậu: cũ kỹ không hợp thời.
• Tiến thủ: hết sức bước tới.
• Hy sinh: bỏ tánh mạng và quyền lợi của mình cho người.

Câu hỏi

1. Thế nào gọi là đạo Phật?
2. Ai là giáo chủ đạo Phật?
3. Đạo Phật đã có cho ta những gì?
4. Đạo Phật là đạo của ai?
5. Ta có cần đạo Phật không?
6. Nhờ giáo pháp của Phật, tâm, trí, ý ta thế nào?
7. Ta phải làm gì đối với đạo Phật?

Lời Phật dạy:

Ta thà giữ đạo chịu nghèo hèn mà chết chớ không chịu vô đạo được giàu sang mà sống.” Kinh Lục Độ Tập.

II. Mục đích của đạo Phật

1. Khai hóa hết thảy chúng sinh ngộ được tâm thanh tịnh, sáng suốt sẵn có của mình cũng giống như Phật vậy.

2. Chỉ vẽ mọi pháp môn để hướng dẫn chúng sinh bỏ con đường mê lầm tới nơi giác ngộ, bỏ địa vị phàm phu lên địa vị Phật, Thánh.

3. Tìm các phương tiện thích đáng cứu trợ chúng sanh bớt khổ thêm vui cho tâm hồn và thể xác ở cõi đời hiện tại và tương lai.

Tôn chỉ của đạo Phật

Tôn chỉ là một đường lối tiến hành có phương pháp thứ tự để đạt tới mục đích cao cả vậy. Đạo Phật lấy ba đức: tâm từ bi, trí sáng suốt, ý chí hùng mạnh tinh tấn làm tông chỉ.

Giải nghĩa

• Mục đích: cái chỗ mình chủ tâm đi tới.
• Khai hóa: mở mang, dạy bảo.
• Chúng sinh: chúng là mọi, [là] nhiều; sinh là sống.

Người ta cũng như muôn loài phải nhờ nhiều nhân duyên hòa hợp mới sống được. Đạo Phật có chia ra 10 giới [cõi]: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, từ giới [cõi] địa ngục tới Bồ Tát đều gọi là chúng sinh cả, chỉ trừ có Phật.

• Từ bi: thương xót ban vui cứu khổ cho người.

Câu hỏi:

1. Mục đích của đạo Phật là gì?
2. Tông chỉ của đạo Phật là gì?

Lời Phật dạy:

“Việc làm chưa xong không nên nửa chừng thôi nghỉ”.

III. Mục đích của người theo đạo Phật

1. Mong cầu thành Phật vì Phật là bậc giác ngộ tối cao, hoàn toàn giải thoát không bị phiền não, sanh tử ràng buộc được.

2. Mong độ hết thảy chúng sinh vì sự cứu độ làm lợi ích cho chúng sinh là những nguyên nhân chính đưa ta tới địa vị chư Phật.

3. Mong đoạn [dứt trừ] hết thảy phiền não. Phiền não là những cái gì làm đau khổ, cắn rứt ở tâm hồn và thể xác. Phiền não còn là những bức thành ngăn đạo giác ngộ giải thoát của ta.

4. Mong biết hết thảy mọi pháp vì hiểu biết khắp cả mới gọi là Phật. Vậy bất luận một sự gì, vật gì, môn gì, ta đều phải thông suốt cùng khắp.

Giải nghĩa

• Phiền não: là buồn phiền ảo não.
• Địa vị: địa là chốn, vị là ngôi, cái cảnh ngộ mình ở, cái trình độ mình tới.

Câu hỏi

1. Tại sao mong cầu thành Phật, mong độ hết thảy chúng sanh, mong đoạn hết thảy phiền não, mong biết hết thảy mọi pháp?

Lời Phật dạy:

“Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Kinh Phạm Võng.

IV. Sự ích lợi của người theo đạo Phật

1. Tâm hồn bình tĩnh, tự tại, gặp cảnh ngang trái không buồn giận, gặp cảnh thuận không say mê đắm đuối.

2. Đời sống bớt khổ thêm vui. Tự vui với cảnh nghèo thiếu của mình, không tham vật dục nhiều nên thể xác được an nhàn đỡ vất vả.

3. Tư tưởng sâu rộng. Phật là người tư tưởng cao sâu vĩ đại, hùng mạnh, ta theo Phật sẽ nhiễm dần tư tưởng ấy. Ví như gần mực thì đen gần đèn thì sáng.

