LĂNG KÍNH ĐẠI THỪA
Tịnh Liên – Nghiêm Xuân Hồng
CHƯƠNG V
CẢNH GIỚI HOA NGHIÊM:
NHƯ HUYỄN BẤT KHẢ THUYẾT – BẤT KHẢ THUYẾT
Viết về kinh Hoa Nghiêm cùng cảnh giới Hoa Nghiêm qua là một việc mạo muội lớn lao… Vì sao?
Vì kinh này chỉ có thể gọi là bất khả thuyết bất khả thuyết. Chính kim khẩu của Phật đã gọi kinh này là như vậy. Chỉ có những bậc thân chứng những cơn đại-tam-muội mới có thể diễn nói về kinh này… Phàm phu chúng ta mang nặng tình thức thông thường mà suy lường về kinh này, thì chẳng khác gì một người mang cây thước đi đo lường hư không đo lường đại hải. Như một con kiến muốn ngước mắt đo lường đỉnh núi Tuyết Sơn, vần vũ đầy mây trắng… Khốn nỗi là chúng ta, vốn sống trong thế giới sai biệt của ngôn từ vọng tưởng, nên đôi khi vẫn phải dùng ngôn từ vọng tưởng để cố gắng diễn nói với nhau về những cảnh giới siêu xuất vượt qua ngôn từ vọng tưởng.
Vì kinh này là vua trong các kinh, độc-nhất-vô-nhị của các cõi chứa đựng vô lượng pháp môn, tương tự như biển cả, và con sông nào cũng phải chảy ra biển cả… Thực ra, thì kinh Đại Thừa nào cũng là vua trong các kinh, có điều là trong pháp hội Hoa Nghiêm, sự triển khai chân lý và mô tả cảnh giới đã đạt tới một mức độ trang-nghiêm-vĩ-đại-kỳ-đặc khó thể sánh kịp.
Vì kinh này diễn nói kỹ càng hơn cả về Chân lý rốt ráo tối thắng của Chư Phật ba đời và mười phương, về Chân lý Duy-tâm-sở-hiện, từ đó phát xuất ra mọi pháp môn.
Vì kinh này diễn nói đến Ngằn Mé của cùng tận nhập vào vô tận, ngằn mé của phổ-biến của phổ-huyễn-môn của phổ-huyễn-tế nhập vào Chơn-thiệt-tế, ngằn mé của vô lượng nhập vào Một rồi lại từ Một khởi thành vô lượng, ngằn mé của cái bóng mờ vô minh nhập vào Chân-tâm rồi lại lìa Chân-tâm-như-như để khởi lên mọi cảnh giới như huyễn siêu xuất hay thô kệch.
Vì kinh này diễn nói về cái vòng huyễn hiện của mọi cảnh giới, về tính chất không thực không hư của chúng về những huyễn-ảnh-trùng-trùng-duyên-khởi-tương-ưng, trùng trùng thẩm thấu lẫn nhau, trùng trùng ảnh tượng lẫn nhau, trùng trùng vừa là thân vừa là cõi, trùng trùng vừa là lớn vừa là nhỏ, trùng trùng vừa là kiếp vừa là sát-na, trùng trùng biến ảo tùy theo tâm thức nghiệp lực chúng sanh và thần lực gia trì… Tâm thức càng lên cao bao nhiêu, càng lìa bỏ tình nhiễm bao nhiêu, lại càng biến ảo ngần ấy.
Vì kinh này diễn nói về Trí-vi-tế của Đại Bồ Tát để hóa giải Không gian, về Trí-bình-đẳng ba đời để hóa giải Thời gian, về cách giữ Tâm trạm nhiên bất động để hóa giải mọi sự lay động, tiến tới bậc Vô khứ vô lai.
Vì kinh này diễn nói về Quang Minh, về quang minh của Pháp-thân-thuờng tịch-quang, về quang minh của tâm đã chuyển thành Tàng thức, về những quang minh phóng ra bởi những lỗ chân lông trên thân Phật, về những lỗ chân lông gọi là Sái-cam-lồ hoặc Nhựt-quang minh của Nhu Lai hay phóng quang minh, về những quang minh vi diệu trong đó Bồ Tát xuất hiện nhiều nhu mây vì các quang minh ấy dệt nên diệu sắc thân Bồ Tát, về các quang minh hay phát ra diệu âm… về các quang minh bị nặng nề bởi tình nhiễm và kết nên thân căn thô kệch chúng sanh.
Vì không khí của kinh này toàn là quang minh, là thần biến, là tam-muội, là thần lục được thi triển liên miên để gia trì cho các Bồ Tát và chúng hội.
Vì pháp hội Hoa Nghiêm này rất là kỳ đặc.
Vì Đức Bổn Sư Mâu Ni, cũng như tất cả chư Như Lai khác, mỗi khi thị hiện thành Chánh giác xong bao giờ cũng triệu nhóm một pháp hội Hoa Nghiêm để diễn nói về những cảnh giới tuyệt đỉnh cao vời của sự chứng nhận Vô-thượng bồ-đề. Và ngay giờ phút này, trong rất nhiều cõi, vẫn có những pháp hội Hoa Nghiêm đương được triệu nhóm, mà chúng ta không hề hay biết.
Vì pháp hội này chỉ triệu nhóm toàn những bậc Đại Bồ Tát có đầy đủ tam-muội-thần-thông-lực, những vị Thế-gian-chủ tức là những vị vua ở các tầng trời, những vị Quỷ thần vương, những Chủ đa thần, Đạo tràng thần, Sơn thần, Hải thần v.v… hết thảy đều đầy đủ hạnh nguyện Phổ Hiền và thân chứng nhiều giải thoát môn… Và tuyệt nhiên không có đệ tử người được tham dự. Chỉ trừ ở phần sau của pháp hội, có thấy xuất hiện một số đệ tử người của Phật, như ngài Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất…v.v… Song các vị đệ tử người này tuy đã thân chứng quả vị A La Hán, nhưng ngồi ở ngay nơi pháp hội, mà vẫn như đui, như điếc. Chẳng nhìn thấy gì, chẳng nghe thấy gì. Chẳng nhìn thấy thân tướng của các bậc Đại Bồ Tát, chẳng nhìn thấy những thần biến liên miên diễn ra ở nơi cảnh giới đạo tràng, cũng chẳng nghe được những lời diễn nói của các bậc Đại Bồ Tát… Vì sao vậy? Vì Đạo lực không đồng, đạo lực còn thấp kém, tam-muội-lực còn thấp kém. Những diệu-sắc-thân của các bậc Đại Bồ Tát kia đều được dệt nên bởi những thứ quang minh quá vi diệu, các thần biến cũng đều là sự biến hiện của những màng lưới huyễn-quang-minh vi diệu, nên các vị ấy đều chưa đủ nhân lực vi tế để nhìn thấy. Chỉ trừ có ngài Xá Lợi Phất cùng 6000 Tỳ-kheo đệ tử là được nhìn thấy ít nhiều, vì được sự gia trì của thần lực của ngài Văn Thù Sư Lợi.
Vì thời gian tính của pháp hội này được ghi là kéo dài 21 ngày, nhưng cũng có thể trải dài ra từng kiếp số.
Vì khung cảnh không gian của pháp hội mở đầu ở cảnh giới Bồ Đề đạo tràng, nhưng lần lần được di động lên cung trời Đao Lợi, cung trời Dạ Ma, Đâu Suất, rồi đến cung trời Tha hóa tự tại, tức là ngay nơi cung điện sào huyệt của Ma Vương… Và càng di động lên cao bao nhiêu, thì những pháp môn diễn nói lại càng vi diệu thậm thâm ngần ấy.
Vì trong pháp hội này, Đức Bổn Sư Mâu Ni chỉ hiện Báo thân Tỳ-lô-giá-la ngồi chứng minh, ít diễn nói, chỉ thi triển thần lực liên miên để gia trì cho pháp hội. Chư Phật mười phương cũng đồng thời phóng quang hộ trì… Trong khi đó, thì các bậc Đại Bồ Tát dẫn đầu bởi ngài Phổ Hiền, và Văn Thù, lần lượt được vấn minh bởi các Bồ Tát khác, đã tuần tự đứng lên luận bàn diễn nói về chỗ chứng nhận của mình, về những cảnh giới siêu xuất bất tu nghi, về các thứ bậc tu chứng của các vị Bồ Tát noi theo hạnh nguyện Phổ Hiền.
Vì trong pháp hội này, kệ Hoa Nghiêm nhiều như sao sa. Và hay tuyệt vời. Sau khi vân tập đến, các bậc Đại Bồ Tát cùng Thế gian chủ đầu lần lượt đứng lên, nói kệ tán thán bậc Như Lai cùng tán thán Chân lý bất-tư-nghì là Duy-tâm-sở-hiện… Rồi ngài Phổ Hiền mở đầu pháp hội, nhập cơn đại-tam-muội diễn nói về sự huyễn hiện của Hoa Tạng thế giới này nổi lên từ Diệu tâm. Ngài mô tả những đại-phong-luân khởi nghiệp lực, khởi lên như thế nào, xoay thế nào, làm lần lần phát hiện những thủy-luân hỏa-luân như thế nào, rồi làm phát hiện những cõi Vô sắc, cõi sắc, cõi Dục như thế nào? Ngài nói rõ danh hiệu các cõi, các thế giới, các thế-giới-chủng, các thế-giới-hải ở mười phương, cùng hồng danh chư Như Lai ngự trị tại các quốc độ đó. Ngài nói rõ các cõi hình trạng như thế nào, an lập như thế nào, nương về đâu, trụ về đâu, thành-thành-hoại-hoại xoay vần tương tự như là mọc rồi lá rụng. Và Ngài cũng dạy rõ rằng: Tất cả những thế-giới-hải bao la bát ngát ấy đều chỉ như những tế bào, những bộ phận kết lại thành những cánh hoa, rồi cánh hoa họp lại thành một bông Đại Bửu Liên Hoa, lúc mở ra lúc héo hắt đi, và bông Liên Hoa đó trụ trên cái cọng hoa gọi là Chủng-chủng-quang-minh-nhụy-huơng-tràng.
