SAO TRỜI MÊNH MÔNG
Nguyên tác: Hán văn: “Hạo Hãn Tinh Vân”
của Lâm Thanh Huyền
Hạnh Đoan lược dịch

 

CHƯƠNG 2: VƯỢT NÚI

Thuở bé ở Kỳ Sơn, tôi thường đi bộ theo cha tới Đại Thọ, lúc đó Phật Quang Sơn sắp được thành lập; ngày nào cha tôi cũng đến dừng lại trước núi, nhìn ngắm ra chiều ngưỡng mộ và bảo tôi:

 – Nghe nói có vị Hòa thượng từ Đường Sơn đến, muốn xây chùa trên núi này!

Tôi nhìn theo hướng cha, chỉ thấy trên núi cây cối um tùm, một màu xanh rợp, hầu như chẳng có cách chi để đi xuyên qua rừng cây đan chằng chịt, thật khó mà tưởng tượng nổi là có thể xây được chùa trên một vùng đất cây cối mịt mù như thế.

Bây giờ, mỗi khi nhớ đến phụ thân, tôi lại đến thăm Phật Quang Sơn; đứng ở nơi mà ngày xưa cha tôi thường hay dừng lại ngắm nhìn (nay là nhà để xe). Đi lên núi, vừa nhìn vào là đã thấy Đại Phật tiếp dẫn hùng vĩ; có thể thầm thầm ngộ ra vì sao các thiền tự ngày xưa được mệnh danh là “Tùng lâm” và sẽ hiểu vì sao phụ thân tôi lại chiêm ngưỡng với vẻ thán phục đến thế!

Tôi thuật lại chuyện cha con tôi đứng ngắm Phật Quang Sơn thuở ấy cho Đại sư nghe, người đột nhiên hỏi tôi:

 – Con sinh ra khi nào?

Câu hỏi này giống như công án thiền:  – “ Tôi là ai? Tôi sinh ra khi nào?” 

Tôi thưa :

– Con chào đời năm Dân Quốc 42.

Đại sư mỉm cười bảo :

– Ta đến đây sớm hơn con, ta đến Nam Đài Loan năm Dân Quốc 41!

Thế giới tâm linh an tĩnh tuyệt vời

Rồi Đại sư kể chuyện thuở đầu đến miền Nam, khi khởi sự khai sơn nơi làng Đại Thọ; người đã đi bộ đến chùa Hồ Nguyên Mỹ Lệ, vì có hai học trò ở đó.

“Từ Đại Thọ, tôi đi ngang qua làng quê Kỳ Sơn; men theo con đường dọc triền núi Nguyệt Quang tới Mỹ Lệ. Lúc đó tôi thấy Nam Đài Loan đẹp hết sức! Đặc biệt là trong núi rất mát, nhờ gió từ bên trong thổi ra, cho người ta cảm giác như là Cực Lạc nhân gian. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp vài cái am nhỏ trong núi, trời xanh biêng biếc, mây trắng bàng bạc; cảnh vật an tĩnh và đẹp lạ! Tôi nghĩ thầm: “Giá mà có được cái am như thế này để tu thì sướng biết bao! Am dù nhỏ, nhưng nếu tâm tư ta rộng lớn thì thế giới cũng sẽ rộng lớn như thế !”

Đại sư đắm chìm trong hồi ức, không những cảnh núi non xinh đẹp làm người cảm kích mến mộ; mà suốt quãng đường đi, dù gặp bất cứ ai, họ đều mỉm cười chắp tay xá chào, lễ phép thăm hỏi; dân Đài Loan bản chất lương thiện, đôn hậu; chẳng cần nói năng chi cũng đủ làm cho vị tu sĩ phương xa thầm thầm xúc động rồi.

“Nhất là từ Kỳ Sơn tới Mỹ Lệ, dọc đường tôi thường bắt gặp các phụ nữ đang canh tác; lạ một điều là họ mặc toàn y phục giống nhau: áo lam, quần đen; trông rất mộc mạc chơn chất. Những phụ nữ cần lao này cũng tạo cho tôi ấn tượng sâu sắc. Từ xa xa vừa nhìn thấy tôi là họ đã ngưng công tác và cúi đầu chào với vẻ hiền thiện chân thành. Lúc đó tôi cảm thấy dân Đài Loan quả có nhiều phúc báo, người trong gia đình và trong làng đối với nhau rất tốt; họ hiếu khách, siêng năng; hiền lành, dễ mến.”

