SAO TRỜI MÊNH MÔNG
Nguyên tác: Hán văn: “Hạo Hãn Tinh Vân”
của Lâm Thanh Huyền
Hạnh Đoan lược dịch
CHƯƠNG 4: MÀI LUYỆN
Chiếc xe từ con đường cao tốc đổ xuống quẹo qua ngõ chùa Tây Lai, Cali tháng bảy trời nóng như thiêu, dường như trong không khí cũng có lửa.
Tự đằng xa tôi đã nhìn thấy một bóng dáng cao lớn quen quen đứng cạnh đoàn tu sĩ, tà áo ca sa lay động phất phơ, nhìn kỹ thì chính là Đại sư Tinh Vân.
Đạo hữu Hoàng Bá Lâm mở cửa xe cho tôi, kinh ngạc kêu lên:
– Ối trời ơi! Đại sư đích thân đứng đón! Thiệt là…! A Di Đà Phật!
Tôi không ngăn được niềm tôn kính mãnh liệt hướng về sư phụ chắp tay thi lễ, thầm niệm: – “A Di Đà Phật!”
Mùa hạ năm 1993 tôi được hội Phật Quang và Thư Cục Thế Giới mời qua Mỹ. Trước khi tới Mỹ tôi tuần hành diễn giảng ở Canada, rồi từ Los Angeles lên đường thẳng tới Vancouver, Dallas, Phoenix và San Francisco..Giảng xong, tôi quay về lại Los Angeles ngụ lâu hơn cả tháng.
Lúc còn dự hội ở San Francisco, Đạo hữu Hoàng Bá Lâm (đương kim Phó hội trưởng ) bảo tôi:
– Chừng nào về lại Los Angeles mình hãy mau đến gặp sư phụ ngay nhé, Ngài muốn trực tiếp gặp anh để cảm ơn đó.
Lần ấy vì thành lập hội Phật Quang ở Mỹ nên tôi đi khắp các thành phố lớn hóa duyên. Dẫu phải vì Phật Quang làm việc tận lực, đóng góp chút công sức thì cũng là lẽ tất nhiên, nào có đáng kể chi. Lúc tôi diễn giảng ở Mỹ thì Đại sư đang bận hoằng pháp ở Nga. Nhân duyên hội đủ, đi giáp vòng thì Ngài cũng vừa tới Mỹ. Nghe nói Đại sư đang mong mỏi muốn gặp mình, tôi vội vã lên đường đến gặp Ngài.
Không thể để sư phụ đứng chờ lâu trên đường
Từ Los Angeles chúng tôi lái xe theo con đường duyên hải, chạy hết tốc lực để tranh thủ đến đúng hẹn.Theo ấn định là sẽ gặp nhau vào hai giờ chiều. Song gần hai giờ rồi mà xe chúng tôi còn nằm kẹt cứng tại chặng đường cao tốc. Hoàng Bá Lâm vội gọi di động trình Đại sư hay và báo tin là chúng tôi sẽ đến muộn, xin Ngài đừng trông. Đại sư trả lời:
– Ừ! Cứ thong thả đi nhé, cẩn thận xe cộ đấy!
Bình sinh Đại sư nổi tiếng rất giữ lời hứa, luôn đúng hẹn, đúng giờ. Ngài thường dạy: “Khi ra hoằng pháp tuyệt đối không được sai hẹn dù một phút giây, vì nếu như có hai vạn người mà ta bắt họ chờ đợi tức là làm phí uổng mất hai vạn thời gian! Nên chúng tôi hoàn toàn không ngờ là, đồng hồ vừa điểm đúng hai giờ thì Đại sư đã ra đứng dưới trời nắng đợi chúng tôi; bên cạnh là Từ Dung, Tâm Định, Huệ Quân.. tất cả đều đứng chờ dưới ánh nắng đổ lửa.
Khi chúng tôi xuống xe, thấy trán sư phụ mồ hôi tuôn nhỏ giọt, tia nhìn của Ngài thật từ ái, ấm áp, Ngài dịu dàng bảo chúng tôi:
– Đi đường vất vả quá nhỉ!
Tôi nghĩ thầm: “Thật tội lỗi! Đúng là con không nên để sư phụ đợi như thế này..” Tôi rất muốn nói:- “Sư phụ, chúng con làm cực Ngài quá!” Nhưng không sao thốt được thành lời.
Trước tiên Đại sư chúc mừng tôi diễn giảng ở mỹ thành công tốt đẹp, rồi lắng nghe tôi báo cáo các công tác Phật sự, sau đó Ngài mới bàn về việc thương nhật trong chùa và kể chúng tôi nghe những chuyện ở Moscow
Đại sư nói:
– Ngày xưa Đài Loan mình rất nghèo, khi người Mỹ qua cứu trợ, dân chúng chỉ cần tới giáo đường là được lãnh thực phẩm, quần áo, bột mì, sữa, v.v…
Bây giờ Đài Loan đã sung túc đầy đủ rồi. Lúc hội Phật Quang chúng ta đến Moscow, hễ dân đến nghe kinh thì mình phát bánh mì, thức ăn, đồ dùng.. lần giảng kinh nào cũng giúp đỡ, biếu xén hậu hỉ khiến người dân Nga phải tấm tắc khen:
– Đạo Phật tốt vậy đó, đã truyền pháp hay giúp chuyển hóa tâm linh, còn lo bảo dưỡng thân thể cho chúng ta nữa!
Đại sư kể hồi xưa Tô Liên đào tạo rất nhiều người, cho họ ra nước ngoài du học; giúp họ trau giồi Nga văn, Anh văn, Hoa văn, thành thạo. Ông còn mong ước kết hợp nhóm này lại để lập ra một ban phiên dịch kinh Phật. Một là có thể giúp cho Phật Pháp được quảng bá rộng rãi, hai là cho nhân tài có đất dụng võ để họ phát huy hết khả năng, cống hiến tốt cho Phật Pháp.
Lần đi Moscow này, sư phụ để tâm quan sát tỉ mỉ và nảy ra nhiều sáng kiến độc đáo bất ngờ làm chúng tôi khâm phục hết sức. Chuyện đang đến hồi cao hứng, càng bàn càng phấn khởi; nhưng thị giả đã nhắc chúng tôi:
– Đến giờ sư phụ nghỉ ngơi rồi!
Tôi vừa định cáo biệt thì Đại sư đột ngột bảo Hoàng Bá Lâm:
– Lâm đạo hữu để chúng ta đi giảng hằng chục nơi, phải biểu hiện chút tạ ý chứ!
Lâm cư sĩ hơi bất ngờ, quay qua thưa:
– Bạch sư phụ, Ngài yên tâm, con đã chuẩn bị sẵn cả rồi!
Chúng tôi từ giã Đại sư, Ngài tiễn chúng tôi ra xe. Xe chạy xa rồi, nhìn ngoái lại, tôi vẫn còn thấy dáng dấp siêu thoát của sư phụ đứng giữa trời chiều lộng gió.