4. Ngang hàng với Phật. Nếu ta nói theo lời của Phật, làm theo việc của Phật, chẳng sớm thì muộn ta sẽ được như Phật.

5. Mọi người kính nể. Dù người theo đạo Phật hay không nhưng vì thấy người khác tu học Phật dĩ nhiên phải kính trọng người tu học ấy, trừ kẻ vô đạo, bởi vì người tu Phật chỉ mong đem sự ích lợi cho mọi người không phân biệt kẻ oán người thân.

Giải nghĩa

• Tự tại: theo ý muốn của mình, không bị ai trói buộc.
• Vật dục: vật chất, dục tình.
• Vô đạo: không tin theo đạo nào.

Câu hỏi

1. Tại sao tâm hồn được bình tĩnh, tự tại, đời sống bớt khổ thêm vui, tư tưởng sâu rộng ngang hàng với Phật [và được] mọi người kính nể?

Lời Phật dạy:

“Nhận được lỗi mình mới khó”.

V. Nhiệm vụ của người theo đạo Phật

1. Phát nguyện quy y Phật, Pháp, Tăng.
2. Cố gắng học hỏi những giáo lý cao sâu của Phật.
3. Truyền bá giáo lý của Phật cho hết thảy mọi người.
4. Truyền bá mọi người theo đạo Phật.
5. Giản dị và điều độ trong đời sống của mình, không xa hoa cầu kỳ.
6. Khiêm tốn với tất cả mọi người, không kiêu căng, tự cao tự đại.
7. Giúp đỡ người hoạn nạn, không được gây phiền não cho người.
8. Nhân từ đối với loài vật, không được giết hại chúng nó.
9. Bình tĩnh lạc quan trước mọi hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
10. Làm tròn bổn phận đối với gia đình và xã hội.

Giải nghĩa

• Quy y: trở về nương tựa.
• Cầu kỳ: cố ý làm cho khác hơn người.
• Khiêm tốn: nhu nhường.
• Lạc quan: xem mọi việc đều là vui tốt.

Câu hỏi

1. Nhiệm vụ của người theo đạo Phật là những gì?

Lời Phật dạy:

“Người học đạo phải bỏ tất cả thói xấu của mình mới trở nên trong sạch được”. Kinh Tứ Thập Nhị Chương.

VI. Tam đức
A. Bi

Bi là từ bi, là cứu khổ ban vui, diệt trừ những nỗi thống khổ cho chúng sinh, đem mọi hạnh phúc đến cho muôn loài.

Vì lòng từ bi khi thấy chúng sanh đau khổ Phật tử phải tìm cách cứu giúp khiến họ được hưởng kiếp sống an lành. Vì lòng từ bi Phật tử phải thường mang lại những niềm vui tươi cho hết thảy, không được làm đau khổ một ai, dù là đối với các súc vật. Vì lòng từ bi Phật tử không được thản nhiên hay mỉm cười trước cảnh đau khổ của kẻ khác mà phải xả thân cứu người ra khỏi biển khổ. Vì lòng từ bi Phật tử phải thường đem cái vui sướng của mình mà ban bố cho hết thảy người vui.

Ta đừng hiểu lầm rằng từ bi là hiền lành nhu nhược, ươn hèn, trơ như gỗ đá. Ai bảo hay cũng ừ, bảo trái cũng gật, mũ ni che tai, sự [việc] ai không biết, mà từ bi phải có trí [quán sát] xét đoán việc gì nên làm hay nên bỏ. Từ bi là sức sống vô tận, là nguồn cảm động vô biên của loài người. Vậy từ bi là lòng thương không bờ bến đối với muôn loài chúng sinh.

Từ bi là đạo đức then chốt của người theo đạo Phật. Người có lòng từ bi thì quỷ thần phải kính trọng, thú dữ phải quy hàng. Người tu hạnh từ bi thường xem hạnh phúc và đau khổ của người cũng như [của] mình, thường ban vui cứu khổ cho người, mà không cầu báo, sống rộng rãi để nhịp nhàng với bản thể vô biên của trụ vũ và hết thảy cả chúng sinh.

Giải nghĩa

• Thống khổ: đau đớn, chua cay.
• Nhu nhược: yếu ớt.
• Bản thể: chính bản thân của mọi vật.
• Trụ vũ: khoảng không gian và thời gian.

Câu hỏi

1. Thế nào gọi là bi, vì lòng từ bi Phật tử phải thế nào?
2. Từ bi có phải nhu nhược không?
3. Vậy từ bi là gì?
4. Người có tâm từ bi thì được lợi gì?
5. Người tu hạnh từ bi phải thế nào?

Lời Phật dạy:
“Một đời sống trôi qua một cách vô ích thì chỉ kết liễu trong ân hận”. Kinh Di Giáo.