Qua lại thường xuyên ở Nam Đài Loan, Tinh Vân càng quyết tâm sáng lập Đại Tùng Lâm; hi vọng giúp mọi người hiểu sâu Phật giáo, thấm nhuần đạo cả; để Sư có thể san sẻ niềm bình an tuyệt vời của thế giới tâm linh cho tất cả cùng chung hưởng.

Phật Quang Sơn đã được hình thành từ  những ước mơ hằng ấp ủ này. Hình ảnh về cái cốc nhỏ thanh tu thơ mộng trong núi vẫn còn ám ảnh sư; song sư đã quyết định chọn cuộc sống nơi Tùng lâm uy nghi có khuôn phép qui củ, ở đây người tu hành có thể hoàn toàn vô tư vô ngã chia sớt niềm vui pháp vị với mọi người.

Phật Quang Sơn không phải ngày một ngày hai mà thành, trước khi xây dựng nên, Đại sư đã trải qua biết bao gian nan vất vả.

Lúc mới đến Đài Loan, Sư đã ghé qua rất nhiều tự viện, cũng từng cư ngụ các nơi ấy một thời gian ngắn; nhưng nói thật tình thì chỗ ưng ý nhất của Sư là Nghi Lan.

“Năm Dân Quốc 41 tôi được biết có vài pháp sư đi Nghi Lan, lần đầu nghe đến tên “Nghi Lan” tôi liền hỏi một vị pháp sư:

 – Thầy đi Nghi Lan hả?

Ông ta đáp:

– Thầy hỏi để làm gì? Nghi Lan ở bên kia núi ấy mà! Phải đi qua mười mấy cái hang động, tới tận một vùng khỉ ho cò gáy!

 – Bên ấy chẳng phải là có chùa am sao?

Thầy ấy đáp:

 – Ôi dào! Xa tít tịt mù khơi, chẳng có gì hay ho cả!”

Nhiều người không đồng quan điểm với Tinh Vân, vừa nghe diễn tả Nghi Lan như thế đã “rút lui có trật tự”, riêng Sư đối với Nghi Lan lại rất hứng thú.

“Với tôi, nơi hoang vu hẻo lánh tít bên kia núi mà còn có chùa am, có người học Phật, thì đương nhiên là một chỗ tốt rồi!”

Lúc đó Sư có một số học trò ở Tân Trúc hiện phải nghỉ đông; Sư hi  vọng có thể tìm ra một chỗ giúp họ tiếp tục học. Nguyên trước đây sư đã dẫn họ tới chùa Thiện Đạo ở Đài Bắc; khi ấy Trụ trì chùa Thiện Đạo là pháp sư An Thuận thuộc hệ thống Thái Hư Đại sư, thấy Tinh Vân không thuộc hệ phái này nên chối từ. Song, Sư không đành bỏ mặc học trò, giờ nghe nói tới Nghi Lan, trong lòng Sư chợt lóe lên hi vọng: “Biết đâu chừng sẽ có lối thoát ở đây?!”

Nhất định, nhất định, nhất định, phải đến Nghi Lan

“Một hôm Phật giáo trong nước mở đại hội, tình cờ có một cư sĩ từ Nghi Lan đến, ông ta lớn tuổi hơn tôi; vừa gặp tôi bèn lễ bái, trông có vẻ là một Phật tử thuần thành. Lễ xong, ông đứng dậy thưa:

– Chẳng hay thầy có thể đến Nghi Lan giảng kinh chăng?

Ông kể ông muốn thỉnh một vị pháp sư đến giảng kinh trường kỳ ở Nghi Lan. Ông đã bôn ba lắm phen, cũng thỉnh được vài vị, song họ chỉ ghé qua Nghi Lan có một lần rồi thôi, chẳng chịu tới nữa!

Sẵn dịp Phật giáo mở đại  hội, ông liền đi theo tới Đài Bắc tìm giảng sư, nghe đồn tôi thuyết pháp rất hay, nên ông đặc biệt thỉnh tôi đến Nghi Lan.

