Quyển Thượng

Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Thiển Thích

Phẩm Thứ Tư: Nghiệp Cảm Của Chúng Sanh Ở Cõi Diêm Phù

“Cõi Diêm Phù” tức là cõi Nam Diêm Phù Ðề này của chúng ta. “Chúng sanh” tức là hết thảy mọi loài có sinh ra. “Nghiệp” là nghiệp nhân do mình tạo tác; “cảm” là chiêu cảm, cảm vời ra. Vậy, gây nghiệp gì thì thọ báo đó—trồng thiện nhân thì được thiện quả, gieo ác nhân tất gặp ác báo; đó gọi là “nghiệp cảm.”

Kinh văn:

Lúc đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Con nhờ nương sức oai thần của Ðức Phật Như Lai, nên chia được thân hình này đến khắp trăm ngàn vạn ức thế giới để cứu vớt tất cả chúng sanh bị nghiệp báo.

Nếu không nhờ sức đại từ của Ðức Như Lai, thì chẳng thể biến hóa được như thế. Con nay lại được Ðức Phật phó chúc: Từ nay cho đến khi Ngài A Dật Ða thành Phật, phải làm cho chúng sanh trong Lục Ðạo đều được độ thoát. Con xin vâng! Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài chớ lo âu!”

Lược giảng:

Lúc đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Con nhờ nương sức oai thần của Ðức Phật Như Lai. Ðại Bồ Tát Ðịa Tạng không hề đề cao chính mình: “Tôi có đại thần thông, có đại trí huệ, có tài biện luận vô ngại…”, mà Ngài chỉ nói là nhờ vào oai đức và sức thần thông của Phật, nên chia được thân hình này đến khắp trăm ngàn vạn ức thế giới để cứu vớt tất cả chúng sanh bị nghiệp báo, giáo hóa những kẻ còn khởi hoặc, đang tạo nghiệp, thọ báo.

Nếu không nhờ sức đại từ của Ðức Như Lai, thì chẳng thể biến hóa được như thế. Chính nhờ có sự trợ lực đại từ đại bi của Phật, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát mới có được cả trăm ngàn vạn ức hóa thân để chia nhau đi giáo hóa chúng sanh—đó quả là một sức biến hóa vô cùng lớn lao. Thế nào gọi là “biến”? “Biến” là hỗ tương thay đổi. Còn “hóa” là gì? Ðương không bỗng thành có—trước kia vốn chẳng có, nay bỗng nhiên lại có—gọi là “hóa.”

Con nay lại được Ðức Phật phó chúc: Từ nay cho đến khi Ngài A Dật Ða thành Phật.

“A Dật Ða” nghĩa là gì? Quý vị có biết đó là tên của ai không? Quý vị không biết “A Dật Ða” là ai, thế quý vị có từng nghe đến tên “Di Lặc” chưa? Chính thế, A Dật Ða chính là Di Lặc Bồ Tát! “Di Lặc” là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Vô Năng Thắng”—ý nói rằng Ngài có thể thắng tất cả, vượt hơn tất cả; không ai có thể hơn Ngài được! “Vô Năng Thắng”—”vô” nghĩa là không, “năng” là khả năng, “thắng” là thắng lợi. Quý vị xem, mấy chữ “Vô Năng Thắng” này ý vị biết bao—không ai có thể thắng được Ngài! Bởi suốt ngày Ngài lúc nào cũng vui vẻ tươi cười, không hề cau có tức giận, nhờ đó Ngài có được trí huệ; có trí huệ là hơn hết, là thắng tất cả, nên gọi là “Vô Năng Thắng.”

Ngoài ra, “A Dật Ða” còn được dịch là “Từ Thị” (“từ” là từ bi, “thị” nghĩa là họ).

Ðức Phật đã dặn dò Ðịa Tạng Vương Bồ Tát là kể từ lúc bấy giờ cho đến khi Di Lặc Bồ Tát thành Phật, Ngài Ðịa Tạngphải làm cho chúng sanh trong Lục Ðạo—Trời, Người, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, A Tu La—đều được độ thoát.

Và, Ðịa Tạng Bồ Tát hứa với Phật rằng: “Con xin vâng! Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài chớ lo âu! Nay con vâng nhận lời phó chúc của Phật, nguyện hết lòng gánh vác công việc này. Xin Ðức Thế Tôn đừng bận tâm lo nghĩ nữa!

Kinh văn:

Bấy giờ Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: “Những chúng sanh chưa được giải thoát thì tánh thức không định, quen làm điều ác thì kết thành nghiệp, quen làm điều thiện thì kết thành quả; làm thiện làm ác đều theo cảnh mà sanh, luân chuyển trong Ngũ Ðạo, chẳng tạm ngừng ngớt; trải qua trần kiếp, mê hoặc chướng nạn, như cá bơi trong lưới theo dòng nước chảy, tạm thoát ra được rồi lại mắc vào lưới. Vì những kẻ đó mà Ta phải lo nghĩ.

Ðời trước Ông đã phát nguyện, nhiều kiếp lập trọng thệ quảng độ những kẻ có tội, thì Ta còn lo gì nữa!”

Lược giảng:

Bấy giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: “Những chúng sanh chưa được giải thoát, vẫn còn luẩn quẩn trong vòng luân hồi, thì tánh thức không định. Tánh và tri thức của các chúng sanh đó đều không nhất định. Chẳng hạn có người ban đầu muốn học Phật Pháp, nhưng học chưa được bao lâu thì lại đổi ý, thay đổi tông chỉ—đó là do “tánh thức không định” vậy.

Quen làm điều ác thì kết thành nghiệp, quen làm điều thiện thì kết thành quả. Do vì tánh thức không nhất định, các chúng sanh ấy hễ quen thói xấu ác thì sẽ tạo ra nhiều nghiệp tội; còn nếu biết làm việc thiện thì trong tương lai sẽ có được những kết quả tốt lành.

Làm thiện làm ác đều theo cảnh mà sanh. Thế nào gọi là “theo cảnh mà sanh”? Thí dụ quý vị gặp được bạn tốt (thiện hữu), thường giảng Phật Pháp cho quý vị nghe và hướng dẫn quý vị làm các việc từ thiện; quý vị chăm chú lắng nghe và làm theo—và thế là quý vị làm được thiện sự. Thế nhưng, nếu quý vị gặp nhằm bạn xấu (ác hữu), rủ rê quý vị vào con đường rượu chè cờ bạc, chơi bời lêu lổng, sa đọa trụy lạc; và vì nghe mãi cũng bùi tai nên quý vị xiêu lòng đi theo, thì rồi quý vị cũng trở thành hư đốn như họ vậy!

Tương tự như thế, nếu quý vị ở gần người có tánh cần kiệm, thì lâu dần, quý vị cũng sẽ tiêm nhiễm thói quen cần kiệm. Còn nếu sống gần kẻ lười biếng, thì lâu dần, cho dù quý vị vốn là người rất siêng năng chăm chỉ, song đến khi gặp phải “vua lười” thì quý vị cũng bị cảnh giới làm cho lay chuyển mà trở thành người lười biếng. Ðó gọi là: 

Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.

Nếu quý vị ở gần lọ mực đen—như đang chăm chú viết lách chẳng hạn—thì thế nào tay cũng bị dính mực tự lúc nào mà mình chẳng hay chẳng biết!

Thí dụ có mẩu vải trắng, quý vị đem nhuộm màu cà-phê thì thành màu cà-phê, nhúng vào thuốc nhuộm màu vàng thì thành vải màu vàng; và nói theo bản kinh này thì đó chính là “làm thiện làm ác đều theo cảnh mà sanh” vậy.

Lại nữa, cho dù quý vị vốn không biết uống rượu, không hề dùng ma-túy, nhưng hằng ngày lại giao du với người thích uống rượu hoặc gần gũi người nghiện xì-ke ma túy, thì dần dần quý vị cũng trở thành giống như họ—nghiện rượu nghiện thuốc lúc nào không hay! Ðó là bởi quý vị kết giao nhằm bạn xấu mà ra! Cho nên, quý vị cần phải đặc biệt lưu ý và phải hết sức thận trọng trong việc kết bạn.

Ngoài ra, bởi chúng ta thường hay lắng nghe lời khuyến cáo của bạn bè, cho nên, trước hết mọi người cần phải biết “chọn bạn mà chơi,” phải phân biệt được bạn tốt và bạn xấu. Ðối với những người bạn tốt, thân thiện, thì quý vị nên tin tưởng; còn đối với bạn xấu thì bất luận họ nói điều gì quý vị cũng chớ nên tin!

Luân chuyển trong Ngũ Ðạo, chẳng tạm ngừng ngớt. Những chúng sanh tánh thức không định ấy cứ phải lẩn quẩn mãi trong năm nẻo đường—Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, A Tu La, Người—chẳng bao giờ được ngơi nghỉ dù chỉ là tạm thời.

Trải qua trần kiếp, mê hoặc chướng nạn. Suốt trong số kiếp nhiều như bụi trần, các chúng sanh đó phải sống trong cảnh u mê tăm tối, sai lầm rối loạn, nghiệp chướng bủa vây, như cá bơi trong lưới theo dòng nước chảy, tạm thoát ra được rồi lại mắc vào lưới.

Ðến đây, Ðức Phật nêu lên một tỷ dụ vô cùng xác đáng—Phật ví các chúng sanh chưa được giải thoát thì giống như con cá đang quẫy mình vùng vẫy trong lưới vậy. Có thể cá chỉ tạm thời bị mắc lưới rồi chốc lát lại thoát ra được, song thoát ra chưa được bao lâu thì lại bị vướng vào lưới của người đánh cá lần nữa.

“Vì những kẻ đó mà Ta phải lo nghĩ. Ta rất buồn rầu khi nghĩ đến những chúng sanh đáng thương đó.”

Quý vị xem, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lo lắng, e rằng chúng ta không thoát ra khỏi “tấm lưới đánh cá” được. Ở đây, “tấm lưới đánh cá” dụ cho sự việc cực kỳ nguy hiểm khiến ngay cả Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng phải lấy làm lo nghĩ. Tuy nhiên, quý vị chớ vội lo âu, chỉ cần chúng ta nhất tâm tinh tấn, chăm chỉ tu học Phật Pháp, thì rồi sẽ có biện pháp giải quyết.