Sau đó là ngài Văn Thù Su Lợi cùng nhiều vị Đại Bồ Tát khác lần lượt đứng lên, diễn nói về tịnh hạnh, phạm hạnh. Ngài Hiền Thủ nói một bài kệ rất dài, nói rằng lòng tin thanh tịnh là mẹ của các công đức, nói về các thứ quang minh, về các thần-biến-tam-muội-đại-tự-tại-lực của bậc Đại Bồ Tát. Rồi một vị khác diễn nói về những công đức bất tư nghi không ngằn mé của sự sơ-phát-tâm, tức phát Vô-thượng-bồ-đề-tâm… Khi pháp hội được di động biến hiện lên cung trời Đao Lợi, thì một bậc Đại Bồ Tát, được sức gia trì của chư Như Lai, đứng lên diễn nói về Thập Trụ… Rồi lần lần diễn nói đến Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng… Khi pháp hội được di động lên cung trời Tha hóa tự tại, thì ngài Kim Cang Tạng Đại Bồ Tát được sức gia trì của chư Như Lai, đứng lên diễn nói về thứ bậc tu chứng thậm thâm là Thập Địa.
Rồi đến ngài Phổ Hiền diễn nói hai phẩm về Thập Định và Thập Thông, mô tả những thứ đại-tam-muội cùng thần lực-tự-tại-vô ngại của các bậc Đại Bồ Tát đã bước lên những quả vị tột cùng là Đẳng giác rồi Diệu giác… Sau đó là phẩm thứ 30 tức phẩm A-tăng-kỳ, do chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói. Trong phần này, do sự vấn minh của ngài Tâm Vương Bồ Tát, Đức Phật đã trả lời bằng một bài kệ dài, và bài kệ này hầu như làm một bảng Tổng kết về ý nghĩa thâm thâm vi diệu bất khả thuyết của sự chứng nhập của các bậc Đại Bồ Tát, cũng như về ý thú bất khả thuyết của kinh này. Sau đó, là phẩm Ly Thế Gian, do ngài Phổ Hiền nói… Rồi đến phẩm 39, tức phẩm Nhập Pháp Giới, dài chừng 600 trang, mô tả bước đường tiến tu cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử, lần lượt đi học hỏi về Bồ Tát đạo, ở nơi hơn 50 vị thiện tri thức, trong số đó là bà Ma Gia phu nhân, ngài Quán Thế Âm, ngài Di Lặc và cuối cùng là ngài Phổ Hiền… Rồi bản kinh Hán văn tạm kết thúc bằng phẩm thứ 40, diễn nói về mười hạnh nguyện vương của ngài Phổ Hiền…
Để gợi ít nhiều ý niệm về giáo lý Hoa Nghiêm, thiết tưởng cần lắng nghe vài câu kệ do chính Đức Thế Tôn nói trong phẩm A-tăng-kỳ:
Bất-khả-ngôn-thuyết bất-khả-thuyết
Sung mãn tất cả bất khả thuyết
Trong những kiếp bất khả ngôn thuyết
Nói bất khả thuyết chẳng hết được.
Bất khả ngôn thuyết các cõi Phật sự
Thảy đều nghiền nát làm vi trần,
Trong một trần, bất khả thuyết cõi
Như một, tất cả đều như vậy…
………
Nơi đầu một lông có những cõi
Số đó vô lượng bất khả thuyết,
Khắp suốt hư không những đầu lông
Nơi mỗi lông, số cõi cũng vậy…
Ở trên thân mỗi Đức Như Lai
Hiện bất khả thuyết lỗ chân lông,
Trong mỗi mỗi lỗ chân lông kia
Hiện những sắc tướng bất khả thuyết,
Bất khả ngôn thuyết lỗ chân lông
Đều phóng quang minh bất khả thuyết,
Ở trong mỗi mỗi quang mình kia
Đều hiện liên hoa bất khả thuyết,
Ở trong mỗi mỗi liên hoa kia
Đều có những cảnh bất khả thuyết,
Trong cảnh của bất khả thuyết hoa,
Đều hiện sắc tướng bất khả thuyết,
Trong những sắc bất khả thuyết kia
Lại hiện cánh hoa bất khả thuyết,
Trong hoa quang minh bất khả thuyết,
Trong hoa sắc tướng bất khả thuyết,
Trong sắc tướng bất khả thuyết này
Mỗi mỗi hiện quang bẩt khả thuyết,
Trong quang hiện nguyệt bất khả thuyết
Nguyệt lại hiện nguyệt bất khả thuyết,
Trong bất khả thuyết những mặt nguyệt
Mỗi nguyệt hiện quang bất khả thuyết,
Nơi trong mỗi mỗi quang mình kia
Lại hiện mặt nhựt bất khả thuyết…
……….
Hoặc lại ở trong một đầu lông
Bất khả thuyết Kiếp thường an trụ,
Như một đầu lông, khác cũng vậy
Số kiếp an trụ đều thế cả,
Tâm đó vô ngại bất khả thuyết
Biến hóa Chư Phật bất khả thuyết
Mỗi mỗi biến hóa các Như Lai
Lại hiện biến hóa bất khả thuyết
Phật kia Pháp thân bất khả thuyết
Trang nghiêm vô lượng bất khả thuyết
Qua đến mười phương bất khả thuyết
Thanh tịnh chúng sanh bất khả thuyết…
Bài kệ A-tăng-kỳ này dài 15 trang… Có đôi lần, khi tụng xong bài kệ này, kẻ viết thấy bàng hoàng ngơ ngẩn, không hiểu mình là cái gì nữa. Thấy mình có lẽ cũng chỉ là một vọng-tưởng-huyễn-hoặc-trùng-trùng-triền-miên và bất-khả-thuyết.
Bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết… Pháp giới bao la chỉ là một biển quang minh chập chùng, khi mở ra thì kết lại thành một bông Đại Liên Hoa Chủng-chủng-quang-minh-nhụy-hưong-tràng, nghiêm sức toàn bằng diệu bửu, để cúng dường Pháp-thân-thường trụ cùng Chư Như Lai tức là Pháp-thân-hiện-tướng. Và khi thu lại, thì chỉ cỏn là một Niệm-hiện-tiền-an-trụ-vi-mật-như-như-tịch-tịch… Bởi thế nên: nói không được, nói không được..1?
Gần đây, các nhà thiên văn học nhận thấy rằng có những giải ngân hà hình như Nở ra, vì tinh tú càng ngày càng xoay vần, chạy cách xa nhau với một thể tốc rất lớn, nên họ đã đưa thuyết Big Bang, nghĩa là có một vụ Nổ Tung rất lớn, khiến cho các tinh tú bắn tóe ra xa nhau… Nhưng rồi họ lại nhận thấy rằng có những giải ngân hà hình như Co lại, vì trong đó, các tinh tú càng ngày càng xích lại gần nhau hơn…
Thiết tưởng đó rất có thể chỉ là những chu kỳ Nở ra hoặc Cúp lại của những cánh hoa của Hoa Tạng thế giới… Nên nhớ rằng lời kinh không ít có mảy may hư vọng. Vì những bậc nói kinh đều là bậc Đại Giác, có đủ Ngũ Nhãn, chứ không phải chỉ có một đôi Mắt Thịt với mấy chiếc ống nhòm như các nhà khoa học gia đâu…
Về kinh Hoa Nghiêm và cảnh giới Hoa Nghiêm, các bậc cổ đức đã từng chú giải và trước tác khá nhiều, để lý giải về lý nghĩa u huyền. Nhưng đáng kể nhất là những ngài: Đỗ Thuận, Trí Nghiễm, Pháp Tạng tức Hiền Thủ, Trung Quán tức Thanh Lương và ngài Tông Mật… Các ngài đều là những bậc Đại sư, Thủy tổ của tông Hoa Nghiêm tại Trung Quốc, và chắc rằng đều là Hóa thân của những bậc đại Bồ Tát, xuất hiện nơi đời rải rác từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 9, để chú giải về bộ kinh tuyệt đỉnh của Chư Phật.
Ngài Đỗ Thuận đã trước tác bộ Pháp Giới Quán (Meditation the Dharmadhatu). Tương truyền Ngài là Hóa thân hoặc một ứng thân của Đức Văn Thù Sư Lợi ở Ngũ Đài Sơn. Trong lúc sinh thời, Ngài có nhiều lần thị hiện thần lực.
Ngài Trí Nghiễm viết bộ Sưu Huyền Ký và Thập Huyền Môn Luận.
Ngài Pháp Tạng viết bộ Thám Huyền Ký.
