SAO TRỜI MÊNH MÔNG
Nguyên tác: Hán văn: “Hạo Hãn Tinh Vân”
của Lâm Thanh Huyền
Hạnh Đoan lược dịch

 

CHƯƠNG 12: THUYẾT PHÁP

Lần nọ đến thăm Phật Quang Sơn, lúc đi gần tới Bảo Kiều, tôi thấy thấp thoáng bóng dáng cao lớn của Ðại sư đang lướt qua Bảo Kiều, làn gió xuân lay nhẹ làm tà áo Ngài phất phơ, tiếng lá cây xào xạc hòa lẫn với tiếng suối róc rách tạo nên âm thanh vui nhộn.

 Ðại sư khoan thai bước, trông Ngài có vẻ trầm ngâm. Ngài mới vừa kết thúc khóa giảng thâm áo cho học sinh nơi Phật học viện và đang đi về hướng “Hội Quán Triều Sơn”, bởi vì lúc này, ngay tại đấy có một số khách đang cầu kiến và chờ Ngài khai thị. Những người này không phải là học chúng của viện, lẽ tất nhiên là Ðại sư sẽ giảng cho họ những đề tài dễ hiểu, đậm hương vị Phật pháp.

Từ Tây Lĩnh tôi đi bộ qua Bảo Kiều, trước sau chẳng quá năm phút, năm phút này đủ để Ðại sư qua cầu xong.

Vừa bước vào “Hội Quán Triềâu Sơn” Ðại sư được thỉnh lên bục giảng ngay. Ngài thuyết pháp tự nhiên như trò chuyện, ngôn ngữ tuôn ra dễ dàng như có sẵn trong tâm, lời Ngài lưu loát như gió đùa qua lá trúc, nhẹ nhàng như nước chảy mây bay, khiến thính chúng ngây người xúc động.

Phía trên Bảo Kiều, dáng núi tĩnh lặng nằm nổi bật cạnh chiếc lưỡi dài rộng lấp loáng ánh bạc của dòng nước, cảnh trúc biếc xinh tươi pha lẫn sắc hoa vàng rợp bóng, kết hợp với nhau thật tự nhiên, hài hòa và nên thơ! Chúng tôi thường đến đây và đã thấu hiểu đường lối của Ðại sư. Tấm lòng Ðại sư trong như gương, luôn chiếu sáng và soi thấu khắp tất cả chúng sinh hữu tình vô tình. Tôi tận hưởng thú mát mẻ từ làn gió xuân đang dịu dàng mơn man và nghĩ thầm: “ Có thể đánh giá bình phẩm dòng nước này với trúc xanh, sắc núi và hoa vàng, nhưng nếu đem so sánh Ðại sư với những cao tăng thời đương đại thì quả là Ngài có lối thuyết pháp đặc biệt và hay cực kỳ.

Tâm cùng tâm, cảnh cùng cảnh, tương phùng

Thật ra Ðại sư chẳng cần chuẩn bị trước gì cả, bằng đạo tâm tràn trề sung mãn, Ngài cứ tùy duyên tùy cơ mà thuyết giảng và bao giờ cũng dốc hết tâm sức tận tụy vì chúng sinh, Ngài thuyết pháp không những y theo Phật nói, mà còn quán sát, hiểu rành căn cơ chúng sinh, Ngài thường giảng về những điều thiết thực trong cuộc sống và khéo léo giúp chúng sinh tháo gỡ những khó khăn. Ngài thuyết pháp không nghĩ mình muốn nói gì? Mà là chúng sinh muốn nghe gì? Ðây là tâm khế tâm, cảnh khế cảnh, trong thời gian, không gian, ngẫu nhiên mà tương phùng. “Tâm tâm khế hợp, cảnh cảnh nhất như”. Ngài thuyết pháp không phải chỉ để giải thích Phật pháp, mà còn mong giúp người ta thành đạt trong cuộc sống thực tế. Ngài dốc hết sức, đem hết tâm huyết ra giảng.

Ðôi khi để hiển bày những thâm thúy súc tích ẩn tàng bên trong, thì sự vô ngôn cũng có thể diễn đạt rất thâm thúy… Ðại sư đã mở ra một cảnh giới tươi tắn rạng rỡ, đưa chúng ta vào khu vườn ngào ngạt hoa xuân, lộng lẫy hương sắc. Ðể đến khi bước ra khỏi vườn hoa, tâm trí ta dù hình dung được nhưng không thể diễn tả bằng lời, vì từ lúc bước được vào cõi im lặng ấy, đời sống chúng ta dường như lúc nào cũng văng vẳng âm hưởng của tiếng sấm vang, khiến các kiến giải của bản thân và quan niệm nhân sinh nhờ đó mà thay đổi hẳn.

Tôi thật may mắn làm sao, đã nhiều lần được nghe Ðại sư thuyết pháp tại hiện trường, còn được nhiều phen diễn giảng đồng đài với Ngài, diễm phúc hơn nữa là, tôi thường có cơ may được bàn luận đủ vấn đề cùng Ðại sư, tận hưởng sự giáo hóa tùy duyên của Ngài.

Ðiều khiến tôi lấy làm lạ nhất là, dù đã nhiều lần được nghe Ðại sư khai thị, có lúc hầu chuyện với Ngài suốt mười tiếng dài, từ buổi tĩnh tọa ban mai cho đến hoàng hôn, sư phụ chẳng hề chuyển đổi tư thế, cứ ung dung đàm đạo, nói lưu loát thao thao, từ sáng đến chiều, pháp thoại của Ngài có lúc như đại bàng vỗ cánh, khi thì như ngựa phi giữa trời, khoáng đạt vô biên. Có lúc giống như rồng lặn tận biển sâu, thâm áo mượt mà, kỳ diệu không thể lường. Nếu như nghe những người nông cạn thuyết pháp, chỉ vài ba câu là họ đã khiến ta buồn ngủ, song nếu được nghe Ðại sư giảng thì sẽ thấy khí thế mạnh mẽ, cuồn cuộn như thủy triều dâng. Tuy vậy, lời Ngài lại gieo cho người ta cảm giác lâng lâng, khiến lòng nhẹ nhỏm và thân tâm khoan khoái như bay bổng phiêu bồng tận chín tầng cao.