Đêm ấy tôi ngủ tại Tây Lai Tự. Sáng sớm pháp hữu Hoàng Bá Lâm đã tìm cây bút máy Vạn Bảo Long đặc biệt tặng cho tôi và nói:
– Vâng lời Đại sư dạy, tôi bày tỏ chút tạ ý với anh nè!
Tôi và Bá Lâm cùng đi bên nhau ngót nửa vòng nước Mỹ, thành thử đã thân thiết lắm rồi, nên tôi đùa:
– Nếu Đại sư không mở lời, dễ gì huynh chịu xả thí một cây bút như thế này chứ!?
Nói cho vui thế thôi, chứ Bá Lâm là chủ một nhà hàng khách sạn lớn ở khu giải trí Disney, đừng nói một cây bút, mà hàng trăm cây như vầy cũng chẳng thấm vào đâu. Bá Lâm hóm hỉnh đáp lễ tôi:
– Thật ra tôi chuẩn bị sẵn lâu rồi, vốn là định tặng anh một cây bút khắc thường thôi, nhưng sư phụ vừa khai kim khẩu thì lập tức ngay trong đêm nó biến thành “vạn con rồng báu” liền đó!
Đến giờ tôi vẫn còn xài cây Vạn Bảo Long, mỗi lần đem ra viết, hình ảnh Đại sư đứng đợi giữa trời nắng như thiêu lại hiện về, làm tôi cảm động mãi không thôi. Trí óc tôi chợt hiện lên mấy câu thơ trong “Phiêu Điểu tập” của Thái Nhĩ Qua:
“Người càng khiêm tốn bao nhiêu
Càng gần với hạnh cao siêu tuyệt vời
Người cười chẳng nói một lời.
Tôi hiểu mình đã để người chờ lâu.
Đèn lồng cầm rọi phía sau
Chiếu vào người sáng một màu lung linh
Tính ưu việt chẳng độc hành
Luôn cùng tất cả song hành bên nhau”.
Chẳng nói một lời mà vang muôn ngàn tiếng
Nghĩ đến nhân duyên được làm đồ đệ Đại sư và có cơ may được thân cận Ngài luôn, tôi càng thấy mình có diễm phúc vạn bội. Diễm phúc vì mỗi lần kề cận sư phụ tôi luôn học được nhiều điều hay và thường được Ngài khai thị.
Điều làm tôi cảm động nhất là, mặc dù hiện tại Đại sư là một bậc thầy nổi danh, được trọng vọng và có nhiều đệ tử ở khắp nơi trên thế giới; song cung cách Ngài muôn thuở không đổi, vẫn khiêm cung, bình dị; từ ái, trí tuệ.. Bao giờ Ngài cũng quan tâm, hết lòng hết dạ lo cho người; luôn xử sự chân thành và mãi “thủ tín như sơn”.
Tôi còn nhớ năm 1991 hiệp hội Đồ Thư Quán ở Đài Bắc có mở mấy tiết mục văn nghệ, cho dựng khán đài diễn giảng về đề tài: “Thiền và Văn Học” Họ mời sư phụ và tôi đến giảng, mỗi người giảng nửa buổi. Được chung đài với sư phụ nên tôi cảm thấy vinh hạnh cực kỳ, càng ra sức chăm chút chuẩn bị.
Trước ngày diễn giảng một tuần, tôi được hội Văn Nghệ báo tin, họ gọi điện cho hay là sư phụ bị té trong nhà tắm gãy chân, e rằng buổi giảng chỉ còn mình tôi đảm nhiệm, cũng có thể bị hủy bỏ không biết chừng.
Nhận được tin buồn tôi bồn chồn, lo rầu không yên. Vài ngày sau người phụ trách gọi điện đến bảo tôi:
– Sáng mai khai lễ thuyết giảng bình thường, Đại sư nói ban tổ chức đã nhọc nhằn chuẩn bị, sắp xếp bấy lâu, nếu không giảng là làm uổng công sức của họ và phụ lòng mong đợi của bao người. Vì vậy tuyệt đối không thể để họ thất vọng, cứ đúng giờ mà thuyết pháp, không nên dời đổi dù một phút giây.
Khi chiếc xe lăn chở Đại sư được đẩy tới quảng trường, mọi người đều đứng dậy cung kính vái chào, tiếng reo mừng rền vang như sấm, những tràng pháo tay kéo dài thật lâu vẫn chưa dứt. Nhiều người chạy đến quì trước khán đài đảnh lễ sư phụ, phần đông đều rơi nước mắt, tôi cũng xúc động lệ tuôn không cầm được. Đúng là “Đức trọng thần, người kinh”! Uy lực của một bậc cao tăng gây chấn động thật khó mà diễn tả, dù Ngài chưa thốt một lời nào nhưng sức cảm hóa xem ra còn mạnh hơn cả thiên ngôn vạn ngữ.
Tràng pháo tay vang dội suốt mười phút, Đại sư bắt đầu thuyết pháp. Ngài nói do bị thương sức khỏe kém nên đành chia xẻ pháp lạc với mọi người bằng mấy bài thơ thiền của cổ nhân. Đó là những bài thơ quen thuộc như bài của hòa thượng Bố Đại:
Thủ bả thanh miêu sáp mãn điền
Đê đầu tiện kiến thủy trung thiên
Tâm địa thanh lương phương thị đạo
Thoái bộ nguyên lai thị hướng tiền
(Tay cầm mạ non cấy khắp ruộng
Cúi đầu dòm thấy trời trong nước
Tâm tư thanh tịnh mới là đạo
Lùi bước hóa ra tiến lên trước.)
Hay bài thơ của một tỳ kheo ni vô danh:
Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân
Mang hài đạp phá lãnh đầu vân
Qui lai ngẫu niêm mai hoa khứu
Xuân tại chi đầu dĩ thập phân.
(Trọn ngày tìm xuân chẳng thấy xuân
Đạp núi xông mây kiếm nhọc nhằn
Tình cờ về nhặt cành mai ngửi
Xuân tỏa ngạt ngào thơm nức hương)
Hoặc bài thơ của Thiền sư Sài lăng Úc:
Ngã hữu minh châu nhất khỏa,
Cửu bị trần lao quan khóa
Kim triêu trần tận quang sinh
Chiếu phá sơn hà vạn đóa
(Ta có một hạt minh châu,
Bị bụi trần vùi lấp lâu,
Sáng nay bụi hết sáng rỡ
Chiếu xuyên sông núi làu làu)
Đó là lần Đại sư giảng trong sự đuối sức cực độ, giọng Ngài rất nhỏ và yếu. Nhưng không hiểu sao tôi lại cảm nhận được trong từng cử động, từng cái nhướng mày chớp mắt cho đến mỗi lời nói cười của sư phụ, đều tỏa sức sống tràn trề sung mãn và bàng bạc hương khí thiền. Ngài giảng đến đoạn Bạch Cư Dị tìm thiền sư Ô Sào thỉnh giáo với bài thơ:
Đặc nhập không môn vấn khổ không
Cảm tương thiền sự vấn thiền ông
Vi đương mộng thị phù sinh sự
Vi phục phù sinh tại mộng trung
(Vào cửa thiền thắc mắc: “ khổ, không”
Xin trình nghi vấn với sư ông
Rằng đang mộng là: “ phù sinh sự”
Hay: “ phù sinh ở trong giấc nồng?”)
