SAO TRỜI MÊNH MÔNG
Nguyên tác: Hán văn: “Hạo Hãn Tinh Vân”
của Lâm Thanh Huyền
Hạnh Đoan lược dịch
CHƯƠNG 13: SÁNG KIẾN
Năm 1985, đạo diễn điện ảnh Lưu Duy Bân phát tâm muốn quay một cuộn phim về khóa lễ sáng chính thống của Phật giáo, nghe đồn đoàn “Phạn Bối” Phật Quang Sơn tụng rất hay, nên ông quyết định lên Phật Quang Sơn quay phim.
Lưu đạo diễn bảo tôi:
– Bọn này còn thiếu phần kịch bản, anh có chịu gíúp phần kịch bản cho không? Sẵn dịp đến Phật Quang Sơn vài ngày luôn thể.
Tôi sốt sắng nhận lời, cảm thấy khá hứng thú đối với việc viết kịch bản cho khóa lễ, nhưng điều hấp dẫn tôi thực sự, chính là được dịp ngụ tại Phật Quang Sơn, thân cận với các tu sĩ.
Tôi được sắp xếp ngụ tại một gian phòng trong “Vườn Trúc”, điều này làm tôi rất xúc động, nơi đây được trang bị đầy đủ tiện nghi, có ti vi, máy lạnh, nền trải thảm, tất cả đều do nhóm phạn điếm đảm trách.
Lúc đó là mùa hè, đêm đến tôi nằm trên giường tận hưởng không khí mát mẻ dễ chịu và không khỏi hồi tưởng lại cảnh hồi còn bé xa xưa, lúc cùng ba mẹ đến chùa dâng hương. Tôi còn nhớ hễ vừa đặt chân vào chùa, là thấy ngay hàng chữ: “Nam nữ thọ thọ bất thân, phải tuân thủ thanh qui giới luật”. Thế là, mẹ tôi dẫn chị tôi đến Tây phòng, còn anh em tôi thì theo cha đến Ðông phòng.
Nơi mọi người cư ngụ, thường là một dãy có đến năm, sáu mươi người, thậm chí có khi lên đến trăm.
Phòng ở nứt cũ, trông rất nhếch nhác, thêm vào đấy đoàn người dâng hương thuộc thành phần tạp xứ, lại có người lười tắm rửa nên không khí rất nặng mùi, khắp phòng nóng hầm hập và sặc mùi mồ hôi. Ai muốn tẩy rửa thì phải bê thau đi ra xa độ mười mét, ở đó có cái hồ nước to, hằng trăm người bu quanh đấy, tẩy rửa tùy ý, một số người không ý thức, cũng chẳng biết tích góp công đức, nhảy thẳng vào trong hồ.
Do một số chùa không chú trọng vệ sinh, nên thường khi dâng hương trở về, mình mẩy tôi luôn bị muỗi mòng chích sưng lở. Kinh nghiệm về cảnh dâng hương này đã khiến trí óc bé bỏng của tôi thắc mắc và cứ hỏi mãi:
-Vì sao cả nhà chúng ta không được ở cùng để nguyện hương với nhau?
Câu trả lời thường là thế này:
– Nam sinh và nữ sinh ở cạnh nhau là trái với qui củ của chùa miếu.
– Vì sao chùa miếu không cho mình thoải mái một chút, chúng ta có đem tiền, dầu, hương, tới cúng mà?
Người lớn trong nhà lại đáp:
– Gặp chướng ngại mà vượt qua được thì càng chứng tỏ mình dâng hương thành tâm.
Nhưng, ít nhất cũng đừng có muỗi mòng bu đốt dữ thế này chứ!..
Phu thê đồng trụ, là lẽ tất nhiên
Những câu đáp kia không làm thỏa mãn và càng nung nấu thêm nhiều thắc mắc trong tôi, nên khi đến lớp ba tiểu học là tôi chẳng chịu theo cha mẹ dâng hương nữa. Bởi vì quá trình dâng hương dù vất vả, tôi cũng chấp nhận được, song kinh nghiệm dâng hương ấy cho tôi cái cảm giác rõ ràng là thọ tội, ngày hè mồ hôi ẩm ướt, ngày đông chăn mỏng lạnh căm căm, khiến ký ức tôi lưu giữ toàn kỷ niệm không vui vẻ.
Còn Phật Quang Sơn thì quá tuyệt, không cố chấp cứng ngắc và cung cách tiếp đãi thì chu đáo cực kỳ! – cả một khu phòng ốc khang trang hiện đại được xây lên để cung ứng cho tín đồ – sáng kiến này ưu mỹ biết bao nhiêu!
Lại còn được nghe Ðại sư thuyết thế này này:
“Phu thê đến viếng chùa, có thể làm pháp lữ đồng tu, chẳng cần phải chia phân chỗ cư trú, Ðức Phật đã khẳng định giá trị tương thân tương ái của phu thê, như trong kinh “Ngọc Da nữ” chẳng phải Ngài đã giải thích rất rõ đó sao? Cho nên phu thê đồng trụ là lẽ tất nhiên, phu thê là phải hòa thuận tương ái, vẫn có giới luật thanh qui cho phu thê đồng cư.
Muốn “hiện đại hóa” Phật giáo thì không nên bảo thủ chậm tiến, không nên cứ khư khư chấp vào lề lối cũ, có nhiều mặt cần phải đột phá cải tân (nếu như việc sửa đổi ấy hợp với trào lưu, mang lại nhiều ích lợi cho nhân sinh và đưa Phật giáo đi lên). Chẳng hạn như về phương diện kiến trúc, dĩ nhiên là cần nghiên cứu nghiêm túc để thể hiện trọn vẹn bộ mặt Phật giáo tôn nghiêm, thánh khiết; hội đủ tinh hoa của nền văn minh hiện đại; được vậy mới có thể gọi là hiện đại hóa Phật giáo. Có một số người đến Phật Quang Sơn, thấy các kiến trúc trong đây nền lót thảm, phòng gắn máy lạnh, không hiểu cách tôi làm nên bất bình, bảo:
– Phật Quang Sơn là một tự viện Phật giáo, đã vậy mà còn lót thảm và gắn máy lạnh nữa chứ!
– Xin hỏi, chẳng lẽ quí vị thích nhìn nền trần mới lấy làm mãn nguyện sao? Quí vị muốn là phải không có máy lạnh? Chẳng lẽ thích để nóng nực tới mồ hôi tuôn dầm dề mới thấy thoải mái? – Có người thấy tu sĩ lái xe hơi còn tỏ ra kinh ngạc không thôi, và nếu thấy trong chùa có các thiết bị điện tử hiện đại thì lại cho là quái lạ. Thật ra, tất cả phát minh vật chất được tạo ra là nhằm phục vụ, giúp cho đời sống con người hạnh phúc, thoải mái hơn. Nếu như việc xử dụng các mặt hàng sản phẩm thuộc nền văn minh hiện đại có thể giúp cho con người dễ dàng đến với đạo, hiểu giáo Phật lý dễ hơn, tiếp thu giáo lý Phật tự nhiên hơn, thì vì sao Phật giáo phải đảo ngược cỗ xe thời đại, lùi lại để khép mình vào nếp sống thời nguyên thủy xa xưa? Tại sao cứ muốn gò bó mình lẫn người, nhất quyết không thèm xài những phát minh mới, giữ chặt ý “thủ cựu bài tân” để người và mình cùng rơi vào thời đại bất tiện?