Những khi chuyện trò đang cao hứng, gặp lúc thị giả đến mời Ðại sư đi thọ trai, tôi thường ngay ngáy lo: Không biết thọ trai xong sư phụ có chịu tiếp tục câu chuyện nữa không?”

 Dùng cơm xong, Ðại sư thường bảo huynh Chí Trung và tôi:

– Các chú tản bộ theo tôi nhé, ăn xong chịu khó đi bộ ngàn bước, có thể sống rất dẻo dai, thọ tới 99 tuổi, đi bộ như thế này trong giáo lý Phật gọi là “hành hương”(*), ích lợi vô cùng đấy!

Rồi Ðại sư im lặng bước đi.

Chúng tôi chầm chậm nối gót theo sau Ngài đi vòng quanh thư viện, phòng làm việc, nhà khách.. chúng tôi cứ bước từng bước lẽo đẽo phía sau Ðại sư. Ði được mấy vòng, Ðại sư đột ngột hỏi chúng tôi:

– Nãy giờ chúng ta đi được bao nhiêu bước rồi?

Chúng tôi đều ngớ người, chẳng hiểu Ðại sư  có ý gì?

Ðại sư nói:

– Ðến giờ là bước thứ ba trăm, bất kể làm việc gì, ngay cả đi bộ các chú cũng phải nhớ dụng tâm đấy!

Nghiền ngẫm cách giảng thích hợp cho mọi người

Kinh hành xong, theo thói quen Ðại sư hỏi:

– Lúc nãy bàn chuyện tới đâu rồi?

Tôi liền nhắc lại, Ðại sư tiếp tục ngay. Pháp thoại của Ngài hùng hồn như suối nguồn trào dâng, khiến chúng tôi có cảm giác như mình được tắm trong làn nước mát, thân tâm đều được tẩy gội. Tôi bỗng nhớ tới câu chuyện tổ Lâm Tế:

“Ta có lúc hét như kim cương bảo kiếm, có lúc hét như sư tử ngồi xổm, lúc hét như sào dò bóng cỏ, có lúc hét mà không có công dụng của tiếng hét.”

Có nghĩa thế này, hét như kim cương bảo kiếm, là chặt đứt mớ phiền não nhăng nhít; hét như sư tử ngồi trên đất, là không trụ cố định tại hầm huyệt, hang ổ; hét như sào dò độ nước và gậy đập cỏ là nhằm tìm ra người có kiến giải; còn hét, nhưng “ý tại ngôn ngoại” nghĩa là đang hét mà thoát ngoài tiếng hét.

Sư phụ thuyết pháp cũng giống thế, thiên biến vạn hóa, tự do tự tại.

Tôi hỏi Ðại sư:

– Muốn có được khả năng thuyết pháp thì phải làm sao?

Ngài đáp:

– Thực ra chẳng khó khăn gì, chỉ cần giờ giờ khắc khắc, nơi nơi chỗ chỗ đều phải dụng tâm!

Chỉ cần trong lòng ta có Phật, thấy rõ Phật pháp thực sự liên quan đến nhân sinh và cứ rút lấy những điều thực tế trong cuộc sống ra mà thuyết giảng, tự nhiên là gần gũi với người, khiến họ dễ tiếp thu và được lợi ích. Nếu hằng quán sát cuộc đời, biết áp dụng Phật pháp vào cuộc sống thì tự nhiên có thể thuyết pháp hay.

Nhờ giác ngộ Phật pháp, am tường cuộc sống và am tường tâm lý con người nên Ðại sư có cách thuyết pháp rất ấn tượng, mỗi câu mỗi lời Ngài giảng luôn minh bạch rõ ràng, không khúc mắc khó hiểu. Thế nhưng, “thâm giả kiến thâm, tiễn giả kiến tiễn” (người trí hiểu biết sâu, người cạn nhìn nông nổi) chỉ người ở cảnh giới cao diệu mới có thể nhận ra điểm áo diệu thâm thúy ngay trong chuyện giản dị bình thường.

Có một số người thuyết pháp thích phân tích chi li, bởi cứ lo mổ xẻ phân tích tỉ mỉ nên khó tương dung các tông phái, chỉ một biến “Tâm Kinh” họ cũng có thể giảng ròng rã ba tháng.

Ðại sư không thế, Ngài là người gieo mầm chứ không là học giả. Ngài cứ ươm hạt giống vào lòng người rồi để mỗi người tự nuôi dưỡng cây trí huệ mình phát triển. Một biến “Tâm Kinh” Ðại sư giảng một ngày là xong.

Ðại sư không những một ngày giảng xong một bộ “Tâm Kinh”, mà nếu cần Ngài có thể giảng cả kinh “Kim Cang”, “Pháp Bảo Ðàn”, “Duy Ma Cật”, trong một ngày.

Ðại sư giảng kinh thuyết pháp khéo lượm lặt những tinh hoa trọng yếu một cách thần tốc, Ngài  giải thích:

– Ở vào thời buổi nhịp sống tăng tốc như hỏa tiển này, ai nấy đều bận rộn tất bật, nếu ta áp dụng cách giảng theo thời xưa, chưa kể là phần đông người ta khó tiếp thu, khó tiêu hóa, mà ngay chính người xuất gia cũng lãnh thọ chẳng nổi. Chỉ cần ta rút tỉa, lọc lựa những điều tinh túy trong giáo pháp ra để giảng, giúp người nghe dễ dàng nắm bắt những đề mục trọng yếu và phát sinh hứng thú đối với Phật pháp, chỉ cần họ hiểu và có hứng thú chịu áp dụng Phật pháp vào đời sống, thì là cách tốt rồi!

