CỰC LẠC DU LÃM KÝ
Pháp sư Khoan Tịnh trần thuật
Cư sĩ Lưu Thế Hoa ghi chép
Cố Hòa thượng Thích thượng Thiền Hạ Tâm soạn dịch

 

20. Liên Hoa Đại Tháp

Kế tiếp, tôi lại trì chú bay lướt giữa hư không theo Đức Quán Thế Âm. Các đỉnh tháp, lầu đài, lần lượt như chớp vụt qua bên mình, rớt lui lại đằng sau. Không bao lâu, một tòa đại tháp thật hùng vĩ tráng lệ, cao lớn tưởng chừng gấp mấy vạn bội dãy núi Côn Lôn ở Trung Quốc, hiện ra trước tầm mắt. Đây là LIÊN HOA ĐẠI THÁP, cao vút ước mấy vạn tầng, lộ bày những cảnh góc vòng cung nhiều không kể tính xiết được. Toàn tháp màu trong suốt, phóng vô số đạo kim quang, bên trong ẩn khuất vang ra câu niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT rất rành rẽ rõ ràng, khi thì giọng ai thiết, lúc thì như cầu cứu, lúc lại mạnh mẽ ran rãn hùng hồn.

Liên Hoa Đại Tháp là chỗ du ngoạn của muôn ức vị thuộc phẩm Thượng Trung. Theo lời Đức Quán Thế Âm, sự cao lớn của tháp nhân gian không thể hình dung được, bởi thể lượng to bằng ngàn muôn quả địa cầu hợp lại, vì thế, về chiều cao người trần chẳng làm sao tưởng tượng nỗi. Trong tháp có các loại cung điện nhiều hình thức kiểu dáng, nhiều màu sắc, tất cả đều chiếu sáng rực rỡ huy hoàng. Những vị du ngoạn có thể tự do bay xuyên qua tường vách, muốn lên hay xuống nơi nào chỉ cần khỏi niệm là đến. Lên tháp này có thể thấy vô số Tịnh Độ cùng uế độ ở khắp cõi Hoa Tạng mười phương, những tướng trạng và tình cảnh chánh báu, y báu nơi các cõi đó thật vô lượng vô cùng, chẳng làm sao diễn tả nỗi.

Bồ-tát đưa tôi vào tháp, bay vượt từ tầng này đến tầng khác như đi lên thang máy. Tôi thấy mỗi tầng đều có nhiều nam tử độ tuổi ba mươi đang ngồi ngay thẳng niệm Phật, các thanh nam tùy theo tầng sai biệt, trang phục ở mỗi tầng đều khác nhau, đại ước hơn hai mươi loại màu sắc, nhưng đặc biệt, không có một nữ nhân nào.

Bồ-tát bảo:

– Chư vị nơi đây sáu thời tu hành tinh tấn, ngoài ra cũng có lúc chỉ tịnh[Khi tạm an dưỡng], hiện tại là thời niệm Phật.

Tồi xin phép thử dừng lại ở một tầng khoảng trung ương vào xem đại chúng niệm Phật ra sao. Liếc mắt quan sát, chư vị chia thành hai bên tả và hữu, ngồi trên bồ đoàn dày đẹp, tỏa ánh quang minh, chắp tay đối diện nhau, đồng thanh niệm Phật. Song chỉ nghe tiếng chuông mõ, tiếng trì tụng, không thấy pháp khí chuông mõ đâu. Chính giữa có một đại Bồ-tát tướng tốt trang nghiêm đang chỉ đạo, hướng dẫn. Những vị trì niệm đắc lực trên đầu đều phát ra ánh sáng, trong ánh sáng hiện vô số hóa Phật và Bồ-tát, cùng nhiều tướng trạng, như: lâu các, lưới châu, ao sen, hàng cây báu, bảo tháp, hoa đẹp, cùng các loài trân cầm bay lên bay xuống đồng thanh niệm Phật. Trong đại tháp còn có các loại đèn xích châu, đèn hoàng lộc, đèn lưu ly, tự động biến hiện nhiều loại hình tướng, phóng ra nhiều sắc quang minh. Tóm lại cảnh tượng trong Liên Hoa Đại Tháp nói không xiết, kể chẳng cùng.

21. Lời khai thị của Đức A Di Đà

Sau khi tham quan đại lược chín phẩm hoa sen, Bồ-tát đưa tôi trở lại nơi Phật ngự. Tôi đảnh lễ ba lạy, quỳ xuống trước Đức từ tôn cầu xin khai thị. Đức A Di Đà thuyết pháp bằng lời kệ:

Chúng sanh cùng chư Phật,
Tánh thể vẫn đồng nhau,
Vì mê chân như tánh,
Ba cõi mãi gian lao.
Bài vọng chấp phân vân,
Lầm nhận huyễn là chân,
Hết thân này thân khác,
Luân hồi khổ muôn phần.
Bốn mươi tám đại nguyện,
Thề cứu độ chúng sanh.
Gái trai cùng già trẻ,
Giữ vững tín, nguyện, hạnh,
Một lòng không tạp loạn,
Gồm thiền tịnh tinh anh,
Lâm chung mười niệm tịnh,
Quyết định được vãng sanh.

Nghe xong, tôi lại đảnh lễ, quỳ chắp tay nhờ xin chỉ dạy thêm. Đức Phật bảo:

– Ngươi cùng chúng sanh cõi Ta Bà có nhân duyên, muốn cứu độ loài hữu tình và quyến thuộc, phải lấy giới luật làm thầy, dạy người tu tập môn Thiền Tịnh. Đối với các tông trong Phật pháp và các giáo phái khác, như: Gia Tô giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo, Tiên giáo, Thần giáo, Nho giáo, phải hổ trợ đoàn kết, chẳng nên tranh chấp, phỉ báng nhau, nói đây là chánh kia là tà, bởi tất cả các pháp đều là Phật pháp. Cửa Phật rộng lớn, bao quát tám muôn bốn ngàn pháp môn, các tôn giáo dù cứu cánh hay không cứu cánh, đều là những nấc thang phương tiện để cho quần sanh tùy căn cơ sở thích tiến lần từ chỗ thấp đến nơi cao và đều là những chiếc bè giả tạm, nếu biết tu hành thì tà trở thành chánh, thấp sẽ thành cao, ma sẽ trở thành Phật. Phải hỗ trợ tương ái, chỉnh tà phò chánh, mới phù họp với tông chỉ huệ mạng của Phật đà.

Đức từ tôn yên lặng một giây rồi nói tiếp:

– Thôi, thời gian giữa cõi Thánh, Phàm có khác, ngươi nên sớm trở về.

Tôi đôi ba phen bái tạ, chắp tay từ từ lui bước.

PHẦN 7:
TRÊN ĐƯỜNG TRỞ LẠI NHÂN GIAN

Rời khỏi nơi Phật ngự, tôi định thần trì chú Lăng Nghiêm hai đóa sen lại hiện ra đỡ chân đưa thân hình vượt lên hư không bay đi như làn chớp, Lần này không trải qua các cung trời mà đi thẳng về cảnh Trung Thiên La Hán, tôi đình chỉ sự trì niệm nhẹ nhàng đáp xuống núi, hoa sen nơi chân cũng biến mất. Bước vào điện, vị tri khách tăng mời ngồi, bảo đồng tử bưng nước thanh hương thỉnh giải lao, sau đó lại đưa vào tăng phòng cho tôi an nghỉ.

22. Tỉnh giấc nơi động Di Lặc, núi Cử Tiên

Trong cơn mơ màng tôi chợt tỉnh lại giữa màn đêm bốn bề đen tối như mực, quang cảnh chùa, tháp, chư Thiên, Bồ-tát ẩn mất vắng tăm, điện lầu hùng vĩ rực rỡ ánh vàng, cổ thọ kì hoa cũng đều biến dạng. Hồi tưởng lại những thắng cảnh từ lúc ban sơ đến cõi Cực Lạc như còn hiện rõ ràng trước mắt. Tôi có cảm giác mình đang ngồi dưỡng thần trong một thạch động.

Không bao lâu bên ngoài lộ vẻ sáng liền nhận rõ đây là động Di Lặc thuộc núi Cửu Tiên. Tinh thần tôi cũng lần lần khôi phục trạng thái bình thường, nhớ lại thời gian trải qua các nơi ước độ hai mươi tiếng đồng hồ.

23. Đường về chùa Mạch Tà Nham

Tôi ở lại động lễ sám vài ngày, hết cảm xúc lại trách thương cho thân phận, nghĩ tiếc mình đã tự cao khiến nỗi không biết bao giờ được về cõi Phật. Sang đến ngày thứ ba tôi mới lìa khỏi núi, lần bước về chùa cũ cách sơn động hơn hai mươi dặm.