Ðời trước Ông đã phát nguyện, nhiều kiếp lập trọng thệ quảng độ những kẻ có tội, thì Ta còn lo gì nữa!” Ở đây, chữ “ông” là chỉ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Ðịa Tạng Vương Bồ Tát rằng: “Từ bao kiếp lâu xa về trước cho đến nay, Ông đều lập thệ nguyện trọng đại, phát tâm rộng lớn độ thoát tất cả những chúng sanh tội khổ; thế nên Ta không còn gì để bận tâm nữa cả! Ta rất yên tâm! Tốt lắm! Ông hãy cứ như thế mà làm!”

Kinh văn:

Nói đến đây, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát hiệu là Ðịnh Tự Tại Vương, bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, Bồ Tát Ðịa Tạng đã phát thệ nguyện gì mà nay được Ðức Thế Tôn ân cần ngợi khen như thế? Cúi mong Ðức Thế Tôn lược nói cho.”

Bấy giờ Ðức Thế Tôn bảo Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát: “Lóng nghe! Lóng nghe! Phải khéo suy xét đó, Ta sẽ vì Ông mà giải bày rõ ràng.”

Lược giảng:

Nói đến đây, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát hiệu là Ðịnh Tự Tại Vương. Bồ Tát Ðịnh Tự Tại Vương là một vị đại Bồ Tát; Ngài nhờ tu Ðịnh mà chứng đắc được sự an nhiên tự tại. Ngài chẳng những đạt được sự tự tại mà còn là vua về “tự tại” nữa.

Như vậy, sau khi nghe Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói những lời như thế xong, Ðại Bồ Tát Ðịnh Tự Tại Vương bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, Bồ Tát Ðịa Tạng đã phát thệ nguyện gì—trong mỗi kiếp Ngài đã lập những lời nguyện như thế nào—mà nay được Ðức Thế Tôn ân cần ngợi khen như thế? Cúi mong Ðức Thế Tôn lược nói cho. Nguyện vọng duy nhất của con là được nghe Ðức Thế Tôn vì con mà nói sơ qua về việc đó.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn bảo Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát: “Này Ðịnh Tự Tại Vương! Lóng nghe! Lóng nghe! Phải khéo suy xét đó, Ta sẽ vì Ông mà phân giải rõ ràng. Bây giờ Ta sẽ vì Ông mà giảng nói, vậy Ông hãy chú ý lắng nghe và suy gẫm cặn kẽ những lời Ta nói.

Kinh văn:

Vào thuở quá khứ, vô lượng a-tăng-kỳ na-do-tha bất khả thuyết kiếp về trước, lúc đó có Ðức Phật hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ðức Phật này thọ sáu vạn kiếp.

Lược giảng:

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni kể lại rằng: “Vào thuở quá khứ, vô lượng a-tăng-kỳ na-do-tha bất khả thuyết kiếp về trước. “A-tăng-kỳ” và “na-do-tha” là những số mục rất lớn, nhiều đến vô lượng vô biên.

Vậy, vô lượng vô số kiếp chẳng thể kể xiết về trước,lúc đó có Ðức Phật hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Có ba loại trí huệ gọi là Tam Trí; đó là:

1) Nhất Thiết Trí;

2) Ðạo Chủng Trí;

3) Nhất Thiết Chủng Trí.

Ở đây, thứ “Nhất Thiết Trí” (cái trí hiểu biết tất cả) mà Ðức Phật này thành tựu được thì bao hàm cả hai thứ trí huệ kia.

“Như Lai” là một trong mười danh hiệu của Phật. Có lần có một cư sĩ hỏi tôi: “Như Lai Phật và A-Di-Ðà Phật có khác nhau chăng?” Thật ra, tất cả chư Phật đều được tôn xưng là “Như Lai”—A-Di-Ðà Như Lai, Thích-Ca Như Lai, Dược Sư Như Lai…—chứ không phải chỉ riêng một tôn Phật nào mà thôi đâu!

Phật có mười danh hiệu, gọi là “Thập Hiệu.” Thế nào gọi là “hiệu”? Chúng ta mỗi người đều có “tên tục,” rồi còn có “tên hiệu” nữa. Thông thường thì các bậc tôn trưởng và thân thuộc gọi chúng ta bằng tên tục; còn hầu hết những người ngang hàng, không quen biết lắm thì gọi chúng ta bằng tên hiệu. Thế thì “hiệu” là gì? Tiếng gầm thét giận dữ của cọp hoặc tiếng rống của sư tử, cũng gọi là “hiệu.” “Hiệu” là “thanh văn ư ngoại” (tiếng nghe ở ngoài)—bởi do có tiếng tăm lớn, khiến mọi người đều nghe danh biết tiếng, nên gọi là “hiệu”; và cũng gọi là “biệt hiệu.” (Chữ “hiệu” còn có nghĩa là gào thét, la lớn.)

1) Như Lai. “Như Lai” là một trong mười danh hiệu của Phật, và được gọi là “Phỏng Ðồng Tiên Ðức Hiệu” (mô phỏng, học theo gương của những người có đức hạnh thuở trước).

“Như” là “như vô phương sở”— không có định hướng, không có một nơi chốn cố định đặc biệt; “lai” là “lai cảm nhi hiện”—do sự cảm ứng đạo giao đến mà hiện ra. Ðó gọi là “như lai.”

Hai chữ “như lai” này còn hàm ý “lai vô sở tùng, như vô sở khứ”—không có chỗ đến, cũng chẳng có chỗ đi. Bởi “vô sở lai, vô sở khứ” nên gọi là “như lai.”

Lại nữa, “như” là đạo lý Bổn Giác; “lai” là trí huệ Thủy Giác. Bởi lý Bổn Giác khế hợp với trí Thủy Giác, cho nên gọi là “như lai.”

Trên đây là ý nghĩa đại cương của từ ngữ “như lai.”

2) Ứng Cúng. “Ứng Cúng” có nghĩa là xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của trời và người—loài người ở nhân gian và chư thiên ở cõi trời đều nên cúng dường Phật.

“Ứng Cúng” có danh hiệu là “Kham Vi Phước Ðiền Hiệu,” bởi Phật có khả năng làm ruộng phước cho trời và người. Có hai loại phước điền; đó là tự lợi (lợi mình) và lợi tha (lợi người). “Tự lợi” tức là tự mình “nghiên chân, đoạn hoặc”—tự nghiên cứu chân lý và dứt bỏ mọi nghi hoặc, làm lợi ích cho chính bản thân mình. Một khi quý vị đã hiểu thông suốt rồi, lại có thể đi giáo hóa tha nhân, khiến mọi người đều lãnh hội được chân lý và đoạn trừ được nghi hoặc, thì đó chính là “lợi tha” vậy.

3) Chánh Biến Tri. “Chánh biến tri” có nghĩa là “vô sở bất tri, vô sở bất hiểu”—không chỗ nào mà chẳng biết, không chỗ nào mà chẳng thông hiểu.

Ở đây, “chánh” là để phân biệt với “bất chánh” của ngoại đạo, và “biến” (khắp cả) là để phân biệt với “bất biến” (không cùng khắp) của Nhị Thừa. Hàng Nhị Thừa chứng tới đạo lý thiên lệch về tánh “không,” chưa đạt được “biến”; cho nên đây là điểm bất đồng đối với Nhị Thừa. “Tri” (biết) là điểm bất đồng so với hạng phàm phu—phàm phu thì “bất tri” (không biết), còn bậc Chánh Biến Tri thì “vô sở bất tri” (chẳng có gì mà không biết).

“Chánh Biến Tri” có danh hiệu là “Biến Tri Pháp Giới Hiệu.” Thế nào gọi là “Biến Tri Pháp Giới Hiệu”? Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép:

“Tùng trực cức khúc, hộc bạch ô huyền, giai liễu nguyên do.”

“Tùng trực” tức là cây tùng thì thân cây đứng thẳng; “cức khúc” tức là cây kinh cức (loại cây có gai) thì leo quanh, mọc thành từng bụi; “hộc bạch” tức là ngỗng trời thì có lông màu trắng; và “ô huyền” tức là quạ thì có lông màu đen—các tính cách này đều có nguyên do, mà sự tích vốn như thế nào thì Phật đều biết rõ cả. Thậm chí ở ngoài cõi Tam Thiên Ðại Thiên thế giới, mưa rơi bao nhiêu hạt Phật cũng biết rõ. Bởi Phật là “vô sở bất tri” (chẳng có chỗ không biết), nên mới đạt được danh hiệu này—”Biến Tri Pháp Giới Hiệu.”

4) Minh Hạnh Túc. “Minh” là minh bạch, rõ ràng; “hạnh” là tu hành. “Minh” cũng chính là trí huệ; “tu hành” tức là phước. “Phước huệ song túc”—phước được tròn đầy, huệ được viên mãn—đó cũng chính là “minh hạnh túc” vậy.

Chữ “minh” này lại có thể giải thích là “Tam Minh.” “Tam Minh” là gồm những gì? Ðó là Thiên Nhãn Minh (có được Thiên Nhãn Thông), Túc Mạng Minh (biết rõ tất cả chuyện đời trước), và Lậu Tận Minh (đạt được sự vô lậu, không còn phiền não lậu hoặc).

“Minh Hạnh Túc” cũng có một danh hiệu đặc biệt, gọi là “Quả Hiển Nhân Ðức Hiệu”—tại quả vị, Ðức Phật hiển lộ, thị hiện đức hạnh mà Ngài đã từng tu tập khi còn ở nhân địa.

5) Thiện Thệ, Thế Gian Giải. “Thiện” có nghĩa là tốt lành. Chữ “thệ” ở đây đồng nghĩa với chữ “vãng,” và có nghĩa là ra đi.

“Thiện Thệ, Thế Gian Giải” có danh hiệu là “Diệu Vãng Bồ Ðề Hiệu.” Vì sao gọi là “diệu vãng”? Ðức Phật đến mười phương quốc độ của chư Phật một cách tốt lành và khéo dùng quyền xảo phương tiện để giáo hóa chúng sanh, nên được gọi là “Diệu Vãng Bồ Ðề Hiệu.”