Ô Sào đáp:
Đến thì vô tích, đi vô tung,
Dù đến hay đi việc vốn đồng
Thắc mắc làm chi “ phù sinh sự?”
Đấy là phù sinh, đang mơ mòng!
“Văn học nằm trong sinh diệt đến đi, nếu hiểu được: “Phù sinh như mộng, mộng như phù sinh, thiền không sinh diệt lẫn đến đi”, thì chẳng cần phải hỏi. Khởi hỏi, thắc mắc thì chính là đang sống trong mộng, trong phù sinh!”
Đại sư giảng xong, rời khỏi khán đài. Mọi người đều đứng dậy vỗ tay, tràng pháo tay kéo dài hơn mười phút. Khi Ngài đã đi xa, mọi người mới bắt đầu ngồi xuống.
Tôi giảng tiếp nửa buổi sau. Tôi nói:
– Cảnh giới thi nhân sáng tác rất cao, phải hiểu được ý thiền “Vạn pháp qui nhất”mới có thể dùng thi từ để diễn tả cảnh giới vô ngôn này. Thiền sư sau khi khai ngộ cũng hay làm thơ, song cảnh thanh, ý trong: “Nhất tức vạn pháp.” Tuy vô ngôn, nhưng vẫn có thể hóa thành ngữ cú. Thi nhân và Thiền gia làm thơ không giống nhau. Thi nhân làm thơ để bày tỏ với người về cái đẹp của cảnh vật, hoa lá, thời tiết xuân thu…còn Thiền gia làm thơ nhằm chỉ cho người nhận ra bản lai diện mục. Thi nhân quen cho hoa xuân, cảnh thu là thơ mộng, song nhìn theo con mắt của Thiền gia thì: “Xuân có trăm hoa, thu có trăng; hạ có gió mát, đông có tuyết..”
Nếu như trong tâm vô sự không vướng mắc thì thời tiết nào ở nhân gian cũng là tốt lành. Hi vọng mọi người trong thiên hạ đều nếm được pháp vị ưu mỹ trong ý thiền này.
Nếu được vô ngã thì xử sự vô tâm
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện. Có người còn cho là sư phụ có một thân thể mạnh mẽ với sức khoẻ tuyệt tốt, nhưng sự thật không phải vậy.
Thời trẻ đi hoằng pháp Ngài đã vướng bịnh phong thấp, về già thì bị tiểu đường hành hạ, Ngài còn phải trải qua mấy lần phẫu thuật tim. Một năm Ngài đi khắp thế giới tới mấy bận. Có lần, tôi không nhịn được, chất vấn:
– Bạch sư phụ, phải chăng Ngài có ý chí rất mạnh mẽ?
Đại sư đáp:
– Chẳng phải do ý chí. Chỉ cần tri hành hợp nhất, có lòng xả ngã, nếu vô ngã được thì xử sự vô tâm. Tất cả là nhờ hành theo pháp Phật mà thôi.
Cảm giác xúc động trào dâng mỗi lần diện kiến Đại sư làm tôi nhớ tới những lời bình phẩm của một số người không hiểu dành cho Ngài. Những lời phê phán ấy giống như con chim sẻ chê khổng tước có cái đuôi quá dài, quá lớn; mà không thấy được vẻ xinh đẹp mỹ lệ phô bày qua cái đuôi. Hệt như ve sầu cằn nhằn giọng hót của Hoàng Oanh réo rắt quá, mà không biết rằng đó là chất giọng thiên phú của chim oanh. Cũng như con hồ ly dè bĩu con voi có sáu ngà, cho rằng chỉ tổ lượm thượm khi qua sông, mà không biết được là bên kia bờ có nhiều chúng sinh đang kêu gào chờ voi cứu hộ.
Nơi nhân thân Đại sư, mỗi hành vi, mỗi cử chỉ, mỗi cái nhấc tay động chân đều thể hiện đức độ tu hành chân chánh. Nhắc đến tu hành, nếu nói theo Phật Pháp thì Đại sư đúng là “ thiện căn sâu dày, túc duyên có sẵn..” từ đời trước. Ngài sinh ra trong một gia đình có tín ngưỡng thờ Phật, Thần, thuần thành ở miền bắc Giang Tô và được hít thở bầu không khí mang đậm chất tôn giáo ngay từ thuở còn bé tí.
Đại sư kể:
“Hồi nhỏ tôi ở nhà bà ngoại. Ngoại tôi ăn chay tụng kinh từ tuổi mười tám. Khi được gả đi bà vẫn giữ nếp tu hành tinh tấn đó. Khuya nào ngoại tôi cũng thức dậy đúng giờ để công phu. Ngoại thờ Phật, Thần chung, bà không biết chữ nhưng lại thuộc làu kinh Di Đà, kinh Kim Cang, Phổ Môn v.v.. Do cảm được nhiều phản ứng lạ nơi thân nên ngoại cho đó là thần thông và càng ra sức tinh tấn tu trì.”
Thuở ấu thơ sống cạnh bà ngoại có hai việc gây ấn tượng sâu sắc khiến Đại sư nhớ mãi. Đó là năm lên ba, bốn tuổi; Ngài cùng với người chị ăn chay thi, bà ngoại rất cưng và vui lòng. Do vậy, ngay từ bé tí Đại sư đã quen mùi chay lạt.
Còn một việc nữa là vào mỗi khuya canh ba, bà ngoại Ngài thường thức dậy tĩnh tọa, lúc bà đang ngồi thì trong bụng phát ra tiếng kêu rất lớn giống như sông cuộn biển gào.
“Tôi thường bị tiếng động đó làm cho thức giấc, không nhịn được nên buột miệng hỏi:
– Ngoại ơi ngoại! Sao bụng bà kêu to dữ thế?
Ngoại tôi đắc ý trả lời:
– Đây là công phu có được nhờ tu đấy cháu à!
Tôi còn quá bé nên yên trí là vậy.
Sinh trưởng trong gia đình mang đậm màu sắc tôn giáo nên từ nhỏ sư phụ đã tiếp xúc với đủ loại tín ngưỡng trong dân gian về thần đạo, về các tập tục bói quẻ, xem vong linh đi âm ty.. Trong lòng dù có nghi ngờ song Ngài cũng không bài xích dữ dằn. Điều này khiến cho Đại sư sau khi xuất gia rồi vẫn có cái nhìn bao dung với các tín ngưỡng, không khinh rẻ thần đạo mê tín.
“Năm 1937, thân phụ tôi đi Nam Kinh buôn bán rồi biệt tích, hai năm sau tôi được mười hai tuổi, từ Giang Tô theo mẹ lên Nam Kinh tìm cha.
Trước khi tới Nam Kinh, dọc đường thấy quân lính tập trận nơi quảng trường rộng lớn, tôi hiếu kỳ chen vào đám đông để xem. Còn đang ngắm mê mãi thì chợt có một vị Hòa thượng tới sau lưng tôi hỏi:
– Con có chịu lên Thê Hà xuất gia làm Hòa thượng không?