Sự thật là Phật giáo ở mỗi thời, luôn có khuynh hướng tiến tới. Chẳng hạn như bây giờ mọi người đều dùng khăn quàng cổ (fula), nhưng nguyên lai nó vốn là vật chống rét tùy thân của người xuất gia. Có một số người đề xướng “Trà Công Phu”, nhưng thực chất thuở các tăng lữ đi hành cước đó đây, bộ trà cụ đã là “vật bất ly thân” luôn được họ giắt theo bên mình. Còn việc các thiếu nữ mang giày Sandal, vật dụng này vốn bắt nguồn từ hài La hán của các tăng lữ. Phật giáo muốn chúng ta thanh tâm quả dục, tuyệt chẳng phải là phủ nhận giá trị của nền văn minh trong xã hội mà là đối với tất cả vật chất không khởi tâm chấp trước, chuyển vật chứ không để vật chuyển (dịch vật nhi bất vị vật sở dịch). Chỉ cần có công phu “không dính một chiếc lá” thì ngại gì dạo giữa rừng hoa? Thật ra, tâm nguyện của tôi muốn tạo nên một thế giới Phật giáo lý tưởng; một cõi Phật tuyệt mỹ giống như thế giới Cực Lạc huy hoàng trang nghiêm; thì đâu phải chỉ có máy lạnh, thảm nệm thôi, mà còn có kim sa bố địa (vàng phủ đất), và đền đài cung điện chẳng phải làm bằng xi măng mà là thất bảo xây thành. Nếu như chúng ta cứ khăng khăng giữ lấy tư tưởng cõi ta bà, nghĩa là lót thảm cũng không nên, máy lạnh cũng không được dùng, ta cứ bám vào tư tưởng phải sống không tiện nghi mới tốt… Vậy thì, nếu đem tư tưởng này kiến tạo cõi Tịnh độ nhân gian, há chẳng phải thế giới Cực Lạc, thế giới Phật giáo lý tưởng cũng biến thành cõi ta bà uế tạp rồi hay sao?”
Ở Phật Quang Sơn được vài hôm, ban ngày tôi theo đoàn quay phim làm việc, ban đêm thì ngụ tại “Vườn Trúc” xem kinh hoặc tản bộ dưới vòm trời đầy sao, nghe lòng lâng lâng một cảm giác phiêu diêu tự tại, quả đúng là “Tịnh độ Nhân Gian” và chẳng nơi nào bằng ở đây!
Một buổi tối, mấy người trong đoàn phim đến gõ cửa phòng tôi rủ rê:
– Lâm Tiên sinh này! Chúng tôi xuống núi uống rượu, nhắm vài con cá đây, ông có đi không hả?
Lúc đó, tôi mới bắt đầu học Phật, đang tập ăn chay, nên từ chối ngay, bụng còn rủa thầm: “Ðã lên đây quay phim Phật giáo, vậy mà còn dám rủ nhau đi ăn nhậu nữa chứ!”
Sau đó, vài đệ tử đem việc này mách lại với Ðại sư, Ngài bảo họ:
– Chúng ta giữ giới là giữ cho mình, chẳng cần quản đến chuyện của người. Chẳng phải trước khi xuất gia, quí vị cũng đều là người tại gia hết sao? Thuở trước, khi chưa trì trai, chẳng phải đa số quí vị đều từng đã uống bia ăn mặn hay sao? Bọn họ dù tập khí thế tục chưa trừ, nhưng đã biết phát tâm quay bộ phim Kỷ yếu cho Phật giáo, điều này rất đáng khích lệ. Một ngày nào đó, khi nhân duyên hội đủ, lúc đó quí vị có ép bắt họ đi ăn nhậu, họ cũng không thèm đâu!
Vị Tri khách mách lại cho chúng tôi nghe chuyện sư phụ dạy các đồ đệ, làm tôi hết sức khâm phục và hổ thẹn. Ðại sư luôn nhìn sự việc ở khía cạnh tốt đẹp, chính quan điểm nhận thức chín chắn của Ngài đã biến những sự việc bình thường thành tràn đầy năng lượng, những việc nặng nề chợt hoá ra nhẹ nhàng, Ðại sư luôn khéo léo khai thị và chuyển hóa người ta bằng tấm lòng quảng đại bao dung.
Ý tưởng mới lạ độc đáo
Lúc đoàn làm phim sắp kết thúc công việc, thì đúng lúc đó lại có một Ðại lễ Qui y. Những vị trong đoàn phim từng rủ tôi xuống núi ăn nhậu bản tính vốn rất ương bướng, có thể xếp vào loại “cứng đầu cứng cổ”, cũng lục tục xin qui y. Tôi hỏi nhỏ họ:
– Này, chẳng phải các ông từng nói là không tin Phật, Bồ-tát, quỉ thần gì ráo ư?.. Sao bây giờ tự dưng muốn ..đầu Phật vậy?
Họ đáp:
– Nói ra thì cũng hợm, bọn này không tin Phật giáo bởi vì chưa tìm ra người xuất cách để tôn làm sư phụ, giờ đã tìm được rồi, gặp Ðại sư Tinh Vân tuyệt vời, siêu như thế thì phải qui y thôi!
Rồi không nín được, chúng tôi nhìn nhau bật cười to.
Ðại sư làm thế nào để nhiếp phục được những hạng người ngoan cố như thế? Tuyệt chẳng phải do Ngài thuyết pháp hay có thần thông gì, mà là nhờ Ngài có những ý tưởng mới lạ, độc đáo.
Một hôm, Lưu đạo diễn hí hửng bảo tôi:
– Hi vọng mình có thể quay hết toàn cảnh năm trăm vị tu sĩ tụng kinh ở hiện trường.
Lúc đó tăng sĩ thường trụ ở Phật Quang Sơn chỉ có hơn trăm vị, xem ra mơ ước được thực hiện cảnh quay “trang nghiêm hoành tráng” của Lưu đạo diễn coi bộ khó đạt được rồi. Không ngờ sau khi ngỏ lời với Ðại sư xong, Ngài đáp ứng liền:
– Ðược! Không trở ngại gì cả!
– Thế là Ðại sư truyền lịnh tập hợp,ï lịnh Ngài vừa ban ra hôm trước thì ngay hôm sau năm trăm tăng chúng đã tề tựu đông đủ nơi Ðại Hùng Bảo Ðiện, ai nấy đều đường đường tăng tướng, uy nghi chỉnh tề. Khi đoàn tán tụng Phạn Bối vừa xướng lên, lời kinh vang vọng, âm thanh trầm hùng đến chấn động, ngân mãi không dứt, khiến đoàn làm phim xúc động khôn cùng. Lưu đạo diễn xuất thân là Quân nhân, nói với tôi:
– Ở quân trường, nếu phụ trách việc điều binh khiển tướng, thì kỷ luật không được sơ sót mảy may, phải dốc hết tâm sức vào để mà lo điều động.. nhưng xem ra cách huấn luyện nghiêm nhặt trong quân đội so với nơi đây vẫn còn thua xa!
Do vì Ðạo tràng quá rộng, khó quay hết toàn cảnh, Lưu Ðạo diễnmuốn quay rõ cảnh từ trên xuống dưới, xét thấy chỉ có đứng nơi bàn Phật là có thể quay đạt yêu cầu, ông bèn hỏi vị tu sĩ phụ trách:
-Thưa thầy! Tôi có thể đứng nơi bàn Phật để quay không?
Vị ấy đáp:
– Ối trời ơi! Không được! không được đâu! Bệ Phật là chỗ tôn nghiêm thế kia, huống nữa giờ đang có năm trăm tu sĩ tụng kinh, chốc chốc họ lại hành lễ, ai lại đòi đứng trên đó, các ông… thiệt là hết nói!
Bệ Phật và mặt đất có gì khác biệt
Lưu đạo diễnvẫn kiên trì đến nài nỉ xin phép Hòa thượng. Ðại sư nghe chúng tôi kể lể là quay rất cần vị trí đạt cảnh mới thu được hết nét mỹ quan, Ngài liền bảo:
– Ðược! không sao!
Thế là Ngài quay sang vị tu sĩ khăng khăng từ chối khi nãy giải thích:
– Chỉ cần tâm thành ý chánh, thì bệ Phật và mặt đất đâu khác biệt chi? Tất cả chúng sinh đều là Phật vị lai, xem như tu sĩ hướng Phật vị lai đảnh lễ thì có gì mà không được?
Nhờ sư phụ khai thị, cả đám chúng tôi được phép đứng trên bệ để quay toàn cảnh tụng niệm của chư tăng, tất nhiên là bị luôn các pháp sư lễ bái. Song, các thành viên trong đoàn sau khi quay xong đã bô bô phát biểu không biết ngượng:
– Ôi thật là tuyệt! Mình được đứng sát bên Phật, còn có năm trăm vị sư hành lễ nữa chứ!
Tôi bảo:
– Này! Này! Các ông chớ nên tự cao quá như thế, trong kinh Phật kể có vị Bồ-tát tên “Thường Bất Khinh”, gặp ai Ngài cũng thành kính lạy họ và còn thọ ký: – “Người là Phật vị lai, tôi tin người trong tương lai nhất định sẽ có ngày thành Phật! Các ông coi chừng bị… Bồ-tát đảnh lễ đấy!