6) Vô Thượng Sĩ. Ðây cũng là một trong mười tôn hiệu của Phật. Vì sao gọi là “Vô Thượng Sĩ” (bậc không ai hơn được)? Ðức Phật đã đoạn trừ mọi lậu hoặc—không còn kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc nữa; bởi mọi thứ “hoặc” đều đã dứt sạch nên gọi là “Vô Thượng Sĩ.” (Nếu còn “hoặc” cần phải đoạn thì gọi là “Hữu Thượng Sĩ”!!!)

“Vô Thượng Sĩ” cũng có một danh hiệu riêng, đó là “Thông Ngụy Ðạt Chân Hiệu.” Ðức Phật biết rõ nội thân cùng ngoại cảnh thảy đều hư ngụy, giả tạm; duy chỉ có Phật Thừa là chân thật; nên gọi là “Thông Ngụy Ðạt Chân Hiệu.”

7) Ðiều Ngự Trượng Phu. “Ðiều” là điều hòa; “ngự” là ngự xa, tức là đánh xe. Thời xưa, người ta dùng ngựa để kéo xe thì cần phải có người làm “ngự xa,” tức là cầm roi điều khiển ngựa; còn ở thời đại này thì lái xe hơi cũng có thể gọi là “ngự xa” vậy!

“Ðiều Ngự Trượng Phu” ở đây là “điều ngự” cái gì? Ðó là “điều ngự” chúng sanh trong sáu đường, khiến cho họ đạt đến Phật Quả Bồ Ðề, chứng được quả vị Phật. Vì thế, đây là một bậc đại trượng phu vĩ đại nhất, có khả năng điều khiển và dẫn dắt chúng sanh, đưa chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử, vượt thoát sáu nẻo luân hồi!

“Ðiều Ngự Trượng Phu” cũng có một danh hiệu gọi là “Nhiếp Hóa Tùng Ðạo Hiệu”; nghĩa là hóa độ chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh đều y theo con đường tu Ðạo chân chánh mà tu hành.

8) Thiên Nhân Sư. Ðức Phật là sư biểu, là bậc Thầy của Trời và Người, là tấm gương của Tam Giới. “Thiên Nhân Sư” cũng có một danh hiệu gọi là “Ứng Cơ Thuyết Pháp Hiệu”; nghĩa là ứng theo căn cơ trình độ và nhân duyên của chúng sanh mà thuyết pháp.

9) Phật. “Phật” là tên gọi tắt từ chữ “Phật Ðà Da” của tiếng Phạn; bởi người Trung Hoa thích đơn giản nên chỉ gọi là “Phật.”

“Phật” cũng có một tên hiệu gọi là “Tam Giác Viên Minh Hiệu.” “Tam giác” là ba loại giác ngộ—Tự Giác, Giác Tha và Giác Hạnh Viên Mãn. Bởi “tam giác viên, vạn đức bị”—ba giác trọn vẹn, muôn đức đủ đầy—cho nên được thành Phật.

10) Thế Tôn. Bất luận là tại thế gian hay xuất thế gian, Phật đều được tôn thờ, kính trọng, nên gọi là “Thế Tôn.”

“Thế Tôn” cũng có một danh hiệu đặc biệt gọi là “Tam Giới Ðộc Tôn Hiệu.” “Tam Giới” tức là ba cõi Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. “Ðộc Tôn” có nghĩa là chỉ có Phật mới là bậc tôn quý nhất. Do đó, lúc Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vừa giáng sanh ở cõi thế thì liền một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, mà nói rằng:

 

“Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn!”

(Trên trời dưới trời, chỉ có Ta—Phật—là tôn quý!)

Ngoài ra, từ ngữ “Thế Tôn” còn bao hàm sáu nghĩa:

1) Tự tại. (Phật là bậc tự tại nhất.)

2) Xí thạnh (lớn mạnh, rừng rực như lửa).

3) Ðoan nghiêm (vừa đoan chánh vừa trang nghiêm).

4) Danh xưng phổ văn (khắp nơi đều nghe danh). Ai ai cũng được nghe được biết đến danh xưng của Phật.

5) Kiết tường (tốt lành, may mắn).

6) Tôn quý.

Trên đây là phần giải thích đại cương mười tôn hiệu của Phật.

Vậy, trong vô lượng vô biên kiếp về trước, có một vị Phật xuất thế danh hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai; và“Ðức Phật này thọ sáu vạn kiếp.”

Kinh văn:

Khi chưa xuất gia, Ngài là vua một nước nhỏ và kết bạn với vua của một nước lân cận; rồi cùng nhau thực hành Thập Thiện, nhiêu ích chúng sanh. Nhân dân trong nước lân cận đó đa số tạo nhiều việc ác, hai vua bèn bàn tính, quảng thiết phương tiện.

Một vua phát nguyện: “Tôi nguyện sớm thành Phật Ðạo để độ hết những kẻ ấy, không sót một ai.”

Một vua thì nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ, làm cho họ được an vui, cho đến đắc quả Bồ Ðề, thì tôi nguyện chưa thành Phật.”

Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịnh Tự Ðại Vương rằng: “Vị vua phát nguyện sớm thành Phật đó chính là Ðức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai; còn vị vua phát nguyện vĩnh viễn cứu độ chúng sanh tội khổ, chưa chịu thành Phật đó, chính là Bồ Tát Ðịa Tạng vậy.”

Lược giảng:

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: Khi chưa xuất gia, Ngài—Ðức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai—là vua một nước nhỏ và kết bạn với vua của một nước lân cận; rồi cùng nhau thực hành Thập Thiện, nhiêu ích chúng sanh. Mọi người cùng nhau tu tập mười thứ thiện nghiệp—không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không tham lam, không sân hận, không si mê, không nói lời ác, không nói gian dối, không nói thêu dệt và không nói đâm thọc—để mưu cầu lợi ích cho chúng sanh.

Nhân dân trong nước lân cận đó đa số tạo nhiều việc ác, hai vua bèn bàn tính, quảng thiết phương tiện. Trong nước lân cận đó, hầu hết dân chúng đều quen làm điều ác; vì thế hai vị vua nọ phải cùng nhau bàn bạc, tìm cách cứu giúp những người dân ấy.

Một vua phát nguyện: “Tôi nguyện sớm thành Phật Ðạo. Vị vua này muốn chóng được thành Phật để làm gì? Ðể độ hết những kẻ ấy, không sót một ai. Tôi nguyện sẽ khiến cho tất cả các chúng sanh làm điều ác đều được độ thoát, quyết chẳng bỏ sót một người nào!

Một vua thì nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ, làm cho họ được an vui, cho đến đắc quả Bồ Ðề, chứng thành Phật Ðạo, thì tôi nguyện chưa thành Phật. Tôi nhất định phải độ xong tất cả các chúng sanh này thì mới thành Phật. Nếu còn một chúng sanh duy nhất chưa thành Phật, thì tôi vẫn chưa thể thành Phật được!

Ðức Phật bảo Ðịnh Tự Ðại Vương Bồ Tát rằng: “Vị vua phát nguyện sớm thành Phật ấy, chính là Ðức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai; còn vị vua phát nguyện vĩnh viễn cứu độ chúng sanh tội khổ, chưa chịu thành Phật đó—nếu còn một chúng sanh chưa thành Phật thì ông ta chưa chịu thành Phật—chính là Bồ Tát Ðịa Tạng vậy!”Và đó cũng chính là thệ nguyện mà Ðịa Tạng Vương Bồ Tát đã từng lập trong đời quá khứ.

Kinh văn:

Lại trong đời quá khứ, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về trước, có Ðức Phật ra đời hiệu là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai. Ðức Phật đó thọ bốn mươi kiếp.

Trong thời Tượng Pháp, có một vị La Hán phước đức cứu độ chúng sanh. Nhân đi tuần tự giáo hóa, vị La Hán gặp một người nữ tên là Quang Mục thiết bày vật thực cúng dường.

Vị La Hán bèn hỏi: “Ngươi muốn cầu điều chi?”

Quang Mục thưa rằng: “Ngày thân mẫu con mất, con có làm việc phước thiện hầu cứu vớt bà; song chưa rõ thân mẫu con thác sanh về đâu!”

Vị La Hán cảm thương, bèn nhập Ðịnh quan sát, thì thấy bà mẹ của Quang Mục bị đọa vào đường ác, vô cùng khổ sở. Vị La Hán hỏi Quang Mục rằng: “Thân mẫu ngươi lúc sanh tiền đã làm những hạnh nghiệp gì, mà nay phải ở trong đường ác, chịu cực khổ như thế?”

Quang Mục thưa rằng: “Tánh thân mẫu con chỉ thích ăn cá, ba ba, cùng trứng và con của các loài ấy; hoặc chiên hoặc nấu, tha hồ mà ăn; nếu tính đếm số sanh mạng đó thì đến hơn nghìn muôn. Thưa Tôn Giả từ mẫn, con phải làm thế nào để giải cứu mẫu thân?”

Vị La Hán xót thương bèn lập phương tiện khuyên Quang Mục rằng: “Ngươi phải chí thành niệm Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai và vẽ đắp hình tượng, thì kẻ còn cùng người mất đều được phước báo!”

Lược giảng:

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni kể tiếp: Lại trong đời quá khứ, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về trước, có Ðức Phật ra đời hiệu là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai. Ðức Phật đó thọ bốn mươi kiếp.

Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai này có thọ mạng lâu dài đến bốn mươi kiếp, và sau khi Ngài nhập Niết Bàn,trong thời Tượng Pháp, có một vị La Hán phước đức cứu độ chúng sanh, giúp chúng sanh vun trồng cội phước. Nhân đi tuần tự giáo hóa, vị La Hán gặp một người nữ tên là Quang Mục thiết bày vật thực cúng dường.

Sau khi thọ nhận các thức ăn chay do Quang Mục cúng dường, vị La Hán bèn hỏi: “Ngươi muốn cầu điều chi?Ngươi đã cúng dường cho Ta, thế ngươi có việc gì muốn cầu xin ở Ta chăng? Ngươi muốn được những lợi lạc gì nào?