Đến xích Thủy Nhai thấy người đi rộn ràng, lính tuần tra đón hỏi giấy căn cước[Chứng Minh Nhân Dân] trong lòng chợt thấy mối kinh lo, tôi thầm niệm thánh hiệu Quán Thế Âm cầu xin gia hộ, mầu nhiệm thay quân sĩ làm ngơ không gọi đến. Hỏi thăm khách đi đường thì ra lúc bấy giờ nhằm ngày mùng 8 tháng tư năm Quý Sửu (Dương Lịch là 10-5-1973), tính lại mình xa lìa nhân gian đã sáu năm gần sáu tháng.

24. Chút cảm niệm cuối cùng

Hoa tiếu quanh đề quán Tự Tại,
Kim hà hồng nhật đại A Di,
Vân tự khứ lai sơn bất động,
Cao tăng bích nhãn tựu thùy mi.

Ôi! Mê là chúng sanh, tỉnh là Bồ-tát, mê tỉnh đều do mình tự giác, nào khách hữu duyên sẵn túc nhân trả huyền cố gắng độ oan thân. Tôi nghỉ từ đây mình phải nối chí sư phụ là Hư Vân lão Hòa thượng và theo chân chư Tôn Đức trên đường hoằng pháp lợi sanh, hoàn cảnh cùng túc nguyện đã an bài không còn làm khác được nữa.

Trên đường trở về, tôi thẩn thờ bước đi từng bước từng bước nặng nề với bao nhiêu trách vụ khó khăn, với tương lai đầy bất trắc đang chờ đón trước mặt. Xa xa, cảnh chùa Mạch Tà Nham lần hiện rõ mái cong, qua hàng dương liễu vài cánh én xuân còn sót lại bay lơ lững bên khung trời.

THAY LỜI BẠT

Ngẫu ích Đại sư bảo:

Có người cho rằng, Thiền Tông để độ hàng thượng căn, Tịnh Độ môn để độ hàng trung hạ, nói như thế là vô tình phỉ báng tông và giáo. Thật ra, Thiền và Tịnh đều độ cả ba căn, bậc thượng căn tu thiền có thế tùy phần chứng đắc, bậc trung căn ngộ tánh bản lai, bậc hạ căn nếu cố gắng tu cũng sẽ đắc định hoặc tùy phần tâm mà được an định. Hàng thượng căn tu Tịnh tất mau chứng niệm Phật tam muội, hàng trung căn sẽ đạt lý nhất tâm đồng với cảnh khai ngộ bên Thiền, hạ căn như chuyên tu cũng tiến tới sự sự nhất tâm, tức cảnh giới định tâm tương tục của thiền tông. Duy có điểm khác là Thiền hoàn toàn dùng tự lực tiến tu, Tịnh đã dùng tự lực lại kiêm nhờ tha lực, cho nên với Tịnh môn hành giả dù còn hoặc nghiệp[Nghiệp mê mờ] khi lâm chung nếu nhất tâm trong mười niệm sẽ cảm được Đức A Di Đà y theo bản nguyện đến tiếp dẫn vãng sanh về Cực Lạc. Khi sang cõi ấy rồi thì sống vô biên kiếp không còn luân hồi trở lại nữa và tu tiến mãi cho đến lúc chứng quả Vô Thượng Bồ-đề, đây là điểm đặc biệt siêu thắng của môn niệm Phật.

Pháp môn Tịnh Độ cũng không có chi kì lạ, chỉ tin sâu, nguyện thiết, và cố gắng hết sức hành trì, được sanh cùng không là do tín nguyện có sâu thiết hay chăng, phẩm sen cao hoặc thấp hoàn toàn thuộc về công phu hành trì hơn kém. Xin nhấn mạnh để hành giả lưu ý, phẩm sen cao thấp không phải là điểm trọng yếu, chính vấn đề là có được vãng sanh hay không, nếu chẳng được vãng sanh dù có bao nhiêu công đức cũng hóa thành nhân thiên phước báu. Cho nên một chữ nguyện rất quan trọng, nguyện không ái luyến ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cho đến tất cả thầy trò, thân bằng quyến thuộc, nguyện không tham danh vọng, tiền của, nhà cửa, ruộng vườn, sắc đẹp, tước quyền, nguyện không cầu hưởng phước báu cõi người, cõi tiên, cõi trời, nguyện không cầu Thánh quả thấp của Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ cầu quả vị Vô Thượng Bồ-đề của Phật, để độ mình, hàng thân tình, oan trái và tất cả chúng sanh.

Cổ ngữ có câu: “Thông minh phản bị thông minh ngộ”, có nghĩa, kẻ thông minh thường bị sự thông minh làm cho lầm lạc, bởi ỷ mình thông minh có học thức nên nhiều người cho môn Tịnh Độ là thấp kém, thích những lối huyền luận, những pháp cao siêu, nói cho đối phương điếc tai cứng họng, pháp nào mình cũng thông hiểu. Chỉ tội cho bản thân đã rơi vào chỗ sơ thất là “lời không xứng hạnh” và “nhiều ngõ lạc dê”, đây là truyện đi tìm dê lạc của người láng giềng Dương Chu thời Chiến Quốc, cứ gặp ngã ba, ngã tư nhiều lần nên mất lối, ấy là do đường cái lắm ngã mà dê mất không tìm thấy. Người đi học cũng vậy, chỉ vì mê muội thích phân tích quá chi li mà mất cả phương hướng.

Lão tăng thường thấy lắm kẻ thông minh lạc theo không thiền và cuồng thiền, thích mượn lời ngữ lục của chư Cổ Đức để nói cho cao kỳ, ngôn thuyết thì đi trước Phật, Tổ nhưng hành vi lại ở đằng sau phàm dung, đến lúc lâm chung sức nghiệp dập dồn, bốn đại giải thể, thân xác bị thoái hóa mỏi nhức rên la, không tìm được nơi y cứ, thật đáng thẹn thùa thương tiếc. Trái lại, những người thật thà quê dốt, lòng không phân biệt, chỉ biết chuyên trì một câu niệm Phật, khi lâm chung phần nhiều có triệu chứng vãng sanh hoặc chết một cách an lành. Đây là điểm đáng lưu ý cho người tu, nên định tâm suy nghiệm cho kĩ.

Ấn Quang Đại sư khai thị cho tín chúng trong pháp hội Hộ Quốc Tức Tai ở Thượng Hải rằng:

Tất cả pháp môn đều cậy nơi tự lực, môn Tịnh Độ đã nương tự lực lại nhờ tha lực. Với tất cả pháp môn, hành giả phải tu sao cho nghiệp sạch tình không thì mới thoát khỏi luân hồi, duy ở môn Tịnh Độ dù hoặc nghiệp hãy còn, hành giả cũng được đới nghiệp vãng sanh, dự vào hàng Thánh. Nhiều người không xét kĩ, xem môn Tịnh Độ là thấp kém, thật đáng thương xót.

Hàng thiện giả đời nay lắm kẻ cho rằng tham thoại đầu đắc lực sẽ được liễu thoát, tùy ý đi hoặc ở, đây là lời nói mộng của kẻ chưa mở chánh nhãn mà thôi. Xin dẫn đôi việc xưa nay để chứng nghiệm:

Đời nhà Thanh trong những niên hiệu Càn, Gia[Càn Long, Gia Tỉnh] có ba vị thiền tăng làm bạn đồng tham. Sau khi viên tịch, một vị đầu thai ở tỉnh Giang Tô tên là Bành Uẩn Chương, một vị sanh ở  tỉnh Vân Nam tên là Hà Quế Thanh, còn một vị ở Hiệp Tây là Trương Phí. Trong ba người, duy có họ Bành là nhớ được đời trước. Sau vào kinh thi Hội, gặp hai vị kia liền kể lại việc làm tăng trong tiền kiếp, hai người nọ tuy không nhớ được nhưng khi cùng gặp mặt cảm thấy như đã quen biết từ lâu nên kết nhau làm đồng bạn. Trải khoa thi Hội rồi đến kì Biện Thí, Bành đỗ trạng nguyên, Hà đỗ bảng nhãn và còn Trương thì trúng bậc truyền lô. Bành từng làm Chủ Khảo rồi đến chức Học Đài nhưng lại tham sắc sau mãn phần ở tại nhà. Hà làm quan Chế Đài ở Nam Kinh, khi giặc Hồng Dương[Hồng Tú Toàn] loạn Thái Bình Thiên Quốc (từ năm 1843 đến 1864) làm phản, chiếm mất Nam Kinh (1853) bị vua Thanh khép vào tử tội. Còn họ Trương làm chức Thị Độc Học Sĩ giáo hóa tựu quân là Hàm Phong hoàng đế, bị loạn Hồi Hột bắt đem giết đi. Ba vị ấy có thể nói là bậc tăng phi thường, chỉ đáng tiếc không chịu tiếp tục tu thiền lại không biết niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, tuy được hưởng chút hồng phước nhưng hai người chết không an lành, còn Bành Uẩn Chương thì tham đắm nữ sắc e kiếp sau lại không bằng kiếp này vậy.