Như bộ kinh “Kim Cang” tuy là giảng xong trong một ngày, nhưng thật sự Ðại sư đã phải bỏ công ra nghiền ngẫm ngót cả năm ròng mới đạt đến sự khai sáng tốt đẹp.. Ðây không phải chỉ cần dùng một câu, hay nói một từ cho lọt lổ tai của người nghe là đủ, mà quan trọng là, kết quả việc thuyết giảng sẽ đem đến ích dụng cho đời sống thực tế được bao nhiêu? Vì giảng kinh thuyết pháp là thuyết cho đại chúng nghe, chứ không phải pháp sư giảng để khai tâm cho mình. Ðã gọi là giảng vì đại chúng thì tất nhiên là phải am tường sâu sát sinh hoạt quần chúng, phải hiểu thấu đáo các nhu cầu cần thiết của họ, cảm thông được hết những khó khăn của họ để khéo léo nhổ đinh tháo chốt!

 “Tất cả vì nghĩ cho đại chúng mà giảng kinh” đây là phương châm giảng thuyết quan trọng của Ðại sư. Ðây cũng là lý do khiến Ngài nẩy ra nhiều sáng kiến thuyết pháp linh động. Ðó là vì sao Ngài giảng luôn khế cơ khế lý và cực kỳ thích ứng với trào lưu tiến hóa hiện đại.

Kiến giải mới, cảm thọ mới.

Có lần tôi được tham dự một nghi lễ“Tiễn Biệt” do Ðại sư chủ trì. Trước niềm bi thống của bao bè bạn, gia quyến của tang chủ đang hiện diện, sư phụ khai thị thế này:

“Người ta lúc chết đi, cũng giống như dời nhà vậy, tức là từ bỏ chỗ ở cũ để dời qua chỗ mới. Thường thì khi chúng ta thấy có ai chuyển đổi qua nhà mới, ta thường vui vẻ chúc mừng, chưa từng nghe kể là có ai dùng khóc lóc để mừng Tân gia.

Người chết là ra đi, là xả bỏ những sở hữu thân thiết cũ của mình để khoác vào một thân thể mới, nhận lãnh những cái mới khác, đúng ra, chúng ta nên vui vẻ chúc mừng, tống tiễn họ.

Người chết rồi thì cũng giống như di dân, khi thấy người di cư sang Mỹ hay Canada, chúng ta thường làm tiệc tiễn hành, có thể là sau đó cả đời ta có khi cũng không gặp lại họ nữa, nhưng chúng ta đâu có cảm thấy buồn khổ thống thiết như thế này. Hơn nữa giây phút này, người vừa bỏ xác thân ra đi đây, thuở sinh tiền đã thâm tín Phật, chí thành hành trì pháp, sau khi chết đi nhất định sẽ được vãng sinh về thế giới Cực Lạc, hoặc một cảnh giới tốt đẹp tương xứng với thiện nghiệp họ đã tạo, vậy thì cuộc ra đi của họ bây giờ, cũng giống như là di cư sang Tây Phương vậy, so với Mỹ quốc, Canada thì chỗ ở mới này tuyệt hảo, tốt đẹp hơn bội phần, chúng ta càng phải nên vui vẻ chúc mừng, tiễn họ đi”.

Ðại sư khai thị xong, thì thân bằng quyến thuộc liền nguôi ngoai sầu khổ, ai cũng cảm thấy được an ủi, tín tâm càng tăng, lòng đầy hân hoan và hi vọng.

Năm 2000, trên thế giới xảy ra một sự kiện trọng yếu: bí mật về di về gien di truyền, những điều liên can đến cơ thể được giải mã, các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công, và có thể phục chế, tái tạo và cho ra một bản sao về sinh sản bằng phương thức rất hiện đại. Những vấn đề này làm dấy lên một làn sóng tranh cãi sôi nổi trong giới Tôn giáo tại tây phương.

Ðại sư nói:

– Khoa học càng tiến bộ, giáo lý Phật giáo càng tỏa sáng. Xung quanh vấn đề “Gien di truyền, giải mã sinh mệnh, sinh sản vô tính”… nếu nhìn theo lý “nghiệp” của Phật giáo thì rất tương thông. Gien của một người, mật mã sinh mệnh.. là nghiệp của người đó, nếu toàn gia tộc có gien tương đồng, thì gọi là cộng nghiệp. Trong cộng nghiệp có biệt nghiệp. Biệt nghiệp chẳng lìa cộng nghiệp. Ðến như sinh sản vô tính người hoặc động vật, bất kể là dùng phương thức gì, song chúng ta chỉ có thể sáng chế thân xác chứ hoàn toàn không thể “chế” ra tâm linh. Hạt giống “nghiệp thức” thành hình trong xác thân không thể chế tạo ra mà chúng xuất hiện tự nhiên theo “nghiệp lực”. Thực vật có ¼ gien tương đồng với con người. Ðây là lý do mà chúng ta càng phải dùng tâm “Vô duyên đại từ” và “đồng thể đại bi” yêu thương tất cả dồng nhất!

Khám phá mới này của khoa học đã chứng minh cho Phật pháp, có thể giúp người ta hiểu được tính chất “vạn cổ thường tân” của đạo Phật. Ta có thể đem những cảm nhận thực tế trong chính cuộc sống ra mà thuyết pháp, có thể giúp người “hội tâm bất viễn

Ðại sư nói “Tam Qui” “Ngũ Giới” “Lục Ðộ” là những điều căn bản quan trọng nhất của Phật giáo, rút từ trong đời sống mà thuyết ra.