Ngài Trừng Quán viết bộ Hoa Nghiêm Sớ Sao… Sự hoằng pháp của các Ngài khiến cho Tổng Hoa Nghiêm một thời rất lừng lẫy, rất được hâm ngộ tại Trung Hoa, nhất là trong giới thượng lưu trí thức.
Kẻ viết vì không biết chữ Hán, nên vô duyên có mắt cũng như mù, không được đọc sách của các Ngài… Chỉ thỉnh thoảng được đọc những đoạn lược dịch sang thứ tiếng khác mà thôi. Và hoàn toàn nhờ ơn Hòa Thượng Thích Trí Tịnh đã dịch sang Việt ngữ nên mới được đọc bộ Hoa Nghiêm mà thôi.
Bàn luận về giáo lý Hoa Nghiêm, các nhà học Phật hoặc tu Phật thường hay nhắc tới những điểm như: sáu tướng viên-dung-vô-ngại, Thập huyền môn, hoặc Lý-sự-vô-ngại-pháp-giới hay Sự-sự-vô-ngại-pháp-giới.
Thực ra thì mấy chữ vô ngại và viên dung bao giờ cũng đi liền với giáo lý Hoa Nghiêm, vì cả bộ Kinh Hoa Nghiêm chỉ cốt giảng nói về tính chất vô ngại và viên dung của cái Pháp-giới-trùng-trùng-huyễn-hiện này… Trong phẩm rất quan trọng là phẩm Ly Thế Gian, trang 1395, ngài
Phổ Hiền có giảng nói rất dài về hai chữ Vô ngại, Ngài nói: “Chư Phật tử! Đại Bồ Tát có mười vô-ngại-dụng: Chúng sanh vô-ngại-dụng, quốc độ vô-ngại-dụng, pháp vô-ngại-dụng, thân vô-ngại-dụng, cảnh giới vô-ngại-dụng, thần thông vô-ngại-dụng…v.v…
Chư Phật tử! Thế nào là quốc độ vô ngại dụng?
Là đem tất cả cõi vào một cõi, vô-ngại-dụng.
Là đem tất cả cõi vào một lỗ chân lông, vô-ngại-dụng.
Là một thân ngồi kiết già đầy khắp tất cả cõi, vô-ngại-dụng.
Là trong một thân hiện tất cả cõi, vô-ngại-dụng.
Chư Phật tử! Thế nào là thân vô-ngại-dụng?
Là đem tất cả thân chúng sanh vào thân mình, vô-ngại-dụng.
Là đem thân mình vào thân tất cả chúng sanh, vô-ngại-dụng.
Là đem một thân đầy khắp tất cả pháp tam thế thị hiện cho chúng sanh, vô-ngại-dụng.
Là nơi một thân thì hiện vô biên thân nhập tam muội, vô ngại dụng.
Là nơi một thân thị hiện thân đồng số chúng sanh thành chánh giác, vô ngại dụng…
Chư Phật tử ! Thế nào là thần-lực-vô ngại dụng?
Là đem bất khả thuyết thế giới để vào một vi trần, vô ngại dụng.
Là trong một vi trần hiện khắp pháp giới tất cả cõi Phật, vô ngại dụng.
Là đem nước tất cả đại hải để vào một lỗ chân lông qua lại cùng khắp mười phương thế giới mà không làm xúc não chúng sanh, vô ngại dụng.
Là đem bất khả thuyết thế giới nạp trong thân mình, thị hiện tất cả việc làm do sức thần thông, vô ngại dụng.
Là dùng một sợi lông buộc bất khả số núi Kim Cang, núi Thiết Vi, cầm đi du hành tất cả thế giới, chẳng làm cho chúng sanh có lòng kinh sợ, vô ngại dụng.
Là đem bất khả thuyết kiếp làm một kiếp, một kiếp làm bất khả thuyết kiếp, trong đó thị hiện các sự thành hoại sai biệt, mà chẳng làm cho chúng sanh có lòng kinh sợ, vô ngại dụng…
Đoạn kinh này rất dài, chỉ xin lược trích để có một ý niệm về Vô-ngại-lực của Đại Bồ Tát… Và chắc rằng các bậc Tổ của Tông Hoa Nghiêm cũng đã y cứ nhiều vào phẩm này để dựng lập Thập huyền môn, cùng Sự-sự-vô-ngại-pháp-giới.
Thực ra thì các vị Tổ tông Hoa Nghiêm, sở dĩ đã viết ra Pháp giới quán, hay Thập huyền môn, hay Sự sự vô ngại pháp giới… phần thì để lý giải giáo lý Hoa Nghiêm, nhưng phần chính yếu là để dựng lập những pháp tu tập thiền quán để các đệ tử cùng người đời noi theo, để có thể thân chứng được giáo lý Hoa Nghiêm… Vào thời kỳ đó, tức là thời Tượng pháp, căn cơ của những người tu hành còn khá cao, nhưng chắc rằng cùng phải trải qua một thời gian lâu dài, từ công phu thiền quán mới có thể thân chứng được một phần về giáo lý Hoa Nghiêm.
Chúng ta ngày nay sanh nhằm vào thời Mạt pháp. Có nghĩa là đại đa số chúng ta đều căn cơ thấp kém, nghiệp chướng sâu nặng, trí huệ mỏng quanh. Cho nên, chỉ đọc kinh Hoa Nghiêm hoặc tư duy về lời kinh để mong tìm lấy một niềm tín giải cũng đã thấy khó khăn lắm rồi, đừng nói chi tới việc tu tập thiền quán để cầu mong thân chứng.
Nên mục đích của chương này cũng chỉ là cốt gợi lên một vài ý kiến, góp ý với bạn đọc, để tìm một cách lý giải và gây một niềm tín giải mà thôi. Vì niềm Tin là mẹ của các công đức, cứ có được niềm tin rồi thì sau đó sẽ lần lượt xuất sanh và thành tựu mọi công đức khác.
Chúng ta vốn từ vô lượng kiếp, sống trong vòng của Nghiệp lực và hoài nghi Thần lực, sống trong vòng kềm tỏa của không gian, của thời gian, của thế giới sai biệt. Lúc nào cũng khư khư, ngay cả trong giấc ngủ, ôm lấy cái chủ thể nhận thức của mình, để đối lập với sự vật, rồi luôn luôn phân biệt sự vật, phân biệt đến vô cùng vô tận… Nên càng ngày càng xa lìa cái Từ tâm của mình, quên rằng tất cả sự vật đều chỉ là sự huyễn hiện của Từ tâm do nghiệp lực chiêu cảm, quên rằng cảnh không thể nào tách rời khỏi trí, và quên rằng chính nơi đáy tầng của tụ tâm mình chính là một thế-giới-vô-sai-biệt tương tự như biển cả là thế giới-vô-sai-biệt của vô lượng những đợt sóng sự vật hay tâm thức… Bởi thế nên khi chúng ta nhìn sự vật, hoặc đi lỏng vỏng giữa những khung cảnh sự vật, thì ta thấy rằng sự vật nào cũng đều là những tiền-trần-cách-biệt-lưu-ngại cả. Chỉ là vì trong tâm thức ta đã luôn luôn tiềm phục những tập-khí-cách-biệt-lưu-ngại rồi… Cho nên, khi ta nghe nói tới Sự-sự-vô-ngại-pháp-giới, thì ta ngớ người ra, khó thể quan niệm nổi. Ta tự hỏi: “Sự luôn luôn lưu ngại ta, lưu ngại thân ta, thì làm sao lại có thể Sự-sự-vô-ngại được?!…”
Khi nghe nói đến Thập huyền môn cũng vậy, ta khó thể mà quan niệm nổi… Nào là “Nhơn-đà-la võng cảnh giới”, nào là “Vạn pháp đồng thời cụ túc tương ứng”, nào là “Vạn pháp quảng hiệp tự tại vô ngại…”…v.v… “Nhcm-đà-la võng cảnh giới” có nghĩa là: Tất cả thế giới, các cõi đều chỉ là những thế giới ảnh tưởng chập chùng, tương tự như những thế giới trong màng lưới Nhơn-đà-la của vua Đe Thích. Theo lời kinh, vị vua này vốn có cái màng lưới báu, dệt bằng tơ trời, ở mỗi mắt lưới lại có gắn một hạt bửu châu. Mỗi hạt châu thường chói sáng đến muôn trượng, hạt này hạt khác chói sáng phản chiếu lẫn nhau, lóp lớp không cùng tận. Còn “Vạn pháp quảng hiệp tự tại vô ngại” có nghĩa là: Các sự vật, lớn như một cõi hoặc nhỏ như một vi trấn đều có thể dung thông, xen-lẫn-lồng vào nhau một cách tự tại vô ngại… Chúng ta, với phàm thức thông thường, thực tình khó có thể quan niệm rằng làm sao lại có thể mang một cõi đặt vào một lỗ chân lông hay một vi trần được?!…
Những ám chướng tập khí mê mờ trong tâm thức ta, đã được tích lũy tầng tầng lớp lớp, rất khó gột rửa. Nhưng nếu ta chịu khó lần giở lại những trang kinh, thì ta sẽ nhận thấy có nhiều ngọn hải đăng được rải rác, để chiếu sáng cho sự tư duy cùng lý giải về giáo lý Hoa Nghiêm. Ngoài cái chân lý tối thượng “Duy tâm sở hiện” luôn luôn được nhắc đi nhắc lại trong những kinh Lăng Già, Hoa Nghiêm hay Lăng Nghiêm…, ta còn thấy có nhiều đoạn kinh tương tự như những “chìa khóa” mở đường cho sự lý giải và tín giải. Tỷ dụ như mấy đoạn sau đây:
Kinh Hoa Nghiêm, trang 1396, dạy:
Tất cả pháp đều từ duyên khởi.