Lại nữa, ở Tô Châu có Ngô Ẩn Chi tiên sinh vốn là một vị thám hoa triều Thanh, học vấn, đạo đức, tướng mạo đều tốt. Năm Dân Quốc thứ 10 (1921), ông đến triều lễ chùa Phổ Đà có gặp tệ nạp, tự nói kiếp trước mình là Hòa thượng tỉnh Vân Nam, lúc đó vì khách hành hương quá đông nên tệ nạp không rảnh rỗi để hỏi rõ nguyên do. Năm sau (1922) lúc đến Dương Châu để ấn khắc kinh điển rồi sang Tồ Châu ngụ một nhà đệ tử tại gia, tệ nạp cho người mời Ngô Ẩn Chi đến để hỏi thăm, ý nghĩ rằng ông chẳng mê căn tu đời trước, nhưng khi gặp mặt đàm luận thì Ngô đã hoàn toàn quên mất túc nhân, từ đó về sau bặt vô âm tín. Đến năm Dân Quốc thứ 19 (1930), lúc đang bế quan ở chùa Báo Quốc thì Ngô Ẩn Chi cùng hai vị cư sĩ là Ấn Tuyền, Hiệp Hòa đến thăm viếng. Tệ nạp[Người áo vá lượm thuộm, đây là lời khiêm cung tự xưng của bậc tu khổ hạnh.] hỏi:

– Tại sao ông biết kiếp trước mình là một vị Hòa thượng ở Vân Nam?

Họ Ngô đáp:

– Lúc tôi 26 tuổi, mộng thấy mình ở cảnh già lam, tự biết đó là ngôi chùa nơi một huyện nọ tại Vân Nam. Trong mộng thấy từ điện đường, phòng xá, liễn đối cho đến tam quan, cây cối, ao hồ xung quanh, dường như cảnh cũ đã quen, lại thấy mình là một tăng lớn tuổi. Khi tỉnh giấc nhớ rất rõ ràng, tôi liền lấy sổ ghi kĩ lại từng chi tiết, về sau một người bạn làm quan sắp phó nhậm Vân Nam, tôi nhờ tìm hỏi thăm và biên chép lại cảnh trí về ngôi chùa nọ. Khi xác minh đem so với kí lục của mình thì không sai lấy một mẩy.

Tệ nạp khuyên:

– Tiên sinh nay đã tám mươi tuổi, hậu nhật chẳng còn bao lâu, nên khôi phục lại sự nghiệp xuất trần mới không uổng phụ công khổ tu đời trước.

Ngô nói:

– Niệm Phật đâu có chi là cao siêu kì lạ mà phải tu trì.

Tệ nạp đáp:

– Niệm Phật chẳng có điều chi hi kì hay lạ, bởi nghỉ thế nên người đời không mấy ai chịu niệm, nhưng nếu chấp định chẳng cao siêu kì lạ nên không chịu thực hành thì ăn cơm cũng là một việc rất không cao siêu kì lạ, thử hỏi ông và mọi người mỗi ngày không ăn cơm có được chăng?

Y không đáp được nhưng y chẳng cho là phải nên không chịu niệm. Cuối năm ấy hai vị cư sĩ đi theo y báo tin rằng Ngô Ẩn Chi đã mãn phần vừa tròn 80 tuổi. Họ Ngô vào kiếp trước cũng khéo tu trì, có đức hạnh tốt nên đời này mới cảm phước báu được công danh lớn, thọ số cao, nhưng chỉ diễu tròn luân thường, ngoài ra về Phật pháp lý Thiền và Tịnh đều không tin nhận chắc, nghĩ cũng lạ và đáng thương.

Nhưng bốn vị trên đều chưa có sở chứng, mà phiền hoặc chưa dứt hết vẫn còn bị sự luân hồi chi phối, huống chi mình dám tự hào tham thiền đắc lực đi ở tự do ư? Như đời Đường, cha của Lý Nguyên làm Quận Thú ở Đông Đô bị An Lộc Sơn tạo phản bắt đem giết. Lý thấy con đường hoan lộ vinh nhục mất còn bất định nên không muốn ra làm quan, sửa ngôi nhà ở của mình ở Lạc Dương thành chùa Huệ Lâm, rước Viên Trạch Thiền sư về làm trụ trì, phần ông cũng ở luôn tại đó tu hành. Thời gian sau, Lý Nguyên muốn triều lê thánh tích ở núi Nga My, mời ngài Viên Trạch cùng đi, Viên muốn theo con lộ từ Trường An sang Hiệp Tây, Lý vì không thich trải qua Kinh Đô nên nhất định dò theo thủy đạo ngang qua Kinh Châu. Viên Trạch biết mình đi chuyến này không còn trở về nữa nên đem hậu sự ghi dặn lại nơi tờ giấy, rồi để trong quyển Kinh nơi bàn. Xong cùng Lý Nguyên xuống thuyền khỏi hành. Khi tới Kinh Châu sắp tiến vào ngã Hiệp Tây, vì thủy lộ nơi đó hiểm trở nên chưa đến chiều phải dừng thuyền nơi bến tạm.

Lúc ấy bỗng có một phụ nhân mặc quần gấm xuống bến xách nước, Viên Trạch trông thấy liền rơi lệ, Lý Nguyên hỏi duyên cớ, sư đáp:

– Tôi không muốn đi theo ngã Kinh Châu vì sợ thấy người đàn bà này. Phụ nhân đây mang thai đã ba năm chờ tôi đến làm con, không thấy còn có thể tránh khỏi, nay trông thấy tức duyên phần đã quyết định. Ông nên đi tới người đàn bà đó họa phù niệm chú cho tôi mau sanh, không bị chướng ngại, sang ngày thứ ba nên đi tới nhà ấy nhìn nhau, tôi sẽ đáp lại bằng nụ cười để làm tin. 12 năm sau nếu còn tưởng nhớ nghĩa xưa hãy tìm đến chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu vào đêm rằm tháng tám sẽ cùng tái hội bên giếng Các Hồng.

Lý Nguyên nghe nói liền thuật lại cho phụ nhân biết, hỏi thăm chỗ ở và ngó vào bào thai họa phù niệm chú. Người đàn bà để xem thử được biết liền lộ sắc mừng, khi mọi việc xong xuôi liền vội vã xách nước về nhà. Lý Nguyên trở xuống thuyền thì Viên Trạch đã ngồi thoát hóa. Đến ngày thứ ba, Lý đến nhà viếng thăm, đứa bé sơ sinh liền nở miệng cười. Khi ông trơ về chùa Huệ Lâm tìm thấy giấy tờ ghi hậu sự để trong Kinh càng tin Viên Trạch Thiền sư là bậc phi thường. 12 năm sau, Lý Nguyên đến chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu vào đêm rằm tháng tám tới nơi ước hẹn để đón chờ, vừa khi ấy một mục đồng ở bên kia sông cầm roi gõ vào sừng trâu ca rằng:

Hương nguyền ba kiếp phách trên non,
Nào lúc ngâm phong thưởng nguyệt tròn,
Thẹn với người xưa xa đến viếng,
Thân này tuy khác tánh linh còn.

Lý Nguyên nghe ca đứng bên bờ sông hỏi thăm, mục đồng trả lời vắn tắt mọi việc rồi khen rằng: “Lý công thật là trang tín sĩ”, nói xong ngồi trên lưng trâu quay đi ca tiếp:

Thân sau thân trước sự bời bời,
Muốn nói e mình đứt ruột thôi,
Ngô Việt nước non đà trả khắp,
Chèo mây nay lại chở thuyền khơi.