B. Trí

Trí là trí tuệ, là hiểu biết sáng suốt, nhận thức đúng đắn mọi sự, mọi vật. Phật tử thường tin tấn học hỏi trau dồi sự hiểu biết cho mình và cho người. Những điều gì chưa biết Phật tử phải cố gắng tìm hiểu cho đến nguồn gốc. Đành rằng, điều hay nên học hiểu, nhưng điều dở cũng cần phải hiểu biết hơn. Điều hay ta theo, điều dở ta tránh. Có trí tuệ sâu rộng mới hướng dẫn mình và người, không bị lầm đường lạc lối.

Người có trí tuệ mới biết tùy thời, tùy cơ, không bị mờ ám rối trí trước nghịch cảnh, không bị dục vọng thấp hèn lôi cuốn mới biết mưu sự lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Chư Phật là những người có đại trí tuệ hiểu biết cùng khắp. Vậy, trí tuệ là thanh gươm sắc bén chặt tan rừng vô minh phiền não, là chìa khóa để mở tung những ổ khóa bí mật huyền vi của trụ vũ và nhân sinh.

Giải nghĩa

• Vô minh: không sáng suốt ngu dốt.
• Huyền vi: sâu kín, nhỏ nhiệm.
• Nhân sinh: đời người.

Câu hỏi

• Thế nào gọi là trí?
• Phật tử phải làm gì cho mình và người?
• Có nên biết những điều dở không?
• Người có trí tuệ thì được lợi gì?
• Ai là người có đại trí tuệ?
• Vậy trí tuệ là gì?

Lời Phật dạy:

“Si mê là mẹ đẻ của muôn tội lỗi; trí tuệ là cha sinh của muôn hạnh lành”. Kinh Pháp Cú Thí Dụ.

C. Dũng

Dũng là dũng tiến, là mạnh bạo, bền chí cố gắng không ngừng. Phật tử thường mạnh tiến hy sinh tính mạng mình mưu hạnh phúc cho người. Phật tử không bao giờ sờn lòng thối chí khi mục đích cao đẹp của mình đã quyết định. Phật tử thường oai hùng quả cảm quyết tiến không sợ sệt trước một sức mạnh nào. Phật tử hùng dũng vượt qua mọi thử thách gian lao mỉm cười trước nguy hiểm, tự tại trước thất bại, vững chí tinh tiến trên con đường chánh nghĩa.

Dũng tiến không phải là hăng hái nhất thời ngày nay làm cố hết ngày mai nghỉ. Bởi hiểu lầm như thế nên nhiều người làm quá sức mình sinh ra mệt nhọc, trước tinh tấn bao nhiêu thì sau lại lười biếng bấy nhiêu. Vậy, dũng tiến có nghĩa là làm phải có chừng mực bền chí nhưng hùng dũng cương quyết tùy sức mạnh yếu của mình, không được thái quá hay bất cập.

Ba đức Bi, Trí, Dũng phải nhịp nhàng với nhau. Nếu có bi tình thương mà không trí xét đoán thì bi ấy dễ bị sai lầm. Nếu có trí, lý trí không bi thì trí ấy bị viễn vong mơ hồ, lý thuyết suông. Bi trí có mà thiếu dũng thì bi trí không thể thực hiện được. Có dũng mà không có bi trí thì dũng ấy thành bất nhân, độc ác và sẽ rơi vào con đường mê lầm trụy lạc.

Vậy, bi trí dũng ba đức là tông chỉ cơ bản của đạo Phật, thiếu một không thể được.

Giải nghĩa

• Quả cảm: quả quyết dám làm.

• Gian lao: vất vả khó nhọc.
• Thái quá: bốc quá, quá độ
• Bất cập: lười quá.
• Cơ bản: nền tảng.

Câu hỏi

1. Thế nào gọi là dũng?
2. Với đức dũng Phật tử phải thế nào?
3. Dũng tiến có phải là hăng hái nhất thời không?
4. Người hiểu dũng tiến thì thế nào?
5. Vậy dũng tiến phải thế nào?
6. Có bi mà không trí thì thế nào?
7. Có trí mà không bi thì thế nào?
8. Bi, trí, dũng là gì của đạo Phật?

Lời Phật dạy:

“Cắt đứt mọi mối lo âu buồn tủi trong tâm hồn đó là một hạnh phúc rất lớn”.