Mặc dù được tôi dội cho gáo nước lạnh, song ai nấy đều cao hứng hân hoan, vì không khí hùng vĩ của Ðạo tràng đã ảnh hưởng, gây cho người ta một cảm giác xúc động khó diễn tả, khó quên; nhất là khi các thành viên trong đoàn được chứng kiến cách ứng xử viên dung đầy lòng bi mẫn của Ðại sư, chính nhân cách siêu xuất và kiến thức phi phàm của Ngài đã in vào tâm não người ta ấn tượng đặc biệt khó phai.
Có một lần, tôi và mấy người trong đoàn phim ngồi bên ngoài nhìn các học sinh trong Phật học viện chơi bóng rổ. Ngắm cảnh mười vị tu sĩ đầu cạo nhẵn thín thi nhau ném bóng, trông thật ngộï. Vị phó trường quay đùa:
– Ái chà chà! Xem ra giống hệt mười trái bóng! Không biết phải làm sao để chụp cho trúng bóng mà ném đây! Ha ha! Hi hi!…
Ông ta khoái chí, cười gập người, cười đến nỗi nhào lăn ra đất.
Ngay lúc đó có một tăng sinh trong viện chạy tới rủ:
– Các ông có đủ năm người, vậy ta tổ chức thành một đội thi đấu nhé!
Chúng tôi hùng hổ lao vào nhập cuộc, kết quả không nói cũng biếtõ, nghĩa là chúng tôi bị “vật” ngã lăn quay giữa “chiến trận”, đến nỗi phải la lên oai oái:
– Ðầu hàng! Xin đầu hàng! hiện trường có tới sáu trái bóng, khiến chúng tôi hoa cả mắt, làm sao mà chơi cho lại chứ!
Sau đó các tăng sinh kể cho chúng tôi nghe:
– Sư phụ hồi còn trẻ rất thích chơi bóng rỗ, Ngài thường khuyến khích chúng tôi chơi bóng và giải thích rằng: “việc chơi các môn thể thao giúp rèn thân dưỡng thần rất tốt. Hơn nữa ta còn có thể tập luyện phong thái vô tư vô ngã”.
Họ kể tiếp:
– Tất nhiên sư phụ khích lệ chúng tôi luyện tập các môn thể thao là để mài luyện thể năng. Các tu sĩ thời xưa thường nói: “người tu thường phải mang trong mình ba phần bịnh..” quan niệm ấy là sai lầm. Chúng tôi cần phải vận động cho thân thể cường tráng, được vậy thì sau này mới có sức để giúp ích nhiều cho sự nghiệp hoằng pháp, mới đủ khả năng đem thân tâm phụng sự chúng sinh dài lâu!
Từng tâm ý tỉ mỉ ấy của Ðại sư rốt cuộc đã khiến đoàn làm phim “cứng đầu ngoan cố” phải “tâm phục khẩu phục” và tự nguyện kéo nhau đến, mọp đầu sát đất, cung kính đảnh lễ xin được qui y với Ngài, phát nguyện trọn đời theo Phật pháp.
Những chuyện ấy đến nay đã mười sáu năm, song tôi vẫn còn nhớ mãi những kỷ niệm vụn vặt thuở nào. Ðại sư khéo đem Phật pháp hoằng dương khắp nơi trên thế giới, uy đức cao vời; Ngài được mọi người trong các giới nhiệt liệt hưởng ứng và hoan nghênh. Ngoại trừ tính cách “Phật Giáo Nhân Gian” ra, điểm chính vẫn là nhờ Ðại sư có những ý nghĩ độc đáo và sáng kiến mới lạ, sẵn tính không thủ cựu cố chấp, Ngài mạnh dạn đề ra những ý tưởng cải cách canh tân, giúp Phật giáo tiến lên, có thể nói là không những đưa Phật giáo theo kịp thời đại mà còn đi trước thời đại nữa!
Lúc Ðại sư mới đến Ðài Loan, phát hiện ra phần đông dân chúng có cái nhìn rất sai lầm đối với Phật giáo, chẳng hạn như: cho Phật giáo là “tôn giáo của lứa tuổi già cả”, rằng trong giáo lý Phật, “nam quí hơn nữ”.. và họ xếp loại Phật giáo là tư tưởng quá xa vời, là “ở tận cõi Tây Phương chứ không thuộc về nhân gian” rồiø còn quan niệm “người xuất gia thù thắng hơn người tại gia” v.v..
Ðại sư nói:
– Những quan niệm này trái hẳn với bản chất “chúng sinh bình đẳng” của Phật giáo, thế nhưng mọi người đã quen truyền cho nhau quan niệm sai lầm này và xem đó là lẽ thường rồi. Nếu như không đả phá những quan niệm này, thì chẳng thể nào tạo lập được một cõi “Phật Giáo Nhân Gian” đặc biệt.
Ðầu tiên, Ðại sư khởi xướng: “Phật giáo là tôn giáo trẻ trung, không phải dành cho tuổi già” và Ngài trưng ra nhiều bằng chứng:
“Phật giáo nguyên là tôn giáo tươi trẻ, nhưng không hiểu vì sao lại bị người ta ngộ nhận, cho là tôn giáo của tuổi già? Chẳng hạn như có người phát tâm tin Phật nhưng cứ hẹn: “Ðợi già rồi hãy tu”. Bởi họ lầm cho Phật giáo là tôn giáo của tuổi xế chiều lụm cụm, nếu có muốn tu thì hãy đợi đến già. Chưa kể là đến lúc tóc bạc, mắt mờ, họ cũng chưa chịu tỉnh ngộ nữa kia! Thậm chí còn có người cho rằng “Phật giáo là tôn giáo dành cho người chết, chuyên dùng để siêu độ kẻ lìa trần thôi” nhận thức như thế thì quá lệch lạc! Ngay trong lịch sử Phật giáo, chúng ta xem qua thì có thể thấy, Ðức Phật Thích Ca bắt đầu đi tu từ thuở tuổi còn trẻ, tóc hãy còn xanh; chứng tỏ Phật giáo là tôn giáo của tuổi trẻ!
Phật Thích-Ca chứng ngộ thành đạo năm ba mươi mốt tuổi, giờ chúng ta hãy lấy đây mà suy, ba mươi mốt chính là độ tuổi thanh niên. Còn trong sử văn hóaTrung Quốc của chúng ta, Ngài Huyền Trang là Bậc Thánh vĩ đại nhất; nhưng lúc Ngài phát nguyện sang Ấn Ðộ thỉnh kinh thì Ngài đang ở vào lứa tuổi hai mươi sáu, Ngài đã dùng bi nguyện và sức lực cường tráng của tuổi xuân, để đóng góp và lưu lại cho đời sau vô số di sản quí giá cho nền văn hóa Phật giáo Trung Quốc. Ngoài ra, trong rừng kinh điển Phật giáo mênh mông và ngay cả trong sử Phật giáo Trung Quốc, cũng từng ghi lại nhiều sự tích chói lọi của biết bao người tu theo Phật ngay từ độ tuổi thanh niên. Như Ðồng nữ Diệu Huệ, dù hãy còn là một cô bé, nhưng ngay cả bậc đức cao vọng trọng như Bồ-tát Văn Thù cũng phải kính cẩn hành lễ với cô. Cho nên nói: “Hữu chí bất tại niên cao” Thêm nữa, Long nữ trong kinh Pháp Hoa, chỉ mới tám tuổi mà trong nháy mắt đã có thể chuyển thân thành Phật nơi Thế giới Vô Cấu ở phương Nam. Qua các bằng chứng này, đủ thấy Phật giáo không hề xem nhẹ tuổi thanh niên, mà cũng chẳng hề khinh rẻ nữ nhân.