Tôi đáp không cần suy nghĩ:
– Dạ chịu!
Không lâu, Hòa thượng Chí Khai trụ trì Thê Hà sơn cho người tìm tôi, bảo:
– Nghe nói con chịu xuất gia làm Hòa thượng, bái ta làm thầy thì thích hợp rồi!
Lúc đó mẹ tôi cách gì cũng không đồng ý, vì chồng chưa biết sống chết ra sao, giờ con trai lại đòi xuất gia. Bà nằng nặc khuyên tôi nên về quê. Song tôi nói rằng đã hứa với sư phụ thì tuyệt đối không thể thất tín nuốt lời. Tôi bèn lên núi Thê Hà, còn một mình mẹ tôi thui thủi, quay trở lại quê nhà.”
Nếu không phải do túc duyên đời trước thì sao có thể chỉ vì một câu nói mà làm thay đổi cả đời của Đại sư được? Lúc đó Đại sư chỉ mới mười hai tuổi, song đã biết xem trọng lời hứa, “thủ tín như sơn”. Lời giải thích khẳng khái của Ngài tiềm tàng chí khí của một Bậc đại trượng phu khiến người ta phải cảm phục. Và trải qua suốt thời niên thiếu tu tập, thực nghiệm ở Tùng lâm, nhân cách Đại sư đã được trui rèn hoàn chỉnh.
Đại sư thường nói: – “ Thà hướng dẫn một đoàn binh, dễ hơn hướng dẫn một đoàn tăng!” – Vì huấn luyện quân nhân tài giỏi chỉ cần có kỹ luật nghiêm nhặt là đủ, nhưng để hướng dẫn và đào tạo được tăng tài ưu tú thì việc mài luyện phải cực nhọc gay go hơn nhiều!
Đời sống niên thiếu ở Thê Hà
Đối với những sinh hoạt thời niên thiếu ở Thê Hà, mặc dù đã trải qua sáu mươi năm nhưng sư phụ vẫn còn nhớ như in.
“Sư phụ tôi là hòa thượng Chí Khai, một nhân vật vĩ đại có tiếng tăm, nổi danh khắp xa gần. Là trụ trì danh sơn Thê Hà, nhưng đối với tôi Ngài chẳng hề giúp đỡ gì. Tôi ở bên ngoài tham học mấy năm cũng không được gặp Ngài, nói gì đến việc thân cận thỉnh giáo? Cho dù có được gặp thì sư phụ tôi cũng xử sự hệt như những vị thầy khác, nghĩa là mỗi lần gặp bọn nhỏ chúng tôi, nếu không quở trách thì cũng la mắng. Xưa nay sư phụ chưa từng hỏi tôi thiếu gì, cần gì? Trong suốt mười năm tu học ở Tùng lâm sư phụ chỉ cho tôi có hai bộ đồ. Tôi cũng chẳng dám viết thư về gia đình xin tiền mua đồ. Nếu có viết thư thăm gia đình, tôi chỉ kể toàn chuyện vui, rằng: “Sư phụ đối với con rất tốt, con hiện sống an ổn, xin ở nhà đừng lo!”
Nhưng có muốn viết thư về cho mẹ báo tin mình bình an thì cũng chẳng thể gởi đi, thư viết từ năm ngoái đến nay vẫn còn nằm ì ra đó vì không có tiền mua tem. Có lúc y phục rách quá, tôi lấy giấy đắp vào vá đỡ. Giày bị thủng đế tôi cắt bìa cứng kết với thành giày mà mang. Vớ bị hỏng thì tôi nhặt vớ người khác vứt bỏ xỏ đỡ. Do không dễ gì lượm được chiếc tương xứng, nên trong ký ức, tôi nhớ lúc nào mình cũng mang vớ chiếc dài chiếc ngắn, chiếc bự chiếc nhỏ, không bao giờ đồng nhau.
Thân thể tôi phát triển mạnh khoẻ bình thường. Trong mười năm tham học tôi bị bịnh hai lần: một lần là đau răng, một lần là sốt rét. Nhưng ở Tùng lâm dù có bị bịnh cũng không được phép nghỉ, vẫn phải theo chúng công phu sớm tối. Mỗi ngày tôi gắng gượng chống chỏi với cơn bịnh: làm, nghỉ, đồng như mọi người. Cứ thế độ hơn nửa tháng, không hiểu sao bịnh cũng được lành.
Vào thuở mấy mươi năm về trước, xã hội Trung Hoa kinh tế chưa phát triển như bây giờ. Tài vật các chùa chẳng được đầy đủ. Thêm nỗi “cháo ít tăng đông”, cái gì cũng thiếu. Lúc tôi vào chùa ở thì tăng chúng có hơn bốn trăm người. Do kinh tế eo hẹp nên nửa tháng mới được ăn cơm một lần, còn thì là ăn độn, nấu các thứ rau củ táp nham mà ăn. Mỗi ngày hai bữa sáng, chiều đều dùng cháo thật loãng, ăn uống cực kỳ đạm bạc.
Thức ăn độ nhật thường là xác đậu hũ, các thứ rau củ muối, lúc nào cũng có dòi trùng bò ngo ngoe trong mấy thứ đồ muối này. Đậu hũ thì để dành cho khách dùng, xác đậu mới là thức ăn của học tăng. Không có dầu, nên chẳng cần xào nấu chế biến gì, cứ thế mà ăn, ăn không hết thì đem xác đậu đi phơi, lũ chim sẻ được dịp mò tới đánh chén no nê, còn bỉnh phân lại làm lễ vật tặng chúng tôi.
Mỗi ngày lên quả đường thọ thực, nhìn thức ăn dọn ra, chẳng ai tiết nước miếng nổi. Lúc tụng kinh cúng dường nghe mùi hương thum thủm xông lên nhức cả mũi, chúng tôi chỉ biết nín thở nuốt đại.
Trong canh dùng, vài xác côn trùng nổi lều bều trên mặt nước, có thể nhìn thấy thi thể của vài con ốc, rít, giun bé tẹo nằm tận dưới đáy tô, chúng tôi đành nhắm mắt ăn đại.
Cuộc sống trải qua nhiều năm như thế, dinh dưỡng cơ bản đã không có thì nói chi tới đồ ngon? Song có điều không thể tưởng được là trong chúng chẳng nghe nói có ai bị bịnh bao tử hay đau ruột gì do kiểu ẩm thực không lành mạnh như thế. Các bịnh cảm mạo đã ít lại càng ít.
Dù ăn uống thiếu dinh dưỡng, không hợp vệ sinh cỡ đó, song các bạn đồng tu của tôi cơ thể vẫn phát triển tốt, người nào tướng tá cũng vạm vỡ, mạnh khoẻ cao to. Nguyên nhân là nhờ đâu chứ? Tôi cho rằng nghi thức tụng kinh niệm chú cúng dường lúc thọ thực rất quan trọng, chẳng những giúp chúng tôi khử trừ bịnh tật mà còn giúp bảo hộ thân thể mạnh khoẻ.