Đạo Phật là nguồn sống cho loài người. Đạo Phật là đạo từ bi, giác ngộ. Đức Phật dạy ta không được cậy khỏe bắt nạt yếu, không được thông minh chê người ngu dốt; không được cậy giàu khinh nghèo; không được cậy tài khéo chê kẻ quê vụng. Phải dẹp bỏ những tâm niệm độc ác hại người, hại vật, mặc dầu nó nhỏ bằng mũi kim hay ngọn cỏ. Ý nghĩ, lời nói, việc làm phải song song, hướng về thanh tịnh, từ bi và trí giác, phải yêu thương giúp đỡ chúng sanh, bất luận người thân hay kẻ oán trong khi họ nghèo khổ. Nếu một người thực hành lời Phật dạy thì người ấy trở thành hiền nhân quân tử.

Một gia đình thực hành lời Phật dạy thì gia đình ấm cúng an vui. Một thế giới thực hành lời Phật dạy, thì thế giới thịnh vượng hòa bình. Nói tóm, nếu ai nấy làm đúng lời Phật dạy thì sẽ thành những người giác ngộ từ bi, là Phật. Không còn tham lam mê muội, tàn hại lẫn nhau. Cõi thế giới này sẽ tưng bừng hóa thành một cõi nước thân yêu đẹp đẽ vô cùng sung sướng.

Câu hỏi

1. Đạo Phật dạy ta thế nào?
2. Nếu một người thực hành lời Phật dạy thì thế nào?
3. Một gia đình, một thế giới, cõi thế gian này sẽ như thế nào?

Lời Phật dạy:

“Ai biết sửa khỏi lỗi lầm thì người ấy được tiến hóa trong giáo pháp của ta”. Kinh Trường A Hàm.

VIII. Đừng vội tin tưởng

Đức Phật dạy: “Đừng tin tưởng một điều gì dẫu vinh vào một tập tục vì tập tục đó đã truyền qua nhiều đời. Đừng tin tưởng một điều gì dẫu điều đó được nhiều người nhắc đi nhắc lại. Đừng tin tưởng một điều gì dù điều ấy là bút tích của thánh hiền xưa để lại. Đừng tin tưởng một điều gì do mình tưởng tượng ra mà lại nghĩ rằng một vị tối linh đã mách bảo cho. Đừng tin tưởng một điều gì dẫu điều đó vinh vào uy tín của các huynh trưởng hay các vị thầy. Nhưng chỉ điều gì mà chính các ngươi đã tự mình từng trải kinh nghiệm và nhận ra đúng. Cái gì hợp với lợi ích của các ngươi và kẻ khác thì hãy tin tưởng và thừa nhận điều đó là đúng sự thật.”

Giải nghĩa
• Tối linh: rất thiêng liêng.
• Huynh trưởng: người anh cả.

• Bút tích: dấu nét bút.

Câu hỏi

1. Ta có nên tin tưởng những tập tục ngay không? Tại sao?
2. Tại sao điều gì ta nên tin và thừa nhận là đúng?

IX. Tam bảo

Tam bảo là ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng.

Phật: Phật nói đủ theo tiếng Phạn là Phật Đà [Buddha]. Người Tàu dịch là giác giả, nghĩa là người giác ngộ. Phật đã trải nhiều đời nhiều kiếp tu hành tự mình đã giác ngộ hoàn toàn, lại đem phương pháp giác ngộ ấy, dạy mọi chúng sinh để được giác ngộ như mình, giác ngộ và thực hành hai phần đã được viên mãn nên gọi là Phật.

Pháp: Pháp tiếng Phạn gọi là Đạt Ma [Dharma], nghĩa là phương pháp, giáo pháp, phép tắc, hay là pháp luật. Phật nói ra vô lượng pháp môn, phương tiện để chúng sinh noi theo tu hành, diệt trừ mọi sự mê lầm khổ não, chứng được thanh tịnh an vui. Nghĩa là được giác ngộ như Phật. Ba tạng kinh luật luận đều gọi là pháp cả.

Tăng: Tăng tiếng Phạn gọi là tăng già [Sangha], nghĩa là hòa hợp chúng. Tức là những vị xuất gia tu hành thay Phật làm gương mẫu cho người, truyền bá giáo lý của Phật cho hết thảy chúng sinh. Phật là đấng giác ngộ hoàn toàn.

Pháp của Phật là những lời châu báu. Tăng theo Phật là những người có học vấn đức hạnh. Ba ngôi đó rất được tôn quý ở đời nên gọi là Tam bảo, ba ngôi báu. Là Phật tử phải trọng kính Tam bảo, phát nguyện quy y Tam bảo, lấy Tam bảo làm định hướng, làm gương mẫu cho đời sống hằng ngày của mình.