Quang Mục thưa rằng: “Ngày thân mẫu con mất, con có làm việc phước thiện hầu cứu vớt bà; song chưa rõ thân mẫu con thác sanh về đâu. Vào ngày mẹ con qua đời, con có làm những việc phước thiện và hồi hướng công đức cho mẹ con, mong rằng mẹ con nhờ đó mà được cứu độ. Nay con chỉ muốn biết một điều—chẳng hay mẹ con hiện đang đầu thai vào chốn nào, đường nào, cõi giới nào?

Vị La Hán cảm thương, bèn nhập Ðịnh quan sát, thì thấy bà mẹ của Quang Mục bị đọa vào đường ác, vô cùng khổ sở. Sau khi ngồi Thiền, nhập Ðịnh quán xét và trông thấy bà mẹ của Quang Mục bị đọa lạc vào đường ác, chịu vô vàn khổ sở, vị La Hán hỏi Quang Mục rằng: “Thân mẫu ngươi lúc sanh tiền đã làm những hạnh nghiệp gì mà nay phải ở trong đường ác, chịu cực khổ như thế? Mẹ của ngươi khi còn sống đã làm những việc gì để đến nỗi bây giờ phải đọa địa ngục, chịu tội báo cực kỳ thống khổ như thế?

Quang Mục thưa rằng: “Tánh thân mẫu con chỉ thích ăn cá, ba ba, cùng trứng và con của các loài ấy; hoặc chiên hoặc nấu, tha hồ mà ăn. Khi còn sống, bà mẹ của Quang Mục rất thích ăn cá và ba ba (rùa nhỏ). Không những thế, bà còn ăn rất nhiều trứng và con của chúng nữa. Lớp thì đem chiên, lớp thì luộc nấu, bà ta chỉ biết ăn cho thỏa thích, không kiêng dè gì cả. Có món ấy là bà cắm cúi ăn ngay, quên hết mọi thứ trên đời, kể cả sanh mạng!

Nếu tính đếm số sanh mạng đó thì đến hơn nghìn muôn. Thưa Tôn Giả từ mẫn, con phải làm thế nào để giải cứu mẫu thân?” Quang Mục nói tiếp: “Tính ra thì thân mẫu con đã ăn cả trăm ngàn vạn ức sanh mạng của loài cá và ba ba. Thế nên, Tôn Giả ơi! Xin Ngài hãy rũ lòng từ bi, thương xót mẫu thân con, mà bảo cho con biết phải làm những gì để cứu giúp người.”

Vị La Hán xót thương bèn lập phương tiện khuyên Quang Mục rằng: “Ngươi phải chí thành niệm Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai.” Bấy giờ, sau khi nghe Quang Mục nói xong, vị La Hán động lòng từ bi, bèn tùy nghi bày cho Quang Mục phương chước để cứu mẹ; Ngài dạy rằng: “Nếu ngươi có thể đem lòng thành khẩn, thiết tha xưng niệm “Nam Mô Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai,” và vẽ đắp hình tượng của Ðức Phật này, thì kẻ còn cùng người mất đều được phước báo! Như thế, chẳng những thân mẫu ngươi mà ngay cả chính bản thân ngươi cũng được sự lợi ích. Bất luận là người còn sống hay kẻ đã qua đời, tất cả đều được lợi lạc.

Kinh văn:

Quang Mục nghe xong, liền từ bỏ những thứ yêu thích, rồi tô vẽ tượng Phật để thờ cúng, và lại đem lòng cung kính, khóc thương chiêm lễ. Bỗng đến giữa khuya thì mộng thấy thân Phật, sắc vàng sáng chói, như núi Tu Di, phóng ánh sáng lớn mà bảo với Quang Mục rằng: “Chẳng bao lâu nữa thân mẫu ngươi sẽ sanh vào nhà của ngươi, khi vừa biết đói lạnh thì liền biết nói.”

Sau đó, người nữ tỳ trong nhà sanh một bé trai, chưa đầy ba ngày đã biết nói. Ðứa bé đó buồn khóc mà nói với Quang Mục rằng:

“Nghiệp duyên sanh tử, quả báo tự thọ. Tôi là mẹ của người, lâu nay ở chốn tối tăm. Từ khi vĩnh biệt người, tôi phải đọa vào đại địa ngục. Nhờ phước lực của người nên mới được thọ sanh làm kẻ hạ tiện, lại thêm thọ mạng ngắn ngủi, đến năm mười ba tuổi lại phải đọa vào ác đạo. Người có phương kế gì khiến tôi được thoát miễn chăng?”

Lược giảng:

Quang Mục nghe xong, liền từ bỏ những thứ yêu thích. Sau khi nghe vị La Hán dạy là phải cung kính cúng dường Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, Quang Mục bèn xả bỏ và đem bán tất cả những đồ vật mà mình hằng yêu chuộng.

Tương tự như Thánh Nữ Bà La Môn trong phẩm trước, Quang Mục cũng đem bố thí hoặc bán đi những đồ vật quý giá nhất, những thứ mà mình không đành từ bỏ nhất; rồi tô vẽ tượng Phật để thờ cúng. Sau đó, Quang Mục dùng giấy hoặc các loại hàng gấm, nhiễu, tơ lụa để vẽ tượng Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai; rồi lại sắm sửa hoa quả, nhang đèn, cùng đồ ăn thức uống, y phục, mền chiếu… và mang đến cúng dường tượng vẽ của Ðức Phật đó.

Và lại đem lòng cung kính, khóc thương chiêm lễ. Vì biết thân mẫu mình đã bị đọa vào đường ác, phải chịu các nỗi thống khổ của chốn ác đạo, Quang Mục xót xa sầu thảm, cứ thành khẩn ngắm nhìn tượng Phật rồi chốc chốc lại cung kính cúi đầu đảnh lễ.

Bỗng đến giữa khuya thì mộng thấy thân Phật, sắc vàng sáng chói, như núi Tu Di. Ngay hôm đó, vào lúc đã quá nửa đêm, Quang Mục bỗng nhiên mộng thấy Ðức Phật hiện thân, hào quang tỏa rạng. Thật ra, cảnh giới này chỉ giống như nằm mộng thôi, chứ không phải là mộng thực sự. Sở dĩ như thế là vì Quang Mục thành khẩn đến cực điểm nên mới có được cảnh giới “cảm ứng đạo giao,” tức là từ trong nhà mà trông thấy được thân Phật sáng chói; song le, vì nếu nói rằng Quang Mục trông thấy thân Phật thì e có vẻ kỳ bí quá, cho nên trong Kinh chép là “mộng thấy” (mộng kiến) vậy!

Bấy giờ, Quang Mục trông thấy Ðức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục, thân hình cao lớn tựa núi Tu Di, sắc vàng rực rỡ,phóng ánh sáng lớn mà bảo với Quang Mục rằng: “Chẳng bao lâu nữa thân mẫu ngươi sẽ sanh vào nhà của ngươi, khi vừa biết đói lạnh thì liền biết nói.” Ðức Phật đó báo cho Quang Mục biết rằng bà mẹ của cô ta sắp được đầu thai vào nhà của cô, và đứa bé ấy có đặc điểm là sau khi chào đời, vừa mới cảm giác được sự đói khát ấm lạnh là nó có thể nói chuyện được rồi; vì vậy cô ta hãy chờ xem.

Sau đó, người nữ tỳ trong nhà sanh một bé trai.” Những kẻ đi làm công cho người ta, thì đàn ông gọi là “nô,” còn đàn bà gọi là “tỳ.” “Nô tỳ” là hạng đầy tớ thấp hèn, phải chịu sự sai khiến của chủ—chủ bảo đâu nghe đó, sai chi làm nấy.

Bấy giờ, chẳng bao lâu sau thì quả nhiên trong nhà của Quang Mục có người nữ tỳ sanh được một bé trai, chưa đầy ba ngày đã biết nói. Thường thì trẻ con cũng phải ba hoặc bốn tuổi mới biết chuyện trò rành mạch, nhưng đứa bé này ra đời chưa đến ba hôm là nói được rồi. Ðứa bé đó nói những gì?

Ðứa bé cúi đầu buồn khóc. Ðứa bé đó hướng về phía có thờ tượng Phật mà cúi đầu làm lễ, rồi bật khóc mà nói với Quang Mục rằng: “Nghiệp duyên sanh tử, quả báo tự thọ. Quả báo của nghiệp duyên trong vòng sanh tử thì phải tự mình nhận lãnh. Bởi nhân duyên đã gây tạo ác nghiệp trong vòng sanh tử, sau này đến khi thọ quả báo, thì phải chính bản thân mình thọ chịu. Nếu quả báo tốt lành thì chính mình thọ hưởng, mà quả báo xấu ác thì cũng tự mình gánh chịu; hễ mình làm thì mình chịu, chứ chẳng phải ai khác.

Ðứa bé ấy nói tiếp: Tôi là mẹ của người, lâu nay ở chốn tối tăm, chẳng thấy được ánh sáng của mặt trời, mặt trăng hoặc các vì tinh tú. Ðã lâu lắm rồi, tôi không nhìn thấy gì cả ngoài một màu đen tối âm u. Từ khi vĩnh biệt người—từ khi tôi chết cho đến nay—tôi phải đọa vào đại địa ngục. Nhờ phước lực của người nên mới được thọ sanh. May thay, người đã vì tôi mà tạo phước đức. Chính nhờ nương vào phước lực do người đã gây tạo, nên nay tôi được thoát khỏi những nỗi khổ sở của chốn địa ngục, nhưng còn phải đầu thai làm kẻ hạ tiện, lại thêm thọ mạng ngắn ngủi. Bà mẹ của Quang Mục tuy được thọ sanh làm người, song phải làm con của kẻ nô tỳ hèn hạ. Làm kẻ hạ tiện thì cũng đành đi, nhưng lại còn bị “yểu thọ” nữa (“yểu thọ” tức là chết yểu, chết sớm, mạng sống ngắn ngủi).

Ðến năm mười ba tuổi lại phải đọa vào ác đạo. Người có phương kế gì khiến tôi được thoát miễn chăng?” Ðứa bé ấy nói với Quang Mục rằng: “Phen này tôi chỉ sống được tới mười ba tuổi mà thôi; sau đó tôi lại bị đọa lạc trong đường ác nữa. Vậy chẳng hay người có cách gì giúp cho tôi được giải thoát chăng? Xin người hãy mau mau tìm giải pháp, giúp tôi thoát khỏi bao thống khổ của chốn ác đạo!”