Ca xong cưỡi trâu đi thẳng. Các vị thử nghĩ, Viên Trạch Thiền Sư thông đạt quá khứ vị lai, cảnh chứng đắc cao siêu như thế mà không thoát khỏi bị vào bào thai, nên những vị bảo rằng mình tham thoại đầu đắc lực có thể đi ở tự do, tệ nạp cho đó chỉ là lời nói mộng và những vị tự nghĩ: “Ta là hàng trí thức, môn niệm Phật thấp kém chẳng có chi kì lạ” nên không chịu tu cũng là cái chướng thuộc về sự thấy biết[Sở tri chướng]. Trái lại với hạng trên có kẻ lại bảo: “Tôi dốt nát căn tánh thấp, việc trong ngoài đa đoan chắc không thể niệm Phật tu hành được”, nói như thế là tự phế bỏ mình, Phật làm sao cứu vớt, phải biết việc tu trì không lựa giàu nghèo, sang hèn, trí ngu, già trẻ, có thành thì có cảm, như có ăn tất có no. Ở thế gian nhiều người vì mê đánh cờ  đánh bạc, ngồi luôn ngày lẫn đêm, quên ăn quên ngủ, quên cả thời tiết nóng nực, rét lạnh, những việc như thế vẫn làm được còn niệm Phật là điều tốt, là gieo nhân phước huệ, là duyên khẩn yếu để cứu mình khỏi luân hồi sanh về cõi an vui giải thoát, tại sao lại không cố gắng tu hành?

Do đó, tệ nạp khuyên mọi người đều nên niệm Phật, ngoài thời tu chính thức, khi ăn cơm, mặc áo, đi đứng, nằm ngồi cũng niệm, khi có vọng niệm xấu ác nổi lên liền dứt trừ, thầm sám hối rồi tiếp tục niệm, hành trì như thế thành tâm hồi hướng cũng được vãng sanh. Và người niệm Phật cần phải dung thông cả sự lý chân đế, tục đế, ví như mặt gương tròn sáng rộng lớn, tuy rỗng không chiếu suốt song vẫn hiện cả người và cảnh, muôn tượng xum la, vật đi không dính mắc, vật đến lại soi hình, thể rỗng không chiếu suốt là chân đế, là lý, cũng gọi Chân Như Tịch Chiếu môn, muôn tượng xum la là tục đế, là sự, cũng gọi là Sanh Diệt Sai Biệt môn (chữ đế ở đây ý nói chắc chắn, chân thật). Nghĩa là cả chân, tục, sự, lý đều toàn bộ là một thể. Chân Tâm hay Như Lai Tạng Tâm, Thiền Tông từ không môn đi vào, chủ về lý, về chân đế, tuy muôn hạnh đều tu mà không lập một pháp, chẳng dính chấp điểm trần. Tịnh Độ từ hữu môn thể nhập, chủ về sự về tục đế, nơi chỗ chẳng lập một pháp, không dính chấp điểm trần mà tròn tu muôn hạnh. Cho nên bậc trí phải thông dung sự, lý, chân, tục, chẳng nên thiên chấp, nếu chưa được như thế, thà rằng chấp có, đừng nên chấp không. Chấp có tuy chẳng tỏ thông Phật tánh nhưng hãy còn nhờ công đức hữu vi sanh về cõi nhân, thiên hoặc cõi Phật. Chấp không thì công đức hữu vi đã chẳng có, công đức vô vi lại cũng không, gây thành cái chấp đoạn diệt, bác phá nhân quả, làm cho chúng sanh lạc lầm, Phật pháp rối loạn, mối họa rộng lớn không thể diễn tả.

Chúng ta niệm Phật bắt đầu từ chỗ có niệm mà dụng công, niệm lâu dần đến chỗ vắng lặng, tâm và cảnh đều quên, không thấy mình là người niệm, Phật là vị được niệm, song mỗi câu mỗi chữ đều rành rẽ, liên tục, rõ ràng, đó là cảnh niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, nhưng công phu này chẳng phải bước đầu tiên liền có được, nếu chưa đến trình độ ấy vội nghỉ rằng “mình còn có niệm tức còn vướng mắc”, vội chê bỏ chẳng dụng công, đi tìm cái “không không” thì chẳng khác nào tự phá nhà mà muốn được nơi yên ổn. Bậc Thiền đức khi xưa do dung thông sự lý nên tuy “không môn” mà chẳng bỏ các công đức thuộc “hữu môn”, như ngài Vĩnh Minh Thọ và Thủ Sơn Niệm Thiền sư mỗi bữa đều tụng Kinh Pháp Hoa, Tổ Phổ Am và Khuê Phong Thiền sư đều tụng Kinh Hoa Nghiêm, cho đến Viên Giác, Câu Chi Thiền sư, sư trì chú Chuẩn Đề, Thiên Thai Trí Giả kiêm tu niệm Phật.

Liên Trì Đại sư là bậc triệt ngộ về thiền đã bảo: “Chấp sự mà mỗi câu Phật nối nhau, chẳng uổng công phu nhập phẩm, chấp lý nhưng tâm chưa thông đạt, khó khỏi mối họa lạc ngoan không”. Biển Phật pháp rộng vô biên, tệ nạp xét mình là kẻ dung thường không dám nói nhiều e rằng nhàm tai bậc tri thức.

Pháp hội này gọi là Hộ Quốc Tức Tai, mối họa thời nay ngày một thêm nhiều, như chiến tranh, trộm cướp, bão lụt, động đất, sóng thần, lửa cháy rừng, mất mùa đói khát, nạn sâu rầy, châu chấu, nạn phi cơ, xe thuyền, bệnh hiểm lạ phát sinh là do nhân loại tạo nghiệp sát nặng, tâm tư âm độc, tham mê ái dục, chế khí giới tối tân để giết hại nhau, cư xử trái đạo luân thường, muốn tiêu tai nạn hộ quốc gia phải dứt sát nghiệp, trừ ác tâm và thực hành tám chữ: “Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ”. Muốn thực hành các điểm trên lại cần phải có ba điều tin là: “Tin tội phước báo ứng, tin siêu đọa luân hồi và tin có Phật Trời, Thần thánh”.

Điều thứ nhất, tại sao phải tin tội phước báo ứng? Bởi căn cơ đời này phần nhiều thấp kém, nếu chỉ giảng về đạo lý cao siêu như: giữ cho tâm trong sạch, chân chánh, thường hằng sáng suốt, vô ngại, rỗng không, chẳng dính mắc, tất chẳng mấy ai làm được, cho nên những lý luận đó chưa đủ để cải thiện nhân tâm. Vì thế cần phải đề xướng rộng thuyết nhân quả, làm lành sẽ được hưởng phước lành vui, tạo ác tất chịu tội báo nạn tai đau khổ.

Điều thứ hai, tại sao phải tin siêu đọa luân hồi? Nếu theo thuyết duy vật cho rằng người chết là mất hẳn, không có sự siêu đọa thọ tội phước cùng linh hồn đi đầu thai, thì cần chi làm lành, nhọc gì tạo điều phải, việc tốt, như thế mọi người cứ tham ô, dâm loạn, cướp giựt, giết hại, dối trá, lường gạt, miễn sao mình hưởng điều khoái lạc là đủ, bởi chết rồi tâm thức tiêu tan đâu còn chi nữa mà phải lo tội vạ. Cho nên thuyết duy vật cho chết là mất nên gây tai họa lớn lao nguy hiểm vô cùng, nên biết linh hồn vọng thức tuy là huyễn nhưng chỉ huyễn đối với bậc Thánh đã trong sạch sáng suốt, dứt hết nghiệp hoặc, vọng tâm, còn hàng phàm phu vì còn vọng nghiệp, còn linh hồn, nên vẫn ở trong vòng luân hồi nhân quả.

Điều thứ ba, tại sao phải tin có Phật, Trời, Thần Thánh? cổ ngữ có câu: “Nhân gian tư ngữ, thiên ván như lôi, ám thức khuy tâm, thần mục như điện”, nghĩa là người nói thầm lén trời nghe rõ như sấm vang, nhà tối tâm sai trái mắt thần nhìn biết rõ ràng như điện chớp. Phải biết chư Thiên, chư Thần do phưóc báo thanh tịnh, tạm đắc ngũ thông nên có thể biết rõ tâm tư, nghe thấy lời nói hành vi thầm kín của hàng phàm tục, huống chi chư Phật, Bồ-tát thần thông rộng lớn, chẳng những thấy biết rõ từng chi tiết mà còn thông đạt vô biên kiếp về trước, thấu hiểu vô lượng kiếp về sau. Tin nhận mọi tâm niệm, hành vi của mình đều có Phật, Trời, Thần Thánh soi thấu chứng tri như nhìn vào lòng bàn tay, từ đó ta mới biết sợ mà không dám làm ác. Trong Bồ-tát giới có câu: “Tâm sợ, khó sanh ác; lòng lành, khó phát xấu xa” là nói về điểm này.