Đại sư hồi tưởng đến tình cảnh năm mươi năm trước, không nhịn được cười, vui vẻ nói:

– Vị tiên sinh ấy là cư sĩ Lý Quyết Hòa, thân phụ của đồ đệ Từ  Trang.”

Nghe kể nhiều pháp sư chỉ đến đấy một lần rồi thôi, không chịu đi nữa, càng kích thích tính hào hiệp trong Sư trỗi dậy; ở Phật học viện Tiều Sơn người đã nếm qua trăm ngàn mài luyện; từng đối mặt với biết bao khảo nghiệm, thì còn gian nan nào có thể làm chùn chân?

“Nghi Lan”, cái tên nghe thu hút làm sao! Có gì đáng sợ chứ? Trong lòng tôi đã quyết: – “nhất định, nhất định, nhất định, phải đi Nghi Lan”!

“Tôi nhớ mãi ngày đầu đến Nghi Lan.

Từ sáng tinh mơ tôi đã ra bến, lên xe đi Nghi Lan. Đến tám giờ xe mới khởi hành, đường đi hóc búa lắt léo hết chỗ nói; khói bụi bốc mù trời, đá chơm chởm làm xe dằn xóc như nhảy, thoát khỏi cát đá thì lại gặp bùn sình, chạy cua quẹo vòng vèo ngót ba tiếng rưỡi, 11g30 thì đến được Nghi Lan.

Đến Nghi Lan, tôi nôn nao tìm tới chùa Lôi Âm, thong thả bước vào đại điện, trước sau chẳng thấy bóng người. Thình lình có một bà xuất hiện hỏi tôi:

– Thầy đến đây để giảng kinh?

– Vâng! – Tôi đáp.

Bà ta hỏi xong liền bỏ đi, chẳng để ý gì đến tôi. Tôi đi tới đi lui trong chùa, muốn tìm nhà vệ sinh để đi tiểu, nhưng không sao tìm ra được, thốn bụng chịu hết thấu. Sực nhớ ở trạm xe lửa có nhà vệ sinh, tôi liền rời chùa đi tới trạm xe lửa. Người xuất gia chuyển thân cất bước mỗi mỗi đều phải giữ oai nghi; trong lòng dù có gấp mấy vẫn phải bước điềm đạm từ tốn. Đi vệ sinh xong, tôi cuốc bộ về lại chùa Lôi Âm; toàn thân từ đầu đến chân mồ hôi tuôn như tắm.

Ngày đầu đến Nghi Lan, mở màn là như thế đấy.”

– Bạch sư phụ, rốt cuộc thì nhà xí nằm ở đâu? Chẳng lẽ chùa Lôi Âm không có nhà xí ư? – Tôi hỏi.

Đại sư đáp:

– Thật ra nhà xí của chùa nằm khuất ở tít phía trong hóc, vì chùa Lôi Âm không có nhà bếp, chỉ có duy nhất một cái hỏa lò. Bình thường cửa nhà xí luôn đóng, còn hỏa lò thì được đặt nằm ngay ngoài cửa. Muốn đi nhà xí thì trước phải bê hỏa lò dời sang một bên; vệ sinh xong, thì đem hỏa lò trả lại vị trí cũ. Hèn gì mà người ngoài tìm không ra! Người ta nói Hòa thượng ở bên ngoài tới tụng kinh giảng pháp được, thế nhưng Hòa thượng từ xa tới ngay cái nhà xí cũng tìm không ra!

Mặc dù màn mở đầu chẳng có vẻ gì thuận lợi, song ngay ngày đầu giảng kinh, Tinh Vân đã nhận ra tín đồ ở Nghi Lan rất khao khát nghe pháp. Có thể dùng từ “Khát pháp như nước” để hình dung. Vì trong chùa và ngoài sân thính chúng dự đông tới chen chân không lọt.

“Lần đầu giảng ở Nghi Lan, tôi giảng về “Bồ-tát Quan Âm phẩm Phổ Môn”; giảng suốt hai mươi ngày liền, mọi người đều rất thích. Mỗi ngày, khi giảng kinh xong, tôi thường kể một đoạn chuyện về “quốc sư Ngọc Lâm”. Giới thanh niên ưa lắm. Trước khi kết thúc buổi giảng, tôi nói: – Muốn biết chuyện diễn tiến ra sao, xin quí vị đón nghe tiếp vào ngày mai.” Cứ thế, người đến nghe giảng mỗi lúc càng đông, tỏ ra rất hứng thú, sau đó giảng tới chấn động cả một vùng Nghi Lan.