Câu hỏi

1. Ba ngôi báu là gì?
2. Thế nào gọi là Phật?
3. Thế nào gọi là Pháp?
4. Thế nào gọi là Tăng?
5. Là Phật tử phải thế nào đối với Tam bảo?
6. Lấy Tam bảo làm gì cho đời sống của mình?

Lời Phật dạy:

“Kẻ nào chưa tìm được chân lý hằng phải bị sinh tử luân hồi trong thời gian vô tận”.

X. Tam tạng

Kinh điển của Phật giáo chia làm ba loại, người ta thường gọi là tam tạng: kinh, luật, luận. Kinh, tiếng Phạn gọi là Tu đa la [Sutra], Tàu dịch là kinh. Nghĩa là những lời dạy thích hợp với chân lý của chư Phật và căn cơ của chúng sinh. Tạng kinh ghi chép những lời Phật dạy về sự lý nhân quả, nhân duyên tu hành của chư Phật và chúng sinh.

Luật tiếng Phạn gọi là Tỳ ni da [Vinaya], nghĩa là giới luật. Tạng luật ghi chép giới luật của Phật chế ra để dạy các đệ tử ngăn bỏ điều dữ, tu tập điều lành.

Luận tiếng Phạn gọi là A tỳ đàm [Abhidharma], Tàu dịch là đốn pháp. Nghĩa là những phương pháp đối trị hay biện luận. Tạng Luận do các để tử Phật làm ra để phát huy nghĩa lý nhiệm mầu trong kinh luật hay quyết đoán những lý lẽ phải trái của đạo Phật với các đạo khác khiến người tu học tránh tà theo chánh.

Kinh, Luật, Luận sở dĩ gọi là Tam Tạng vì chữ tạng nghĩa là kho, tức là ba cái kho chứa đựng những lời châu báu của Phật. Người nào thông suốt kinh tạng thì gọi là kinh sư; luật tạng thì gọi là luật sư; luận tạng thì gọi là luận sư. Nếu thông suốt cả ba tạng thì gọi là tam tạng pháp sư. Thí như Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, người Tàu sang Ấn Độ thỉnh kinh vậy.

Câu hỏi

1. Ba tạng là gì?
2. Thế nào gọi là kinh?
3. Thế nào gọi là luật?
4. Thế nào gọi là luận?
5. Người thông suốt cả ba tạng gọi là gì?

Lời Phật dạy:

“Hết thảy kinh sách như ngón tay chỉ mặt trăng”. Kinh Lăng Nghiêm.

XI. Tam quy

Tam Quy là ba phép quy y: quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Quy y nghĩa là trở về nương tựa. Ví như con trở về nương tựa với cha mẹ; trò nương tựa vào thầy cũng vậy. Chúng sinh còn mê lầm nên quay đầu về nương tựa vào Tam bảo.

Một: Quy y Phật là lấy Phật làm thầy dẫn đường chỉ lối cho ta thoát khỏi sông mê biển khổ lên bờ giải thoát an vui.

Hai: Quy y Pháp là lấy giáo pháp của Phật làm thuốc để điều trị những bịnh trầm trọng của ta. Ví như tham lam, sân giận, ngu si, kiêu mạn, nghi kỵ, v.v…

Ba: Quy y Tăng là lấy Tăng làm bậc thiện hữu, bạn tốt chỉ bảo những lời Phật dạy cho ta tu học.

Phật ví như vị lương y. Pháp ví như thuốc. Tăng ví như người sắc thuốc. Chúng ta là những con bịnh. Ta muốn khỏi bịnh và hết tội thì phải trở về nương tựa vào ba ngôi [báu] đó. Khi ta đã quy y Phật thì không được quy y các đấng trời, tiên, thánh, thần, ma, quỷ nào hết. Đã quy y pháp của Phật không được quy y giáo pháp của ngoại đạo. Đã quy y Tăng không được quy y những bè bạn xấu ác. Như thế, mới gọi là Phật tử chân chính.

Tam bảo là tấm gương sáng cho mọi người soi, là vị thuốc hay cho mọi người bịnh uống. Vậy, sự quy y là vấn đề cần thiết chung cho mọi loài, không phân biệt chủng loại trời người quỷ thần hay già trẻ trai gái. Người quay đầu về với Tam bảo là người mở đầu một đời sống mới, đời sống sáng tươi hạnh phúc. Nếu ta quy y sớm chừng nào thì hay cho đời ta chừng nấy. Quy y Tam bảo tức là đời ta có chỗ tin tưởng, có một định hướng vững chắc, gặp cảnh vui không quá mừng, gặp cảnh buồn không chán nản. Ta cố gắng tránh điều dữ, làm điều hay thì đời kiếp này sẽ bớt khổ thêm vui, lại khơi nguồn cho muôn ngàn kiếp sau tươi đẹp cao quý hơn.