Rồi có ngày con sẽ hiểu được lòng ta
Nếp sống kham khổ với mức sinh hoạt đạm bạc đã trui rèn tâm chí, giúp ích cho tôi rất nhiều về sau này.
Đài Loan là vùng đất có nhiều cây trái, sản vật dồi dào, nên nhiều người có thói quen thích dùng nước trái cây, nước ngọt sau bữa ăn. Tôi thừa biết các thức uống này rất ngon. Song thuở ở Tùng lâm nơi Đại Lục, ngay cả cái nhãn hiệu của các món giải khát này tôi cũng chưa từng nghe qua, huống nữa là được nhìn thấy, sờ mó và nếm chúng. Bởi vậy mà tôi có thói quen không uống nước trái cây, không hay ăn vặt, không kén ăn.
Bây giờ mỗi khi tín đồ biếu tặng các thứ này, tôi đều chia hết cho người để gieo duyên. Chuyện ăn uống đối với tôi chỉ cần no là đủ, ngon dở không thành vấn đề, không cần phải là những món sơn hào hải vị hay rượu quỳnh chén ngọc. Thậm chí nếu không được ăn cũng không sao.. Được vậy chính là nhờ tháng ngày sống kham khổ ở Tùng lâm, đã luyện tập và un đúc cho tôi các đức tính này.
Tục ngữ nói: “Bịnh tùng khẩu nhập”. Hiện nay phần đông người ta bị bịnh đều do ăn uống quá độ mà ra. Chính thói quen không ham ăn đã bảo vệ sức khoẻ và giữ cho cơ thể tôi khang kiện, giúp tôi tiết kiệm sinh lực. Vì tôi không phải tốn nhiều thời gian vào chuyện ăn uống và có thì giờ để hoằng pháp độ sinh nhiều hơn.
Thuở tu học ở Tùng lâm, ngày có được ba bữa cơm no đủ đã khó, lại không có tiền lận lưng. Vì không tiền nên đâu có mua sắm gì. Chẳng phải tôi giữ giới, sống khắc khổ không mua sắm, mà bởi không có tiền nên huân lâu thành thói quen. Dù bây giờ được nhận cúng dường nhiều, tôi cũng đã quen không tích chứa. Tôi cho rằng tích chứa là thống khổ. Do vậy hễ có ít tiền trong tay, tôi không hề có ý cất để dành mà nhanh chóng dùng vào việc kiến hưng Phật giáo hết cả. Nếu như đối với đạo, tôi có cống hiến được chút ít gì thì chính là nhờ tháng ngày tham học nghèo khổ ở Tùng lâm đã luyện cho tôi tính không tích trữ tài vật và cảm thông được các nhu cầu cần thiết của Phật giáo.
Thuở tham học ấy có lần tôi bị một vị sư trưởng nọ quở mắng, thầy tôi biết tôi bị la oan. Nghĩ chắc là tôi ấm ức lắm nên một ngày kia, ông cho người gọi tôi lên dạy dỗ. Sau một hồi bảo ban dò la ý tứ tôi xong, thầy tôi cầm gói trà thơm trên bàn lên, nói:
– Con cho là không có tiền, mách với ta thì ta sẽ cho con. Nhưng ta nói cho con rõ, nội tiền ta uống trà đây, nếu nhín cho con thì con cũng xài không hết, nhưng ta không cho! –Vì sao ư ? Bây giờ chắc chắn là con không hiểu, nhưng sau này, rồi sẽ có lúc con sẽ hiểu được lòng ta.
Lúc đó nghe thầy dạy, ngoài mặt tôi không phản ứng gì, nhưng trong lòng chẳng ưng, nghĩ thầm: “Mấy năm nay con nghèo trong túi chẳng có lấy một xu, thầy không cho tiền cũng không sao, cần gì phải giải thích trịnh trọng như thế chứ ?
Theo thời gian tôi trưởng thành và cuối cùng hiểu ra, biết được rằng sư phụ rất quan tâm, lo cho tôi. Ví như Ngài cho tiền để tôi sống thoải mái chút đỉnh thì chắc hẳn Ngài rất vui. Nhưng sư phụ không muốn giáo dưỡng tôi thành một đồ đệ có tiền của rồi quen tính biếng lười ỷ lại. Ngài cho rằng tháng ngày trui rèn gian khổ sẽ tập cho tôi tính kiên trì nhẫn nại, chịu đựng giỏi. Cách giáo hóa của Ngài xem như lạnh lùng vô tình nhưng lại tràn trề lòng từ ái, giúp cho tôi về sau có được tính không ham cầu vật chất.
Tôi thấy rằng giáo hóa người bằng sự dịu dàng ôn nhu thì rất dễ, song dạy người lạnh lùng nghiêm khắc mà có được tấm lòng từ ái bao la thì thật là khó.
Nhắc lại chuyện sáu mươi năm xưa Đại sư nói:
– Hồi ấy các chùa bên Đại Lục không có đủ điều kiện để sinh hoạt tốt như hiện giờ, song nhờ qui củ nghiêm nhặt và cách huấn luyện vô tư đã mài dũa tín tâm người học đạo, giúp cho cuộc sống họ từ sinh hoạt đến tư duy đều là tu hành.
Đó là vì sao Đại sư thường nói: “Thà ở Tùng lâm đánh giấc, chẳng hành đạo ở am cốc. Thà ăn cơm ngàn nhà, chẳng ăn cơm một nhà.”
Người xuất gia trải qua bao khổ luyện nghiêm nhặt ở Tùng lâm nên mọi việc từ ăn, uống, ngủ nghỉ, hành sự .. chỗ chỗ đều vô quái ngại và không gì mà không là đạo.
Tư tưởng đổi mới ngược với đường hướng cũ
Mặc dù thời niên thiếu ở núi Thê Hà được nghiêm luyện như thế, song Đại sư nhận ra rằng không phải ở Tùng lâm cái gì cũng hay cũng đúng và Ngài đã có những quan điểm, những sáng kiến mới đối nghịch hẳn với đường lối cũ.
“Tôi mười hai tuổi xuất gia, mười lăm tuổi thọ giới. Sư phụ cho là tôi còn nhỏ tuổi quá, biết sau này có chịu nổi thử thách sóng gió mà vững vàng đi trên đường đạo? Vì muốn tôi trụ yên chốn Phật môn, người yêu cầu giới sư đốt liều (để sẹo đầu) cho tôi; hòng lưu dấu tích rõ ràng, để sau này hễ ai vừa nhìn thấy tôi thì biết tỏng ngay đây là người có “gốc sư” thuộc “nhà Phật”, một kẻ “xuất xưởng”.. từ cửa chùa; hầu chặn đứng ý “nhập thế” nơi tôi, đặt tôi vào đất chết cho tôi được “sống còn”, để tôi an phận làm tu sĩ và rụi tắt hết mọi điều.