Có người hỏi tệ nạp: “Đã khuyên người giữ giới, ăn chay, làm lành, niệm Phật là đủ sao còn bảo nên thường niệm Quán Thế Âm Bồ-tát là có ý gì?”. Điều ấy không chi lạ bởi thời mạt hậu sự khổ thêm nặng, đức Quán Thế Âm lòng bi sâu, Bồ-tát lại có nhân duyên lớn với chúng sanh cõi Ta Bà nên cần nhờ sức vô duyên từ của Ngài để cứu độ trong khi cấp nạn, sức từ bi ấy ví như bóng trăng in muôn dòng nước lặng, từ điểm sương cho đến điểm suối, hồ, sông, biển, nếu nơi nào có nước trong tất được ảnh hưởng của ánh trăng chiếu suốt. Nước trong là chỉ cho tâm niệm chí thành, tâm niệm này phần nhiều xuất phát từ cảnh nguy, nạn hiểm bất ngờ khiến chúng sanh quên mất thân tâm để cầu cứu. Có kẻ nói: “Theo phẩm Phổ Môn Kinh Pháp Hoa, niệm Quán Thế Âm rớt xuống vực sâu sẽ được cứu, rơi vào lửa dữ không bị cháy, nói như thế tôi chưa tin, quý vị thử niệm danh hiệu Ngài rồi nhảy xuống vực, lao vào lửa, xem coi có bị tan xương, bị chết cháy hay không?”. Bảo như thế là hồ đồ không đúng, bởi còn có niệm thử thách tất chưa quên hẳn thân tâm, chưa chí thành khẩn thiết làm sao được sự cơ cảm cứu độ vô duyên từ, vả lại Kinh Pháp Hoa do Phật nói, không tin lời Phật đâu phải là Phật tử.

Hồi thời Hoa Nhật chiến tranh, phố xá xung quanh vùng bắc ở cảng hộ bị bom đạn thiêu hủy hết, duy có căn phố của một đệ tử quy y với tệ nạp là Hạ Hinh Bồi vẫn còn trơ trọi nguyên vẹn. Nguyên do bởi lúc ấy cả nhà đều chí thành niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, lúc đó Hạ Hinh Bồi đang làm việc trong tòa soạn báo Tân Văn, y cũng niệm hồng danh Bồ- tát nên gặp điều may mắn khác thường. Bảy ngày sau được đệ thập cửu lộ quân cứu thoát khỏi vòng vây chở đưa về nhà trong người chẳng bị thương tích chi, tất cả đồ vật trong nhà đều còn nguyên không bị tốn thất.

Lại một đệ tử tại gia của tệ nạp ở huyện Văn Hỷ tỉnh Sơn Tây tên là Diệp Tư Sơ vẫn thường niệm Quán Âm, một hôm nhân có việc cần y cưỡi lừa qua vùng đại lãnh, một bên là núi cao, bên này là vực thẳm, do trời lạnh tuyết đóng thành băng, lừa trượt chân té ngã nên y rơi lăn xuống vực. Lúc ấy Diệp hốt hoảng niệm Quán Âm mấy câu, vừa may nửa chừng có nhành tùng de ra, y rớt vào mấy cây tùng nhỏ chi chít nên bám vào đó mà lần leo lên được, con lừa cũng không bị hề hấn chi. Nằm nghỉ một lúc cho khỏe và tỉnh hồn, Diệp nhìn xuống vực để quan sát cho kĩ thì điều kì lạ trong vực sâu thẳm không có cội tùng nào de ra cả.

Chuyện linh cảm về việc niệm hồng danh Quán Thế Âm lắm người đã kinh nghiệm hoặc mắt thấy tai nghe còn rất nhiều, nay chỉ thuật ra đây vài chi tiết để làm chứng tín. Lời của tệ nạp tuy quê mùa nhưng thiết tha dẫn giải, nhưng vẫn không ngoài ý Kinh lời Tổ, mong chư vị đừng vì những kẻ dung thường mà chê bỏ chánh pháp thì sự an ổn và đắc ích rất lớn lao.

Trên đây là những lời khai thị của bậc tôn đức Ngẩu ích, Ấn Quang về việc nhân quả luân hồi, riêng bút giả[Lời khiêm cung của Hòa thượng Thiền Tâm] xin dẫn thêm bằng chứng theo quyển “Luân hồi trong thời khoa học”, ông Trương Thái Diêm là một nhà ái quốc nhiệt thành, nổi tiếng cương trực, dám nói không sợ chết, năm Dân Quốc thứ tư (1915) Viên Thế Khải muốn làm hoàng đế, sợ ông phản đối chỉ trích nên dụ tới Bắc Kinh rồi giam lỏng ở chùa Long Tuyền cho quân canh giữ. Thái Diêm buồn giận, mộng thấy mình làm Diêm La nên gửi thư cho Hòa thượng Tông Ngưỡng có đoạn như sau:

“Vào đầu tháng chạp năm rồi, đệ tử mộng thấy có người đem thiệp mời đi dự tiệc, dưới thiệp thư danh vị chủ yến là Vương Ngao. Vương vốn người ở trấn Trạch, bậc hiền tể[Thừa tướng đảm lược] của vua Võ Tôn đời nhà Minh, đệ tử chưa kịp suy nghỉ chi khác thì ngoài cửa đã có xe ngựa đón rước. Đến nơi, trong dinh đã bày sẵn đại yến phân chia thành nhiều nhóm, có người Trung Hoa, người Ấn Độ và người các nước Âu Mỹ. Về nhóm người Trung Hoa thì ngoài Vương và đệ tử còn có Hạ Hầu Huyền, Mai Hiểu Thần và các vị bồi yến. Đệ tử hỏi Vương:

– Đọc qua lịch sử biết tiên sinh là bậc danh đức, song từ trước đến nay vẫn chưa có chén rượu thừa hoan[Chén rượu giao tiếp vui vẻ], sao bỗng dưng lại được hân hạnh vào đại yến này?

Vương Ngao đáp:

– Lệnh trên cử tôi cùng ông giữ chức Diêm La xử án, Hạ quân làm Tài phán quan, Mai quân làm Tổng kiểm soát. Những vị nơi đây đều chia nhau chủ xử về hình sự ở năm châu.

Đệ tử lại hỏi:

– Việc tuyên xử căn cứ theo pháp luật nào?

Vương đáp:

– Nơi đây tham cứu theo hình luật các đời Hán, Đường, Minh, Thanh, Âu Tây và Nhật Bản.

Từ đó, mỗi đêm đệ tử đều được mòi đi xử án, chỉ có ngày chủ nhật là tạm nghỉ. Việc xử cũng chẳng có chi trọng đại, gồm các tội: gông xiềng, khổ sai, côn trượng, cầm cố nơi ngục tối, tội nặng thì giam tù trăm năm cho đến một kiếp. Có lẽ vì tin Phật, cúng dường Tam Bảo nên đệ tử không có nghiệp trông thấy giường sắt, vạt dầu, cột đồng lửa, cùng các ngục hàn, nhiệt, nhưng hỏi ngục tốt thi họ đều nói thấy. Khi tỉnh lại đệ tử bỗng chợt hiểu, Kinh Phật nói: “Những hình khổ ấy là đều do sức nghiệp của tội nhân hóa hiện, không có ai bức bách”, vả lại cũng hiểu rằng mình làm vua Diêm La là bởi tánh can cường nóng giận chiêu cảm, đệ tử nghĩ phải dùng từ bi quán để phá nghiệp nóng giận đó, song chưa biết cách thức công dụng ra sao, xin kính nhờ Hòa thượng xót thương chỉ dạy”.

Vào năm 1900, ỏ Thụy Sĩ có nhà tâm lý học tên Théodore Flournoy có viết quyển sách nhan đề “Từ Ấn Độ đến Hỏa tinh[From India to the Planet Mars]”. Trong sách đại ý nói có vị tiểu thư con một nhà hàng hải tự biết kiếp trước mình là công chúa nước Áo tên Marie Antoinette được gả về Pháp quốc làm hoàng hậu vua Louis XVI, trước kiếp đó nữa cô ta là công chúa nước Ả Rập gả cho một hoàng tử Ấn Độ. Hiện tại tiểu thư có thể viết và đọc tiếng Sanskrit rành rẽ. Điểm kì lạ là cô còn nhớ mấy kiếp về trước đã sanh làm người ở Hỏa tinh, diễn tả rõ cảnh giới trên đó và nói được tiếng Hỏa tinh, tiểu thư lại đem ngữ thoại Hỏa tinh dịch thành Pháp văn, cô nói tiếng Hỏa tinh rất hay, văn Hỏa tinh lại thông thuận với văn Pháp và đem so sánh phân tích rành rẽ.