Hội niệm Phật Nghi Lan, lôi cuốn sinh động

Lúc Tinh Vân trụ ở Nghi Lan, chùa Lôi Âm chỉ là cái cốc nhỏ; một bên là nhà của các bà, một bên là trại gia binh. Người náu thân ở cái chái nhỏ phía sau đại điện, vừa rộng đủ kê một cái bàn, một cái giường. Đêm đến, chùa tối thui tối mò, chỉ có một ngọn đèn nhỏ nơi đại điện.

“Hồi ấy tôi hai mươi sáu tuổi, lần đầu xài điện; cũng muốn mắc một bóng, nhưng thời đó không tính tiền theo điện kế mà lại căn cứ vào bóng đèn để tính; mắc một bóng mỗi tháng phải trả mười hai đồng, do tiết kiệm nên chỉ xài một bóng trong đại điện; nếu tôi muốn đọc sách viết lách gì, thì kéo bóng tới chỗ mình; song dây điện chẳng đủ dài nên tôi chỉ kéo ra được tới cửa; đành ngồi ở đó mà đọc kinh. Ban ngày tôi hướng dẫn hội niệm Phật, đêm đến thì đóng cửa dụng công; cứ thế trải qua hơn một năm.”

Hơn một năm, Tinh Vân dẫn dắt hội niệm Phật Nghi Lan vào nề nếp, đâu ra đấy; danh tiếng đồn vang, người đến tham dự mỗi lúc một đông; thế là mọi người bàn nhau nên lập Hội trưởng Hội niệm Phật.

“Hôm ấy, vừa khai mạc Hội thì một cư sĩ đứng lên phát biểu đề nghị phải thỉnh một vị đức cao vọng trọng ở Quốc Tiểu đến làm Hội trưởng; ai nấy đều vỗ tay tán thành, thông qua. Tôi nghĩ thầm: “Thật lạ, tôi là giảng sư, đang hướng dẫn hội niệm Phật, làm Hội trưởng thì chẳng phải là “danh chánh ngôn thuận” sao? Còn đang ngạc nhiên, thì một cư sĩ trẻ tuổi khác đứng lên nói: -“Hội niệm Phật cần chọn một người đức tài gồm đủ, hiểu biết Phật pháp uyên thâm, pháp sư Tinh Vân đây là một bậc chơn tu, đã hướng dẫn hội niệm Phật rất tài tình, lẽ ra phải bầu thầy làm hội trưởng mới đúng!” Mọi người lại vỗ tay thông qua. Lạ hơn nữa là, để thỉnh vị pháp sư từ Quốc Tiểu đến Đài; lo phí tổn đã vất vả; nhưng ông ta vừa được bầu lên làm hội trưởng mới hơn một giờ thì đã bị mời ra, thật là khó kham vậy!”

Đại sư nhận ra người Nghi Lan tính tình chất phác, nghĩ gì nói nấy, không ưa rào đón quanh co. Ở Nghi Lan còn có một việc buồn cười nữa là, gian bên cạnh chùa Lôi Âm có một hộ gia binh cư ngụ; chủ hộ là một Thiếu tá thuộc típ người ngang ngạnh khó cảm hóa. Mỗi khi hội khai lễ niệm Phật, thì Thiếu tá này mặc xà lỏn, áo thun; nhắc cái ghế đẩu ra, ngang nhiên ngồi giữa sân chùa hút thuốc, hội viên muốn kinh hành niệm Phật bắt buộc phải đi vòng quanh ông ta; ông chẳng nói chẳng rằng, chẳng tỏ thái độ chi; mãi đến khi hội kết thúc khóa niệm Phật, ông mới chịu ngưng hút thuốc, ôm ghế trở vô nhà.

Những thành viên trong hội không nhịn được, nhiều lần định sai người đến mời ông ta đi ra ngoài, vì họ cảm thấy mình niệm Phật kinh hành, nhiễu quanh một kẻ mặc xà lỏn áo thun ung dung ngồi hút thuốc như vậy, thật chẳng trang nghiêm chút nào!