Kinh văn:

Quang Mục nghe nói, biết là mẹ mình chẳng sai, nên nghẹn ngào thương khóc mà nói với con kẻ nữ tỳ rằng: “Ðã là mẹ tôi, tất biết bổn tội; do làm hạnh nghiệp gì mà phải đọa vào ác đạo như thế?”

Con kẻ nữ tỳ đáp rằng: “Do hai nghiệp là sát hại và hủy mạ mà phải thọ báo. Nếu không nhờ phước đức của người cứu nạn cho, thời cứ theo những nghiệp đó thì tôi vẫn chưa được giải thoát.”

Quang Mục hỏi rằng: “Những việc tội báo trong địa ngục ra sao?”

Con kẻ nữ tỳ đáp rằng: “Những việc tội khổ nói ra càng bất nhẫn, suốt cả trăm ngàn năm cũng khó mà kể cho hết được!”

Lược giảng:

Quang Mục nghe nói, biết là mẹ mình chẳng sai. Sau khi nghe đứa bé, con của người nữ tỳ nói như thế, thì Quang Mục biết chắc rằng đó là thân mẫu của mình đầu thai, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, nên nghẹn ngào thương khóc.“Nghẹn ngào” là trạng thái như có cái gì chặn ở cổ họng, khiến mình thốt không ra lời, khóc chẳng thành tiếng, khí quản bị tắc nghẽn, tưởng chừng như sắp đứt hơi vậy. Bấy giờ, muốn khóc thì không khóc được, mà có muốn cười thì cũng chẳng cười nổi; cũng không biết là khóc hay cười nữa! Ðó gọi là “nghẹn ngào,” bởi trong lòng cảm thấy đau đớn, xót xa đến cực điểm nên mới như thế.

Lúc ấy, Quang Mục nghẹn ngào mà nói với con kẻ nữ tỳ rằng: “Ðã là mẹ tôi, tất biết bổn tội. Người là mẹ tôi, ắt phải tự biết mình trước kia trót gây tạo những nghiệp tội gì; thế thì chẳng hay người do làm hạnh nghiệp gì mà phải đọa vào ác đạo như thế?”

Con kẻ nữ tỳ đáp rằng: “Do hai nghiệp là sát hại và hủy mạ mà phải thọ báo.” Nghiệp thứ nhất mà bà mẹ của Quang Mục gây ra là “sát hại.” Bà đã từng giết cá, giết ba ba để ăn thịt, lại còn ăn rất nhiều trứng và con của chúng nữa; hoặc chiên hoặc nấu, bà chỉ biết ăn cho thỏa thích mà thôi. Nghiệp giết hại sanh vật thì rất nặng nề, nghiêm trọng. Ngoài ra, bà còn tạo nghiệp “hủy mạ,” tức là chê bai mắng nhiếc nữa. Bà mẹ của Quang Mục trước kia thường hủy báng Tam Bảo, mắng chửi chúng sanh. Cả hai nghiệp tội này đều rất nghiêm trọng, do đó bà phải gánh chịu quả báo khổ sở đến dường ấy.

Nếu không nhờ phước đức của người cứu nạn cho, thời cứ theo những nghiệp đó thì tôi vẫn chưa được giải thoát.” Giả sử không được Quang Mục làm việc công đức để cứu độ cho, thì căn cứ theo những tội lỗi mà bà đã tạo, lẽ ra đến nay bà vẫn chưa được thoát khỏi khổ nạn.

Nghe đứa bé nói như vậy, Quang Mục hỏi rằng: “Những việc tội báo trong địa ngục ra sao? Chẳng hay việc tạo tội và thọ báo ở địa ngục thì như thế nào? Người có thể kể cho tôi biết được chăng?

Con kẻ nữ tỳ đáp rằng: “Những việc tội khổ nói ra càng bất nhẫn; suốt cả trăm ngàn năm cũng khó mà kể cho hết được.” Ðứa bé ấy trả lời Quang Mục rằng: “Việc gây tạo tội lỗi và gánh chịu quả báo thì tôi chẳng thể nào kể lại được—tôi không nhẫn tâm nói ra. Dù trải qua một thời gian dài đến cả trăm ngàn vạn năm, cũng không thể nào thuật cho hết những nỗi thống khổ này!”

Trong các quý vị ở đây, có nhiều người chỉ ngồi nghe giảng kinh thôi mà đã thở vắn than dài là nhọc nhằn mệt mỏi, song le, đến khi bị đọa địa ngục thì quý vị có biết sẽ như thế nào không? Lúc đang thọ báo ở địa ngục, dầu cho quý vị có hết lời nài nỉ van xin: “Xin hãy thả tôi ra, tôi không muốn ở đây chịu tội nữa!”, thì cũng chẳng thể nào xoay chuyển được tình thế—quý vị không tài nào trốn thoát được cả! Nếu tội báo của quý vị chưa hết, mà quý vị lại không muốn ở địa ngục chịu tội, thì tất nhiên là không thể được!

Do đó, chúng ta sống ở đời, nếu có những lúc phải chịu đựng đôi chút khổ sở, thì hãy tự nhủ rằng: “Không sao, so với cái khổ ở địa ngục thì vẫn đỡ hơn rất nhiều! Cái khổ ở địa ngục còn ghê gớm, đáng sợ hơn nữa!” Nếu nghĩ được như vậy thì ở đâu quý vị cũng thấy vui vẻ thanh thản, chẳng có nơi nào là khổ sở cả; thậm chí cho dù hai chân nhức nhối vì ngồi Thiền, quý vị cũng không lấy đó làm khổ!

Quý vị thử nghĩ xem, nếu quý vị đọa địa ngục và bị loài quỷ dùng chĩa nhọn đâm bừa vào mình mẩy rồi thẳng tay ném vào vạc dầu đang sôi sùng sục, thì như thế là khổ hay không khổ? Nếu lúc bấy giờ quý vị khẩn khoản van xin: “Chao ôi! Tôi chịu không nổi nữa rồi, xin các ngài làm ơn làm phước đừng bỏ tôi vào vạc dầu nữa mà!”, thì loài quỷ cũng ngoảnh mặt làm ngơ, chẳng thèm nghe gì cả, bởi ở địa ngục thì không hề có chuyện “thông cảm” lôi thôi! Quý vị đau khổ, than thân khóc phận, oán trời trách đất ư? Ái chà, thế thì bọn quỷ ở địa ngục sẽ ném quý vị vào chảo dầu để “chiên” sống thêm lần nữa, khiến cho quý vị lại càng đau đớn khổ sở nhiều thêm!

 

Kinh văn:

Quang Mục nghe xong, rơi lệ gào khóc, bạch cùng giữa hư không rằng: “Nguyện cho thân mẫu con được vĩnh viễn thoát khỏi chốn địa ngục, và khi mãn mười ba tuổi thì không còn trọng tội, cũng chẳng phải trải qua các ác đạo nữa.

Cúi xin thập phương chư Phật từ bi thương xót, lắng nghe con nay vì mẹ mà phát lời thệ nguyện rộng lớn rằng:

Như thân mẫu con được vĩnh viễn lìa khỏi chốn Tam Ðồ và hàng hạ tiện, cho tới cùng kiếp không phải thọ thân người nữ nữa, con xin đối trước tượng của Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai mà phát lời nguyện rằng: Kể từ nay cho đến trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, hễ nơi nào có thế giới còn có các chúng sanh chịu tội khổ nơi địa ngục cùng Tam Ác Ðạo, con nguyện sẽ cứu vớt và làm cho tất cả đều xa lìa các nẻo ác Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh… Những kẻ mắc tội báo như thế thành Phật cả rồi, thì sau đó con mới thành Chánh Giác.”

Lược giảng:

Quang Mục nghe xong, rơi lệ gào khóc, bạch cùng giữa hư không rằng: “Nguyện cho thân mẫu con được vĩnh viễn thoát khỏi chốn địa ngục. Con chỉ cầu xin cho mẹ con được đời đời kiếp kiếp xa lìa mọi thống khổ của chốn địa ngục!

Bà mẹ của Quang Mục rất may mắn có được một người con hiếu thảo như thế; bằng không, e rằng đến nay bà vẫn còn trầm luân ở chốn địa ngục, chứ chưa dễ gì thoát ra được. Bởi vì bà giết hại quá nhiều sinh vật, mắng chửi người ta cũng không phải ít, nên mới bị đọa địa ngục; nhưng người con gái hiếu thảo của bà đã lập nguyện, cầu xin cho bà được khỏi phải chịu những nỗi thống khổ của chốn địa ngục, và khi mãn mười ba tuổi, thọ mạng trong đời này của bà hết rồi, thì không còn trọng tội và cũng chẳng phải trải qua các ác đạo nữa. Quang Mục lại cầu mong rằng sau khi thọ mạng mười ba tuổi trong đời này đã mãn, thì bao nhiêu tội lỗi nghiêm trọng của bà cũng đều được tiêu tan và bà không còn phải đọa vào đường ác nữa.

Cúi xin thập phương chư Phật từ bi thương xót, lắng nghe con nay vì mẹ mà phát lời thệ nguyện rộng lớn rằng … Con xin cung thỉnh chư Phật cùng chư Bồ Tát ở khắp mười phương đồng đến để chứng giám cho con là Quang Mục, nay xin vì thân mẫu mà lập nguyện rằng:

 

“Như thân mẫu con được vĩnh viễn lìa khỏi chốn Tam Ðồ—thoát ly hẳn bao nỗi thống khổ của đao đồ, huyết đồ và hỏa đồ—và hàng hạ tiện, cho tới cùng kiếp không phải thọ thân người nữ nữa—chẳng những thân mẫu con không còn phải làm con của kẻ tôi đòi hèn hạ mà đời đời kiếp kiếp cũng không phải mang thân nữ nữa; thì con xin đối trước tượng của Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai mà phát lời nguyện rằng: Kể từ nay cho đến trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, hễ nơi nào có thế giới còn có các chúng sanh chịu tội khổ nơi địa ngục cùng Tam Ác Ðạo— Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh—thì con nguyện sẽ cứu vớt và làm cho tất cả đều xa lìa các nẻo ác Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh…, thảy đều không còn phải chịu đựng bao thống khổ trong ba đường ác cùng những nỗi khổ khác nữa.Những kẻ mắc tội báo như thế thành Phật cả rồi, sau đó con mới thành Chánh Giác.”