Trên đây là ít bằng chứng nhân quả luân hồi một cách hiện thực.

Đoạn trước nói về Thiền của các bậc tôn túc, không phải xem thường Thiền Tông, chẳng qua là chỗ đậu cơ thuyết giáo[Thuyết dạy hợp với trình độ và thời điểm] để làm lợi ích cho chúng sanh đó thôi. Bởi các vị đều là hàng cao tăng đại triệt đại ngộ có thể là các bậc Bồ-tát tái lai, không còn tướng ngã nhân tranh chấp. Thiền và Tịnh đều là những ưu điểm giống như nhau, giản dị, khái quát và trực thiệp[Vào thẳng vấn đề], nhất là Tịnh Độ rất thích hợp và lợi ích đối với căn tánh thời nay. Chính Hư Vân Thiền sư, một bậc Bồ-tát tuy hoằng dương Thiền Tông để làm mô phạm và hóa độ những vị có túc căn về thiền nhưng vẫn khuyên người niệm Phật. Việc đức Quán Thế Âm hướng dẫn Khoan Tịnh Pháp sư đến cõi Cực Lạc cũng không ngoài điểm đại bi cấp cứu hợp pháp hợp cơ đối với thời mạt hậu này, còn chỗ bác phá của chư tôn túc là phá lối chấp sai lầm của hàng không thiền, cuồng thiền, để phò trợ Thiền Tông chứ không phải bác phá bậc tu thiền chân chánh.

Hai hạng không và cuồng trên thường nói: “Bản thân ta là Phật cần chi phải niệm Phật, như trên đầu lại để thêm cái đầu khác làm sao cho hợp”, hoặc bảo: “Bản thân ta là Phật cần chi phải lễ Phật sám hối, đem ông Phật này lạy ông Phật khác là điều vô lý”, đó là những lời cầu cao nói suông, quên xét mình còn là hạng phàm phu đầy tội chướng.

Tóm lại, vì những ưu điểm giống nhau mà Thiền và Tịnh đều không thể bị mai một, nếu biết khéo dùng thì môn này lại hổ trợ cho môn kia. Đến như phần đề cập về năm vị tăng, ý của Tổ Ấn Quang muốn phân tích rõ điểm khó dễ đối với thời cơ xưa nay cho người tu suy gẫm để được lợi ích giải thoát, theo bút giả trong ấy đại khái có ba điểm:

1. Người xưa đạo căn phần đông sáng lẹ, bậc tri thức cũng nhiều nên đường tu tập dễ tiến. Trái lại, người đời nay căn cơ đa số là hạng trung hạ, tâm nhiều hư vọng phân biệt, sự giảng luận tựa hồ thông sáng bên ngoài song lại loạn tối bên trong, bậc tri thức lại ít có, tà ma ngoại giáo xen lẫn vào cửa đạo nên đường tu dễ bị lạc lầm.

2. Thời trước chánh pháp còn thạnh, bậc cao đức còn nhiều, dù đời này giải quyết việc sống chết chưa xong vẫn còn hi vọng những kiếp về sau. Cuộc sống thuở xưa lại đơn giản, tổ chức xã hội thời nay phiền toái, rối ren, chiến tranh, tai nạn ngày càng nhiều nên sự tu tiến rất khó.

3. Người xưa nói: “Các bậc vương hầu nhà quyền quý cho đến hạng thông minh tài tuấn phần nhiều đều phát xuất từ cửa Tam Bảo”, nên có câu: “Sơn trung vô tỳ kheo, triều trung vô tể tướng”.

Nhưng cũng cần nhắc thêm một câu nữa của cổ đức: “Nếu không hiểu đạo thì sự tu đời này là mối thù của kiếp thứ ba”, bởi có công tu nên kiếp sau mới được phú quý, nhưng trong vòng phú quý ấy lại dễ đắm theo tài sắc, danh lợi, tạo nhiều nghiệp, tiếp sang đời thứ ba phải bị đọa. Trong ngàn người mới có một đôi người không quên mất túc căn, nối bước tu hành, như trong năm vị cao tăng ngài Ấn Quang đã dẫn chứng, hết bốn vị đã thoái chuyển, duy Viên Trạch Thiền Sư là bậc liễu đạo, có lẽ đã chứng sơ quả Tu Đà Hoàn song bởi dư nghiệp chưa dứt nên ngài không tránh khỏi bị trở vào thai, còn phải bảy lần sanh lên cõi trời, bảy phen trở xuống nhân gian mới chứng quả A La Hán thoát hẳn luân hồi.

Cuộc đời mau chóng lắm nổi chìm nên một vị quan ở Việt Nam đã than thở:

Nghĩ kiếp phù sinh bóng bạch câu,
Đời người thắm thoát có bao lâu,
Bao hồi xa mã mau chùng bước,
Mấy nỗi công danh dễ bạc đầu,
Tiếng sóng bên gành cơn gió thoảng,
Ngọc đèn trước án bóng trăng thâu,
Tuyết hồng chuyện cũ mười năm trưóc,
Một nén tám hương gợi mối sầu.

Luận thêm về thời cơ, Thiền Tồng tuy siêu thắng nhưng trong thời mạt hậu muốn được giải thoát ngay ở hiện tại không phải là chuyện dễ, phải là hạng thông minh sáng lẹ sẵn có túc căn, dùng tử công phu tham cứu thoại đầu và khỏi nghi tình. Tử công phu là đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, mặc áo, cho đến lúc thức, ngủ, cũng đều phải như một, vẫn không rời câu thoại đầu. Nếu rời thoại đầu, tạm thời không ở trong định, Cổ đức cho là đồng như người chết, cho nên ở chùa Thê Hà và Thiên Đồng tại Trung Hoa có rất nhiều vị bất đảo đơn để đạt được mục đích đó. Bất đảo đơn là những vị tu hơi cao phát tâm ngồi mãi không nằm ngủ để tham cứu, mỗi ngày chỉ ăn một lần, có khi đôi ba ngày, năm bảy ngày mới ăn một lần.

Tham thoại đầu và khởi nghi tình là thế nào? Tham thoại đầu, chẳng hạn như tham câu: “Trước khi cha mẹ chưa sanh, ta là ai?”, lúc khởi công phải đặt trọng tâm nơi chữ “ai”, ngưng động rồi soi đi soi lại, đến khi cảm thấy tâm vừa lơi thì lại đề khởi câu đó, lắng đọng rồi soi chiếu nữa, như tiếng chuông này vừa mãn liền tiếp tiếng chuông khác, chứ không phải đọc đi đọc lại câu đó mãi. Bậc lợi căn tu lâu, mỗi khi đề khởi định tâm thêm lan rộng, cảnh giới mới lại hiện ra, mà người xưa gọi là: “Nhất phiên đề khởi, nhất phiên tân”. Còn khởi nghi tình là thiết thực để tâm nghi về yếu điểm bí mật câu mình tham cứu, đến chừng nào khai ngộ mới thôi. Chẳng hạn nếu tham câu: “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?”, kế lại nghĩ một dung hòa về muôn pháp là sai. Lại như tham câu: “Con chó có Phật tánh hay không?”, rồi phân biệt chó đây không phải chó Tây, chó Tàu, cũng không phải chó đen, chó trắng, hoặc lại nghĩ: “Nay đã là chúng sanh, dù là chó hay mèo cũng đều có Phật tánh”, phân biệt như thế đều sai, không phải lối khởi nghi tình, cổ thư có câu:

Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến,
Thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kì dị.

Khi chú hết tâm vào điểm nào thì quên hết cảnh xung quanh, thấy như không thấy, nghe như không nghe, cho đến ăn cũng không biết mùi vị. Công dụng của nghi tình cũng như thế, càng nghi càng quên, dứt hết phân biệt, tâm ngưng đọng thành một khối, cho nên người xưa nói: “Nghi lớn tỏ ngộ lớn, nghi nhỏ tỏ ngộ nhỏ” là vậy và đây là điểm khó thứ nhất.

Đã dụng công tham cứu khởi được nghi tình lại phải cú và ý cho đến nơi đến chốn. Cú là công năng tham cứu thoại đầu, ý là chỗ khai ngộ, có bốn điểm:

  1. Cú đến ý chưa đến.
  2. Ý đến cú chưa đến.
  3. Cú và ý đều đến.
  4. Cú và ý đều chưa đến.

Xin mượn câu chuyện sau đây, nếu hiểu được một tất hiểu cả ba điểm kia. Một thiền giả đến tham vấn ngài Hư Đường, ngài hỏi:

– Khi chưa căng buồm, lái thuyền rong theo gió thì thế nào?