Câu hỏi

1. Ba phép quy y là gì?
2. Quy y nghĩa là gì?
3. Tại sao quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng?
4. Phật, Pháp, Tăng ví như ai?
5. Đã quy y Phật thì thế nào?
6. Quy y Tam bảo được lợi ích gì?

Lời Phật dạy:

“Không thật có chánh tín thì gây thêm nhiều điều lầm lạc, còn thật có chánh tín thì chẳng những khỏi lầm lạc thêm mà còn bỏ được những sự lầm lạc từ trước”. Kinh Thanh Tịnh.

XII. Ăn chay là dùng các thứ rau.

BÁT QUAN TRAI GIỚI
Dàn Bài

Điểm I. Duyên khởi: tu hành phải giữ giới
Điểm II. Chánh đề:
A. Định danh và giải nghĩa bát quan trai giới
B. Giải tám điều răn cấm.
1. Không được sát sinh.
2. Không được trộm cắp.
3. Không được dâm dục.
4. Không được nói dối, nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác.
5. Không được uống rượu.
6. Không được trang điểm và làm trò ca xướng.
7. Không được nằm giường cao tốt.
8. Không nên ăn quá ngọ.
Điểm III. Kết luận
A. Giới luật là điều cần.
B. Khuyên thực hành.

BÁT QUAN TRAI GIỚI

I. (Điểm thứ nhất). Duyên khởi: tu hành cần phải giữ giới

Giới luật là một điều tối cần cho người học Phật. Vì có giữ giới tâm mới định. Do tâm định mới phát sinh trí huệ. Do có trí huệ mới phát trừ được vô minh phiền não, rồi mới minh tâm kiến tánh thành Phật. Cho nên giới là đứng đầu của ba môn học vô lậu: giới, định, tuệ. Đức Phật Thích Ca nói pháp trong 49 năm, có tám muôn bốn ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa, nhưng không ngoài giới định tuệ.

Song giới có nhiều bậc, tùy theo sức của mỗi người mà lãnh thọ tạm thời hoặc suốt đời. Như còn tại gia thì tam quy ngũ giới, bát quan trai giới, bồ tát giới. Xuất gia thì thọ 10 giới Sa-di, 250 giới Tỳ-kheo, và 58 giới Bồ-tát. Còn Tỳ-kheo Ni (nữ) thì thọ 348 giới. Vì Phật thương những hàng đệ tử tại gia bị thê thằng tử phược buộc ràng, việc làm ăn quá bận rộn không được giải thoát nên chế ra pháp bát quan trai giới để cho hàng Phật tử tại gia tập tu theo hạnh giải thoát trong một ngày đêm. Cái nhân giải thoát ngày nay đã trồng thì ngày sau sẽ hưởng được quả giải thoát.

II. (Điểm thứ hai). Chánh đề: Định danh và giải nghĩa

1. Bát quan trai giới là gì? Chữ quan là cửa. Cửa ngăn đóng tám điều tội lỗi. Chữ trai tiếng Phạn là bô sa ha nghĩa là khi quá giờ ngọ tuyệt tất cả vật thực không ăn. Nói chung lại là trong một ngày đêm thân tâm đều giữ tám điều răn cấm cho được trong sạch và không ăn quá giờ ngọ. Nên gọi là bát quan trai giới.

2. Không được sát sinh, không được trộm cướp, không được dâm dục, không được nói dối, không được uống rượu, không được trang điểm thoa dầu thơm, ca hát và xem nghe, không được ngồi nằm giường cao tốt rộng lớn, không được ăn quá giờ ngọ.

3. Giữ tám điều răn cấm

a. Không được sát sanh

Vì sao không giết hại chúng sanh? Chúng sanh gây nghiệp lành dữ không đồng nên nay thọ thân hình có lớn nhỏ, dài ngắn, tốt xấu khác nhau, nhưng cái tánh biết không khác. Vì nó cũng biết tham sống sợ chết, biết khổ, biết vui, biết đau, biết ngứa, biết thương, biết ghét như ta. Vậy là Phật tử không được sát hại từ loài người cho đến loài vật. Vật lớn như con voi, con trâu, con bò, vật nhỏ như con muỗi, con kiến, con vi trùng đều không nên giết hại. Thử xem, cá thấy người cá lội, chim thấy người chim bay, thì có khác nào người thấy cọp người sợ hãi. Cũng đồng một thứ là tham sống sợ chết cả. Ta thử thả một con chim vừa buông tay ra, nó liền cất cánh bay thật nhanh. Vì sao thế? Vì nó mừng rằng vì thoát khỏi cái nạn cắt cổ nhổ lông. Khi thả con cá cũng thế, nó liền lội vội vàng.