Quý vị phải biết rằng: Nếu không nhờ có Ðịa Tạng Vương Bồ Tát lập lời thệ nguyện rộng lớn như thế, thì chắc chắn hiện giờ chúng ta vẫn còn đang chịu khổ báo trong các cõi giới của Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh. Chúng ta sở dĩ ngày nay được làm người đều là nhờ nguyện lực của lời đại nguyện mà Ðịa Tạng Vương Bồ Tát đã lập từ vô lượng kiếp này. Chính nguyện lực của Ngài đã cứu chúng ta thoát khỏi chốn địa ngục, thoát khỏi đường ngạ quỷ, và thoát khỏi thân súc sanh. Tuy nhiên, chúng ta hiện nay vì chưa chứng đắc Túc Mạng Thông, cũng chưa có được Thiên Nhãn Thông, nên không thể biết được trước kia mình đã từng thọ hưởng ân huệ, đức từ bi, cùng bao nhiêu điều tốt lành và lợi lạc do Ðịa Tạng Vương Bồ Tát ban bố. Nếu không nhờ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát sớm lập đại nguyện này, thì chúng ta đã phải gặp rất nhiều nguy hiểm. Do đó, trong từng giây từng khắc, lúc nào chúng ta cũng phải nhớ đến việc báo đáp ân đức sâu dày của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát!

Kinh văn:

Phát thệ nguyện xong, liền nghe rõ tiếng của Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai dạy rằng: “Này Quang Mục! Ngươi quả có lòng đại từ mẫn, khéo vì mẹ mà phát lời đại nguyện như thế!

Ta quan sát thấy mẹ ngươi lúc mãn mười ba tuổi, khi bỏ báo thân này rồi, sẽ thọ sanh làm người Phạm Chí sống lâu trăm tuổi; sau khi hết báo thân ấy, sẽ được sanh về cõi nước Vô Ưu, thọ mạng lâu dài đến không thể tính kể; và sau rốt sẽ thành tựu Phật Quả, quảng độ nhân thiên số nhiều như Hằng Hà sa.”

Ðức Phật bảo Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát rằng: “Vị La Hán phước lành độ Quang Mục thuở đó, chính là Vô Tận Ý Bồ Tát; thân mẫu của Quang Mục là Giải Thoát Bồ Tát; còn Quang Mục là Ðịa Tạng Bồ Tát đây vậy!

Lược giảng:

Sau khi Quang Mục phát thệ nguyện xong, liền nghe rõ tiếng của Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai dạy rằng… “Nghe rõ” (cụ văn) tức là nghe rõ mồn một, rõ ràng từng tiếng; chứ không phải là chỉ nghe loáng thoáng, tiếng được tiếng mất, hoặc mơ mơ hồ hồ như mộng mị.

Như vậy, lúc vừa nói dứt lời nguyện thì Quang Mục nghe rõ ràng tiếng của Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai vọng xuống rằng: “Này Quang Mục! Ngươi quả có lòng đại từ mẫn. Ngươi thật là vô cùng từ bi, khéo vì mẹ mà phát lời đại nguyện như thế! Hạnh nguyện của ngươi quả thật đã khiến cho Ta rất hoan hỷ. Ai đã chỉ dạy, chỉ bảo ngươi làm như thế? Ngươi đã có thể vì trọn hiếu đạo với mẹ mà lập thệ nguyện lớn lao dường ấy; Ta thật chưa từng nghe qua! Từ trước đến nay chưa có chúng sanh nào dám lập đại nguyện rộng lớn đến thế! Nay ngươi vì thiết tha muốn cứu mẫu thân mà phát lời đại nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh, đây là điều rất hiếm có, là chuyện rất khó gặp! Thật là đáng quý lắm thay! Ngươi quả là một người con chí hiếu!

Khen ngợi Quang Mục như thế xong, Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai lại nói tiếp rằng: Ta—dùng Phật Nhãn—quan sát thấy mẹ ngươi lúc mãn mười ba tuổi, khi bỏ báo thân này rồi, sẽ thọ sanh làm người Phạm Chí. Nay nhờ ngươi đã lập đại nguyện như thế, cho nên khi thọ mạng mười ba năm của mẹ ngươi trong đời này đã hết, thì đời sau bà sẽ được đầu thai làm người Phạm Chí; và chẳng những thế mà còn được sống lâu trăm tuổi. “Phạm Chí” chính là Bà La Môn giáo, cũng gọi là “Tịnh Duệ” (tức là hậu duệ, dòng dõi của người tu hạnh thanh tịnh).

Sau khi hết báo thân ấy, sẽ được sanh về cõi nước Vô Ưu, thọ mạng lâu dài đến không thể tính kể. Ngoài ra, Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai còn cho biết rằng sau khi bỏ thân Phạm Chí, thân mẫu của Quang Mục sẽ được vãng sanh về Cực Lạc Thế Giới, sống lâu đến không thể tính đếm được là bao nhiêu kiếp; và sau rốt sẽ thành tựu Phật Quả, quảng độ nhân thiên số nhiều như Hằng Hà sa. Số người ở cõi nhân gian và số thiên nhân ở cõi trời được vị Phật đó độ thoát thì nhiều như cát sông Hằng vậy.

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát rằng: “Vị La Hán phước lành độ Quang Mục thuở đó—vị La Hán ở thời Tượng Pháp của Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, đã vì lòng hiếu thảo của Quang Mục mà quán sát tìm xem mẹ cô ta đọa lạc ở đâu—chính là Vô Tận Ý Bồ Tát; còn thân mẫu của Quang Mục là Giải Thoát Bồ Tát; và Quang Mục là Ðịa Tạng Bồ Tát đây vậy.

Kinh văn:

Trong nhiều kiếp lâu xa ở quá khứ, Bồ Tát đã có lòng từ mẫn, lập Hằng Hà sa thệ nguyện quảng độ chúng sanh như thế.

Trong đời vị lai, như có kẻ nam người nữ nào không làm lành mà làm ác, cho đến kẻ chẳng tin nhân quả, kẻ tà dâm vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt ác khẩu, kẻ hủy báng Ðại Thừa; những chúng sanh có các nghiệp như thế tất phải đọa vào đường ác.

Lược giảng:

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy tiếp: Trong nhiều kiếp lâu xa ở quá khứ, Bồ Tát Ðịa Tạng Vương đã có lòng từ mẫn, lập Hằng Hà sa thệ nguyện quảng độ chúng sanh như thế. Như đã nói ở trên, vị Ðịa Tạng Vương Bồ Tát này có lòng từ bi rất bao la, vì thương xót khắp cả chúng sanh mà Ngài phát nguyện giáo hóa và độ thoát muôn loài. Thệ nguyện mà Ngài đã từng lập thì vô lượng vô biên, nhiều như cát sông Hằng, chứ chẳng phải chỉ có những lời được ghi chép trong Kinh mà thôi đâu!

Trong đời vị lai, như có kẻ nam người nữ nào không làm lành mà làm ác, cho đến kẻ chẳng tin nhân quả. Mọi người đều nên “việc ác không làm, chỉ làm việc thiện”; thế nhưng có những chúng sanh lại “việc thiện không làm, chỉ làm việc ác”! Thậm chí có giảng về luật nhân quả cho họ nghe, họ cũng chẳng chịu tin.

Vừa rồi, tôi đến trường đại học University of California thuyết Pháp; sau buổi giảng thì có một sinh viên người Trung Hoa chờ tôi ngoài giảng đường và hỏi: “Thưa Thầy, chẳng hay Phật Giáo có tin Nhân Quả chăng?”

Tôi đáp: “Có chứ! Về Nhân Quả, vấn đề không phải là tin hay không tin, bởi đó đúng là điều có thật! Anh tin, thì cũng có luật Nhân Quả; mà anh không tin, thì luật Nhân Quả cũng vẫn tồn tại như thường! Nếu anh không tin Nhân Quả, thì bây giờ tôi sẽ đưa ra một thí dụ hết sức đơn giản để anh tự nghiệm lấy. Thí dụ, anh tát người nào đó một bạt tai, thì người ấy nhất định sẽ tát lại anh một cái để trả đũa, có đúng không? Anh đánh người ta, đó là “nhân”; còn người ta đánh anh lại tức là “hậu quả” của việc anh làm. Anh đánh người ta thì người ta cũng đánh anh vậy! Thế nào, anh có tin lý lẽ này không?”

Anh sinh viên ấy nói rằng như thế thì anh ta không còn gì để nói nữa! Ban đầu anh ta có rất nhiều lý lẽ, muốn đến để tranh cãi biện luận, cho rằng không có Nhân Quả. Sau khi nghe tôi nói như thế, có lẽ anh ta sợ bị người khác đánh, hoặc là anh chẳng muốn đánh người khác hay sao thì tôi không rõ; tuy nhiên, anh ta đã bắt đầu tin là có Nhân Quả.

Chúng ta vốn không nên đánh đập ai cả, do đó nếu quý vị gây gỗ đánh đập người khác, tức là quý vị đã gieo cái “nhân” không tốt rồi. Bởi quý vị đánh người nên mới bị người đánh, cho nên việc quý vị bị người ta quay lại đánh trả chính là cái “quả” của quý vị vậy. Nếu quý vị không tử tế với mọi người, thì mọi người cũng không tử tế với quý vị; nếu quý vị cư xử tốt với mọi người, thì mọi người cũng cư xử tốt với quý vị—đó là luật Nhân Quả. Cho nên,

“Trồng thiện nhân thì kết thiện quả,

Gieo ác nhân tất gặp ác báo.”