Thời Ðông Tấn có một vị tăng là Triệu Ðại sư, sư là một trong bốn đệ tử dưới trướng của Ngài Cưu-ma-la-thập. Sư đi tu lúc ba mươi mốt tuổi và có lưu lại một tác phẩm nổi danh, đó là cuốn “Triệu Luận”. Không những trong sử Phật giáo, mà trong sử văn hóa Trung Quốc, tác phẩm này được đánh giá và xếp loại là một kiệt tác vĩ đại bất hủ. Có thể nói là Phật giáo đã đào tạo và sản xuất ra rất nhiều thanh niên lừng danh, chính họ đã đem tài năng và sức trẻ của mình ra cống hiến và đưa Phật giáo tiến lên, góp phần tô điểm cho trang sử Phật giáo thêm chói rạng vẻ vang. Trong kinh Hoa nghiêm nổi trội nhất là đồng tử Thiện Tài với năm mươi ba lần tham vấn – một nam đồng hồn nhiên cầu đạo, đi hành cước, tham vấn – bái kiến năm mươi ba vị Bồ-tát đại thiện tri thức, cùng các Ngài luận đàm về cảnh giới Phật, Bồ-tát, một cách hứng thú. Lấy tích chuyện một Tiểu đồng nhỏ, đi đến nơi đâu cũng được Bồ-tát Tiểu đồng hoan nghinh, đã chứng minh rằng: “Phật giáo tuyệt chẳng phải là thứ tôn giáo của tuổii già mà rất hợp với tuổi trẻ” có nghĩa là chúng ta chẳng nên đợi tới già mới học đạo, mà nên khởi sự từ lúc thanh xuân.
Do rất xem trọng tuổi trẻ nên thời gian đầu tại chùa Lôi Âm Nghi Lan, Ðại sư đã cho lập nhà trẻ “Mầm Non”, “Ðoàn Văn Nghệ Thanh Niên”, “Ban Báo Chí Thanh Niên”, “Ban Hướng Nghiệp Hoằng Pháp” v.v.. tất nhiên là mỗi khi có sinh hoạt gì, thì “Ðoàn Văn Nghệ Thanh Niên” đảm trách việc đi ra các ngõ phố, gióng trống khua chiêng để cổ vũ, mời gọi mọi người cùng tu.
Và suốt sáu mươi năm nay các cơ sở giáo dục do Ðại sư sáng lập chưa từng gián đoạn trọng trách bồi dưỡng, đào tạo nhân tài trẻ.
Những sáng kiến này, không những có ảnh hưởng sâu xa đối với Phật giáo, mà đối với xã hội cũng gây ảnh hưởng sâu rộng về oai nghi đạo đức, qua nhân cách hoàn hảo và học thức ưu tú của các tu sĩ thuộc Phật Quang Sơn; chính tính cách lạc quan, thái độ tích cực và tinh thần xông xáo dũng mãnh nguyện gánh vác trách nhiệm của các tu sĩ đã làm thay đổi cái nhìn của phần đông dân chúng đối với Phật giáo.
Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đồng quí như nhau
Ngày xưa có một quan niệm sai lầm thịnh hành trong Phật giáo là: “chúng nữ tu năm trăm đời mới bằng một năm tu của chúng nam,”, rằng “nữ nhân nghiệp nặng hơn nam nhân”… gặp tay sư phụ thì Ngài dũng mãnh bôi xóa hết và chỉnh ngay thành kiến này.
Ðối với các đệ tử tỳ kheo và tỳ kheo ni, Ngài xem đồng và thương quí như nhau, Ngài biết phát hiện ra tài năng, khéo léo giao việc và xử dụng nhân tài thích đáng, Ngài còn giao rất nhiều trách vụ quan trọng cho tỳ kheo ni đảm nhiệm. Ở Phật Quang Sơn hiện nay, số lượng tỳ kheo ni làm Trụ trì, Giám sự, thậm chí còn vượt hẳn tỳ kheo.
Những đệ tử tỳ kheo ni mang pháp danh có chữ “Từ” và chữ “Y” ở đầu, người nào cũng đường đường pháp tướng, làm việc giỏi giang và rất có tài.
Bước tiếp theo, để khẳng định địa vị quan trọng của phụ nữ và phát huy chân lý “nam nữ bình đẳng”, vào đầu năm Dân Quốc 52, tại “Hội niệm Phật Nghi Lan” Ðại sư đã giảng và kể “Các Chuyện Tích của Phụ Nữ trong Phật giáo”, sau đó Ngài còn cho kết tập lại thành sách. Ðối với nền phong hóa bảo thủ lâu đời của Ðài Loan, thì đây đúng là một bộ sách đem lại niềm tin và tiếp thêm sức mạnh vô song cho nữ giới. Rằng: “Tại cửa Phật, tuy có phân biệt tướng nam nữ, nhưng phát đạo tâm, tu thành Phật thì không hề có khác biệt”. Mặc dù nghĩa lý ấy giản đơn và minh bạch, song muốn xô ngã bức tường thành kiến đóng rêu lâu đời trong đầu mọi người, nhất là những người quen có cái nhìn sai lạc; “lậm nặng” quan niệm bảo thủ xưa cũ thì đúng là “thiên nan vạn nan”!
Lần nọ, khi hầu Ðại sư dùng cơm, nhận xét về ba vị pháp sư Từ Trang, Từ Huệ, Từ Dung, Ðại sư bảo tôi:
– Những vị này đều là pháp khí kiệt xuất trong tương lai, họ có ưu điểm là khéo hòa hợp, không đấu tranh; không những có thừa phong cách Ðại trượng phu, mà tâm chí còn vượt hẳn nam giới!
Tại Phật Quang Sơn, Nữ cư sĩ được phép lãnh đạo, tỳ kheo ni được hướng dẫn chúng tu hành. Ðại sư phải chuyển hóa ngót năm mươi năm, những việc này mới được xem như bình thường.
Ðề xướng “xem trọng thanh niên” và “nam nữ bình đẳng” đã không dễ, nên việc cho cư sĩ tại gia và Pháp sư xuất gia cùng đứng cùng ngồi, thậm chí cho phép cư sĩ giảng kinh thuyết pháp cho Pháp sư nghe, cũng rất là gian nan.
Cư sĩ có thể giảng kinh thuyết pháp
Ðại sư nhớ lại thời Ngài còn trẻ, có một số cư sĩ thành đạt đến viếng chùa, gặp Pháp sư, họ chắp tay chào, mà không lễ bái. Có một số tu sĩ mới xuất gia thuộc hàng hậu bối, bất mãn phê bình:
– Cư sĩ gì mà thấy pháp sư cũng không biết lễ bái!
Thấy vậy, khi đó Ðại sư khởi ý nghĩ rất kỳ hoặc: “xét về kiến thức, về sự thành đạt, về khả năng phụng hiến và phẩm chất đạo đức, có thể nói là các cư sĩ này đều vượt hẳn các pháp sư – nhưng vì sao mà vừa xuất gia là thành lớn liền? – còn chưa xuất gia thì là nhỏ, thấp hơn? – Lẽ ra các pháp sư này phải hướng về các cư sĩ nọ hành lễ mới đúng! Bởi vì cho dù các cư sĩ này chưa xuất gia, song tính về mặt đạo đức và sự nghiệp cống hiến của họ cũng rất đáng kể! – các cư sĩ này, dù đang ở vị thí chủ, song xét về lòng nhiệt thành cúng dường và công hạnh ủng hộ tam bảo lớn lao của họ, thì người xuất gia nếu biết nghĩ và tri ân, cũng có thể đảnh lễ họ nữa đấy!”
Ðôi khi Ðại sư thấy Phật tử đến viếng chùa, phát tâm muốn học đạo, mong muốn sống an. Nhưng khi họ vừa mới bước vào chùa thì người xuất gia phán ngay:
– “Người hãy về từ bỏ vợ con, xả bỏ giàu sang phú quí, cắt ly hết đi!
Ðại sư cũng cảm thấy thắc mắc: “ Người tại gia thì phải có pháp hướng dẫn tu trong hoàn cảnh hơp với tại gia, đối với người tại gia mà giảng pháp xuất gia, thì chẳng những đã không thích hợp mà còn khiến Phật pháp suy vi. Bởi người tại gia mà theo nếp sinh hoạt như người xuất gia, một khi không thích hợp, có thể đem lại rối loạn cho gia đình và xã hội. Nói ngược lại, nếu người xuất gia sống theo sinh hoạt của người tại gia, ắt cũng đem lại tai vạ cho Phật pháp.
Nếu pháp “tu xuất gia” và “tu tại gia” được lưu tâm giảng giải rõ thì có thể giúp bốn chúng đệ tử trong Phật giáo đạt được sự an ổn đích thực.
Sau khi thoái vị Trụ trì Phật Quang Sơn, Ðại sư dốc hết tâm lực vào “Hội Phật Quang Quốc Tế” đây thật sự là một nơi không phân biệt tăng tục, không phân biệt nam nữ, không phân tuổi tác và là một đoàn thể Phật giáo bình đẳng đúng nghĩa.