Sư phụ bảo:

 – Quí vị mặc kệ ông ta đi! Rồi sẽ có ngày cảm hóa được ông ta.

Thế nhưng, mãi đến khi Thiếu tá đổi đi, trước sau gì cũng chẳng cảm hóa được ông ta.

Kể lại chuyện đó sư phụ không nhịn được cười, nói :

– Chẳng biết bây giờ vị Thiếu tá ấy ở đâu, nếu như còn gặp lại, cùng ăn với nhau một bữa cơm thì cũng tốt rồi.

Khi Đại sư tới Nghi Lan, người đã hạ quyết tâm là sẽ hoằng dương chánh pháp ở nơi đây. Do bản tính sắt  đá “không gì lay chuyển nổi” ấy mà dân Nghi Lan đã nhiệt liệt hoan nghinh đón nhận người. Vì tên “Tinh Vân” tiếng Đài khó phát âm, lại khó nhớ nên phần đông người ta đều gọi Sư là “Sư phụ miền Bắc”.

Tất nhiên, ở đây cũng có một số người tính tình ngang ngược khó cảm hóa, thấy Sư là một thanh niên ngoại tỉnh mà lại tạo được ảnh hưởng rộng lớn như thế, nên trong các buổi giảng họ thường tìm cách quậy phá, ra sức làm ồn náo ngoài đại điện, những lúc đó Tinh Vân chẳng hề bước ra ngăn cản; người chỉ thình lình tắt hết đèn đuốc, chẳng nói một lời; trong đại điện bỗng lặng lẽ im phăng phắc, chỉ có tiếng hò reo của đám người quấy rối bên ngoài là nổi cộm, và như  mọi khi, tiếng ầm ĩ dù có vọng đến bên trong giảng đường, cũng hóa thành an tĩnh.

Sáng kiến tinh tế; chan chứa tình yêu thương nhân gian

Đại sư đã làm cho Phật pháp được truyền bá rộng rãi khắp Nghi Lan; ngoài việc đem nội lực huân tu thâm hậu truyền niềm tin mạnh mẽ vào đạo, Sư còn có nhiều sáng kiến hoằng pháp thật sinh động và lôi cuốn.

Chẳng hạn như trước khi kết thúc buổi giảng, Sư thường kể chuyện  khiến thính giả rất ưa nghe. Sư còn thành lập Ban báo chí trong chùa; lo bồi dưỡng nhân cách giới thanh niên tăng, cho tiếp thu những văn hóa mà tầng lớp trẻ ưa chuộng, nhằm tạo một môi trường thoáng, tràn trề sinh khí, nhằm dẫn dụ người ham mê học Phật. Sư còn cho mở trường Mầm Non để tín đồ vừa tiện bề dạy học, vừa nghiên cứu  Phật pháp. Mỗi tối trước khi sắp giảng kinh hay khai lễ niệm Phật, Sư cho người thắp đèn lồng cầm  rảo quanh đường phố, gỏ chiêng khua trống để quảng bá truyền rao; khiến cho sau này hễ trong chùa có sinh hoạt tổ chức tiết mục chi là người ta hăm hở đổ xô nhau chạy tới dự. Như lần đầu, khi thành lập “Đoàn văn nghệ Phật giáo”; sư đích thân soạn từ, rồi mời Dương Vịnh Đoàn viết nhạc; để giới thanh niên vào chùa có được một sân chơi lành mạnh bổ ích; không những họ vừa có thể học giáo lý, tập tu; mà còn được ca hát, sinh hoạt, họp đoàn.. được kết bạn với nhau. Sư  còn cho  mở lớp “bổ túc văn hóa” để dạy các môn văn, sinh ngữ, toán, lí hóa v.v… miễn phí cho các con em nhà nghèo ở Nghi Lan. Ngoài ra, Sư còn phụ trách việc đào tạo nhân tài, hướng dẫn thêm về những sinh hoạt tâm lý .v.v..

Những việc này ngày nay nhìn thấy là chuyện đương nhiên, không có gì đáng nói. Song, ở vào thời Dân Quốc 40 thì đây là những việc mang đầy tính cách mạng, đổi mới. Đại sư Tinh Vân đã thổi một làn sinh khí mới mẻ vào công cuộc hoằng pháp, đã cống hiến nhiều sáng kiến tinh tế, đầy lòng yêu thương nhân gian. Sẵn kiến thức quảng bác thâm thúy, người đã tiên phong mở đường cho việc hoằng pháp bằng những phương thức mới lạ, để từ thời buổi ấy, phong cách hoằng pháp độc đáo này được khai sinh và nảy lộc đâm chồi cho đến giờ.