Thiền giả đáp:

– Như chim Tiêu Liêu thấy núi Thái Sơn.

Lại hỏi:

– Lúc đã căng buồm rong thuyền ra gió thì ra sao?

Đáp:

– Như nước Hoàng Hà chảy ngược dòng.

Ngài Hư Đường quát:

– Như thế chưa được.

Thiền giả bạch:

– Học nhân chỉ hiểu được có bấy nhiêu, xin nhờ tôn giả khai thị thêm.

Hư Đường Thiền sư bảo hỏi lại câu trước, thiền giả hỏi, ngài đáp:

– Như nước Hoàng Hà chảy ngược dòng.

Thiền giả thưa:

– Thế thì đâu khác chi lời của học nhân.

Ngài quát:

– Cái túi đựng cơm hãy về thiền đường tham cứu lại.

Đây là Tổ Hư Đường muốn thử xem thiền giả sức dụng công tham thoại đầu đã đến mức mà ý khai ngộ đã thông suốt chưa. Quả nhiên với thiền giả cú đến mà ý chưa đến mới chấp câu nói của mình, trong trường hợp đó nếu y lễ Hư Đường Đại sư ba lạy chắc có lẽ ngài đã ấn khả. Về sau thiền giả khai ngộ trình lên bài kệ:

Hốt u tâm cảnh cộng vong thi,
Đại địa sơn hà thâu thoát li,
Cổ Phật pháp thân toàn thể lộ,
Thời nhân tương đối bất tương tri.

Tạm dịch:

Bỗng nhiên tâm cảnh thảy đều vong,
Cõi đất sơn hà rỗng suốt không,
Chân tánh pháp vương toàn thể lộ,
Cùng người cười nói chẳng tương thông.

Lúc đó ngài Hư Đường mới chấp nhận. Đây là điểm khó thứ hai về tu thiền.

Trong cú và ý cùng đến còn có ba cửa ải phải vượt qua, đó là: bản tham quan, trùng quan và lao quan. Bản tham quan là cửa khai ngộ về câu thoại đầu. Trùng quan là từ chỗ vô tâm của bản tham quan tiến phá kiến hoặc và một phần tư hoặc, ngộ ngã và pháp đều không, chân tâm dung hòa cùng vạn vật. Vì cửa này dầy đặc nhiều lớp nên gọi trùng quan. Lao quan là một phần vô minh hoặc vi tế như màn sương, tuy mong manh nhưng rất kiên cố khó phá, cần phải tiến vượt, cảnh giới này cổ đức khai thị là phải dùng Hải Ấn tam muội mà in một cái, kì dư đều bỏ hết. Lại xin mượn câu chuyện khác để ví dụ:

Một vị tôn túc hỏi thiền giả:

– Thế nào là ý của tổ sư từ Tây Vực đến?

Thiền giả đáp:

– Mây ra đỉnh nói không tình ý, nhạn vượt đầm trong chẳng dấu tăm.

Vị tôn túc cười:

– Cho dù được thế, tỉ như mạt vàng tuy quý vướng vào mắt cũng bị xốn xang.

Ý ngài muốn bảo: “Dù đã được vô tâm, nếu còn thấy mình vô tâm, nhận đó là đạo cũng chưa đúng, cần phải tiến tu thêm”. Thiền giả vâng lời, sau tham cứu được đại ngộ, vượt qua tam quan, tuy không gặp vị tôn túc như trước để cầu ấn chứng nhưng đã có bài kệ trần thuật tâm cảnh của mình:

Kim kê trác toái bích lưu ly,
Vạn yết thiên hưu chi tự tri,
Túy ngọa phong phàm thiên chánh ổn,
Tiền sơn vô phục võ cưu đề.

Tạm dịch:

Gà vàng mổ vỡ chụp pha lê,
Muôn vức ngàn yên tỏ lối về,
Trời lạnh buồm căng say giấc ngủ,
Kêu mưa non vắng vọng cưu đề.

Trong thiền lục còn có truyện khác cũng giống như câu truyện trên, vì sợ phiền nên miễn nêu ra. Tam quan vừa nói tùy theo Thông giáo, Biệt giáo, hoặc Viên giáo có cạn có sâu, nhưng so với nghĩa “Lục tức Phật” của Thiên Thai giáo đại khái cũng chỉ từ Văn tự, Quán hạnh đến Tương tợ tức Phật mà thôi, trừ bậc Bồ-tát quyền hiện, ít có ai đến địa vị Phần chứng tức Phật. Chính Ngẫu Ích Đại sư, một bậc triệt ngộ cũng khiêm nhường tự bảo: “Danh tự vị đây là Phật nhãn, rồi ra biết phó cho ai”. Danh tự vị là ngôi viên giải chẳng phải tầm thường, như có lời tụng:

Vừa thưởng vô sanh khúc,
Lại nghe bát tử ca,
Nay ngộ ngay đương thể,
Tự hận đã dàn dà.

Quán hạnh tức Phật là địa vị ngũ phẩm, thuộc ngoại phàm của Viên giáo. Ngũ phẩm là: tùy hỉ, đọc tụng, giảng thuyết, kiêm tu lục độ và chánh hành lục độ phẩm.

Tương tợ tức Phật là ngôi nội phàm thuộc Thập tín cùa Viên giáo. Sơ tín dứt kiến hoặc, thất tín dứt tư hoặc, bát, cửu, thập tín dứt trần sa hoặc. Trong đây cũng có lời tụng:

Tứ trụ[Tứ trụ là: kiến ái trụ địa, dục ái trụ địa, sắc ái trụ địa và hữu ái trụ địa.] tuy đà thoát,
Lục trần chửa rảnh không,
Đôi mắt còn vươn bụi,
Thái hư loạn sắc hồng.

Tu thiền dụng công khó nhọc như thế nên ngài Trường Khánh Nhàn ngồi rách bảy chiếc bồ đoàn mới ngộ đạo, Hương Lâm Thiền sư khổ công bốn mươi năm mới dung thông thành một khối. Lại chư tôn đức bên thiền từ trước tới nay, như các ngài Hư Vân, Lai Quả, Bạch Thánh đều bác bỏ lối tu mặc quán, cho đó là cách dụng công chưa an toàn. Mặc quán hay mặc chiếu thiền là lặng lẽ soi vào bên trong, khi thấy vọng niệm khởi lên liền dứt, như thế là còn đọa vào lưỡng biên, còn dùng chân phá vọng, như lấy chốt tháo chốt, lâu ngày dễ lạc vào lỗi hôn trầm. Các ngài đều đề xướng phương pháp tham thoại đầu, bởi khi tham cứu lắng tâm ngưng đọng là tịch, phá trừ tán loạn, đề khởi soi lại là chiếu phá trừ hôn trầm, tịch và chiếu song hành. Tuy vô tâm trừ vọng mà ngầm phá cả hôn trầm tán loạn, không lạc vào bên nào cả. Thật ra, mặc chiếu thiền không phải sai, Kinh Lăng Nghiêm đã dạy bằng cách lặng lẽ đem tánh nghe xoay vào trong, chư tôn đức thới Tấn, Đường cũng có dùng nhưng đối với căn tánh người xưa thì có lợi, với căn tánh sau này phương pháp đó chưa được siêu mầu, kém phần đắc ích.

Cũng như thời xưa, chư thiền đức khai thị bằng minh ngữ, về sau các hành giả lại đem những minh ngữ đó ra đế lý giải, thành thử lạc vào chỗ thấy hiểu phân biệt, mất hẳn tông chỉ. Thấy thế, chư tôn túc chuyển đổi dạy bằng ẩn ngữ, nói những câu không nghĩa vị để lấp đường kiến giải của học nhân. Cách sau này cũng bị kẻ hiếu kì, mua danh, mượn đem sử dụng, cổ đức lại đổi cách khai thị bằng lối dùng các cử chỉ hành động, như dang tay, co duỗi, nhướng mày, đánh hét, những tác phong đó có thể gồm tóm trong hai câu:

Mượn vật truyền tâm thoát nghĩa câu,
Vượt trần xuất chúng thái hư mầu.

Sau rốt, đây là điểm thứ ba nói về sự khó của tu thiền.