Tất cả pháp đều như huyễn.
Tất cả pháp đều như như.
Tất cả pháp đều tịch tịnh.
Kinh Hoa Nghiêm, trang 1380, dạy:
“Đại Bồ Tát có Trí như biển biết rõ chư Phật thảy đều Như Mộng, mà vẫn hay đến chỗ chư Phật cung kính cúng dường”.
Kinh Hoa Nghiêm, trang 580, dạy:
“Đức Phật là Tạng Quang Minh Vô Biên, luôn luôn dùng quang minh lớn chiếu khắp chúng sanh… Lúc đó, cả đại chúng đều thấy thân Như Lai: Mỗi lỗ chân lông tuôn ra trăm ngàn ức na-do-tha quang minh, mỗi quang minh có vô sổ màu, vô số chiếu sáng… Trong quang minh, vang ra tiếng lớn vi diệu…”
Kinh Lăng Già, trang 383, dạy:
“Này Đại Huệ! Ví như cát sông Hằng không có hạn lượng, Như Lai Quang Minh cũng lại như thế, không có hạn lượng, vì thành thục chúng sanh mà không ngừng nghỉ chiếu soi khắp nơi…”
Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa, vào đoạn đệ thất địa, có những câu kệ sau:
Trong cõi các loài thân chúng sanh,
Trong thân lại có các loại cõi
Trời, người các loài đều riêng khác
Phật đều biết rồi đem giảng dạy…
Cõi lớn Tùy Niệm biến thành Nhỏ
Cõi nhỏ Tùy Niệm cũng biến Lớn….
Thần thông như vậy số vô lượng,
Thế gian chung kể không thể hết…
Ngoài ra, còn nhiều đoạn kinh như vậy, kể không xiết.
Chúng ta hãy thử cố gắng lý giải mấy đoạn kinh sách yếu trên đây.
“Tất cả pháp đều từ duyên khởi… đều như huyễn… đều như như, tịch tịnh…” có nghĩa là: Một kẻ phàm phu, khi nhìn sự vật, thì thấy rằng có vật này sanh ra vật kia, có người mẹ sinh ra người con, có cây sanh ra hoa lá, có nắm bùi nhùi và đá lửa sanh ra lửa. Một kẻ hành giả mới bước vào đường tu đạo, đạo lực còn nông cạn, thì thấy rằng mọi vật đều do nhân duyên sanh khởi, đều trùng-trùng duyên-khởi… Nhưng một bậc Đại Bồ Tát, khi nhìn sự vật và cảnh giới, lại có một Nhãn Quan siêu xuất khác chúng. Thấy mọi sự mọi vật chỉ là huyễn hiện, là biến hiện. Đeu chỉ là những ảnh-tượng-như-huyễn, như bào-ảnh-mộng ảo-lộ-điển, không thật không-hư… Như trăng đáy nước, như hoa trong gương, như ảo ảnh nước giữa sa mạc, như hoa đốm giữa hư không. Chẳng phải hư, vì có những chúng sanh nhìn thấy, đeo đuổi nắm bắt và khởi phiền não đủ thứ. Nhưng chẳng phải thật có, vì có rất nhiều chúng sanh khác, một nghiệp lực khác, lại không nhìn thấy… Đeu chỉ là sự biến hiện của tự tâm, do nghiệp lực chiêu cảm tương ưng… Cho nên, Đại Bồ Tát liễu tri rành rẽ đủ mọi thứ ảnh tượng, mà tâm vẫn bất động, không chấp trước, không mảy may tình nhiễm. Dù có rơi một giọt lệ Đại Bi, mà tâm vẫn không động.
Đồng thời, cũng thấy mọi vật đều như như, tịch tịnh, nghĩa là bản lai vẫn rỗng lặng, trạm nhiên ở trong cái Chân Tâm Diệu Minh… vẫn khởi sắc tướng đấy, vẫn niệm-niệm-sát-na-sanh-diệt đấy, mà vẫn là vô sanh. Chẳng phải thứ lớp sanh, cũng chẳng đồng thời sanh. Chẳng phải có nhân sanh, cũng chẳng phải không nhân… Vì chỉ là Biến Hiện. Bởi vậy, Đại Bồ Tát có Trí-như-biển khéo nhập tất cả pháp giới, nhập vô ngại, nhập chẳng đoạn chẳng thường, chẳng sanh chẳng diệt.
Cho nên, Đại Bồ Tát cũng “có trí như biển Biết rõ chư Phật thảy đều Như Mộng, mà vẫn hay đến chỗ Phật để cung kính cúng dường…”
Hai đoạn kinh Hoa Nghiêm và Lăng Già kể tiếp, chỉ rõ ràng chư Phật chính là Tạng Quang Minh.
Đoạn kinh sau cùng cho ta chiếc chìa khóa về cái bí ẩn của Lớn Nhỏ, về kích thước, về Không gian. “Cõi Lớn Tùy Niệm biến thành Nhỏ, Cõi Nhỏ Tùy Niệm cũng biến lớn…” Như thế, Lớn hay Nhỏ là tùy theo sự Động Niệm, tùy theo ba-động-tâm-thức hay làn-sóng-quang-minh-tâm-thức của chúng sanh nhận thức.
Từ những đoạn kinh trên, để gây niềm tính giải, chúng ta có thể tạm suy diễn ra một trình tự lập luận như sau để ý hội giáo lý Hoa Nghiêm:
Pháp-thân-thường-trụ có thể coi như là một Biển Tinh-lực-uyên-nguyên, cỗi nguồn của vũ trụ pháp giới. Biển tinh lực ấy chính là Biển Quang Minh uyên nguyên và vi diệu bậc nhất. Quang minh này được gọi là Bất Động, chính là vì nó chuyển động cực kỳ mau lẹ, có thể tốc vô cùng tận… Bình diện này (plan) cùng được gọi là Thường-tịch-quang. Pháp-thân-thường-trụ này có thể coi như là vừa phi-thần-hóa, vừa thần-hóa. Chữ Pháp là chỉ ý nghĩa phi thần hóa, còn chữ Thân là chỉ ý nghĩa thần hóa…
Thực ra, thì thần hóa hay phi thần hóa cũng chỉ là những ý niệm giả tưởng (faux con-cepts) dựng lập nên do phàm thức phân biệt của chúng sanh. Còn như thực tại hay mọi sự vật chỉ vẫn như-như-tịch-tịnh-trạm-nhiên-rỗng-lặng, không có cái gì có thể thực gọi là thần hóa hay phi thần hóa, hoặc hữu tình hay vô tình được.
Pháp-thân-thường-trụ ấy chính vừa là Cõi lại vừa là Thân-vô-biên Chư Phật. Khi các ngài Động Niệm do lòng Đại-từ-bi-bình-đẳng và Trí tuệ Bát-nhã, thì một cơn-lốc-hư-minh (vorstex hay tourbillon de radiations) nổi lên từ Biển quang minh đó, chuyển động Chậm Lại, rồi hiển hiện thành sắc Tướng… Những sắc tướng này đều không có ngã, không có nghiệp, vì hoàn toàn do Bi nguyện từ vô lượng kiếp làm thành, nên kết tập toàn những quang minh vi diệu, và biến hóa tự tại không cùng.
Tất cả chúng sanh cũng từ biển Pháp thân ấy mà ra. Khi chúng sanh Động Niệm, thì cũng làm nổi lên một cơn lốc hư minh. Nhưng do những tập-khí-chấp-ngã cùng những tập-khí-tình-nhiễm tích lũy từ vô thủy, nên cơn lốc hư minh này càng ngày càng trở thành nặng nề thô kệch, ngày càng chuyển động Chậm Lại, và chỉ có thể kết tập nên một sắc tướng Thân Căn thô kệch, Tương Ưng với những tập khí nghiệp lực của mình. Và thân căn ấy bao giờ cũng được đặt vào một hoàn cảnh y-báo tương ưng với những tập khí nở ra của nghiệp lực. Lý ưng là như vậy. Pháp chỉ là như vậy…
Cho nên, kinh Lăng Nghiêm dạy rằng sắc thân của chúng sanh tức là những kiên-cố-vọng-tưởng của chúng sanh, còn bốn ấm kia (thọ, tưởng, hành, thức) là những hư minh hay điên đảo vọng tưởng.
– Thân căn không thể tách rời khỏi quốc độ y báo, và cảnh giới không thể tách rời khỏi trí nhận thức của chúng sanh. Cho nên, đối với mỗi chúng sanh, pháp giới chỉ là những ảnh-tượng-chập-chùng, huyễn hiện nên bởi quang minh của nghiệp lực.
Bí Ẩn của pháp giới là chỗ Động Niệm, chư Phật động niệm khác, chúng sanh động niệm khác. Chư Phật động niệm với cái tâm bao la vô trụ. Chúng sanh động niệm với cái tâm nhỏ hẹp, lệch lạc, vướng mắc đủ thứ, vì bị rất nhiều màn sương mù ngăn che.
Mỗi một sự động niệm, mỗi tâm niệm hay tâm tưởng, đều làm phát xuất một màng lưới quang-minh-võng. Và mỗi chúng sanh, hay mỗi loài chúng sanh đều thường làm phát xuất một thứ quang-minh-võng riêng biệt của mình.