Vì sao? Vì nó mừng rằng thoát khỏi cái nạn bằm xắt trên dao thớt. Cũng như người thoát khỏi nạn tử hình thì không còn vui mừng nào hơn. Loài người thiện thì thật là thiện, còn ác thì không loài nào ác bằng. Loài hổ dữ nó không thể xuống sông bắt cá. Sấu dữ nó không thể lên núi rừng bắt thú, hay không thể bắt chim được. Còn loài người thì biết lập mưu mô kế hoạch mặc dù thú dữ trên rừng, cá sấu ở biển sâu, chim bay trên hư không đều có thể bắt được tất cả. Cho nên nói rằng loài người dữ thì thật là dữ hơn hết. Phật tử học theo hạnh từ bi của Phật phải coi tất cả thân mạng chúng sanh như thân mạng của ta không khác. Khi thấy người giết hại sinh vật ta phải thương xót, hoặc khuyên lơn, hoặc mua chuộc cứu nó cho khỏi chết. Huống nữa trong đời ai cũng ưa lòng nhân từ, ghét điều tàn bạo. Nghe người làm nhân từ thì mình ưa mình phục. Nghe người làm điều bất nhân thì mình chán mình ghét. Đã ghét thì mình không nên phạm. Đã ưa thì mình nên tập luyện chuyên cần.

Lợi ích không sát sanh. Một, người không sát nhân hại vật thì người đó hiền từ. Trong một nước không có sát hại thì nước đó được thịnh trị. Cho đến cả thế giới đều không giết lẫn nhau thì tâm ác độc bất nhân của loài người sẽ tiêu diệt. Cổ đức dạy: “Nhất thiết chúng sinh vô sát nghiệp, thập phương hà xứ động đao binh”. Nghĩa là tất cả chúng sinh không gây nghiệp sát thì trong thế giới làm gì có chiến tranh.

Người không sát sanh lại còn mua chim cá phóng sanh thì hiện đời sẽ được tang kỷ [tuổi]. Đời sau nếu sinh làm người sẽ được trường thọ.

Tai hại của việc sát sinh. Phật dạy sát sinh có mười điều tội lỗi. Một, thường ôm lòng ác độc. Hai, chúng sinh oán ghét không muốn thấy. Ba, thường suy nghĩ những điều ác. Bốn, chúng sinh sợ hãi như thấy lang sói. Năm, khi ngủ sợ sệt, lúc thức cũng không an. Sáu, thường có chiêm bao dữ. Bảy, khi mạng hết chết một cách ghê sợ. Tám, do nghiệp nhân vắn số. Chín, thân hoại mạng chung đọa vào ác đạo.

NGHỀ Ủ NẤM RƠM

Lựa Đất Hay Chọn Chỗ

Nếu lựa chỗ đất cao ráo, nếu chỗ nào được có đất cát pha xốp dễ rút nước thì rất tốt. Nên tránh chỗ đất có phèn và nước mặn bất lợi cho sự sinh nở của nấm. Chỗ nào có bóng mát gần sông rạch, gần mương, đìa, hồ, tiện việc tưới nước mỗi ngày. Gặp dạng có trồng chuối liếp cao, có mương hai bên lại càng hay. Trước khi làm mô nấm nên dọn chỗ. Sau khi đã lựa được đất, chỗ ủ phải đắp cao lên độ ba tấc tây để khỏi bị đọng nước làm hư meo nấm. Ban đất bằng thành liếp, bề ngang chừng một thước hai tấc tây đặng dễ tưới nước và cũng dễ cho nấm. Bề dài thì tùy khoảng đất hoặc tùy mình muốn ủ nấm nhiều hay ít.

Làm Mô Nấm

Tùy theo cách mình dùng rơm hay rạ, nhưng hai cách khác nhau. Dùng rạ làm mô thì lâu mục hơn, song nấm lại lớn tốt hơn. Nếu rơm hay rạ mới gặt thì phải thấm nước vài ba ngày. Còn rơm cũ khỏi phải thấm nước. Nếu dùng rạ thì đem những bó rạ chất nằm ngang trên liếp, gốc rạ quay ra ngoài, đầu ngọn trở vô đàng trong mô nấm. Đắp nhiều lớp cao lên thành một mô nấm tròn hoặc dài.

Còn dùng rơm thì có hai cách: Một là đắp như đắp rạ để bó rơm nằm ngang thành từng lớp chồng chất lên nhau.