Ðại sư giảng về Tam Qui:

Qui y Phật là thắp sáng đèn tâm, Kiến thiết công ty điện lực cho mình. Qui y pháp, là tích chứa pháp thủy cam lộ, tích chứa nguồn nước tràn trề cho mình. Qui y tăng, là trưởng dưỡng hoa quả Bồ đề, khai mở ruộng đất tốt cho mình. Bắt đầu từ lúc qui y tam bảo:

Ta được lợi là, có điện xài không hết, có nước xài không cùng tận, có ruộng tốt phì nhiêu.. nhất định đời sống của ta sẽ hạnh phúc hơn hẳn ngày xưa. Ðại sư giảng về “Ngũ giới”:

Không sát sinh, hay hộ sinh; tự nhiên được trường thọ. Không trộm cắp, hay bố thí; tự nhiên được phú quí. Không tà dâm, đôi lứa tin cẩn nhau; tự nhiên được hạnh phúc hòa thuận. Không nói dối, biết thủ tín; tự nhiên được danh thơm. Không nghiện hút, giữ gìn sức khỏe; nhờ vậy được khang kiện..

Thọ trì ngũ giới là tôn trọng sự tự do của mình và người. Do chẳng xâm phạm người, nên ta, người, đều được lợi. Thọ trì ngũ giới là tích cực, không phải tiêu cực. Người Trung Quốc có câu: “Ngũ phúc lâm môn” là: “Phúc, thọ, khang, ninh, hảo đức”. Ðây cũng chính là năm điểm hay của trì giới.

Ðại sư giảng Lục độ:

Bố thí là đạo phát tài. Trì giới là đạo bình an. Nhẫn nhục là đạo làm người. Tinh tấn là đạo thành công. Thiền định là đạo an tâm. Bát nhã là đạo minh lý.

Thế nên, nếu như hành Lục độ Bồ-tát triệt để vào thực tế, chắc chắn đa số mọi người đều có thể vượt qua khốn cảnh.

Năm 1988 sư phụ lập chùa “Tây Lai” ở Mỹ, vì phải thường xuyên tới lui giám sát, Ngài buộc phải học lái xe ở Mỹ khi tuổi đã 61. Có lần tín đồ Ðài Loan sang thăm chùa, Ðại sư đích thân lái xe, chở họ đi xem công trình. Trên đường, sẵn đang lái xe Ngài giảng luôn về “Lục Ðộ”:

– Lái xe cũng giống như hành Bồ-tát đạo trên lộ trình nhân sinh, cần phải bố thí hoan hỉ, nghĩa là đi đâu cũng nên nghĩ cho người khác, phải chấp hành luật giao thông, không phóng nhanh vượt đèn đỏ, vậy là trì giới; phải nhẫn nại chờ đợi trên đường khi gặp phải tình huống không tốt, khiêm tốn nhường người đi qua, đây là nhẫn nhục; phải tập trung tâm lực, nội thiền ngoại định, đây là thiền định; chịu khó không sợ vất vả, đây là tinh tấn; phản ứng phải nhạy bén, tinh tường, đây là trí tuệ; lúc lái xe nếu biết áp dụng Lục độ vào thực tế sẽ giúp chúng ta đến đích an toàn, vì chính thực hành lục độ vào thực tế ta mới có thể “đáo bỉ ngạn” mỹ mãn.

Tầm nhìn cần xa rộng, hành sự phải thiết thực, xong việc thì buông tay

(Ðại xứ trước nhãn, tiểu xứ trước thủ, vô xứ phóng thủ.)

Ðại sư khéo thuyết pháp do bởi Ngài giỏi buông xả, tâm tư phóng khoáng lại không có tính bảo thủ cố chấp. Hễ thấy cần dùng phương tiện thì Ngài sẽ quyền biến áp dụng ngay để chuyển hung thành kiết, miễn là có lợi cho đạo pháp thì Ngài sẽ không chấp nê tiểu tiết.

Ðại sư nêu một thí dụ:

– Năm 1969 khi tôi dẫn đầu “Ðoàn cứu hộ tăng già” vượt biển, trong đoàn có pháp sư Tính Như, vừa đến Ðài Loan thì ông bị bịnh vật ngã, do chứng lao phổi đã đến thời kỳ thứ ba. Thời đó bịnh lao phổi được gọi là: “Căn bệnh dịch chết người của thế kỷ” do tính chất truyền nhiễm dễ lây lan của nó nên ai nấy đều không dám thân cận ông ta.

Hồi đó vật chất túng thiếu, bản thân tôi ngay cả có được cơm ăn cũng là việc khó. Nên dĩ nhiên là chẳng đủ khả năng để đưa ông ta đến bệnh viện. Thời may, trong cuốn sách của Ðại sư Ấn Quang trước tác ở phía sau có bày phương thuốc trị bịnh, thế là tôi y theo đó, hằng ngày kiên nhẫn lấy lá Tì bà xắt nhuyễn phơi khô, đem sao rồi sắc thành thuốc, cứ thế từng thang, từng thang đem cho Tính Như uống ngày qua ngày.

Khi thấy bịnh tình ông ta có mòi thuyên giảm, tôi được biết là lá hẹ có thể chữa lành bịnh phổi rất hay, thế là tôi làm gỏi hẹ cho ông ta ăn kèm cơm. Rất nhiều tu sĩ bàn ra tán vào, họ càu nhàu:

– Hẹ là một trong năm loại ngũ tân, người xuất gia sao có thể ăn nó chứ ?

Tôi bác lại:

– Người ta gần chết tới nơi, ăn rau hẹ như uống thuốc chữa bịnh thì có gì mà không được?

Thế là tôi cứ “chế” thuốc, chẳng màng đến những điều vặt vãnh ấy, được nửa năm thì đạt kỳ tích, Tính Như hầu như đã lành bịnh. Về sau, ông đảm nhiệm chức trụ trì chùa Phổ Tế, đảm trách việc hoằng pháp độ chúng, cứu giúp vô số người”.

Ðại sư nhìn nhận Phật pháp có một số nguyên tắc không được thay đổi như: Tam pháp ấn, Tứ thánh đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên… đó là những nguyên tắc bất biến giúp dẫn dắt chúng sinh vào đạo, song có lúc cũng phải cần phương tiện quyền biến, đó là lý do vì sao đức Quan Âm phải hóa hiện ba mươi hai tướng để độ sinh, đồng tử Thiện Tài tham vấn năm mươi ba lần. Ở tình cảnh của Tính Như, ắt cần phải “thiên biến vạn hóa”.