Nói theo sự hiểu biết của khoa học thời nay, quang minh có thể gọi là radiations. Khoa học ngày nay mới chỉ đường nghiên cứu những quang minh ở chung quanh cái quang phổ (spectre electro Smagnetique) bảy mầu của ánh sáng. Ở mức độ dưới màu đỏ (infra rouge) của ánh sáng, tức là những quang minh của âm thanh, của radar. Ở trên mức độ của màu tím (ultra violet) là những quang minh của quang tuyến X hay quang tuyến Gamma. Đó đều là những quang minh thấp kém, thô kệch và chuyển động chậm, mà có lẽ kinh Phật gọi là quang minh quyến thuộc. Khoa học ngày nay mới chỉ có thể biết được những quang minh ấy, chưa thể biết được những quang minh vi diệu, nhất là những quang minh tâm thức. Tuy nhiên, đã có một, hai nhà khoa học bắt đầu nghĩ rằng có là vũ trụ này là do radiations kết tập nên.
Mỗi làn sóng radiation đều có một thứ chiều-dài-ba-động (longuer d’ondee) của nó, và một tầm số (frequence vibratoire) của nó. Tỷ dụ như ba động của âm thanh có thể dài chừng 100 thước, và nhịp tần số rung chuyển là 1.000.000 lần trong 1 một giây. Ba động của radar dài chừng một thước, và tần số là mười tỷ trong một giây… Ba động của bảy màu ánh sáng dài chừng độ 1/100.000 thước, và tần số là 100 triệu triệu (one hundred trillion) lần trong một giây… Ba động của quang tuyến X hay Gamma dài chừng 1/1.000.000.000 thước, và tần số của nó là một triệu triệu triệu (?) (one quintillion) lần trong một giây…
Như thế, ngay đối với những quang ninh thô kệch tầm thường, mà nhũng con số về chiều dài ba động cùng tần số rung chuyển đã ghê gớm kinh khủng, khó thể mường tượng nổi. Nhưng pháp giới là như vậy… Nói chi đến những quang minh vi diệu, những con số dĩ nhiên phải khủng khiếp hơn nhiều… Bởi thế, Phật mới dạy rằng: bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết.
Đôi mắt thịt của phàm phu chúng ta thường thì chỉ nhìn thấy có bảy màu ánh sáng trong cái quang phổ dằng dặc bất tận ấy. Ngoài ra, chẳng nhìn thấy gì khác nữa… Do đó, kẻ phàm phu thường không chịu tin rằng có vô lượng cõi mà ta không nhìn thấy, cũng như có vô lượng chúng sanh mà ta không nhìn thấy, như lời kinh xưa đã dạy và nhắc đi nhắc lại… Tỷ dụ như khi mấy phi hành gia đổ bộ lên mặt trăng, họ tuyên bố rằng đó là một hành tinh chết, chẳng có sinh vật gì cả. Họ đâu có hiểu rằng ở đâu cũng có chúng sanh, có điều là mắt thịt và mấy cái ống nhòm của nguời địa cầu không nhìn thấy nổi mà thôi. Khi có thiên nhãn, sẽ nhìn thấy, vì các chúng sanh đó được dệt bằng thứ quang minh khác với mắt thịt chúng ta…
Nay trở lại vấn đề cõi Lớn cõi Nhỏ. Kinh dạy:
Cõi Lớn Tùy Niệm biến thành Nhỏ
Cõi Nhỏ Tùy Niệm cũng biến Lớn.
Nghĩa là kẻ hành giả biến đổi Tâm Niệm của mình, biến đổi nhịp-điệu-rung-chuyển của nó, là cõi lớn sẽ biến thành nhỏ và nhỏ sẽ biến thành lớn… Lời dạy có vẻ bí hiểm, rất khó mường tượng… Nhưng nếu ta thử suy luận như sau: Hiện nay, với cái tâm thức bất tịnh và đầy ám chướng của ta, thì những tâm niệm của ta phát xuất ra, bất quá cũng chỉ có chiều dài ba động chừng vài ngàn thước, tần số cũng chỉ đo vài tỷ tỷ lần trong một giây, và thể tốc chuyển động trong không gian của nó bất quá cũng chỉ gấp mấy lần thể tốc ánh sáng tức 300.000 km mà thôi. (Cần nói ngay rằng trong pháp giới, so với quang minh vi diệu của tâm thức, thể tốc của ánh sáng là một thể tốc quá kém cỏi…) Nhưng nếu nay ta bước vào đường tu, tu thiền quán, niệm Phật, tu lục độ vạn hạnh để thanh tịnh hóa thân tâm, lần lần khiến cho những quang minh tâm niệm trở thành rất vi diệu, nghĩa là tùy theo ý muốn, vừa có thể rất bao la mênh mang vừa vi tế nhỏ nhiệm, lại chuyển động cực kỳ mau lẹ gấp trăm ngàn vạn lần ánh sáng… Đen mức độ đó, thì dĩ nhiên các hình tướng sự vật sẽ thay đổi khác đi Đối Với Ta, tùy theo thứ quang minh tâm niệm mà ta phát ra. Đó là một suy luận có thể hiểu nổi.
Ngay đến nhà đại bác học Einstein cũng đã từng nghĩ như vậy. Ông nghĩ rằng: Nếu con người nhận thức được đặt vào một hệ thống tiêu chuẩn (systeme de reíerence) chuyển động với một thế tốc rất nhanh, thì các hình tướng sự vật sẽ biến đổi hẳn đi. Einstein nghĩ vậy là rất đúng, nhưng cỏn sai vài điểm… Điểm sai lầm thứ nhất là: Tất cả những hệ thống tiêu chuẩn nhân vi của loài người nhiều lắm chỉ đạt được một thể tốc chừng vài chục ngàn cây số một giờ, và thể tốc ấy, so với quang minh của pháp giới, thì chẳng đi đến đâu. Chỉ thay đổi được chút xíu hình tướng sự vật… Điểm sai lầm thứ hai là: Thay đổi thể tốc của thân căn thì không thể đạt được mấy kết quả, và trọng tâm cần yếu là phải thay đổi nhịp điệu rung chuyển và thể tốc của quang minh tâm thức…
Chư Phật và Đại Bồ Tát là gì? Chỉ là những Bậc đã tu luyện đến mức độ có thể tùy niệm, làm phát xuất Mọi thứ quang minh, từ cực kỳ bao la cho đến cực kỳ vi tế nhỏ nhiệm, và có thể sử dụng một cách tuyệt hảo các thứ quang minh. Khi các Ngài muốn thu nhỏ một cõi, thì các Ngài chỉ việc phóng một thứ quang minh có làn sóng bao la và chuyển động cực mau. Thì cõi đó, Riêng Đối Với Ngài, sẽ thu nhỏ lại nhu một trái am-ma-lặc đặt trong lòng bàn tay… Còn khi các Ngài muốn biến một vi trần thành lớn, thì có lễ các Ngài chỉ cần thu thật nhỏ làn sóng tâm thức và tăng cuờng rất nhiều tần số rung chuyển. Thì lúc đó, tâm các Ngài sẽ lọt vào vi trần ấy, và vi trần sẽ trở thành bao la bát ngát trong đó có thể hóa hiện các thứ cõi đuợc… Cái vụ đó, kinh Hoa Nghiêm gọi là Trí như biển và Trí vi tế… Và khi tâm đã đạt tới mức độ cực kỳ vi tế, thì Thân-diệu-sắc cũng trở thành vừa bao la vừa vi tế.
– Đối với Không gian đã vậy, còn đối với Thời gian cũng vậy, đều có thể thay đổi tâm niệm để hóa giải thời gian, như ở chương sau sẽ có trình bày rõ.
Bởi vậy, nói tóm lại, thì con đường tu hành dù theo pháp môn nào cũng vậy, cũng chỉ là tìm cách Thăng Hoa những quang minh tâm thức, chuyển những quang minh thô kệch thấp kém chất chứa đầy tình nhiễm thành những quang minh vi diệu, vừa bao la mênh mang vừa vi tế nhỏ nhiệm.
– Pháp giới vốn như huyễn vì do quang minh dệt nên. Thân tâm chúng ta cũng vốn như huyễn nhưng còn bị rất nhiều tiền-trần-cách-biệt-lưu-ngại. Chưa được Tự Tại Vô Ngại. Vì sao? Vì còn chứa đầy tình-nhiễm cùng ý-niệm vọng tưởng. Bậc Đại Bồ Tát được thân tâm Vô ngại vì đã lìa hết tình nhiễm cùng vọng tưởng. Có thể đi trên hư không, đi vào nước, đi qua đất, đi qua núi đá, lấy tay rờ rẫm mặt trời mặt trăng, tiêu dao độ sanh tại các cõi, có thể hóa hiện các cõi trong một lỗ chân lông, có thể lấy tay xách nhiều cõi Phật rồi đi du hành mười phương, có thể thu ngắn a-tăng-kỳ kiếp vào một sát-na cũng như có thể kéo dài một sát-na thành nhiều kiếp…
Không có gì lưu ngại được sự khởi niệm của Bậc đó cả. Ngày nay, khoa học cũng xác nhận rằng quang tuyến Gamma có thể vô ngại xuyên qua một tấm bảng dày bằng đồng được, chỉ là vì quang tuyến Gamma là một thứ quang minh tế vi hơn những nguyên tử của chất đồng…
Suy ngẫm kỹ, thì thấy Chân lý của lời kinh vừa thực là rốt ráo tối thắng, vừa thực là thậm thâm vi diệu… Người đọc chỉ còn một cách, là rạp đầu Đảnh Lễ Kinh mà thôi.