Hai là sắp bó rơm dộng đầu xuống đất, cộng lên trời, bó này khít bó kia, dựa vào nhau và giữ chắn lấy nhau, ép khít nhau và đắp chạy vòng quanh làm thành mô tròn lớn nhỏ tùy ý mình muốn.

Cách Ủ Nấm

Ủ nấm có hai cách như sau đây:

A. Trên một liếp dọn sẵn theo như đã chỉ ở trên. Đem trải một lớp rơm hay rạ mục để làm lớp chân, rồi đắp lên đó một lớp rơm hay rạ cao chừng ba tấc tây. Kế rải lên một lớp tro rơm mỏng. Phải tro rơm, đừng dùng tro khác. Rồi đắp lên một lớp rơm hoặc rạ nữa. Lại rãi một lớp tro rơm nữa. Cứ làm như vậy chừng vài ba lớp. Khi nào mô cao độ tám tấc hay một thước thì thôi. Mỗi lần đắp xong một lớp rơm hay rạ thì lấy bình hoa tưới sương, bình phải có đầu gương sen, ria hột nước nhỏ cho thật đều. Làm xong mô rơm, nhớ rãi chung quanh chân mô và trên mô một lớp mỏng tro rơm. Đừng dùng vôi vì không tốt bằng tro rơm. Sau khi rãi tro lần chót rồi thì lấy tàu lá dừa, hay tàu lá chuối, hoặc tàu cau đậy mô lại. Làm như vậy để mưa nắng khỏi tạt vô bên trong. Có người lấy rơm đắp thành một lớp mỏng trên chót liếp gọi là lớp A.

B. Cũng như cách trên đắp lên mặt liếp rơm hay rạ cao độ ba tấc rồi rãi lên một mớ cháo nấu bằng nếp trộn cám và tấm thêm vào một ít men. Cũng có người dùng bả hèm rượu để thay thế thứ cháo trên đây. Muốn cho rơm được êm mô giữ nước được lâu, người ta lấy thân cây chuối chẻ làm hai hoặc làm tư, đặt lên trên lớp rơm cho mau dẻ. Chừng thì thân cây chuối hột là tốt hơn hết. Đắp chuối xong rồi, đắp thêm một lớp rơm độ ba tấc nữa thì rãi một lớp tro rơm trên mặt và đổ thêm một mớ cháo khi nãy. Thường người ta làm mỗi thứ ít lắm cũng cỡ ba lớp và muốn mô dẻ xuống, người ta dậm lên hay cho trâu đạp lên, nhưng trâu đạp thì khó đều. Làm mô xong cũng không khác cách trước là lấy một lớp rơm mỏng phủ lên và lấy tàu chuối, tàu dừa hoặc tàu cau để lên che mưa nắng.

Săn Sóc Mô Nấm

Phải chăm nấm, tưới nước mô nấm mỗi buổi chiều một lần.

Nhưng nên nhớ coi chừng đừng để cho mô nấm ướt quá. Bữa nào trời mưa thì đừng tưới nữa, còn bữa nào trời nắng quá thì đừng nên để cho rơm khô, phải tưới nước cho thấm ướt đều.

Nếu gặp mưa nhiều thì phải che vì nước thấm nhiều thì meo nấm sẽ bị thiu, nấm không mọc được. Một điều cần nữa nhé, nếu nhà làm mô nấm gần và trong nhà có nuôi gà, nên nhớ rào chà tre hoặc chà gai, đừng để gà vịt bươi rúc phá hư mô nấm.

Ngày Nào Có Nấm

Chừng độ hai mươi lăm ngày hay một tháng sau khi làm mô xong, là meo nấm đã mọc lên. Nếu làm rơm hay rạ cũ thì một tháng đã thấy có nấm khá, còn dùng rơm hay rạ mới thì lâu có nấm hơn độ vài tháng sau khi ủ.

Cần phải dỡ nấm khi nó còn nhỏ chừng độ khoảng bốn hoặc năm ngày sau khi nấm vừa lú ra. Đừng để nụ nấm già mất ngon hết ngọt. Nên nhớ trong lúc gỡ nụ, đừng giật mạnh hư meo và có thể tróc lên luôn những nụ non ở gần. Nấm gỡ được một tháng thì toàn [hết]. Phải thay rơm mục rã bằng rơm khác, nhưng nhớ để dành một mớ rơm mục cũ làm lớp chân cho mô nấm mới.

Đường Đỗ Hữu Vị, Ngô Trang Ký, bán hột giống chợ cũ. Thuốc ủ nấm: đinh hương (5 tiền); đại hồi (5 tiền); tiểu hồi (5 tiền); tất phát (5 tiền).