Ngoài ra, nếu quý vị kết giao toàn bạn xấu, không đàng hoàng, thì sớm muộn gì quý vị cũng bị ảnh hưởng mà trở thành người xấu. Trái lại, nếu quý vị toàn giao du với bạn tốt, thì cho dù bản thân quý vị là người xấu, dần dần quý vị cũng trở thành người tốt. Cho nên, mọi chuyện đều là Nhân Quả, quý vị chớ truy tìm đâu xa cho uổng công! Ðừng vội lên án người ta là không tốt với mình, mà trước hết hãy tự vấn lương tâm, xét xem mình có tốt với người ta hay không! Ðối với việc gì chúng ta cũng nên “hồi quang phản chiếu, phản cầu chư kỷ,” soi xét lại chính mình; chứ đừng như cái máy chụp hình, cứ mải miết chụp hình người khác, còn bản thân mình hình thù ra sao thì lại hoàn toàn mù tịt, không hay không biết!

Kẻ tà dâm vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt ác khẩu. Chúng ta phải luôn luôn nhớ là đừng bao giờ phạm tội “lưỡng thiệt, ác khẩu” (nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác). Thế nào là “lưỡng thiệt”? Thí dụ, với người này thì quý vị dùng “bộ mặt” này, với người khác thì quý vị lại giở “bộ mặt” khác—gặp Giáp thì nói xấu Ất; gặp Ất thì chê bai Giáp—như thế là quý vị phạm tội “lưỡng thiệt, ác khẩu.” Hoặc là quý vị dèm pha, dùng lời nói để gây hiềm khích, chia rẽ nội bộ, phá hoại sự đoàn kết của một tập thể đến nỗi tổ chức phải tan rã—đó cũng là phạm tội “lưỡng thiệt, ác khẩu” vậy.

Về tội “lưỡng thiệt, ác khẩu,” thì nghiêm trọng nhất là khoản “phá hòa hợp Tăng.” Thế nào gọi là “phá hòa hợp Tăng”? Người cư sĩ tại gia thì không được rao nói lỗi của người xuất gia—những vị Tỳ Kheo và Sa Di đã thọ giới Sa Di hoặc giới Bồ Tát. Bởi quý vị học Phật Pháp là học từ những người xuất gia, từ các vị Tỳ Kheo và Sa Di này; cho nên, quý vị không được học Phật Pháp rồi sau đó lại đi phá hoại Phật Pháp, gây sự xích mích trong đoàn thể Tăng Già. Nếu quý vị dùng lời nói làm cho Tăng Già trở nên bất hòa, tức là quý vị đã “phá hòa hợp Tăng,” và mắc tội “lưỡng thiệt, ác khẩu” vậy.

Trong Phật Giáo, “phá hòa hợp Tăng” là một trong năm tội nghịch nghiêm trọng nhất (Ngũ Nghịch Tội); và đó là:

1) Giết cha mình (thí phụ);

2) Giết mẹ mình (thí mẫu);

3) Giết bậc đã chứng quả A La Hán (thí A La Hán);

4) Làm mất sự hòa hợp giữa chư Tăng với nhau (phá hòa hợp Tăng). Ví dụ, với vị Sư này thì quý vị kể lể những khuyết điểm, sai sót của vị Sư kia, rằng vị ấy có lỗi với vị này như thế nào…; còn với vị Sư kia thì quý vị lại mách những nhược điểm, thiếu sót của vị Sư này, rằng vị này có lỗi với vị kia như thế nào, đố kỵ chướng ngại ra sao… khiến cho giữa những người xuất gia không còn sự hòa thuận, chư Tăng không thể cùng ở chung (cộng trụ) với nhau được nữa, và rốt cuộc là Tăng đoàn bị chia rẽ, phân tán—như thế là quý vị đã “phá hòa hợp Tăng” vậy.

5) Làm thân Phật chảy máu (xuất Phật thân huyết). Ðây là tội nghịch thứ năm. Hiện tại Ðức Phật không còn tại thế, song nếu quý vị thiêu đốt tranh ảnh có hình Phật, hoặc phá hủy tượng Phật, thì cũng chẳng khác nào “làm thân Phật chảy máu” vậy!

Trên đây là nói tổng quát về những tội bao hàm trong tội “lưỡng thiệt, ác khẩu.” Mỗi người trong chúng ta đều phải đặc biệt chú ý, chớ bao giờ phạm những tội ấy; bằng không, quý vị sẽ bị đọa vào địa ngục, vĩnh viễn không đời nào thoát ra được!

Kẻ hủy báng Ðại Thừa. Có nhiều người cho rằng không có Ðại Thừa, mà chỉ có văn tự Ba-Lỵ (Pali). Hôm qua có một kẻ ngông cuồng đã cật vấn: “Kinh điển của các người là dịch ra từ tiếng Pali chứ gì?” Anh ta, ngay cả chữ Pali là như thế nào còn không biết, mà lại hỏi có phải dịch ra từ tiếng Pali hay không! Ðó chẳng qua là anh ta muốn tỏ ra ta đây cũng là người hiểu biết thông thạo—hạng người như thế thật rất đáng thương!

Những chúng sanh có các nghiệp như thế tất phải đọa vào đường ác. Những chúng sanh tạo ác nghiệp như thế, nhất định sẽ bị đọa vào ba đường dữ—thật là nguy hiểm biết bao!

Kinh văn:

Nếu gặp được hàng Thiện Tri Thức khuyên bảo khiến trong chừng khảy móng tay liền quy y Ðịa Tạng Bồ Tát, những chúng sanh đó lập tức được thoát khỏi báo khổ của Tam Ác Ðạo.

Nếu có thể tâm chí quy kính và chiêm lễ tán thán, cùng dùng hương, hoa, y phục, các thứ trân bảo, hoặc đồ ăn thức uống, mà cúng phụng, thì trong trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, thường được ở cõi Trời, hưởng thọ sự vui thù thắng vi diệu. Nếu phước trời hết, phải sanh xuống nhân gian, thì vẫn còn trăm ngàn kiếp thường làm bậc Ðế Vương, lại nhớ được túc mạng cùng cội ngành nhân quả.

Này Ðịnh Tự Ðại Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng có bất khả tư nghị đại oai thần lực, lợi ích rộng lớn cho chúng sanh như thế. Các Ông, những bậc Bồ Tát, phải ghi nhớ Kinh này hầu tuyên truyền, lưu bố rộng ra.”

Lược giảng:

Nếu gặp được hàng Thiện Tri Thức. Chữ “nếu” này thuộc loại bất định từ; do đó, “nếu gặp” có nghĩa là có thể gặp được, mà cũng có thể là không gặp được. Bây giờ Ðức Phật đặt giả thiết là các chúng sanh tạo ác nghiệp đó “gặp được” bậc Thiện Tri Thức.

Thế nào gọi là “thiện tri thức”? “Tri” là nghe danh (văn danh); “thức” là thấy mặt (kiến diện). “Nghe danh” tức là nghe thấy, biết đến tên tuổi, tiếng tăm; “thấy mặt” tức là biết rõ mặt mày, hình tướng. Vậy, “tri thức” có nghĩa là nhận thức, hiểu biết một cách rõ ràng, tường tận.

Về chữ “thiện,” thông thường thì được xem là đồng nghĩa với chữ “hảo” (tốt), song ở đây thì được dùng theo nghĩa của chữ “năng” (khả năng). Bậc “Thiện Tri Thức” là người có khả năng nhận thức; nhận thức điều gì? Họ có thể nhận thức được những khổ não trong Tam Giới, biết rõ rằng “Tam Giới không yên, như ngôi nhà lửa.”

Có ba hạng Thiện Tri Thức; đó là Ngoại Hộ Thiện Tri Thức, Ðồng Hành Thiện Tri Thức và Giáo Thọ Thiện Tri Thức.

1) Ngoại Hộ Thiện Tri Thức. Ðây là những vị Thiện Tri Thức từ ngoài đến để hộ Pháp, tự nguyện giúp đỡ người xuất gia xử lý công việc trong chùa. Họ tận tụy hộ trì Tam Bảo, hộ trì Thường Trụ, và hoan hỷ cúng dường mọi vật phẩm mà Thường Trụ cần đến. Nói tóm lại, Ngoại Hộ Thiện Tri Thức là những người ở ngoài nhưng tự nguyện đến chùa để hộ trì người tu Ðạo.

2) Ðồng Hành Thiện Tri Thức. Thế nào gọi là “đồng hành”? Ðó là cùng nhau tu hành. Hàng Thiện Tri Thức này thường cùng nhau tu tập, và động viên khuyến khích lẫn nhau. Khuyến khích lẫn nhau bằng cách nào?

Bằng cách “đả đồng tham” (đánh bạn cùng tu)—nghĩa là chúng ta cùng tu tập với nhau thì quý vị giúp tôi, chỉ cho tôi rõ những lỗi lầm của tôi; và tôi giúp quý vị, chỉ cho quý vị rõ những sai sót của chính quý vị. Bởi con người thường có khuynh hướng không tự thấy được cái sai của chính mình, nếu nhờ người khác tìm giùm thì dễ dàng hơn! Thói thường,

 

“Ðương cục giả mê, ngoại cục giả thanh.”

(Người trong cuộc thì mê, kẻ ngoại cuộc thì sáng.)

Ở cương vị của người trong cuộc, lắm lúc chúng ta bối rối, không thấy được mình đúng hay sai; trong khi đó, người ngoại cuộc thì do đứng ngoài, không dính líu đến sự việc, nên cái nhìn có sáng suốt hơn. Vì vậy, mọi người thường có thể hỗ tương thấy rõ khuyết điểm của nhau hơn—quý vị thấy rõ được cái sai của tôi, tôi thấy rõ được cái sai của quý vị.

Tuy nhiên, “đả đồng tham” có nghĩa là quý vị nêu ra những sai sót của tôi để tôi biết mà sửa đổi, tôi kể lại những sai phạm của quý vị để quý vị rõ mà sửa mình; chứ không phải là quý vị phát hiện cái sai của tôi thì tôi liền đùng đùng nổi giận, tôi khám phá ra tội lỗi của quý vị thì quý vị lại gây gỗ lôi thôi! Chúng ta chẳng những không được nóng nảy giận dữ, mà còn phải bình tâm tĩnh trí nghiên cứu lỗi lầm của nhau để bổ khuyết cho nhau nữa. Ðó gọi là hỗ tương khích lệ, sách tấn lẫn nhau, giúp nhau tinh tấn tu tập, cùng nhau trau giồi rèn luyện.

Trong Ngũ Kinh, sách Ðại Học có câu:

“Như thiết như tha, như trác như ma.”