Trình tự lập luận suy diễn trên đây, kẻ viết thực tình không dám nghĩ là chắc chắn đúng. Chỉ mong gợi ý, để tìm một lời lý giải, và gây niệm tín giải mà thôi.
Đến đây, để có một ý niệm rõ ràng về tầm vóc bao la và tối thắng của giáo lý Hoa nghiêm hay giáo lý của Chư Phật, thiết tưởng cần nói thêm ít lời về thuyết Ngũ Nhãn của nhà Phật.
Cảnh giới Hoa Nghiêm thường được gọi là những cảnh giới siêu-xuất-giải-thoát-bất-tư-nghì… Song chúng ta tuyệt đối đừng nên nghĩ rằng những cảnh giới siêu xuất ấy chỉ có thể có ở một cõi nào khác, mà không thể có ở cõi Ta-bà này. Cảnh giới Hoa Nghiêm, với tất cả những thần biến, chính là ở ngay trong những cảnh-giới-nhật-dụng-thường-ngày. Có điều là với đạo lực thấp kém, với đôi mắt thịt đơn thuần, chúng ta không thể nào nhìn thấy những quang minh vi diệu cùng mọi thần biến, nó luôn luôn lồng vào trong và ở giữa những quang minh thô kệch tạo nên cảnh giới thuờng ngày của chúng ta. Trừ phi đuợc thần lực của Phật hay Đại Bồ Tát gia hộ… Cảnh giới siêu xuất hay tầm thường đều là do đạo lực cùng nhãn căn của kẻ hành giả đứng nhìn… Chứng cớ là Đức Bổn Sư vẫn ngồi bất động ở nơi Bồ Đề đạo tràng, mà vẫn thị hiện bao nhiêu thần biến. Kẻ đệ tử có đạo lực kém, thì chỉ nhìn thấy một khu rừng già. Nhưng người có đạo lực cao, thì nhìn thấy khu rừng đó rộng rãi thênh thang, thông suốt các cõi, và trong khu rừng thấy đầy rẫy những tòa sen báu và các bậc Bồ Tát xuất hiện nhiều như mây.
Cũng tỷ dụ như trong cái quang phổ nói trên của khoa học ngày nay, đôi mắt thịt của người chỉ nhìn thấy bảy màu của ánh sáng, không hề nhìn thấy những radiations của âm thanh, của radar, hoặc quang tuyến X cùng Gamma. Phải nhờ đến những dụng cụ chế tạo như ống kính hiển vi, ống kính thiên văn, các máy radio… mới biết là có các thứ đó.
Khoa học ngày nay càng ngày càng bắt buộc phải đi sâu vào lãnh vực radiations. Vì đó là con đường thăm dò và khám phá thực tại. Song có thể nói chắc rằng những dụng cụ chế tạo nhân vi bao giờ cũng có giới hạn, và khó thể đi xa được nhiều trong công cuộc thăm dò những quang minh vi diệu. Vì những quang minh vi diệu lại chính là những quang minh của Tâm Thức… Bởi vậy nên ngày nay, ở Nga cũng như ở Mỹ, các cơ quan Ngũ giác đài đã bí mật tiến hành những cuộc trắc nghiệm để sử dụng những làn sóng của tâm thức. Tỷ dụ như họ chọn lấy vài người, có sẵn những khả năng thiên bẩm về định lực (thiên bẩm tức ỉà sanh- đắc-thông nói theo danh từ nhà Phật), cho họ tập luyện một thời gian. Rồi để một người ở Ngũ giác đài, một người ở trên chiếc tàu ngầm dưới đáy biển. Hai người cố tập trung tâm tưởng để thực hiện một vụ truyền giao cách cảm. Nghĩa là truyền thông cho nhau một thứ mật lệnh nào.
Như thế là họ đã bắt đầu muốn sử dụng những làn sóng hay quang minh của tâm thức. Họ tập luyện lâu, thì dĩ nhiên sẽ đạt được ít nhiều kết quả… Nhưng cũng dĩ nhiên là cả người Mỹ lẫn người Nga đều chưa hiểu đạo Phật. Họ chưa thể hiểu rằng: hai cái chìa khóa chính để sử dụng một cách tuyệt hảo những quang minh vi diệu của tâm thức, chính là lòng Đại-từ-bi-bình-đẳng và Trí tuệ Bát-nhã-vô-ngại-như-huyễn. Có hai thứ đó, thì Tâm thể mới gột sạch được mọi tình nhiễm làm nặng nề quang minh, mới đạt được những quang minh tối vi diệu. Và quang minh càng vi diệu bao nhiêu, thì thần lực càng tự tại vô ngại bấy nhiêu… Nếu còn mang tâm chấp ngã và mong cầu để định sử dụng quang minh của tâm thức, thì kết quả vẫn có thể có, nhưng chỉ thấp kém và rất cục hạn thôi… Có thể tiên đoán rằng nếu khoa học đi sâu vão lãnh vực radiations, thì một ngày kia, rất có thể có nhà khoa học gia sẽ vò đầu mà kết luận rằng: Mọi thứ radiations hình như đều thua sút quang minh của tâm thức, và có thể rằng cả vũ trụ này chỉ được treo trên đầu Một Tâm Niệm. Vì những viên-gạch-cơ-bản của vũ trụ này, mà các khoa học gia đương muốn tìm kiếm, viên gạch đó không phải là những vi trần hay cực vi có hình có tướng, mà chính là những tâm niệm hay tâm tưởng vô-hình-vô-tướng.
Cũng cần nhắc rằng những quang minh thấp kém thô kệch (mà khoa học đương khổ công nghiên cứu) cũng đều bắt nguồn ở những quang minh tâm thức, cũng chính là những quang minh tâm thức. Song những quang minh ấy, trải qua vô lượng kiếp, đã bị làm nặng nề bởi tình nhiễm và cộng nghiệp của chúng sanh hoặc loài người, nên chuyển động chậm lại lần lần, (vì chuyển động chậm lại, thì một phần tinh lực tức energie cinetique biến thành trọng lượng tức là vật) trở thành kiên cố vọng tưởng, và cô đọng lại, kết tập thành các hiện tượng đối diện với năm giác quan… Những kết quả mà ngày nay khoa học đạt được, tỷ dụ như máy điện tử, truyền thanh, truyền hình… có thể coi là những phép thần thông nho nhỏ, đạt được do cách thức sử dụng quang minh. Nhưng đó đều là những pháp thế gian hữu lậu. Pháp thế gian là vì mới biết cách thức Sử Dụng vài thứ quang minh hạn hẹp, mà chưa thể Chứng Nhập được Giác thể vi diệu của quang minh. Hữu lậu là vì có bề mặt thì cũng có bề trái, có thể tăng cường một ít quyền năng cho con người nhưng cũng mang lại rất nhiều khổ lụy, và nhất là không thể đem lại niệm thanh bình an lạc cho tâm hồn.
Giáo lý nhà Phật không cần dùng tới những dụng cụ chế tạo nhân vi của khoa học, để cầu mong nắm bắt hoặc sử dụng vài thứ quang minh thô kệch. Trái lại, chỉ mở những pháp môn như thiền quán, niệm Phật, trì chú, tu lục độ vạn hạnh,… để dạy kẻ hành giả tu hành. Để làm gì? Chỉ là để khiến kẻ hành giả ngày càng tế nhận được những quang minh vi diệu nhỏ nhiệm phát xuất từ tâm thức mình, vì những quang minh này, mới là cơ bản. Rồi gột sạch dần mọi vết tích tập khí của tình nhiễm, vọng tưởng, nghiệp lực… rồi Chứng Nhập ngay cái Giác thể tuyệt vời của Biển quang minh Pháp-thân-thường-trụ. Và đạt tới Thần lực rốt ráo, có thể tạo lập hóa hiện các cõi. Con đường có vẻ dài xa, nhưng là con đường rốt ráo tối thắng. Sự chứng nghiệm cũng rất khó phổ biến, vì người tu càng lên cao bao nhiêu, lại càng xa lìa cái mức độ cộng nghiệp của người đời bấy nhiêu. Do đó, nên khá phổ biến sự chứng nghiệm trong những cơn tam-muội của mình… Nhưng chỉ có con đường đó mới có thể đem lại niềm An Lạc vĩnh cửu và không thể nghĩ bàn của tâm hồn… Còn nói về quyền năng, thì quyền năng của khoa học chỉ như một hạt bụi nhỏ sánh với Tu-di sơn của thần lực Chư Phật.
Nay nói đến thuyết Ngũ Nhãn của nhà Phật. Có thể cũng ngay cái quang phổ nói trên của khoa học để suy luận về ngũ nhãn. Và một khi đã lý giải được một phần nào về ngũ nhãn, thì chúng ta cũng có thể có niềm tín giải về các cảnh giới Hoa Nghiêm.
Ngũ nhãn là: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn.