Giới sư nghe thầy tôi ngỏ ý thế rồi, khi dí nhang vào đầu tôi ông càng ra sức thổi mạnh. Nhang cháy phừng phừng, đốt da đầu tôi lõm sâu xuống. Mười hai nốt sẹo to tướng nằm kề nhau trên đầu tôi giống hệt cái thung lũng. Chẳng biết lần đốt liều quá kỹ này có phạm tới thần kinh não chăng, mà tôi hoàn toàn mất hẳn trí nhớ, sự thông minh lanh lẹ trước đây không còn, tôi trở nên tối dạ chậm lụt, không sao học thuộc được bài.
Nhưng ở Phật học viện chương trình học rất căng. Kinh điển văn chương đều phải học thuộc lòng, nếu không muốn bị phạt thì phải cố mạng mà học.
Do mất trí nhớ nên dù rất cố gắng tôi vẫn không tài nào nhớ được. Có nhồi nhét cho mấy vào đầu rồi cũng cứ quên, tới khuya tôi còn ráng mò mẫm ôn bài. Tôi đợi mọi người ngủ hết, lẩm nhẩm học: “Qui khứ lai hề, qui khứ lai hề..” Tôi đọc tới đọc lui hằng trăm lần, cơ hồ thuộc như cháo. Rồi lại học tiếp câu: “Điền viên tương vu hồ bất qui?” (Ruộng vườn sắp hoang vu sao không về ?) Tôi đọc cả trăm lần, thấy dường như mình nhớ kỹ thuộc làu hết. Nhưng khi ôn lại câu vừa học trước đó thì đà quên tuốt luốt. Tôi than thầm: – Thôi chết rồi! Mình lú lẫn đần độn thiệt rồi!”
Thế là tôi bị thầy giáo phạt bắt quì ngoài hành lang ôn bài. Nhưng trí não tôi khăng khăng không hợp tác. Tôi vắt óc nghĩ suy, lo rầu héo ruột gan mà vẫn nghĩ không ra cách để học thuộc bài. Khi thầy giáo gọi kiểm tra lại, tôi vẫn cứ đần. Thầy buộc phải đánh đòn, quất xuống lòng bàn tay tôi ông vừa cười vừa mắng:
– Cái chú nhóc u mê này, sao không thuộc bài hử? Mi hãy đến lễ đức Quan Âm mà cầu trí tuệ đi!
Nói xong, “Chát”! ông lại quất xuống.
Tôi nghe thầy giáo nói, bao nhiêu đau đớn bay lên mây hết, lòng khấp khởi mừng vui. Con đường sáng vụt mở ra trước mắt với niềm hi vọng vô bến bờ:- “A! Lạy đức Quan Âm có thể cầu trí tuệ, hết ngu được ư ? Vậy thì tốt quá! Nhất định mình sẽ chuyên cần lễ bái Ngài!”
Nhưng trong chùa mọi sinh hoạt đều phải đồng chúng, không được tự tiện hành động riêng. Dù có lễ Phật cũng phải lễ theo thời khóa đã ấn định. Lòng khao khát trí tuệ, tôi đợi đến đêm khuya, khi mọi người đã ngủ say, tôi se sẽ rời giường, rón rén đi tới chánh điện. Giữa đêm thâu tĩnh mịch tứ bề im ắng, côn trùng đã ngưng tiếng nỉ non, bầu trời đêm nay thiếu vắng ánh trăng, chỉ có gió lộng vần vũ quanh ngôi cổ tự. Tôi lạy vùi trước đức Quan Âm, râm râm khấn vái:
– Đệ tử tối dạ ngu dữ quá! Kính lạy Bồ-tát trợ giúp cho con được thông minh sáng suốt.. Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ-tát!
Tôi có cảm giác mình giống như đứa con côi vừa tìm được mẹ, như thuyền đang lạc hướng được hải đăng sáng soi, tôi lạy và gởi gắm tất cả lòng tin cậy chí thành.
Khuya nào tôi cũng tha thiết lễ đức Quan Âm, ròng rã như thế độ hai tháng. Dù tôi không mơ thấy đức Quan Âm xoa đảnh thọ ký hay rưới nước cam lồ, song tôi lại có được cảm nhận bất tư nghì. Trí nhớ tôi không những được hồi phục mà còn thông tuệ vượt xa trước đây. Bài vở trường cho, tôi học thuộc nhanh chóng, liếc qua là nhớ liền. Ngày mai thi bạn bè tôi lo chuẩn bị, ôn tập ráo riết, còn tôi cứ ung dung chơi đùa; tối đến chỉ cần nhìn sơ qua bài vở một chút là đã thuộc làu làu, sáng ra ứng phó tự tại.
Nhưng thuở ấy tôi còn bé, vì cầu thông minh muốn học thuộc bài nên siêng năng lễ bái đức Quan Âm, được thông minh rồi thì thôi không lễ nữa. Giá như lúc đó có một bậc cao đức giải thích cho tôi hiểu bi tâm của Bồ-tát, hướng dẫn và khuyến khích tôi tiếp tục lễ Ngài, thì chắc chắn hiệu quả rất lớn vậy!
Quan trọng là đạt được những gì
Thuở thiếu niên ở Tùng lâm Đại sư cũng từng thực hành phép không ăn quá ngọ. Song trải qua thời gian lâu, thân thể sư ngày càng gầy ốm, suy kiệt, cuối cùng không thể duy trì. Đây cũng là điều khiến Ngài lưu tâm.
“Đức Phật lúc chưa thành đạo đã từng trải qua sáu năm khổ hạnh, đến mức ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo.. Cuối cùng Ngài hiểu ra khổ hạnh không phải là cứu cánh và từ bỏ đường lối khổ hạnh vô nghĩa, quyết định nhận bát sữa nàng mục nữ cúng dường để khôi phục sức khỏe và sau đó chứng đạo nơi tòa Bồ đề. Sự tích của Đức Thế Tôn đã khai thị cho chúng ta là: đạo chẳng thuộc ở chỗ ăn nhiều hay ít, mà là có phù hợp, thích ứng hay không? Thế nên, người ngày ăn một bữa cho đến chỉ ăn hoa uống sương để sống.., nhưng nếu đối với đạo không cống hiến được chút gì thì chẳng thể gọi là Đại Đức, Cao Tăng. Còn người đối với Phật giáo có nhiều cống hiến vĩ đại, thì dẫu có ăn ba bữa trong ngày, cũng chẳng vì thế mà mất đi phong cách cao thượng. Bởi vậy, tu hành không phải ở nơi hình tướng, mà thực chất là đạt được những gì??
Có người cho rằng ngày ăn một bữa, thậm chí chẳng cần ăn đồ nấu nướng, hoặc uống nước thay cơm hay dùng ròng nước cây trái thôi, mới là tu. Hành sự như thế Phật đã phê bình là không đúng pháp.
Nếu như cho rằng hái trái, ăn quả rừng, ăn cỏ cây mới là tu, mới là đạt đạo, thì những loài ăn cỏ, ăn trái chẳng phải đều thành đạo hết rồi sao? Còn như cho rằng nuôi sống bản thân chỉ cần uống nước không thôi, mới là đạo, thì các loài thủy tộc đều đã chứng đắc hết rồi?