Còn pháp sư Tâm Ðức hồi mới xuất gia, tâm tục chưa hết nên thèm ăn trứng lắm. Có lần nghe tin ông muốn xin nghỉ phép về thăm nhà, tôi liền lệnh cho sư cô Dương Từ Mãn tìm trứng không trống chế biến, thôi thì đủ cách đủ kiểu: luộc, chưng, muối, chiên, xào… để cho ông ta ăn trong một lần một!

Tâm Ðức dư biết tôi không đồng ý cho ông ta về nhà, nhưng chẳng lẽ lại không mò tới xin phép tôi? Khi ông tới bái kiến, tôi bảo ông ta hãy ghé qua chỗ cô Dương Từ Mãn một chút rồi hẵng quay lại gặp tôi sau. Ông vâng lời. Vừa đi đến đấy, mới nhìn vào thì thấy trên bàn đã dọn sẵn ê hề thức ăn với các món trứng chế biến đủ kiểu, sau khi xơi xong một chầu trứng quá ể như thế thì ông hết thèm trứng ngay, kể từ đó hễ nhìn thấy trứng là phát sợ.

Có những trường hợp bắt buộc người làm thầy phải quyền biến, khéo léo dùng phương tiện chuyển hóa, giúp tròø xử lý cho ổn thỏa. Muốn dìu dắt chúng sinh thành công thì phải đạt “lý sự viên dung”! Tôi trên bước đường độ sinh thường cất công tìm hiểu nguyên nhân để xử lý, nếu tìm ra nguyên nhân rồi thì liền có cách khắc phục, cứ theo đó mà giáo hóa thì kết quả thu được sẽ khả quan hơn nhiều. Ðối với trò đây gọi là “ đại xứ trước nhãn, tiểu xứ trước thủ, vô xứ buông tay”. Ðại xứ trước nhãn: là phải biết trông xa nhìn rộng, dùng lòng khoan quảng khéo léo cởi mở cho trò, tiểu xứ trước thủ: việc trong tầm tay là nên giúp trò điều tế mật trong tâm tư, vô xứ phóng thủ: xong việc thì buông tay để trò tự cường gánh vác.

Thuyết pháp không nên cố chấp cứng ngắc

Tôi thường thắc mắc: “ Vì sao Ðại sư có thể biến rắc rối thành đơn giản, khéo thuyết pháp chuyển những vấn đề nghiêm trọng thành nhẹ nhàng, hơn nữa có thể giải đáp siêu xuất những thắc mắc trong lòng tín đồ?”

Về sau tôi hiểu ra, một số pháp sư khăng khăng lấy “lyù” hoặc “giới” làm chủ nên “thế này không được, thế kia cũng không được”, các ngõ tiến đều bị bít lấp, không thông. Riêng Ðại sư ï thuyết pháp thì lấy “người” và “việc” làm chủ, tuy là uyển chuyển hành sự nhưng thực chất về căn bản không hề lìa Phật lý, nhờ khéo “nhìn xa trông rộng” nên đối với Ðại sư  “thế này cũng được thế kia cũng được”; do vậy, cách thuyết pháp của Ngài tự nhiên khế hợp, khiến người đối với Phật pháp tín tâm càng thêm sung mãn.

Ðại sư nói:

– Nhiều người thuyết pháp ưa trích dẫn kinh điển, nhưng trích dẫn căn cứ vào kinh điển chỉ thuộc về danh tướng, chứ chẳng phải là đã thâm nhập, thấu suốt Phật pháp nhuần nhuyễn. Có một số người thuyết pháp ưa bàn huyền nói diệu, làm ra vẻ thần bí cao siêu. Tôi thì chẳng muốn thế, tôi thích giảng sao cho thấu tình đạt lý, nếu là giáo lý thần bí cao siêu thì tôi chẳng thích giảng..

Thuyết pháp, nội dung và hình thức đều quan trọng, nghĩa là lúc hoằng pháp dù cần tạo bầu không khí trang nghiêm, song người hoằng pháp vẫn có thể uyển chuyển tự tại, vì mình có nhẹ nhàng thoải mái thì mới có thể khiến thính giả từ khách thành chủ, cùng hòa nhập vào cảnh giới thuyết pháp. Ðể giúp đại chúng vào được cảnh giới ấy, lắm lúc phải khoa tay múa chân, ra hiệu diễn tả.

Bởi vậy thuyết pháp không nên cứ một bề cứng ngắc, mà từ hình thức đến nội dung, cả bầu không khí, cảnh trạng, thảy đều phải hỗ tương hài hòa.

Tôi thường nói:

– Nếu như ra giảng năm phút mà chưa nắm được thính chúng, thì xem như lần giảng đó thất bại rồi. Còn nếu thính giả hưởng ứng nhiệt liệt, thì có nghĩa là giảng rất đạt, rất hay.

Vì sao thính giả hưởng ứng nhiệt liệt? Ðó là vì pháp chúng ta thuyết có liên quan tới họ, ví như đối với học sinh thì giảng về học tập, đối với nhà buôn thì giảng về phương pháp kinh doanh, đối với phụ nữ thì bàn về địa vị của nữ giới trong Phật giáo, đối với phạm nhân thì giảng về giam cầm, giữa tự giam và bị giam, tất nhiên là pháp sư phải thuyết giảng bằng tấm lòng từ ái và quan tâm bình đẳng. Nếu như đề tài giảng và thính chúng không liên quan nhau, thì phải lanh trí sáng tạo “huyền nghi”, hoặc ở mỗi đoạn nên lưu lại một chút ấn tượng tươi tắn cho dễ nhớ.

Phải biết sáng tạo “huyền nghi”

-Tạo một chút huyền nghi là như thế nào?- Tôi hỏi Ðại sư.