Người thường chúng ta chỉ có một đôi mắt thịt và hai bàn tay để nhìn và sờ mó sự vật Chúng ta cũng thường rất kiêu hãnh về hai thứ đó, rất tin tưởng ở chúng, và không chịu tin tưởng cái gì khác. Những cái mà ta không nhìn thấy, không mó thấy là ta vội vàng bác bỏ ngay, coi như không có. Không biết rằng những cái mà ta mó thấy chỉ là những vọng tưởng, những quang minh đã trở thành kiên cố và tương ứng với xúc giác mà thôi. Đôi mắt thịt cũng vậy, chỉ nhìn thấy được một tiết phần (gamme) rất nhỏ của cái quang phổ bất tận của những quang minh trong pháp giới.
Trong cái quang phổ hạn hẹp nói trên của khoa học, nhục nhãn chỉ nhìn thấy có bảy màu của ánh sáng. Ngoài ra, không thấy gì khác. Bởi vậy, khi ta nhìn một người, ta thấy một hình ảnh có da, có thịt, có mắt mũi đầu tóc… Nhưng nếu tỷ dụ như mắt ta chỉ có thể nhìn thấy những quang tuyến X, thì hình ảnh người mà ta nhìn thấy sẽ chỉ là một bộ xương khô. Và hình tướng sẽ khác hẳn đi… Lại tỷ dụ như mắt ta chỉ có thể nhìn thấy những quang minh của tế bào, của nguyên tử hay điện tử, thì hình ảnh người khi sẽ trở thành một đám mây mù mông lung điện tử… Như thế, đủ thấy rõ rằng mọi hình tướng sự vật chỉ có thể là những ảnh tượng tương ứng với nghiệp lực nhận thức của ta mà thôi.
Ngoài ra, một sắc thân người mà ta trông thấy, Đối Với Ta, thường là một thứ tiền trần lưu ngại, vì ta không thể Đi Qua sắc thân ấy được. Nhưng trái lại, có những thứ quỷ thần, vì nghiệp lực khác cùng quang minh khác, có thể vô ngại đi qua thân người như đi trong hư không vậy.
Tóm lại, Nhục nhãn là như vậy, thường chỉ nhìn thấy những sự vật do tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong) hiệp thành.
Vậy Thiên nhãn là gì? Là mắt có thể nhìn thấy một tiết-phần-quang-phổ rộng lớn hơn, vừa bao la hơn lại vừa vi tế hơn nhiều cái tiết-phần-quang-phổ của nhục nhãn. Nghĩa là có thể nhìn thấy rất nhiều thứ quang minh. Tỷ dụ như nhìn thấy núi Tu-di, nhìn thấy một tầng trời hay nhiều tầng trời, thấy một thế giới hay nhiều thế giới. Đồng thời, lại nhìn thấy những vật rất nhỏ, như vi trùng, vi tử, nguyên tử… và thấy suốt qua các chất lưu ngại nữa.
Có hai thứ thiên nhãn. Một là Sanh-đắc-thiên-nhãn, tức là thứ thiên nhãn do những phước báo, căn lành, cùng công phu tu luyện từ nhiều kiếp trước tích lũy lại rồi chiêu cảm nên khi thọ sanh ra đã có sẵn như vậy rồi. Tỷ dụ như thiên nhãn của các chư thiên ở các từng trời. Cũng như nhục nhãn, thiên nhãn này có nhiều mức độ… Nhục nhãn của người, của con chó, của con chim ó, của con chuồn chuồn đều có sự khác biệt. Tỷ dụ như mắt người có thể nhìn được nhiều màu (couleur), trong khi mắt con chó chỉ nhìn thấy hai màu đen trắng, nhưng trái lại mắt con chó như lại có thể nhìn thấy một vài bóng dáng ma quỷ. Mắt chim ó thì nhìn xa hơn và tinh hơn người. Thiên nhãn cũng vậy. Mắt một chư thiên từng trời Lạc-biến-hóa hay những từng trời cõi sắc, chắc là phải hơn thiên nhãn của một chư thiên ở trời Đao-lợi. Theo kinh Lăng Nghiêm, thì những vị trời ở những từng trời cao thường nhìn thấy những từng trời ở dưới thấp hơn, còn những vị ở thấp thì ít khi nhìn thấy những từng trời trên. Thông lệ là như vậy. Nhưng dĩ nhiên cũng có nhiều biệt lệ do công phu tu luyện.
Thứ hai là Tu đắc thiên nhãn. Tức là thứ thiên nhãn do công phu tu tập chứng đạo quả mà có, tỷ dụ như thiên nhãn của bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Đại Bồ Tát, rồi Phật. Thiên nhãn này dĩ nhiên thù thắng hơn thiên nhãn sanh đắc, tức là vừa nhìn thấy rộng hơi, vừa sâu hơn vi tế hơn. Theo trong kinh, thì thiên nhãn bậc Tu-đà-hoàn nhìn thấy từ từng trời sơ thiền trở xuống trong một tiểu thế giới.
Tư-đà-hàm có thể nhìn thấy một tiểu thiên thế giới, A-na-hàm nhìn thấy một trung thiên thế giới. Thiên nhãn của A-la-hán có thể bao quát một Đại thiên thế giới… Đại Bồ tát thì tùy theo mức độ, có bao quát rất nhiều hơn nữa, rộng hơn và sâu hơn. Thiên nhãn của Phật thì là tột điểm của sự thù thắng, có thể nhìn tất cả thế giới hải cùng tất cả những cảnh giới nhỏ nhiệm vi tế.
Còn Tuệ nhãn là gì? Đến bình diện này, là bắt đầu mịt mùng rồi. Nên những suy luận của phàm phu chúng ta chỉ có thể là những mường tượng ước đoán thôi. Tuệ nhãn có thể định nghĩa là sự chứng nhận thấy rõ Bản-thể-không-tịch-vô-ngã của các pháp, các cảnh giới. Nhưng sự chứng nhập bản-thể-không-tịch hay không-hải này cũng có nhiều mức độ. Nếu y cứ theo quang minh thì có thể tạm nói rằng: Bậc đạt đến Tuệ nhãn là bậc đã nâng quang minh của tâm thức mình đến mức vừa bao la vừa vi tế, khả dĩ vượt qua, xuyên qua các quang minh thô kệch cùng vi diệu tạo nên các cảnh giới, để chứng nhận được thứ quang minh trạm-nhiên-bất-động của Bản thể.
Bậc A-la-hán được gọi là có Tuệ nhãn, tức là chứng nhập được Bản thể không-tịch-vô-ngã. Tỷ dụ như ngài Tu Bồ Đề, Xá Lợi Phất. Tuệ nhãn cũng được gọi là Trí tuệ Bát-nhã, nhưng chưa phải là tột cao, tột ba-la-mật. Cũng do đó, nên trong những pháp hội Kim Cang cùng Đại Bát Nhã, ngài Tu Bồ Đề cùng Xá Lợi Phất là những vị thường đứng lên thưa thỉnh hỏi Phật… về phía Đại Bồ Tát, thì từ sơ địa đến đệ bát địa, các Ngài đều lần lần triển khai tuệ nhãn, và khi đến đệ bát địa thì được tuệ nhãn tròn đầy.
Nhưng tuệ nhãn của A-la-hán cùng tuệ nhãn của đệ bát địa vẫn có sự sai biệt. Đó là sự phát tâm uyên nguyên của hai bậc đó. A-la-hán thì chỉ phát tâm cầu trí-tuệ-không-tịch để đoạn phiền não, cầu tam-muội-an-lạc để tự giải thoát thôi. Tuy vẫn có tâm từ bi cứu độ, nhưng vẫn là từ bi hạn hẹp, không dám ôm trọn pháp giới vào thân tâm mình, cỏn Đại Bồ Tát thì lại khác. Vừa phát tâm cầu Nhứt-thiết-chủng-trí để biết tất cả các pháp, để biết tất cả các mức độ sâu nông của không-hải, đồng thời lại phát Đại-bi-bình-đẳng nguyện quyết tâm ôm trọn pháp giới với mình là Một. “Pháp giới rộng đến đâu, vô cùng tận đến đâu, vi tế đến đâu, thì thân tâm tôi cũng đến như thế…”, đó là đại hoàng thể của các Ngài… Bởi thế nên trên con đường triển khai tuệ nhãn, tuệ nhãn của đệ bát địa vẫn có tầm vóc sâu rộng hơn nhiều tuệ nhãn của A-la-hán. Tỷ dụ như tuệ nhãn của A-la-hán thì mới đạt được nhơn-vô-ngã thôi, chưa đạt được pháp-vô-ngã. Trong khi tuệ nhãn của đệ bát địa hoàn toàn đạt được nhơn-vô-ngã, cùng nhiều phần của pháp-vô-ngã. Tỷ dụ như A-la-hán thì không thể tiến nổi lên Pháp nhãn, trừ phi biết hồi tâm vào đại thừa. Trong khi đệ bát địa sẽ được sức gia trì của tất cả Như Lai để đạt tới Pháp nhãn và Phật nhãn…
Vậy Pháp nhãn là gì? Đức Bổn Sư của chúng ta, cũng như chư Như Lai luôn luôn cảnh giác các đệ tử cùng chúng sanh đời sau: “Hãy thận trọng, hãy tinh tấn và chớ phóng dật. Đừng có vội buông lung tâm mình, và thả nó chìm đắm vào niềm an lạc của tam-muội… Tuệ nhãn chưa phải là cứu cánh. Chớ có buông tay dừng chân ở tuệ nhãn. Phải tiến lên nữa…”
Vì sao?