Chính tại Nghi Lan, Đại sư đã “cao cao sơn đỉnh lập, thâm thâm hải để hành” (lên tận đỉnh núi cao, vào tận đáy biển sâu) của sự nghiệp hoằng pháp lí tưởng. Sau này Phật Quang Sơn lập nên được nhiều sự nghiệp văn hóa, giáo dục, từ bi, qui mô .. tất cả đều nhờ những hạt giống được ươm mầm sẵn ở Nghi Lan. Lớp tăng tài do Sư  đào tạo, để mạch pháp được truyền thừa; cũng bắt đầu từ Nghi Lan. Các đệ tử đầu tay của Sư như: Tâm Bình, Từ Trang, Từ Gia, Từ Huệ, Từ Dung.. thảy đều “ra lò” từ Nghi Lan; về sau họ đều có những cống hiến vĩ đại đối với Phật giáo.

Vào khoảng năm 40, đến Nghi Lan chỉ có hai con đường: một đường vòng vo hiểm trở ở phía bắc Nghi Lan và một con đường cực kỳ lầy lội, mà nếu đi qua toàn thân đều tắm bùn, mặt mày lấm lem bụi đất. Người ở quanh đấy đều cho nó là “hãi lộ”( con đường đáng sợ); còn Đại sư Tinh Vân bôn ba thường, quen gian khổ nên nhìn nó như “lạc lộ”. Hơn nữa, người còn can đảm bám trụ dài hạn ở Nghi Lan. Kết quả là Sư đã giúp cho tư tưởng Phật giáo được khai thông ở Đông Đài Loan; đem lại nhiều sáng kiến thực dụng truyền xuống  miền tây, lan tới miền nam. Khiến cho Đài Loan từ tây đến đông, từ nam chí bắc đâu đâu cũng thấm nhuần tư tưởng chói lọi của Phật giáo.

Tôi chưa bao giờ có ý rời bỏ Nghi Lan

Tôi hỏi sư phụ: – Bạch thầy, lúc đó việc hoằng pháp bề bộn bận rộn như thế, làm sao mà thầy có được nhiều sáng kiến đến vậy?

Sư phụ đáp: – Phật giáo đâu phải chỉ để ngồi một chỗ cho người ta lễ lạy hay cố chấp cứng ngắc, Phật giáo là linh động, nhờ vào chính sức mình làm nên. Thế thì mọi chuyện đều có thể phát khởi linh hoạt.

Hiện tại có một số người đem “Tinh Vân” gắn liền với “ Phật Quang Sơn”, cho rằng “Phật Quang Sơn” là “Tổng đài”, “Tổng bổn sơn”. Nhưng Đại sư không cho là thế, người thấy chính chùa Lôi Âm ở Nghi Lan mới là“Tổng nguyên đầu”, “Tổng bổn sơn”. Không có chùa Lôi Âm thì không có Phật Quang Sơn, không có các tự viện Phật Quang trong và ngoài nước, không có hằng vạn chúng xuất gia lẫn trăm ngàn tín đồ. Thậm chí, năm mươi năm sau, Đại sư còn quay lại Nghi Lan trùng hưng Lôi Âm Tự, biến ngôi chùa nhỏ khó tìm ra nhà xí thuở nào thành một Đại Đạo tràng tôn nghiêm hùng vĩ, đâu đấy ngăn nắp trật tự, đầy vẻ mỹ  quan. Năm mươi năm sau, chính tại Nghi Lan sư phụ đã cho xây“Đại học Phật Quang”; Nghi Lan trở thành vùng đất đầu tiên có trường đại học. Qua những sự việc này, đủ chứng minh rằng Đại sư và Nghi Lan có duyên rất sâu.

Tôi lại hỏi:

– Bao giờ sư phụ sẽ rời Nghi Lan?

– Xưa nay tôi chưa từng có ý lìa bỏ Nghi Lan, tôi cũng không muốn rời Nghi Lan, hộ khẩu hiện tại của tôi vẫn ở Nghi Lan mà!