Ðại sư đã sáng lập “Ban Giảng Sư”, và chế độ “Giảng Sư Ðàn”, dành cho những cư sĩ có tư cách, đủ đức đủ tài, được phép giảng kinh hoằng pháp, đây không chỉ là sáng kiến, mà còn là việc làm chưa từng có trong lịch sử Phật giáo.
Ðại sư thường mỉm cười nói đùa:
-Tôi là người ngoại tỉnh, thế nhưng lại ưu ái người bổn tỉnh; tôi là người xuất gia, song lại ưu ái người tại gia; tôi là chúng nam, nhưng lại ưu ái chúng nữ! Nhưng thật ra đối với tôi – bổn tỉnh, ngoại tỉnh; tại gia, xuất gia; chúng nam, chúng nữ – về căn bản, hoàn toàn không hề có phân biệt.
Phật giáo nên xem trọng lúc này, chỗ này, người này
Ngoài ra, sư phụ xét thấy có những tư tưởng trong Phật giáo, nếu không cải cách thì không được, Ngài muốn chuyển xu hướng xem trọng kiếp sau thành xem trọng hiện tại, chuyển ý hướng vọng cầu cõi Tịnh độ trong tương lai thành xu hướng tạo lập cõi nhân gian tốt đẹp ngay trong hiện đời; Ngài muốn chuyển cái nhìn: xem cõi thế gian như tù ngục thành là cõi tự do có đủ hạnh phúc tâm linh, chuyển ý niệm coi thân thuộc như oán thù thành là quyến thuộc vui hòa.
Ðại sư kể một câu chuyện về nhà Ðại tư tưởng Lương Thấu Minh và Ðại sư Thái Hư :
Thời chiến tranh chống Nhật, Lương Thấu Minh đến tỉnh Tứ Xuyên, nhằm lúc Thái Hư Ðại sư làm chủ trì trong khóa diễn giảng “Hán Tạng Giáo Lý Học Viện” ông đưa ra so sánh:
– Các bạn đồng môn trong Phật giáo đều ngạc nhiên về Lương mỗ tôi, là quá khứ từng nghiên cứu Phật học, sao bây giờ lại lao vào Nho, có vẻ như tôi bất trung bất nghĩa đối với Phật giáo, thế nhưng chỉ vì sáu chữ mà tôi ly khai Phật giáo để tìm đến với Nho gia, sáu chữ đó là: lúc này, chỗ này, người này. Phật giáo giảng về thời gian, thường là tư duy diệu viễn, trong khi vấn đề hiện thời của chúng ta chưa được giải quyết, Phật giáo giảng về không gian, tả có Tây phương thế giới, Ðông phương thế giới, các phương thế giới khác…, trong khi những vấn đề trong xã hội hiện nay vẫn chưa được giải quyết. Phật giáo giảng về nhân gian, có người, súc sinh, ngạ quỷ, chư thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát thập pháp giới, chúng sinh v.v.. thế nhưng các vấn đề của cõi nhân gian vẫn chưa giải quyết. Tôi cảm thấy lý luận Phật giáo quá ư xa vời, quá khoa đại, khiến tôi tiếp nhận không nổi, dung nạp không xong. Còn lý luận Nho gia tương đối thực tế, chú trọng đến hiện thực, chú trọng kiến thiết, chú trọng nhân gian hiện tại…
Tiên sinh Lương Thấu Minh nói xong, Ðại sư Thái Hư liền giải thích:
– Nói về thời gian thì Phật giáo mặc dù giảng quá khứ, hiện tại, vị lai, thế nhưng rất xem trọng hạnh phúc hiện tại. Nói về không gian, Phật giáo dù giảng tha phương thế giới, thập phương thế giới, song thực chất rất chú trọng đến các vấn đề hiện tại. Còn nói về nhân gian, tuy là Phật giáo giảng thập pháp giới, vô lượng vô biên chúng sinh, song căn bản vẫn là xem trọng nhân loại, lấy con người làm gốc”.
Muốn Phật giáo phát triển mạnh, sư phụ cho rằng ngoại trừ xem trọng quá khứ, hiện tại, vị lai ra, còn phải xem trọng lúc này, chỗ này, người này.
Có người thấy sư phụ nảy ra sáng kiến miên viễn bất tuyệt, bèn ca ngợi Ngài là: “Vua sáng kiến”. Bởi vì ngoài việc kiến tạo các ngôi chùa trang nghiêm huy hoàng ra, hình thức hoằng pháp của Ngài rất đa dạng, phong phú. Ngài giảng Phật pháp hay đến chấn động lòng người.. Nhiều người cho rằng sư phụ có khả năng phi phàm và biệt tài xuất chúng. Thật ra đối với Phật pháp nhờ Ngài biết nhìn xa trông rộng, cộng thêm kiến thức uyên bác và kinh nghiệm thể hội sâu, chỉ cần nhìn qua một vài hình thức khôi phục bộ mặt Phật giáo của Ngài đã làm, tất sẽ hiểu được bản hoài của Ðức Phật khi thị hiện vào nhân gian.
Tự thức tỉnh, đơn độc thực hành
Lịch sử Phật giáo luôn là như thế, kẻ tự thức tỉnh một mình thì thực hành đơn độc, người có sáng kiến tất cũng chịu nhiều tai ách, chịu nhiều chỉ trích bài xích về sáng kiến của mình. Người muốn cải cách canh tân, trước phải tự đổi mới tâm, trong suốt quá trình tiến hành công cuộc “Phật giáo hóa nhân gian”, “hiện đại hóa Phật giáo”, Phật Quang Sơn chịu rất nhiều áp lực bài xích, hủy báng và ngăn trở. Có lúc hầu như khó nhích nổi nửa bước. Thế nhưng Ðại sư luôn dũng cảm đương đầu với mọi thế lực phá hoại phát xuất từ các tư tưởng bảo thủ cố chấp cứng ngắc.
Nghĩa là bất kể Ðại sư làm gì, thì những người ngăn trở luôn moi móc tìm chỗ để đả kích, họ không muốn tiến thủ đã đành, còn muốn dìm người chìm theo mình mới cam!
Ðại sư vốn chẳng quan ngại tới những người như thế, chỉ lưu tâm hướng dẫn tăng ni tu, dốc sức giảng kinh hoằng pháp, đầu tư vào việc chấn hưng Phật giáo, chỉ cần là việc có lợi cho công cuộc chấn hưng đạo pháp, chỉ cần việc độ sinh ấy đem lại hữu ích cho chúng sinh thì Ngài cương quyết tiến hành, cố cải cách canh tân sao cho thành công mới thôi.
Ðại sư nói:
Nhớ lại ngày trước Ðại sư Thái Hư giảng kinh, khi xử dụng bảng đen để chép kinh, đã bị các nhân sĩ trong đạo mạ lỵ là: “yêu tăng”! Thế thì dù tôi có bị họ sỉ vả thậm tệ cũng chẳng thấm vào đâu!
Nhìn lại suốt năm mươi năm qua, những người ngày xưa cực lực báng bổ Ðại sư đều chẳng theo kịp bước tiến của Ngài. Ngài đã dốc hết tâm huyết thực hiện hoài bão và hoàn thành việc kiến tạo “Phật Giáo Nhân Gian”. Ðại sư nói:
– Chỉ cần mọi người chịu phát tâm tu học, là Phật giáo có hi vọng! Sợ nhất là cứ khư khư bảo thủ si độn, thì khó mà tiến cho được!
Do Ðại sư lấy “Phật Giáo Nhân Gian” làm mạng mạch, nên tính sáng kiến bao hàm toàn diện, Ngài kể lại thuở xưa khi mới đến Ðài Loan:
“Lúc đó tôi muốn tìm một ngôi chùa trong thành phố, nhưng giữa chốn phồn hoa náo nhiệt rực rỡ sắc màu, đúng là tìm chẳng ra. Chỉ khi đi đến những chỗ bẩn thỉu, hôi hám, tối tăm thì lại là chỗ của chùa miếu. Còn nếu đi ra ngoại thành, tới những chỗ quanh co vòng vèo, nghĩa là nơi thâm sơn đèo heo hút gió, thì cũng tìm ra chùa. Song dù tìm được chùa rồi, tuy là thấy “Ðại Hùng Bảo Ðiện”vàng chói, nhưng đại chúng trong bếp thì bát nháo khó kham, khách đến không có cơm ăn cũng không có nước uống. Nhà xí thì càng nhớp nhúa kinh khủng hơn, cảnh tượng khiếp đến nỗi người ta chỉ muốn thối lui”.