Trong kinh Di Giáo Phật dạy: “Như ong hút mật, khéo léo không làm tổn hương sắc hoa”.
Thế nên chỉ cần ăn uống đúng cách, đề khởi chánh niệm lúc thọ thực, xem thức ăn như lương dược. Có người lúc ăn không dụng công ở chánh niệm mà cứ cho rằng chỉ cần không ăn quá ngọ là hành đạo rồi.
Như không ăn quá ngọ, mà lỡ phải dự đại hội, gặp phải những cuộc họp quan trọng kéo dài quá trưa mà buổi họp chỉ mới được một nửa, lúc ấy cũng không thể dừng ngang để độ ngọ, và quá ngọ rồi thì không thể ăn, thế là bữa cơm được chuẩn bị sẵn không dùng tới, người ta buộc phải vì mình mà pha chế thức uống.. lại hành họ cực thêm! Bởi thế, tôi cho rằng tu không nên chấp chặt vào phép ăn uống, mà cần có cái tâm bình thường, chịu vun bồi đức hạnh, sống thật thà thẳng ngay.. điều này quan trọng hơn.”
Những ý niệm thức tỉnh thời niên thiếu của Đại sư đã sản sinh ra truyền thống Phật Quang Sơn sau này. Sư quan niệm thức ăn cũng là lương dược nên đặc biệt lưu tâm. Ngài còn đích thân vào bếp chỉ cách nấu nướng và chế ra bữa ăn nhanh, giản tiện, như “phi cơ xan” (bữa ăn phi cơ ), riêng phần thức ăn phục vụ mọi người, đối với Ngài dù đơn giản thì vẫn phải hội đủ các tiêu chuẩn bổ dưỡng, hợp khẩu. Vì thế, tính cách Phật Quang Sơn rất thích ứng với mọi người, dễ làm người ta hài lòng, hoan hỉ khi dùng bữa.
Thuở ở Phật học viện Thê Hà, sư thấy mỗi khi tăng sinh phạm lỗi thường bị phạt bắt phải lễ Phật tụng kinh, lúc đó Ngài nghĩ thầm: “Lễ Phật tụng kinh là việc tốt, sao có thể đem dùng làm hình phạt được?”
Chờ đến khi chính mình mở Phật học viện, hễ tăng sinh có lỗi thì Sư phạt cấm lễ Phật, không cho công phu sớm tối. Giờ chúng tu hành thì “tội đồ” bị phạt phải nằm ngủ, chờ thời khóa kết thúc, mới được ra khỏi giường. Mấy ngày sau khi hình phạt chấm dứt, “phạm nhân” được phép tụng kinh lễ Phật. Giây phút hành lễ họ đã bật khóc, rơi nước mắt với bao cảm xúc ngập lòng, xúc động vì sung sướng, ăn năn.. Khi đó mới thấy rõ rằng bị phạt lễ lạy tụng kinh không sao bằng được lễ Phật tụng kinh.
Phật pháp không xa rời đời sống
“Ngày xưa ở tự viện tôi còn nhỏ tuổi nên ít có dịp được đi nghe giảng kinh. Có lần thấy vị sư huynh từ ngoài đi vào tôi hỏi:
– Huynh đi đâu về vậy?
– Đi nghe thuyết pháp!
– Hòa thượng giảng ra sao hở huynh?
– Hay cực kỳ!
– Hay thế nào hả huynh?
– Nghe mà không hiểu mới hay!
Tôi ngẩn người, ngạc nhiên hết sức! Giảng kinh, giảng nghe không hiểu mới được gọi là hay thì thiệt lạ? Không hiểu thì làm sao cảm nhận hay cho được??”
Mối băn khoăn này khiến sư ngày sau không ngại giảng những bộ kinh cao thâm khô khan, cho dù khó hiểu đến đâu Ngài cũng cố tìm cách giúp người thâm nhập dễ dàng. Đại sư nói:
– Nếu giảng người nghe không hiểu mới là hay, mới là thâm diệu, thì giáo pháp có khác chi đồ trang sức, chỉ để ngắm thôi, chứ không giúp ích được gì cho đời sống thực tại cả!
Tôi không ưa bàn huyền nói diệu, cũng chẳng thích làm ra vẻ thần bí. Nếu giảng mà thấy người không hiểu thì bất kể giáo lý khó giải tới đâu, tôi cũng cố hết sức giảng, sao cho thính giả nắm được nội dung, hiểu được đại ý trọng yếu của pháp Phật mới thôi. Vì những lời trong kinh Phật dẫu có bàn luận cao xa, dẫu có trừu tượng mơ hồ mấy đi nữa, thì tôn chỉ vẫn phù hợp với đời sống thực tế, không hề cách biệt với các sinh hoạt hằng ngày. Bởi vì, nếu pháp Phật mà xa rời cuộc sống, thì không phải là giáo pháp mà chúng ta cần, không thể làm kim chỉ nam để hướng dẫn đời chúng ta. Nếu Phật Pháp không đủ thực tiễn để hoà nhập vào đời sống thế nhân thì làm sao giáo lý Phật có thể tồn tại một khi vô nghĩa và vô ích như vậy? Đức Phật giáo hóa chúng sinh, là có ý muốn cải thiện đời sống thế gian, muốn giúp tất cả tịnh hóa tâm tư, đạt được niềm an lạc vĩnh hằng. Đó chính là lý do Phật pháp không thể tách rời cuộc sống!
Tuổi vừa chớm hiểu biết thì Đại sư đã nhuộm đời mình bằng nếp sống tu học truyền thống ngót mười năm nơi Tùng lâm, khuôn mẫu sống này đã được truyền lại từ đời Đường cho tới nay, chưa hề thay đổi chút gì. Chính tại nơi đây Sư đã âm thầm tích dưỡng nội lực, vun bồi thần trí, phát sáng tuệ căn. Nền tảng tu học cả đời người cũng được hình thành từ chiếc nôi đầu tiên này. Đại sư đã từng quá ngọ không ăn, trích máu chép kinh, lạy Phật, tụng kinh, tĩnh tọa..v.v.. nếp sống này đã hòa nhập vào Đại sư thân thiết như hơi thở và trở thành thói quen suốt cả đời Ngài.
Tu là để minh tâm kiến tánh
Xuất gia từ thuở mười hai; sau bảy, tám năm tham học, Đại sư đã thành một thanh niên, lần đầu tiên Ngài được phép về quê thăm gia đình. Người mà sư luôn nhớ đến, nôn nao mong được gặp trước tiên là bà ngoại.
“Lúc đó quân kháng chiến đã giành được thắng lợi, khi tôi về đến nhà thấy bà ngoại đang ngồi xỏ kim dưới một tàng cây to. Tôi ngồi xuống cạnh bà, hình ảnh thuở xưa chợt hiện về trong tâm tưởng, tôi nghĩ thầm: “Bà ngoại dụng công tu sao trong bụng lại phát tiếng kêu cực lớn. Nhưng suốt mấy năm dài tham học mình từng tiếp xúc với nhiều bậc đại đức cao tăng, đâu thấy ai có hiện tượng giống như bà? Sẵn dịp này mình nên giải thích giúp cho ngoại hiểu!”. Thế là tôi khơi chuyện:
– Ngoại ơi! Bụng ngoại còn phát ra tiếng kêu nữa không?