Là vì nếu dừng chân ở tuệ nhãn, tức là chưa hiểu đưọc bản hoài của Chư Phật. Chư Như Lai sở dĩ xuất hiện noi đời là do một Đại-sự-nhân-duyên. Đại sự nhân duyên đó là không phải dạy chúng sanh đắc tuệ-nhãn và được cái tâm không-tịch. Mà cốt dạy chúng sanh ngộ nhập Tri-kiến Phật, đắc Phật nhãn.
Là vì nếu đứng lại ở Tuệ nhãn, tức là miệt mài ở trong niệm trầm-không-thú-tịch của tam muội an lạc, chỉ muốn tự tại rong chơi một mình. Quên mất những Bi nguyện từ nhiều kiếp, bị mất cái tâm dũng mãnh luôn ôm trọn pháp giới vào trong thâm tâm mình.
Là vì nơi Không hải của tuệ nhãn mà các ông đạt được, chưa phải là Tột không. Tánh chất của Tột không chính là Chân sắc. Không nếu lìa sắc thì chưa phải là Tột không. Mà nơi Không hải của các ông thì chưa dám chứa đựng những sắc tướng, chưa dám nhẫn chịu những sắc tướng, chưa dám nhẫn chịu tất cả sắc tướng chúng sanh.
Là vì nơi Không hải ấy mới chỉ là nhất biên thôi, mới là Một Bên. Mới chỉ có Trí tuệ thôi, mà chưa có Đại bi… Kinh dạy: “Chư Phật thường nói hai lời để Hiển Lộ Một Lời”. Hai lời là gì? Đó là những cặp ý niệm: sắc Không, Thường Đoạn, Khứ Lai… Hiển lộ Một lời là gì? Là Hiển lộ Trung Đạo, hiển lộ Pháp môn Không Hải, hiển lộ Pháp môn Bất Nhị. Tại sao lại phải nói theo Trung Đạo cùng pháp môn Không Hải? Chỉ là nếu không vượt lên trên những ý niệm đó, nếu không lìa bỏ ý niệm vọng tưởng, thì chưa thể thầm khế hợp, chưa thể chứng nhập Giác-thể-nhiệm-mầu, chưa thể chứng nhận hoàn toàn Phật tánh, tức Pháp-thân-thường trụ, tức Tột Không được. Và nếu chưa chứng nhập Tột Không, thì chưa thể có Nhứt-thiết- chủng-trí cùng thần-thông-tự-tại-vô-ngại để độ sanh và ôm trọn pháp giới.
Bởi vậy nên, nếu ngừng lại ở nơi Không Hải của tuệ nhãn, thì là một lỗi lầm rất lớn.
Do đó nên trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập địa, khi một vị Đại Bồ Tát bước lên đệ bát địa, tức Bất động địa, cũng tức Biến hóa địa, thì chư Như Lai mười phương đều hiện đến trước, khuyến tấn rằng: “Phật tử! Chớ có dừng chân và ở lại đây. Phải luôn luôn nhớ lại những Bi nguyện từ nhiều kiếp. Phải luôn luôn khởi Tâm Đại Bi…”
Tại sao vậy? Là vì Phật quả chỉ có thể Viên Mãn được nếu kẻ hành giả ôm trọn được cả hai Cực Đoan. Ôm trọn cả sắc lẫn Không, ôm trọn cả Trí tuệ không tịch lẫn tâm Đại Bi. Hai thứ đó như hai mặt đồng tiền, không thể tách lìa được. Nếu tách lìa hoặc đi khập khểnh, thì chưa viên mãn được…
Cái vụ ôm trọn cả hai cực đoan này, danh từ nhà Phật gọi là Song Chiếu. Và cái bí ẩn tuyệt vời trong chỗ sở hành của tâm niệm của một bậc Đại Bồ Tát là ở trong chỗ Song chiếu này.
Vậy thì, muốn đạt được Pháp nhãn, muốn bước lên Thiện huệ địa hay Pháp vân địa, hay Đẳng giác… thì Bồ Tát đệ bát địa phải luôn luôn dùng tâm của mình để song chiếu… Nghĩa là một mặt vẫn chiếu soi cái thể Không tịch của tâm mình, mặt khác vẫn khởi tâm Đại bi, vẫn dùng ngay cái tâm ấy để soi tất cả những trần-sa-hoặc, tất cả chúng sanh, tất cả cảnh giới huyễn hiện của các cõi… Rồi trải qua a-tăng-kỳ kiếp coi như một niệm, tu tập đủ lục độ vạn hành, hóa hiện thân hình ở vô lượng cõi, cúng dường Chư Phật nhiều như cát sông Hằng, bố thí thân mạng nhiều như cát sông Hằng… càng ngày càng tiến đến Trí như biển, Trí vô ngại… đến Phật quả.
Do cái tâm sở hành song chiếu đó, mà Đại Bồ Tát đạt được Pháp nhãn… Cho nên, Pháp nhãn có thể định nghĩa là con mắt soi thấu mọi huyễn trạng của các cảnh giới tùy-duyên-vô-pháp… Từ Đại Bồ Tát trở lên đến Phật, mới có con mắt này. Từ A La Hán trở xuống đều chưa có.
Còn Phật nhãn là gì? Đến Phật nhãn thì quá mịt mùng rồi, và thực là bất khả thuyết. Không có thể dùng ngôn từ nào mà nói được. Phật nhãn cũng có thể gọi là Trí tuệ nhãn tột ba-la-mật, tột rốt ráo bỉ ngạn, cũng có thể gọi là Nhứt thiết chủng trí, cũng có thể gọi là Tri kiến Phật theo danh từ của kinh Pháp Hoa… Chỉ ngồi bất động ở dưới cội cây Bồ Đề thôi, hoặc ở cõi Thường tịch quang thôi, mà không có pháp nào là không biết. Không có pháp hữu vi hoặc vô vi nào là chẳng liễu tri rành rẽ. Không có một hạt mưa rơi ở một cõi nào mà không biết, không có một tâm niệm chúng sanh nào điên đảo hay thẳng ngay mà không biết, không có một cơ sự nào xảy ra trong một vi trần mà không biết… Bởi thế mới gọi là Phật, và cũng bởi thế chúng ta mới phải lẽo đẽo đi theo…
Tuy nhiên, suy luận theo phàm thức thông thường, chúng ta vẫn có thể ghi mấy điểm đặc tính sau đây của Phật nhãn:
– Phật nhãn tức là mức-độ-tâm-thức-chiếu-soi, Song Chiếu Đến Chỗ Tuyệt Vởi. Vừa tịch-tịnh như-như ở chỗ tột-vắng-lặng của nơi Không hải, lại vừa chiếu soi trong-sáng-tròn-đầy suốt khắp các bờ mé của pháp giới.
– Phật nhãn ôm trọn mọi bờ mé, mọi vô cùng tận, dù là bờ mé của cực đại hay của cực vi, dù là bờ mé của quá-khứ-vô-thủy hay của vị-lai-vô-chung.
Có thể lấy một hình ảnh kỷ-hà-học để là ví dụ cho những bờ-mé-vô-cùng-tận-ấy. Tỷ dụ như một-vạch-ngang-dài là một-thứ-vô-cùng-tận, một thứ infìni, vì vạch ngang đó có thể kéo dài vô cùng tận. Một vạch ngang khác cũng là một vô cùng tận. Một bình diện bằng phẳng (plan) cũng là một vô cùng tận. Một hình khối có ba chiều cũng là một vô cùng tận.
Tóm lại, có vô-cùng-tận thứ vô-cùng-tận mới có thể xen-lẫn-và-lồng-vào-nhau… Và Phật nhãn ôm trọn mọi bờ mé cùng vô-cùng-tận ấy.
– Đến mức độ Phật nhãn, thì tuyệt đối không còn một chút vết tích vô minh nào tạo thành ranh giới giữa Chủ thể nhận thức và Khách thể bị nhận thức nữa. Mọi tập khí chấp trước về Ngã và Pháp đã hoàn toàn tiêu trừ, và tâm thức đã hoàn toàn thể nhập làm Một với pháp giới… Và pháp giới chính vừa là Thân Tâm lại vừa là Cõi của Phật.
Bởi thế nên thân Phật thường được gọi là Vô biên thân, Diệu sắc thân, là thân vô sở ý, là thân chẳng-phải-sắc-cũng-chẳng-phải-chẳng-sắc, là thân Kim-cang-bất-hoại trong kinh Kim Cang… Thân ấy biến hóa không lường, có thể lớn bao trùm các cõi, có thể nhỏ chui vào vi trần… Lũ chúng sanh chúng ta đều nhởn nho lăng xăng trong chơi trong thân tâm Phật, mà không hề hay biết. Trái lại, Phật mới biết rõ mọi tâm niệm của chúng sanh.
Cũng bởi thế, nên phẩm thứ 39 của Kinh Hoa Nghiêm mô tả sự tiến tu của ngài Thiện Tài, được gọi là phẩm Nhập Pháp Giới.
Và cũng bởi thế, nên Kinh Quán Vô Lượng Thọ mô tả chân thân của Đức A Di Đà rằng: “Đôi mắt Ngài xanh trắng phân minh, rộng như nước bốn Biển Lớn”… Ấy là Ngài đã hiển hiện thành sắc tướng rồi, chứ chính ra thì thân Ngài là Vô biên. Và Phật nhãn cũng chẳng cần nhãn căn mà vẫn nhìn thấy…