Những sự kiện trên đã khiến Ðại sư hạ quyết tâm, nhất định các tự viện thuộc Phật Quang Sơn sau này, nếu ở nơi ngoại thành, thì phong cảnh phải ưu mỹ, thoáng sạch; còn nếu ở trong nội thành, thì đường xá phải khai thông, có đèn đuốc chiếu sáng; không riêng gì Ðiện Phật, Thiền đường trang nghiêm, thanh nhã.. mà ngay cả nhà bếp, nhà vệ sinh.. mọi chỗ mọi nơi đều phải gọn gàng, ngăn nắp, sạch không có chút bụi.
Còn nữa, trên từ nguyên thủ quốc gia, dưới đến thường dân tiểu tốt, nếu có đến sơn môn, tất cả đều có quyền được nhắp chén trà Phật, được thết đãi chu đáo như nhau, với các món ăn đủ dinh dưỡng, hợp vệ sinh.
“Chúng tôi mong muốn giúp ích cho tín đồ về thân lẫn tâm. Tất cả đều vì tín đồ mà thiết lập. “Thư viện, Nhà sách, Nhà Mỹ Thuật, Phường Trích thủy…”, tất cả được lập ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu tâm linh của tín đồ. Thiền đường, Giảng đường, Phật đường… tất cả được xây nên với mục đích giúp tín đồ khai tâm, mọi công trình sáng tạo kiến thiết của chúng tôi đều có chung một ý nguyện là mong tín đồ khi đến viếng chùa, tâm tư được khai sáng, cõi lòng tràn ngập hân hoan, vui bước vào dòng pháp.
Phải có sáng kiến sáng tạo
Muốn đại chúng được hạnh phúc an vui thì phải dùng phương tiện, Ðại sư không có phút giây nào mà không ngơi sáng kiến sáng tạo. Do quan tâm lo nghĩ cho người già, muốn giúp họ tu học nên Ngàiø lập ra “Học Viện Thường Xuân”. Còn phần của chúng đệ tử nam, Ngài lập “Hội Hộ Pháp Kim Cương”. Ðể hỗ trợ chúng đệ tử nữ tu học, Ngài lập “Hội Pháp Toà Phụ Nữõ”. Nghĩ đến các thanh niên, Ngài lập “Ðội Thanh Niên”. Riêng các nhi đồng thì Ngài cũng không bỏ sót và lập đội “Ðồng Tử Quân”…
Có lần Ngài ngồi phi cơ, thấy tiếp viên dọn ra một mâm thức ăn chay mỗi thứ mỗi món phân lượng sít sao, đủ chất bổ dưỡng. Vừa xuống phi cơ là Ngài lập tức nghiên cứu món chay “Phi cơ xan” liền và tổ chức chiêu đãi “Bữa ăn phi cơ”, giới thiệu cho mọi người cùng dùng. Khách được Ngài mời ăn, hễ đã nếm qua một lần rồi đều thấy rất khó quên. Vì dưới sự hướng dẫn của Ðại sư, “Bữa ăn Phi cơ” nơi Phật Quang Sơn đương nhiên là ngon và hấp dẫn vượt xa món “phi cơ xan”thực thụ trước kia.
Ðại chúng Phật Quang Sơn được Ngài lưu tâm chăm sóc thức ăn chu đáo, ẩm thực ở đây ngon cực kỳ, có nhiều món do sư phụ đích thân sáng tác và dạy nhà bếp làm. Như đậu phọng, đậu hủ, sốt cà, mì đậu Hoàng đế, tất cả được điều chế từ các rau củ thực vật bình thường, nhưng một khi khách đã ăn qua rồi thì khó mà quên.
Thấy những người giàu không xem kinh, còn những người ưa xem kinh thì lại không có tiền, Ðại sư nảy ra ý lập quỹ “Bảo Trợ Ấn tống kinh”, để những người giàu dù không xem kinh cũng có cơ hội gieo duyên với Phật pháp bằng cách xuất tiền ra in kinh cho những người nghèo ham đọc, đề xướng sự hỗ tương giúp đỡ lẫn nhau, khiến ai cũng được lợi ích.
Thấy người ở vùng sâu vùng xa không thể đi khám bịnh, Ðại sư thành lập “Y Viện Vân Thủy” (viện chẩn bịnh lưu động) để chữa trị cho những người ở hang cùng ngõ hẻm.
Thấy bên Cơ Ðốc Giáo có “ngày lễ Thánh” sư phụ bèn tổ chức các ngày lễ như “Lễ Tam Bảo”, ngày mồng tám tháng tư thì có “Lễ Phật Ðản”, ngày mồng tám tháng bảy có “Lễ Tăng Bảo”, ngày mồng 8 tháng 12 là “Lễ Pháp Bảo”, nỗ lực gầy dựng như thế trải qua nhiều năm, bây giờ ngày Phật Ðản đã được chính phủ công bố là ngày lễ toàn quốc.
Thuở Ðại sư còn học ở Phật học viện, đã từng làm báo, khi qua đến Ðài Loan, Ngài tiếp tục chủ biên Tạp chí “Giác Sinh”, “Nhân Sinh” kế đến lại sáng lập”Tuần San Giác Thế”, “Phật Giáo Ngày Nay” và “Tạp Chí Phổ Môn”.
Ðại sư thành lập “Nhà Xuất Bản Phật Quang Sơn, xuất bản vô số sách hay, còn lo sắp xếp biên tập lại để cho in và xuất bản bộ “ Phật Quang Ðại Tạng Kinh” và “Phật Quang Ðại Từ Ðiển” đồ sộ, công phu. Ðây là hai bộ sách nội dung súc tích, ích dụng và hoàn toàn không thể thiếu cho các học giả. Những năm gần đây, Ngài còn hợp tác với Bá Khắc Lai ở Ðại Học Cali cùng chỉnh sửa và cho thu hai Bộ sách quí này vào đĩa để bảo lưu vĩnh viễn.
Năm 1999, trước cặp mắt chiêm ngưỡng của bao người, Ðại sư sáng lập Nhật báo Phật giáo “Nhân Gian Phúc Báo” đây là tờ báo đạo rất hữu ích, cung cấp các đề mục sống hạnh phúc cho con người, giúp người ta tạo lập một đời sống hạnh phúc. Xem như cả Ðài Loan chỉ có duy nhất tờ tân văn này là báo chí thuần tịnh đúng hướng.
Bắt đầu từ 1972 Ðại sư bắt đầu len lỏi vào Ðài truyền hình, tại các kênh truyền hình “Trung Thị”, “Ðài Thị”, “Hoa Thị” đều có chiếu các tiết mục thuyết pháp của Ðại sư, trong đấy có “Tinh Vân Thiền Ngữ”, “Tinh Vân Pháp Ngữ”, “Tinh Vân Thuyết Kệ” từng làm vang dội một thời, được người tán thưởng và tỏ ra rất say mê. Ðến 1998 thậm chí Ðại sư còn nới rộng và cho lập kênh “Truyền Hình Phật Quang” riêng.
1957 sau khi Ðại sư biên soạn 282 bài hát, thu hơn 20 bài thuộc ca khúc Phật giáo thì âm nhạc Phật giáo đãkhởi sắc. Năm 1997 Ðại sư thành lập”Ðoàn Tán Tụng Phạn Bối”, không những biểu diễn trong nước mà còn trình diễn các nơi trên thế giới. Ðại sư còn cho xuất bản các ca khúc và âm nhạc Phật giáo “Như Thị Ngã Văn” và “Văn Hóa Hương Hải”
Chúng tôi đem những công trình sáng kiến hoằng pháp của Ðại sư từ báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, biên lại thành những đoạn ngắn, mong mọi người có thể hiểu được tâm huyết vô bờ của Ngài.