Ðại sư đưa ra hai ví dụ, Ngài kể:

“Nhà danh họa Ðường Bá Hổ được mời đến dự tiệc sinh Nhật một quí bà, đang lúc vui, mọi người xúm nhau mời Ðường Bá Hổ làm một bài thơ mừng tiệc chúc thọ, Ðường Bá Hổ đứng dậy ngâm liền:

“Phu nhân đây chẳng phải là người

(giá cá nữ nhân bất thị nhân)

Mọi người vừa nghe, “ồ” lên cả kinh, còn đang xì xào bàn tán, thì Ðường Bá Hổ tiếp:

Tiên nữ thiên cung giáng trần đời

(Cửu thiên tiên nữ hạ phàm trần)

Mọi người đều vỗ tay tán thưởng. Ðường Bá Hổ lại ngâm:

Có thằng con trai làm kẻ cắp

(dưỡng cá nhi tử hội tố tặc)

Ðến lúc này thì vị quí phu nhân kia hết chịu nổi, mặt mày biến sắc tái nhợt, Ðường Bá Hổ lại khe khẽ ngâm:

Cắp trái đào tiên… dâng mẹ xơi!

(thâu đắc bàn đào cúng mẫu thân)

Ðại sư nói:

– Ðây gọi là “huyền nghi”, tôi sẽ giải thích sau. Còn khi thuyết giảng về “Bát phong xuy bất động” theo dữ liệu, ta có thể nêu lên một cách hóm hỉnh qua chuyện: “Nhất thí đả quá giang” (một phát đánh rắm thổi bay qua sông) mà không làm mất đại ý, đây gọi là bày “huyền nghi”, thông qua huyền nghi, kết quả thường rất đạt vì để lại ấn tượng cho người ta rất sâu.

Ðại sư kể tiếp câu chuyện thứ hai:

“Có một anh chàng keo kiệt, cha anh vừa mới qua đời. Anh thỉnh pháp sư đến tụng “kinh Di Ðà”. Pháp sư ra giá:

– Ðược! Tụng “kinh Di Ðà” thì một ngàn đồng!

Anh ta kèo nài:

– Thầy ui! Có thể bớt giá, lấy chừng… tám trăm được không?

Pháp sư nói:

– Dễ thôi!

Rồi pháp sư tụng kinh, đến lúc hồi hướng thì khấn nguyện:

– A Di Ðà Phật! Xin Ngài hãy tiếp dẫn vong linh này tới.. Ðông phương!

Anh con trai nghe mời thỉnh trật lất liền nói:

– Sư phụ à! Chẳng phải Phật A Di Ðà ở Tây phương sao?

Pháp sư tỉnh bơ trả lời:

– Bởi vì lộ phí chỉ còn tám trăm, nên đâu đi tới Tây phương được!

Người con liền nói:

-Thế thì thôi, để tôi trả ông một ngàn, ông hãy đưa cha tôi về Tây phương nhé!

Lúc này, người cha từ trong quan tài nhảy ra, mắng:

– Mi là đồ con tồi! Vì tiếc hai trăm đồng bạc mà lúc thì tiễn ta đi Ðông phương, lúc thì đưa ta đi Tây phương, mi dám đem cái chết ta ra  trả treo hử?”

Ðại sư nói:

– Ðây là lưu một điểm “huyền nghi”, nghĩa là để lại chút dư vị, khiến ai nấy phải suy gẫm: “Người ta có nên keo kiệt hay không? Phật pháp có thể trả giá như thế hay sao?”

Thật ra chánh và tà xưa nay vốn đối nghịch nhau, một người không thể vừa keo kiệt lại vừa có phúc báo, cũng không thể vừa từ bi vừa tàn bạo, càng không thể vừa trí huệ vừa ngu si. Chúng sinh không hiểu đạo lý này, một mặt vừa làm việc xấu, một mặt lại cầu Bồ-tát chúc phúc, điều này không thể nào có được!

“Khai quang điểm nhãn” cho câu chuyện tầm thường.

Ðại sư lại kể một câu chuyện cổ:

“Có một gã trọc phú chuyên làm điều xằng bậy, cả đời tạo ác cho lắm, đến lúc lâm chung mới sực tỉnh, quính quáng thỉnh pháp sư đến tụng kinh, hi vọng nhờ vậy mà được vãng sinh Cực Lạc.

Pháp sư đến, tụng kinh xong, ông khấn nguyện: “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát, xin Ngài mời giúp chư vị Bồ-tát phương xa đến đây chúc phúc cho gia chủ dùm! Cúi lạy Quan Thế Âm Bồ-tát! Xin Ngài hãy thỉnh Bồ-tát tít tận phương xa tới đây dẫn ông ta về Cực Lạc dùm!”

Ông nhà giàu nghe vậy, nhảy ra khỏi giuờng cự nự:

– Tôi gần chết tới nơi rồi, tại sao thầy không thỉnh Bồ-tát gần gần đây cho mau một chút, lại cắc cớ thỉnh Bồ-tát xa xôi ở tận đẩu tận đâu vậy?

Pháp sư trả lời:

– Vì Bồ-tát ở gần thảy đều biết cái chuyện ông làm giàu bất nhân thất đức, có ai thèm tới đây đâu? Bởi vậy tôi mới phải mời Bồ-tát tận phương xa đến, hi vọng là nhờ ở xa nên cái danh ác của ông chưa bay tới, may ra được các Ngài chiếu cố mà giúp dùm!”

Ðại sư  nói:

Trong kinh Phật thuyết: “chúng sinh sợ quả, Bồ-tát sợ nhân” chúng sinh chỉ sợ bị quả báo xấu, chứ chẳng hề biết là tất cả quả báo đều có nguyên nhân của nó. Bồ-tát hiểu rõ lý nhân quả, cho nên trong từng niệm khởi, trong từng cử chỉ nhấc tay động chân các Ngài đều hết sức cẩn thận, lưu tâm. Nhưng lý lẽ này giảng ra chẳng dễ hiểu bằng dùng ví dụ kể chuyện, nghĩa là chỉ cần nhắc đến “Bồ-tát viễn phương” thì tức khắc mọi người cười tủm tỉm, hiểu ý ngay.