Trong quyển này (Cực Lạc du lãm ký), Hư Vân Thiền sư khuyên phải giữ giới, tuân theo quy tắc cũ, đừng vội canh tân. Sở dĩ ngài có lời ấy vì hàng xuất gia thời nay lắm vị đề xướng canh cải lại Tứ Phần Luật, bác bỏ Bá Trượng Thanh Quy và hai thời công phu, vì cho là vướng mắc theo hình thức. Hai thời khóa tụng trong thiền môn vốn đã có từ xưa, đến thời Đường, Tống chư Tổ lại thêm vào cho đầy đủ chứ không phải do Ngọc Lâm quốc sư đời Thanh biên soạn. Ngài Ngọc Lâm nhận thấy hai thời công phu vẫn hợp với Tứ hát (tức bốn cách hét) của tông Lâm Tế, có lợi cho Thiền Tông nên đề xướng tán thành. Lại bảo hai thời khóa tụng là khuôn mẫu thước đo của các tông, nếu hàng sơ cơ không hành trì thì làm sao trừ nghiệp chướng, sanh phước huệ? Phải lấy đó làm nền tảng giúp sự tiến tu và hóa giải được sự thọ hưởng của đàn na tín cúng.

Trong hai thời khóa, thời sớm mai hành giả tụng Lăng Nghiêm, Đại Bi, Thập Chú để phá trừ ngũ dục và sức niệm vi tế. Chúng sanh thời mạt hậu nghiệp chướng rất nặng, không thể thiếu sự trì tụng này. Trong Kinh nói, bậc bát địa Bồ-tát còn một phần trần sa và vô minh hoặc ẩn sâu trong tạng thức mà sức thiền quán không tìm thấy nên chẳng thể phá trừ, chư Phật e sợ các vị ấy say trong cảnh định tịch chiếu bao la nên hiện thân cảnh giác và khuyên nên nhớ lại bản nguyện và dạy trì đà-ra-ni môn để công phá khiến cho hoặc chướng hiện ra mới tiêu trừ được. Chính bút giả đã từng nghe một nhà giáo nói: “Không biết đạo Phật có cái gì kì lạ mà tôi thấy mấy ông đạo lúc mới vào chùa rất khờ khạo cùn mằn, khi tu được ba bốn năm lại đổi ra khôn hết mức”.

Trở lại vấn đề trên, Lăng Nghiêm thần chú có năm hội:

Hội thứ nhất là Tỳ Lô Giá Na chân pháp hội, có nghĩa những lời bí mật của mười hai pháp môn. Đoạn dưới đều từ nơi pháp thân hay Tỳ-lô chân tánh lưu lộ ra.

Hội thứ hai là Thích-ca ứng hóa hội hay Lăng Nghiêm giáo chủ hội, có nghĩa năm bộ Tam Bảo trong thần chú, gồm: chư Dược xoa, Thần vương, Kim Cang, Mật Tích, cho đến tất cả pháp môn đều do Đức Thích-ca và chư Phật thị hiện ra.

Hội thứ ba là Quán Thế Âm hợp đồng hội. Bốn môn trong đây đều do đức Quán Thế Âm trên đồng dưới hợp viên thông tu chứng chẳng thể nghỉ bàn, đức mầu vô tác thành tựu một cách tự tại.

Hội thứ tư là Kim Cang chiết nhiếp hội, do Hỏa Hữu Kim Cang Bồ-tát khai hiển, nên Chư Kim Cang Tạng Vương sau khi nghe niệm chú đều dùng sắc lệnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với người thiện thì nhiếp thâu. Chư Kim Cang Mật Tích cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.

Hội thứ năm là Văn Thù phú hộ hoằng truyền hội. Đức Văn Thù (hay Mạn Thù Thất Lỵ) sau khi lãnh chú đến che chở hộ trì, rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng trì pháp môn này.

Năm hội trên tượng trưng cho ngũ trí đảnh của Đức Tỳ Lồ Giá Na, họp cả năm hội lại gọi chung là “Phật đảnh quang tụ cứu cánh kiên cố đại bạch tán cái thần chú”.

Còn thời khóa chiều hôm, hành giả tụng Di Đà, Hồng danh bảo sám và Mông Sơn thí thực để giúp tiêu nghiệp, sanh phước và khởi bi tâm, thí thức ăn uống cho cô hồn ngạ quỷ, rồi niệm Phật đem công đức hồi hướng cầu cho mình và bốn ân ba cõi, tất cả loài hữu tình đều sanh về Tịnh Độ.

Cho nên hai thời khóa tụng đều do chư Bồ-tát, Tổ sư dùng trí tuệ hiểu rộng thấy xa biên soạn ra để làm lợi vui cho tất cả chúng sanh, nếu bác bỏ chẳng những là thiển cận mà sợ e còn có tội với Phật pháp nữa.

Và sau rốt xin mượn mấy lời để kết cục:

Biển lệ tràn đầy kiếp chuyển luân,
Ai người biết nghĩ tự thương thân,
Xuống lên sáu nẻo thống não vô ngần,
Con đường sa đọa khôn li thoát,
Huyễn thân mấy chốc, tám khổ xoay vần,
Nhục vinh tài sắc bao nhiêu mộng,
Niệm Phật tu hành một kiếp chân,
Sớm mượn đài sen về Cực Lạc,
Mới mong xa dứt lụy hồng trần,
Nhọc nhằn mai lại tối,
Già chết chợt đà gần.

Vô Nhất Đại Sư

ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG

Ngài Đại Bồ-tát Đại Thế Chí và các Bồ-tát đồng tu đại diện cho năm mươi hai quả vị Bồ-tát đã tu chứng, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, cùng đảnh lễ Phật rồi thưa rằng:

“Con nhớ vào đời lâu xa cách nay số kiếp nhiều như cát sông Hằng, có vị Phật xuất hiện tại thế gian tên là Vô Lượng Quang; trong một kiếp ấy mười hai Đức Như Lai lần lượt thị hiện. Đức Phật sau cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang đã dạy con pháp môn Niệm Phật Tam Muội, ví như có hai người quen nhau, một thì chuyên nhớ, còn một thì chuyên quên không nhớ gì đến ngưới kia, nên dẫu hai người có gặp nhau thì cũng như không gặp, thấy mà cũng như không thấy. Còn ngược lại hai người cùng nhớ về nhau với nỗi nhớ da diết sâu dày thì dù xa cách nhau nhưng trong lòng lúc nào cũng thấy hình ảnh của nhau như chưa bao giờ rời xa. Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh, như mẹ nhớ con; nhưng con chối bỏ không nhớ mẹ, vậy dù có nhớ cũng chẳng ích chi! Nếu con cũng nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, thì dù trải qua đời đòi kiếp kiếp, mẹ và con chẳng thể cách xa nhau. Trong tâm chúng sanh, nhớ Phật niệm Phật, thì hiện tại và tưong lai, nhất định sẽ thấy Phật, cách Phật không xa; không cần dùng phương pháp nào khác mà tâm tự khai mở. Như người dùng hương thơm lâu ngày bị nhiễm mùi hương nên thân tự thơm, ấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Pháp tu nhân căn bản của con là dùng tâm niệm Phật mà được chứng nhập Vô Sanh Nhẫn, không sanh diệt. Nay con ở cõi này, rộng độ người niệm Phật quay về Tịnh Độ. Phật hỏi pháp môn tu chứng viên thông, con không lựa chọn mà thu nhiếp cả sáu căn tịnh niệm liên tục, được vào Tam Ma Địa, đó là thù thắng nhất.”

MƯỜI CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH -TƯỢNG PHẬT

MỘT là, những tội lỗi đã tạo từ trước, nhẹ thì được tiêu trừ, nặng thì chuyển thành nhẹ.

HAI là, thường được các thiện thần ủng hộ, tránh được tất cà tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù.

BA là, vĩnh viền tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này.

BỐN là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hãm hại.

NĂM là, tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộng. Diện mạo hiền sáng, mạnh khỏe an lành, việc làm thuận lợi, được kết quả tốt.

SÁU là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y phục đầy đủ, gia đình hòa thuận, phước lộc đời đời.

BẢY là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người kính mến ngợi khen.

TÁM là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khỏe, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt. Nhàm chán nữ thân, mệnh chung liền được nam thân.

CHÍN là, vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy.

MƯỜI là, hay vì tất cả chúng sinh trồng các căn lành. Lấy tâm cầu của chúng sinh làm ruộng phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy đạt được vô lượng phước quả thù thắng. Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, nghe Pháp, phước huệ rộng lớn, chứng đạt lục thông, sớm thành Phật quả.

Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tật bệnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tinh tấn phát tâm Bồ-đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc.

***

Trang 1 2 3