Phát huy sáng kiến ẩn tàng
Ðại sư nói:
– Ai cũng bảo tôi khéo phát minh sáng tạo, song thật sự tôi “phi Phật bất tố”, những phát minh này tất cả đều vì mục đích hoằng dương Phật pháp, mong muốn thúc đẩy Phật giáo tiến lên, và cũng vì muốn giúp ích cho chúng sinh. Do đó, sáng kiến không chỉ là thay đổi hình thức, mà còn phải phát huy hết nội dung, thật ra Phật pháp có nội dung tối tuyệt hảo, chỉ vì thời đại không đồng, chúng sinh không đồng, phong thổ không đồng, nên chúng tôi bắt buộc phải sáng tạo ra một hình thức mới mẻ. Nếu như Ðức Phật còn tại thế, hẳn Ngài cũng sẽ gật đầu cho phép thôi! Ngày xưa hoằng pháp hết sức tiêu cực, bởi vì cứ: -“không! Không! Không!” Ngày nay chúng ta hoằng pháp cần phải tích cực. Nghĩa là: “Nên! Nên! Nên!” Phàm việc gì có ích cho Phật pháp, tôi đều tiến hành, thế là sáng kiến tự nhiên phát khởi, trào dâng bất tuyệt.
Bởi vậy, được nghe Ðại sư giảng kinh thuyết pháp cũng là một cách hưởng thụ, vì Ngài luôn có những tư tưởng quan điểm mới mẻ tối tân, giúp chúng ta thấm nhuần Phật pháp, mở sáng tâm tư dễ dàng.
Chẳng hạn như giảng về ngũ giới, Ðại sư nói:
– Ngũ giới đặt ra chẳng phải để trói buộc chúng ta, mà căn bản chính là vì hạnh phúc của chúng ta mà thiết lập. Ngũ giới thực ra chỉ là một giới điều: “Không xâm phạm”! Không sát sinh, tức là không xâm phạm tính mạng kẻ khác mà còn ra sức bảo vệ sinh mạng muôn loài, nhờ vậy ta được sức khỏe khang kiện và trường thọ. Không trộm cắp, chính là không xâm phạm tài sản người, hơn nữa còn hỉ xả bố thí, tự nhiên được phát tài và được hưởng phú quí. Không tà dâm, chính là không xâm phạm danh tiết người, và còn bảo vệ, tôn trọng danh tiết họ; tự nhiên gia đình được hạnh phúc tràn trề. Không vọng ngữ, nghĩa là đối với danh dự uy tín người, mình không xâm phạm mà còn biết tán thán người; tự nhiên danh tốt được tán dương, xa gần đều nể trọng đức chân thật của mình. Không hút nghiện, nhậu nhẹt, và triệt để xa lìa các thứ độc này, chính là không làm tổn hại lý trí; nhờ vậy không đi xâm phạm ai, không làm tổn hại ai; tự nhiên thân thể mạnh khoẻ, trí tuệ sáng suốt.
Còn như giảng về tử vong, Ðại sư nói:
Người chết là dọn sang nhà mới, là di dân, là vãng sinh qua cõi tịnh, chúng ta sau này rồi cũng sẽ chuyển đến nhà mới, có thể gặp lại bạn bè, cùng hội ngộ nhau, nếu cùng hành thiện nghiệp, tương lai ta cũng sẽ di cư về cõi tịnh, hà tất phải bi thảm quá như thế?
Giảng về tác hại của mê tín phong thủy địa lý, Ðại sư nói:
– Tôn giáo là đem lại tự do cho tâm linh nhân loại, thế nhưng có người muốn làm ngược lại, dùng tôn giáo để trói buộc mình. Phiền não, kim tiền, ái tình, đều trói buộc tự do của chúng ta, nhưng đôi khi tín ngưỡng không chân chính cũng là gông cùm xiềng ta, sức trói buộc của nó rất lớn, cực sâu và tệ hại hơn. Ví như có người muốn cất nhà, bèn mời thầy địa lý đến coi phương hướng, xem phong thủy dùm, sau khi thầy địa lý xem xét khắp nơi, ông thở dài một hơi và phán: “Nếu cất nhà chỗ này, phương hướng không được đắc địa, lại còn hết sức bất lợi đối với con cháu trong mai hậu; nếu xây nhà trên cuộc đất xéo lệch, may ra mới tốt được!
Cất nhà mà di họa cho con cháu trong tương lai là việc hết sức đáng sợ, thế là gia chủ nhắm mắt nghe theo thầy Ðịa lý bày, xây nhà ở nơi nghiêng lệch.
Gặp khi nhà có thân nhân qua đời, định nhập thổ an táng, nhưng sợ nhằm giờ hung sát, gia chủ bèn thỉnh thầy địa tới xem giờ, thầy bấm tay xong, phán:
-Tốt nhất là nên mai táng vào đúng 20 giờ đêm, nếu như không an táng vào giờ này e rằng con cháu sẽ bị hại.. còn nữa, thân tộc đều phải tránh xa ra, để khỏi chuốc họa cho mình về sau!
Tin thầy địa lý nên thân tộc và con cháu hè nhau thối lui 90 đặm, ngay cả con trai, con gái, cũng không dám làm lễ tang ma cho đến nơi đến chốn, cứ một bề làm theo ý kiến thầy địa. Chỉ tội vị sư tụng kinh siêu độ, đêm tối vẫn còn ở nơi nghĩa địa cỏ phủ khói hoang. Còn quyến thuộc người chết, hễ thấy ánh lửa ma trơi nhấp nháy, là bủn rủn tay chân, sợ hết hồn; vì không rủ bỏ được những ám ảnh về ma quỉ.
Lại có người sắp sinh con, quá lo xa nên thỉnh bốc sư đến bói dùm xem đứa trẻ sinh ra có xung khắc; tuyệt thể, tuyệt mệnh gì không? Bốc sư nói đứa bé mang theo nhiều hung khí, ngày sau lớn lên ắt sẽ khắc cha hại mẹ, kết quả là niềm vui sinh con chưa hưởng, đứa bé sinh ra từ đó bị xem như cái gai trong mắt cha mẹ, vậy là khi không mà gia đình bị chìm trong sầu thảm.
Kiếp người chúng ta, đâu nhất thiết phải có thần linh quỉ quái trừng tội gì, thật ra quỉ thần chưa chắc đã giáng họa ban phúc cho ta, tất cả chỉ vì ta thiếu chánh kiến, tự ôm ngu si rồi tự mình trói buộc mình thôi, chính ta tự làm cho mình mất tự do. Họa phúc của thế nhân, nhất định là ở trong tay mình, chính ta phải làm chủ, định đoạt đời mình, đừng nên đem đời sống mình ký thác cho quỉ thần, thậm chí các trò phù phép tà thuật, đều là huyễn hoặc hoang đường”.
Trong khi Ðại sư thuyết pháp, ta có thể thấy sáng kiến bàng bạc cùng khắp, hơn nữa Ngài thuyết pháp luôn muốn tất cả mọi người đều tiến bộ, đưa nhịp sống xã hội đi lên theo thời đại. Chẳng hạn như khi xe mô tô phân khối lớn thịnh hành, có một tín đồ chạy tới gặp Ðại sư thắc mắc:
– Bạch sư phụ! Ngày nào con cũng lễ Bồ-tát, cầu Ngài gia hộ cho thằng quí tử của con, nhưng mới vừa rồi nó bị tai nạn té xe, vậy Bồ-tát có linh hay không?
Ðại sư đáp:
– Bồ-tát linh lắm chứ, nhưng con trai ông lái nhanh quá nên Bồ-tát chạy theo đâu có kịp!
Còn nói về bảo vệ môi trường, Ðại sư nhận xét:
– Nhân loại trong xã hội do phá hoại môi trường tự nhiên mà tự chuốc lấy kết quả thảm hại. – Ðức Phật Thích-ca là chuyên gia bảo vệ môi trường đệ nhất đấy! Ðức Thế Tôn chủ trương không sát sinh, yêu thương mỗi chúng sinh, bảo hộ từng cọng cây ngọn cỏ, tất nhiên là không hề phá hoại môi trường. Ngài dạy không trộm cắp, giới ấy bao gồm cả việc không trộm thâu lợi riêng bằng tài nguyên thiên nhiên, vậy cũng là bảo vệ môi trường. Còn như Phật A Di Ðà của thế giới Cực Lạc, ta thấy tả cõi Ngài ở sen nở ngát hương, hoa cỏ xum xuê, chim chóc vui hót, những điều đó chẳng phải là nhờ bảo vệ môi trường nên mới được kết quả như vậy sao? Thế nên, Phật giáo đồ phải có ý niệm bảo vệ môi trường, bảo vệ hành tinh xanh này, phải hiểu rằng lưu tâm đến điều này cũng chính là bản hoài của Phật!