Khi Ðại sư giảng về: “Triết học Lão nhị” nhiều người chẳng hiểu được, nên Ngài phải kể một câu chuyện cổ:

“Trương gia và Lý gia là láng giềng, nhà họ Trương thường xảy chuyện gây cãi rùm beng còn nhà họ Lý thì sống hết sức hòa thuận. Ðược ít lâu, nhà họ Trương thấy phiền muộn quá bèn hỏi nhà họ Lý:

– Vì sao gia đình chúng tôi lúc nào cũng có chuyện cãi cọ, chẳng có lấy một ngày an ổn. Còn bên các vị sao mà thuận thảo, trong ấm ngoài êm, xưa nay chẳng thấy cãi lẫy gì hết vậy?

Nhà họ Lý trả lời:

– Bởi vì các vị ai cũng cho mình là người tốt, cho nên mới cãi cọ, còn chúng tôi đều cho là mình xấu, cho nên không cãi lẫy gì.

– Nói vậy là sao??

– Thế này nhé, ví dụ như nếu lỡ có người làm vỡ bình hoa, người trong nhà các anh ai cũng thấy mình tốt, mình vô tội, lỗi là tại ở nơi người, nên cứ khăng khăng đổ thừa nhau, cứ trách là tại người không đúng.. vì vậy mới sinh ra cãi vã không ngừng. Còn nhà chúng tôi rất sợ làm thương tổn người khác, nên thà là nhận mình lỗi trước. Nếu thấy người vừa làm vỡ bình hoa thì sẽ nói ngay:

– Xin lỗi nhé! Lỗi tại tôi! Tại tôi không cẩn thận nên mới làm vỡ đồ!

Còn người được xin lỗi cũng tự trách:

– Chẳng phải tại anh đâu! Không thể trách anh được! Lỗi là tại tôi đem đặt bình hoa ở chỗ này kia chứ!

Bởi vì ai cũng lo nhận lỗi về mình, nên tương giao tự nhiên thuận thảo, hài hòa”

Ðại sư nói:

– Người tốt, người xấu, đại ca, lão nhị.. tất cả mối giao tế quan hệ của người ta là vậy, nếu biết chịu nhường một chút thì biển lặn trời trong…

“Giống như năm ngón trong bàn tay tranh nhau giành vị lớn. Cãi tới tranh lui, chẳng kể gì đến ngón út. Song ngón út cũng không lấy làm buồn. Ðến lúc mười ngón chắp lại bái Phật, thì gần Phật Bồ-tát nhất lại chính là ngón út”.

Nghe Ðại sư thuyết pháp người ta thường hội được ý chỉ, được khai thị bất ngờ. Ðấy là nhờ Ngài khéo ví dụ, khéo dẫn chứng, bởi vì Ngài ra vào tự tại nơi biển pháp, trong các câu chuyện cổ tầm thường, chỉ cần Ngài chạm tay vào là đã có thể “vẽ rồng điểm mắt” rất thần kỳ. Tôi thường gọi đùa đó là: “khai quang điểm nhãn” cho câu chuyện tầm thường.

Còn những câu chuyện phổ thông, nếu được qua kim khẩu Ngài thì bỗng trở thành lôi cuốn sống động, đượm đầy đạo vị hấp dẫn!

 “Khai quang điểm nhãn” cho câu chuyện tầm thường là sao? Chẳng hạn như  khi Ðại sư kể câu chuyện cổ:

“ Có một chàng trai trẻ vừa mới kết hôn, được ít lâu, bạn bè xúm nhau phỏng vấn chàng:

– Này, kết hôn vui không?

Chàng sung sướng đáp:

– Tuyệt quá đi chứ! Mỗi ngày hễ tôi về tới nhà là vợ tôi cởi giày cho tôi, còn con chó thì sủa mừng tôi!

Ðược một năm, bạn bè gặp, hỏi thăm chàng:

– Kết hôn vui không hả?

Chàng đáp ỉu xìu:

– Chán chết đi được! Bây giờ, mỗi khi tôi về tới nhà, con chó chạy tới cởi giày cho tôi, còn vợ tôi thì.. sủa!

Ðại sư “khai quang” cho câu chuyện thế này:

“Còn được cởi giày cho như thế thì tốt lắm rồi, muốn thế giới này không thay đổi thì rất khó. Song có một thứ không biến đổi là tâm chúng ta thôi”.

Ðại sư lại kể một thí dụ khác:

Người đời giống như quả bóng.

“Thưở thanh niên cường tráng, trong mắt người, ta là quả bóng rổ, ai cũng tranh giành, chiếm lấy. Ðến lúc lão niên vô dụng, trong lòng người, ta như quả bóng chuyền, bị ném tới ném lui. Ðến lúc già bịnh, ta giống như quả túc cầu, bị đá tới đá lui.”

Ðại sư  “điểm nhãn” cho chuyện này như sau:

“Chẳng kể là bóng rổ, bóng chuyền hay bóng đá, chỉ cần ta có học vấn rộng, đạo đức cao, rộng kết thiện duyên cùng người, thì tất cả thảy đều sẽ là quả bóng chày, ai cũng tranh nhau giành lấy, muốn ôm mãi không rời!”

Có một bộ kinh tôi giảng không được

Tôi hỏi Ðại sư:

– Làm sao để giữ được tâm thái thuyết pháp tốt?

Ðại sư đáp:

-Trước khi thuyết pháp, lễ Phật ba lễ, tịnh tâm mười phút. Lễ Phật ba lễ tự nhiên được Phật, Bồ-tát gia trì khai thị cho, tịnh tâm mười phút thì tâm tư sẽ giống như hồ nước trong, sẽ hiển lộ những cảm quan tốt về Phật pháp, nhân gian, trong cuộc sống; khiến đối với tất cả pháp Phật ta có được niềm tin vững vàng không nghi, kể cả các cảnh giới tốt đẹp của nhân sinh và những mối giao hảo nghĩa tình, ta cũng tin sâu không nghi, nhờ vậy mà có thể giảng nói đạo lý thông suốt, thấu đáo.