– Ồ! Làm sao mà thiếu được!
Ngoại đáp với vẻ tự mãn.
– Nhưng mà tiếng kêu trong bụng ngoại, xét cho cùng thì nó giúp ích được gì chứ? Vì tiếng phi cơ, tiếng xe hơi, xem ra vẫn lớn hơn tiếng vang trong bụng ngoại, nhưng chẳng qua chúng là tiếng ồn của động cơ trong lúc khởi động chở người mà thôi. Còn âm thanh trong bụng bà, về mặt hữu ích nó đâu có giúp được gì cho đạo đức nhân loại? Nó cũng không giúp ngoại giải thoát sinh tử?! Lâu nay con đi ra ngoài tu học, từng tiếp xúc không ít các bậc cao tăng, song chẳng thấy ai dụng công tu mà bụng phát tiếng kêu như ngoại cả!
Bà ngoại đã quá tuổi “cổ lai hy”, tôi vừa dứt lời thì mặt bà trở nên nghiêm trọng, bà có vẻ bàng hoàng, lặng đi một lúc lâu, sau đó bà hỏi tôi:
– Thế thì…phải tu như thế nào mới đúng?
– Tu là hoàn thiện nhân cách, là tăng trưởng đạo đức. Tu là để minh tâm kiến tánh chứ không phải để trong bụng có tiếng kêu!
Tôi giải thích xong, bà ngoại im lặng, đôi mắt hiền lành của bà lặng lẽ nhìn tôi, rất lâu. Lòng tôi chợt xốn xang ray rứt, tôi thấy thương bà quá. Ngoại tôi tu hành tinh tấn ngót mấy mươi năm, thậm chí tu cảm được cảnh giới khác người, tiếng kêu trong bụng bà đành là chẳng có ích chi đối với cuộc sống, chẳng giúp nhân loại tiến bộ, đi lên. Song nhờ nó mà bà phát lòng tin kiên định đối với đạo và siêng năng tu trì; điều này không thể phủ nhận. Lần này, lời tôi nói ra đã làm bà dao động, khiến bà hụt hẫng, mất niềm tin đối với công phu tu tập của mình. Trông bộ dạng bà có vẻ như đang đổ vỡ, đang mất mát cái gì to tát lắm, lòng tôi thật xót xa, bất nhẫn.. Sau đó, dù trò chuyện không nhiều nhưng ngoại tôi thẫn thờ như người vô hồn, thần trí như bị dao động mạnh.
Rồi một hôm bà gặp tôi, dặn dò:
– Cháu nè, bà mà có qua đời thì hậu sự gởi cháu lo hết đó, cháu toàn quyền quyết định chẳng cần phải hỏi ý dâu con của bà!
Những tháng ngày còn lại của cuộc đời, cuối cùng ngoại tôi đã quay về với tín ngưỡng chơn chánh.”
Có ngờ đâu sau đó không lâu, Đại sư phải đi sang Đài Loan, chẳng còn dịp để lo hậu sự theo lời ký thác của bà, thậm chí khi bà ngoại mất, Ngài cũng không thể nào có mặt ở bên cạnh.
Mỗi khi nghĩ đến điều này lòng Đại sư day dứt không nguôi, song nhớ lại bà ngoại như đã tỉnh ngộ khi nghe Ngài giải thích về mục đích và cứu kính của sự tu hành, lòng sư phụ cũng cảm thấy có đôi chút an ủi.
Đây là vị sư đã chứng ngộ
Sư phụ kể lại những kinh nghiệm tu học thuở thiếu thời thật hấp dẫn, lôi cuốn. Có đoạn làm tôi xúc dộng hết sức.
“Mười lăm tuổi tôi thọ giới, giới kỳ kéo dài suốt năm mươi ba ngày!
Tuổi mười lăm là độ tuổi mà tinh thần thể xác đang đà phát triển mạnh, là lúc mà lòng hiếu kỳ dâng cao tột đỉnh, thấy gì cũng thắc mắc, cũng tò mò, cũng muốn tìm hiểu. Chỉ cần nghe tiếng lá rơi hay tiếng gió lướt trên ngọn cỏ xạc xào, là tôi đã dỏng tai nghe ngóng, chăm chú nhìn. Bộ dạng tôi không qua mắt được vị sư dẫn lễ, ông lập tức vung cao roi, quất vào tôi, mắng:
– Nhóc tì! Hai con mắt mi cứ láo liên dòm đông ngó tây, bạ đâu cũng dán vào! Mấy thứ đó ăn nhập gì tới ngươi hử? Oắt con! Những âm thanh tào lao đó liên quan gì tới ngươi mà nghe với ngóng? Bịt lỗ tai lại đi!
Bị giới sư cho ăn đòn, tôi nghĩ thầm: –“Đúng là mấy thứ đó chẳng dính dáng chi tới mình, ta chẳng cần chú ý, dòm dỏ chúng làm chi nữa!”
Thế là, suốt năm mươi mấy ngày giới kỳ, tôi nhắm tịt mắt lại, chẳng thèm lý tới ngoại cảnh xôn xao bên ngoài mà xoay lại nhìn vào thế giới bình tịnh trong tâm, tôi “đóng” lổ tai lại chẳng đếm xỉa gì tới âm thanh huyên náo của ngoại cảnh và lắng nghe tiếng của nội tâm sâu thẳm.”
Ngăn nhìn, ngăn nghe, ngăn nói.. mãi đến khi đàn giới kết thúc. Tình cờ lúc Đại sư đi kinh hành ngoài hiên, mắt vừa nhìn qua thì bỗng phát hiện ra núi sông, cây cỏ, tất cả đều sống động, uyển chuyển, đẹp đến không ngờ!
Nghe sư phụ kể chuyện thời niên thiếu của mình, tôi nghĩ huệ tâm của Ngài không những đã sớm phát từ thời niên thiếu mà còn toả rạng mãi đến sáu mươi năm sau, để bao giờ cảnh vật cũng thắm tươi, đẹp lạ lùng như thế cả! Mường tượng lại hình ảnh sư phụ gặp tôi tại chùa Tây Lai và cảnh Ngài cúi đầu trầm tư nơi đàn giới.. Hai hình ảnh giao nhau, cho tôi cái cảm giác là sư phụ chẳng có gì thay đổi, từ thuở là một Tiểu sư hay đến lúc thành bậc Đại sư, nhân cách Ngài vẫn thế! luôn nhiệt tình, trọng tín, lúc nào cũng thành thật, khiêm tốn, phụng sự hết lòng!
Bất kể là tôi đang ở trước sư phụ hay đứng tận đàng xa chiêm ngưỡng Ngài, bao giờ trong tâm trí tôi cũng vang lên một câu: – “Đây là vị sư đã chứng ngộ!”.