Từ “quốc tế hóa” đến “bổn thổ hóa”
Ðại sư bảo bây giờ Ðạo tràng Phật Quang Sơn được mở rộng khắp toàn cầu, đã được “Quốc tế hoá” rồi, thế nhưng, điều Ngài mong muốn tiếp theo, là trong vòng mười năm nữa các Ðạo tràng ấy sẽ được “Bổn thổ hóa” .
Ðại sư nói:
– Nhắc đến “Bổn thổ hóa”, phần đông đều hiểu theo quan điểm của tự ngã. Song, “Bổn thổ hoá” của tôi không phải vậy, mà dựa trên lập trường nước ngoài để nói, tôi hi vọng sau này các Ðạo tràng Phật Quang Sơn ở nước ngoài sẽ được do chính người bổn xứ của nước đó chủ trì trông coi. Chẳng hạn như các chùa ở Phi Châu sẽ giao cho người Phi Châu tiếp quản, các tự viện ở Âu Châu sẽ giao cho người Âu Châu điều hành, nghĩa là tất cả Ðạo tràng nước ngoài về sau này sẽ do chính người bổn xứ thuộc nước đó cai quản. Vậy mới là “Bổn thổ hóa”.
Các đệ tử từng hỏi tôi:
– Bạch sư phụ! Chúng ta tốn biết bao công sức, vất vả gian gian ghê lắm mới gầy dựng được các tự viện tầm cỡ như thế này, lẽ nào về sau lại giao cho người ngoại quốc làm chủ vô điều kiện vậy sao?
Tôi đáp:
– Ngày xưa, các vị Ðại sư Ấn Ðộ như Ðạt-Ma, Cưu-Ma-La-Thập, Trúc-Pháp-Lan… đến Trung Hoa truyền đạo, nếu như tới giờ mà các tự viện đó vẫn còn nằm trong tay người Ấn thì Phật pháp Trung Quốc có được như hôm nay chăng? Phật pháp là thuộc về tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh ai cũng cần Phật pháp, pháp sư bổn xứ hoằng dương Phật pháp, đương nhiên là hơn chúng ta hoằng pháp gấp bộâi phần rồi!
Hoá ra hoài bảo”Bổn Thổ Hoá” của Ðại sư là như thế, tấm lòng Ðại sư khoan dung quảng đại, nhìn xa nghĩ rộng biết bao. Có thể đem các vị Ðại sư trong lịch sử để so sánh, như Ðạt-ma truyền pháp ở Trung Quốc cho “Một hoa nở năm cánh”ø toả ra khắp chốn. Còn sư Giám Chân sang Ðông ở Nhật bổn, khi đã làm cho Ðạo tràng Phật pháp ở Nhật được cực thịnh rồi thì an nhiên mà hóa. Người hoằng pháp có tính nhỏ hẹp thì kết quả sẽ hạn hẹp, giống như trồng cây trong vườn người rồi ở lại cùng hái quả cùng chia cùng hưởng vậy. Còn người hoằng pháp có phong cách quảng đại thì không như thế, giống như mình đến vườn người trồng cây quả, đến chừng cây ra hoa kết trái, mình điềm nhiên phất tay áo ra đi, chẳng mang theo vật gì. Như thế, kết quả sẽ là vô cùng, được truyền dương mãi.
Sư phụ không những có sáng kiến bất tuyệt, mà có thể nói là cả đời Ngài sống trong sáng kiến.
Ngàn may vạn may, chúng sinh thật diễm phúc biết bao!
Tôi thường nghĩ, nếu như Ðại sư không phải là một nhà tôn giáo, chẳng biết Ngài sẽ lưu lại công nghiệp gì ở nhân gian nhỉ?
Ngài có thể sẽ là một kiến trúc sư vĩ đại, cho dù Ngài chưa học qua nghành kiến trúc lấy một ngày, nhưng Ngài lại có khả năng xây dựng hơn hằng trăm Ðạo tràng, mà Ðạo tràng nào cũng đường bệ tôn nghiêm, nguy nga thanh tịnh; đủ để khiến cho một dọc kiến trúc sư thực thụ phải cúi đầu ngưỡng mộ tán thán Ngài.
Ngài có thể sẽ là một nhà giáo dục vĩ đại, Từ năm 20 tuổi Ngài đã đảm nhiệm chức Hiệu trưởng trường “Tiểu Học Bạch Tháp”. Cả đời Ngài vùi đầu trong việc đào tạo nhân tài, lo xây dựng các Phật học viện, lập Trường Dạy Nghề, trường Mầm Non, trường Tiểu Học, Trung Học, Ðại Học v.v.. Ngài đã khai sáng tâm linh cho vô số người. Từng qui y cho hằng trăm vạn đệ tử, đúng là cuộc đời của một nhà giáo dục gương mẫu.
Ngài có thể là một nhà văn vĩ đại, cho dù Ngài chưa kinh qua trường Văn Khoa nào, hai mươi ba tuổi, Ngài đã hoàn thành bộ sách”Vô Thanh Tức Ðích Ca Xướng”, hai mươi tám tuổi Ngài viết cuốn “Thích Ca Mâu Ni Phật Truyện”, ba mươi tuổi Ngài cho ra đời cuốn”Ngọc Lâm Quốc Sư”, ba mươi hai tuổi Ngài viết cuốn “Thập Ðại Ðệ Tử Truyện”. Suốt cả đời Ngài luôn viết lách không ngừng nghỉ.. những sách Ngài viết từ thuở xa xưa đến nay đọc lại vẫn còn thấy xúc động và hay cực kỳ!
Ngài có thể là một nhà kinh doanh kiệt xuất, cho dù Ngài không qua một trường Thương Nghiệp nào, nếu như đem những cơ sở Ðạo tràng Ngài từng xây dựng và các công trình như Trường học, Nhà Nghệ Thuật, Ðồ Thư Quán… đổi hết ra thành sự sản của xí nghiệp, thì Ngài sẽ là một nhà “Ðại Doanh Nghiệp Xuyên Quốc Gia” và sự thành đạt cự phách của Ngài, nếu đem so sánh, thì các Ðại gia và các Tập đoàn xí nghiệp “xuyên quốc gia tầm cở” đều thua xa Ngài.
Ngài có thể là một bếp sư vĩ đại. Hồi còn trẻ Ngài giữ việc chợ búa nấu nướng lo thức ăn cho các chùa, Ngài có thể coi một lúc sáu bếp, Ngài có thể nấu, chế biến thức ăn cho cả trăm người chỉ trong thời gian ngắn, và ai đã từng thưởng thức qua món Ngài nấu, đều không tiếc lời khen ngợi.
Ngài có thể là một nhà tuyên truyền vận động thành công vĩ đại trong xã hội, những gì Ngài nghĩ và vừa đề xướng ra, thì đã có sức hấp dẫn lôi cuốn người ta rồi; Ngài có duyên thu hút phi thường, nếu như Ngài làm lãnh tụ chính trị hoặc là nhà tuyên truyền vận động trong xã hội, bảo đảm Ngài dư sức làm lảo đảo chúng sinh.
Khả năng Ngài ư? Hầu như Ngài sở hữu năng lực vô hạn!
Ngàn may, vạn may! Chúng sinh thật diễm phúc làm sao! Vì Ðại sư là một nhà tôn giáo, là một Bậc Thiên Nhân Sư mẫu mực, Ngài đã đem năng lực vô hạn của mình, châm một mồi lửa, thắp sáng ánh Phật đăng, khiến “Phật quang phổ chiếu tam thiên giới, dòng pháp lưu truyền suốt năm châu”. Cũng bởi vì Ngài thâm nhập nhân gian, nhìn thấu Phật pháp tại thế gian, “Nhân thành tức Phật thành” khiến Ngài xả bỏ mọi điều hư huyễn, dám cam đoan như đinh đóng cột rằng: “Ðạt đến nhân cách tối cao chính là thành Phật!” Ngài đã phát minh ra biết bao sáng kiến, tất cả nhằm để phô bày trọn vẹn ưu điểm Chân, Thiện, Mỹ, của Phật pháp; đưa pháp tu giản dị vào nhân gian. Ðối với những phát minh của mình, Ngài nhìn nhận rằng: Tất cả mọi sáng tạo là thể hiện cảnh giới sự lý viên dung, nhằm để phụng sự chúng sinh và giúp chúng sinh hạnh phúc mà thôi!”