Sư phụ mỉm cười đáp, đôi mắt sáng lấp lánh, phảng phất ánh nhìn rạng rỡ của thuở hai mươi sáu xa xưa.

– “Nghi Lan là nhà của tôi! ” –Sư phụ nói với vẻ thật ấm áp.

Đến bây giờ Đại sư vẫn nhớ và thường kể:

“ Năm đó ở Tiều Khê, Nghi Lan; tôi viết truyện “Thập đại đệ tử”. Mỗi ngày khi viết xong thì trời đã hoàng hôn; một mình tôi tản bộ dọc theo bờ sông, cảm thấy thế giới thật yên tịnh, thật thanh bình và tuyệt vời làm sao. Ráng chiều phía trời tây ửng sắc thật đẹp, trong núi sông bình tịnh cũng có vũ trụ bao la; thế giới này tốt lành như thế, Phật pháp cảm lòng người như thế, làm tôi càng ước ao, mong sao ngày càng có nhiều người được biết đến Phật pháp!”

Ngày nay Đại sư Tinh Vân chẳng ngại nhọc nhằn đi diễn giảng khắp nơi trên thế giới, bao giờ Ngài cũng được đông đảo tín đồ tiếp đón, có khi họ tiếp đón long trọng lễ mễ còn hơn cả đối với nguyên thủ quốc gia; mặc sư ngăn cản khuyên lơn đến mấy, họ vẫn cứ không nghe.

Đại sư nói :

– “Ấy vậy mà có duy nhất một chỗ chẳng đón cũng chẳng đưa, chính là chùa Lôi Âm Nghi Lan, bởi vì là “nhà” tôi nên chẳng cần tiếp rước làm chi!”

Muốn học theo Tinh Vân hãy bắt đầu từ Nghi Lan

Đại sư nói:

“Hiện nay nhiều môn sinh ưa bắt chước theo tôi. Như vị đệ tử lớn của tôi thấy chú sư đệ trẻ nhón chân bèn hỏi:

– Sao đệ lại nhón chân chẳng chút trang nghiêm như thế?

Chú nhỏ đáp:

– Đại sư phụ cũng nhón chân kia kìa!

Chú ấy đâu biết là tại chân tôi bị thương, khi ngồi xuống, phải nhón cho đỡ đau!”

Muốn học theo Tinh Vân không nên học ở bên ngoài, cũng không học ở Phật Quang Sơn, vì Phật Quang Sơn vốn tốt đẹp sẵn, muốn học Tinh Vân thì phải bắt đầu từ Nghi Lan; nếu không, sẽ chẳng học được tí gì của Đại sư.

Khi sư phụ nhắc đến Nghi Lan, trong trí tôi chợt hiện lên hình ảnh một vị tu sĩ cao lớn đỉnh đạc, chầm chậm tản bộ dọc theo bờ sông, tà áo rộng tay bay phất phới; cảnh ráng chiều nghìn tía muôn hồng và núi sông hợp thành một sắc hài hòa, cùng tô điểm cho thế giới, khiến chỗ chỗ đều là xuân.

Rồi hình ảnh ấy lẫn vào hình ảnh sau, cảnh vầng trăng tuyệt đẹp nơi miền sơn cước tỏa ánh sáng huyền hoặc xuyên qua khu rừng rậm; Ngài đứng trước cái am nhỏ trên núi, dưới bầu trời xanh bao la, mây trắng lững lờ trôi. Khung cảnh thật gợi cảm và thơ mộng: trời trong, mây bạc; cây biếc, áo vàng; tất cả cùng hòa hợp dệt thành một thế giới rạng rỡ tinh khôi.

Tinh Vân, không phải chốn náo nhiệt rộn ràng mà là nơi tinh tế thâm sâu.

Tinh Vân, không phải chốn rực rỡ sắc màu mà là nơi bặt dấu phồn hoa.

Tinh Vân, không phải chốn khách buôn tụ hội mà là nơi chân thật bình lặng.

Nếu như không bóc sạch những hình ảnh bên ngoài đang tích lũy chồng chất trong tâm não để tiếp xúc với bản chất chân thật, sáng suốt, quảng đại và từ bi.. thì không thể nào thấy được Tinh Vân trong cõi trần ai hỗn mang này.