– Thế, sư phụ có gặp khó khăn nào trong việc giảng thuyết chưa?

Ðại sư mỉm cười, thố lộ:

– Tôi đã thử qua rất nhiều lần, song vẫn có một bộ kinh tôi không thể nào giảng được, đó là… “Kinh Ðịa Tạng”. Bởi vì: – Thứ nhất, tôi chưa từng đi tới địa ngục. Thứ hai, người nghe cũng chưa từng tới địa ngục bao giờ. Thứ ba, trong kinh kể toàn là núi đao, chảo dầu.. thực quá bi thảm, quá tội nghiệp! Tôi nghĩ Phật pháp dẫn dắt mọi người đến cảnh giới tốt đẹp an lành, chứ không phải để chúng ta sầu thảm hoảng hốt!

Thế thì xem ra, Ðại sư hợp thuyết pháp theo “Tứ nhiếp hạnh” của Bồ-tát là: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.. Ngài đã phát huy Tứ nhiếp pháp này đến tận cùng. Ngài kể lại một sự kiện:

“Thời kỳ đầu, chúng tôi có đoàn thuyết pháp tuần hành toàn tỉnh, khi đoàn quyết định đến đảo Cát Bối ở Bành Hồ để thuyết giáo. Có người bàn:

– Ðảo Cát Bối toàn là ngư dân, ngày nào cũng sát sinh, mà giáo lý Phật thì cấm sát, thế thì làm sao mà thuyết pháp cho ngư dân nghe lọt lổ tai đây?

Tôi nhớ tới Lục Tổ Huệ Năng lúc chạy trốn ẩn cư từng sống chung với bọn thợ săn, nên cảm thấy đối với nông dân, ngư dân chẳng cần phải thuyết giảng khắt khe, bởi tôi đã từng đến thôn Ngư Trì hoằng pháp. Thế là tôi dạy đám ngư dân mặc dù bất đắc dĩ phải sát sinh, nhưng không nên có tâm háo sát. Nếu bắt được cá nhỏ thì nên thả chúng, bảo hộ chúng, giúp chúng kéo dài thọ mệnh. Khi tôi thuyết giáo xong, ngư dân cổ vũ và hoan nghinh nhiệt liệt, điều này đã khai thị cho tôi rất tuyệt vời, rằng: “Lục căn thanh tịnh là cứu kính”. Thế nhưng, nếu giảng về đạo đức cứu kính thì liệu sẽ có bao nhiêu người đạt đến mục tiêu ấy? Vì vậy, trước hết, phải khởi sự tạo đức ngay từ chỗ không có cứu kính, làm vậy mới có thể đưa được Phật giáo vào khắp mọi hang cùng ngõ hẻm trong nhân gian và có thể hoằng đạo rộng khắp.”

Tôi nhận thấy sư phụ thuyết pháp hay, không những trong lúc giảng kinh, mà trong cả những cuộc vấn đáp, Ngài luôn phản ứng nhạy bén, hiển bày trí tuệ uyên thâm, khiến thính giả phục lăn. Lời đáp của Ngài đơn giản rõ ràng song vẫn bàng bạc tinh thần Thiền Lâm Tế.

Có lần, Ngài đang hoằng pháp ở Hồng Kông, có người hỏi:

– Ðối với quan hệ hai bên Ngài thấy thế nào?

Ðại sư đáp:

– Chịu hỗ trợ hợp tác cùng nhau thì mới có thể đàm phán, nhường nhau một bước thì có hoà bình.

Ðại sư trả lời giản dị rõ ràng, có khi chỉ đáp có một chữ một câu để người nghe tự hiểu tự cảm nhận:

– Phật nhiều quá, vậy ai cao nhất?

– Ông cao nhất!

– Có người ngoài hành tinh không?

– Có! Phật A-di-đà!

– Vì sao chùa miếu hay dùng xi măng làm tượng Phật?

– Thấy… xi măng, không thấy Phật!

– Vấn đề lớn nhất của Ðại Lục hiện nay là gì?

– Giả!

– Xin Ngài nói một câu, làm sao cải thiện được phong hóa xã hội?

– Trong tâm có Phật!

– Trong các lãnh tụ tôn giáo trên thế giới, ai là lớn nhất?

– Ông ưa vị nào thì vị đó lớn nhất!

– Sư phụ biết xem địa lý chăng?

-Thích thì là địa lý tốt!

Hoằng pháp lợi sinh là bổn phận của tu sĩ

Ðại sư nói:

Tôi từng nguyện hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp hoằng dương chánh pháp không gián đoạn và không bao giờ ngừng lời thệ nguyệân này. Chính tâm nguyện này là động lực thúc đẩy tôi noi theo nhân cách đạo đức của chư Phật Bồ-tát, giúp tôi khẳng định khả năng hoằng pháp đối với mọi người. Tôi là người xuất gia, dĩ nhiên chuyện hoằng pháp lợi sinh vốn là hoài bão muôn thuở của người tu sĩ, chẳng cần phải nói nhiều làm gì!”

Nhìn tảng đá nhuốm phong sương nằm giữa con suối bị dòng chảy bào mòn tròn lẵn, tôi chợt nảy ra một tứ thơ:

Bảo Phật qua Bảo Kiều,
Bồ-tát hành Bồ-đề
Sao trời nguyên bất động
Mây lành tự đến đi.

Trong chỗ biến và bất biến, động và bất động, pháp và phi pháp, tôi bỗng nhìn thấy chéo tăng y sư phụ đang lay động bay bay, chéo y siêu thoát phiêu diêu ấy, giống như mây trời, phiêu diêu qua chỗ Phật và Bồ-tát, phiêu diêu qua chư vị tổ sư… khiến chúng tôi “nhập lưu vong sở”, quên mất thời gian, không gian; chỉ còn biết có những bậc đạo sư  tận tụy dìu dắt chúng sinh trong cõi đời, thật là tuyệt biết bao nhiêu!

 

 

(*)Việt Nam thường gọi là “kinh hành”