(Như gọt như giũa, như trau như chuốt.)

Như người thợ ngọc tỉ mỉ dùng dao đẽo gọt từng chút một, sau đó phải dùng giũa để mài đi chuốt lại thật công phu, miếng ngọc thô sơ mới trở thành một món trang sức bằng ngọc xinh đẹp, quý giá; hai người bạn cùng nhau “đả đồng tham,” nghĩa lý cũng tương tự như thế. Chúng ta phải hỗ tương “trau giồi mài giũa”—bạn tìm khuyết điểm của tôi, tôi tìm khuyết điểm của bạn, để rồi cùng giúp nhau sửa đổi. Người chân chánh tu hành nhất định phải nuôi dưỡng một tinh thần như thế. Ðó là nói về bậc Ðồng Hành Thiện Tri Thức.

3) Giáo Thọ Thiện Tri Thức. Những người giảng Kinh thuyết Pháp, truyền bá và hoằng dương Phật Giáo, giáo hóa chúng sanh… được gọi là bậc Giáo Thọ Thiện Tri Thức.

Khuyên bảo khiến trong chừng khảy móng tay liền quy y Ðịa Tạng Bồ Tát. “Một khảy móng tay” là một khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi. Còn một “chớp mắt” thì sao? Mắt nhấp nháy một cái thì gọi là một “nháy mắt” hoặc một “chớp mắt.” Cứ hai mươi niệm là một “nháy mắt”; hai mươi “nháy mắt” là một sát-na.

Trong Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã có nói rằng cứ trong một sát-na thì có chín trăm lần sanh diệt; có nghĩa là trong khoảng thời gian là một sát-na thì cái niệm suy nghĩ của chúng ta trải qua chín trăm lần sanh diệt. Một “khảy móng tay” thì lâu bằng sáu mươi bốn sát-na; tuy nhiên, “trong chừng khảy móng tay” ở đây chỉ ngụ ý là khoảng thời gian rất ngắn ngủi, chỉ trong một thoáng chốc mà thôi.

Câu “khuyên bảo khiến trong chừng khảy móng tay” có hai cách giải thích:

-cách thứ nhất, là chúng sanh đó tin tưởng và quy y với Ðịa Tạng Vương Bồ Tát được một khoảnh khắc ngắn ngủi chừng khảy móng tay, thì liền thăng thiên, hưởng sự an lạc vĩnh viễn.

-cách thứ hai, là nhờ được sự khuyên bảo của bậc Thiện Tri Thức nên chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi chừng khảy móng tay, chúng sanh đó liền mau mắn sanh tín tâm, quy y Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.

“Quy y Ðịa Tạng Bồ Tát” tức là cung kính, đem cả thân tâm tánh mạng của mình giao phó cho Ðịa Tạng Vương Bồ Tát; xem Ðịa Tạng Vương Bồ Tát như một người cha từ bi của mình, còn mình thì như con cái của Ngài.

Như vậy, giả sử những chúng sanh quen làm điều ác, chẳng tin nhân quả, lại còn tà dâm vọng ngữ, lưỡng thiệt ác khẩu, hủy báng Ðại Thừa, chịu vâng theo lời khuyên của bậc Thiện Tri Thức mà quy y với Ðiạ Tạng Vương Bồ-tát; thìnhững chúng sanh đó lập tức được thoát khỏi khổ báo của Tam Ác Ðạo. Chỉ trong chốc lát ngắn ngủi chừng khảy móng tay, bao nhiêu khổ báo ở ba đường ác trong thời gian dài đến vô lượng vô biên của những chúng sanh đó đều tiêu tan.

Lại nữa, những chúng sanh đó nếu có thể tâm chí quy kính—chuyên nhất kỳ tâm, chí thành quy kính, và chiêm lễ tán thán, ngắm nhìn đảnh lễ, tấm tắc ngợi khen, cùng dùng hương, hoa, y phục, các thứ trân bảo, báu vật quý giá, hoặc đồ ăn thức uống, mà cúng phụng Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, thì trong trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, những chúng sanh đó thường được ở cõi Trời, hưởng thọ sự vui thù thắng vi diệu. Người xuất gia có lệ là trước khi thọ thực đều phải “thượng cúng,” tức là dâng cúng thức ăn cho chư Phật trước.

Nếu phước trời hết, phải sanh xuống nhân gian, thì vẫn còn trăm ngàn kiếp thường làm bậc Ðế Vương. Sau khi hưởng hết phước trời của mình, những chúng sanh đó sẽ sanh xuống cõi người trở lại, và thường được làm Hoàng Ðế trong cả trăm ngàn vạn kiếp.

Lại nhớ được túc mạng cùng cội ngành nhân quả. Hơn thế nữa, họ vẫn nhớ được những sự việc trong các đời trước của mình, và biết rành rẽ cội ngành nhân quả trả vay.

Này Ðịnh Tự Ðại Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng có bất khả tư nghị đại oai thần lực—đại oai đức không thể nghĩ bàn, đại thần thông không thể nghĩ bàn—lợi ích rộng lớn cho chúng sanh như thế. Các Ông, những bậc Bồ Tát, phải ghi nhớ Kinh này hầu tuyên truyền, lưu bố rộng ra. Tất cả các Ông đều nên phát tâm truyền bá rộng rãi bộ Kinh Ðịa Tạng này.

Hiện nay chúng ta được nghe đến tên “Kinh Ðịa Tạng,” được nghe giảng Kinh Ðịa Tạng, đều là nhờ chư Bồ Tát dùng oai lực mà truyền bá rộng khắp; nếu không nhờ chư Bồ Tát âm thầm tuyên truyền lưu bố, chúng ta chưa chắc đã gặp được Pháp Bảo thậm thâm, vi diệu như thế này!

Kinh văn:

Ngài Ðịnh Tự Tại Vương bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Xin Ngài chớ lo nghĩ! Ngàn muôn ức Bồ Tát Ma Ha Tát chúng con đều có thể nương oai thần của Phật mà tuyên diễn rộng rãi Kinh này nơi cõi Diêm Phù Ðề để lợi ích cho chúng sanh.”

Ðịnh Tự Ðại Vương Bồ Tát bạch với Ðức Thế Tôn xong, bèn cung kính chắp tay làm lễ mà lui ra.

Lược giảng:

Ngài Ðịnh Tự Tại Vương bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Xin Ngài chớ lo nghĩ! Xin Ðức Thế Tôn đừng lo nghĩ về vấn đề này. Ngàn muôn ức Bồ Tát Ma Ha Tát chúng con đều có thể nương oai thần của Phật mà tuyên diễn rộng rãi Kinh này nơi cõi Diêm Phù Ðề. Chúng con sẽ đi khắp cõi Nam Diêm Phù Ðề mà tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi bộ Kinh này, để lợi ích cho chúng sanh.”

Ðịnh Tự Ðại Vương Bồ Tát bạch với Ðức Thế Tôn xong, bèn cung kính chắp tay làm lễ mà lui ra—Ngài cung cung kính kính cúi đầu đảnh lễ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni rồi lui ra ngồi sang một bên

Kinh văn:

Bấy giờ, bốn vị Thiên Vương cai quản bốn phương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay đã phát đại nguyện như thế, vì sao đến nay vẫn độ chưa hết, lại còn phát quảng đại thệ nguyện nữa? Cúi xin Ðức Thế Tôn dạy cho chúng con rõ.”

Lược giảng:

Bấy giờ, lúc Bồ Tát Ðịnh Tự Tại Vương cung kính lễ Phật và lui ra ngồi sang một bên rồi, thì bốn vị Thiên Vương coi bốn phương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy,

Bốn vị Thiên Vương của bốn phương đều cư ngụ ở lưng chừng núi Tu Di; cung điện có thành trì bằng thất bảo—vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não—bao quanh. Thành cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, chung quanh có bảy lớp hàng cây, bảy lớp lưới giăng (la võng), bảy lớp câu-lơn bao bọc, vô cùng trang nghiêm.

“Tứ Phương Thiên Vương” tức là bốn vị Thiên Vương trấn giữ ở bốn phương—Ðông Phương Thiên Vương, Nam Phương Thiên Vương, Bắc Phương Thiên Vương và Tây Phương Thiên Vương.

1) Ðông Phương Thiên Vương. Theo tiếng Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Ðề Ða La Tra; Trung Hoa dịch là Trì Quốc. “Trì” tức là “trì hộ”—vị Thiên Vương này gìn giữ và bảo hộ quốc gia cùng tất cả chúng sanh. Ðông Phương Thiên Vương có chín mươi chín người con trai và đều được gọi là Nhân Ðà La.

Trong các quỷ thần do Ðông Phương Thiên Vương thống lãnh, thì có một số là Hương Thần (thần thích hương thơm), và một số là Xú Thần (thần hôi thúi). Hương Thần là ai? Ðó chính là Càn Thát Bà trong Bát Bộ Quỷ Thần, trên đầu có một cái sừng. Càn Thát Bà rất thích ngửi hương thơm, hễ đánh hơi thấy nơi nào có hương thơm là liền chạy về hướng đó. Ngọc Ðế, tức là Nhân Ðà La Vương, có một loại hương gọi là hương chiên-đàn; khi nào đốt hương này lên, Càn Thát Bà ngửi được thì liền đến và khảy đàn tấu nhạc cho Ngọc Ðế nghe. Bởi Ngọc Ðế vẫn còn ở trong Lục Dục Thiên, chưa ra khỏi cảnh giới Ngũ Trần, cho nên còn thích nghe Càn Thát Bà tấu nhạc. Vậy, Càn Thát Bà là Nhạc Thần của Ngọc Ðế, mà cũng chính là Hương Thần.

Trì Quốc Thiên Vương còn thống lãnh cả Xú Thần (thần hôi thúi). Xú Thần này có tên là Phú Ðơn Na, đi đến đâu là hôi hám thối tha đến đó. Ðây cũng chính là vị Phú Ðơn Na được nhắc tới trong Chú Lăng Nghiêm. Bản lãnh cùng thần thông của Xú Thần chính là phóng ra mùi hôi, và hễ đến nơi nào thì nơi ấy liền có mùi hôi thối nồng nặc!

2) Nam Phương Thiên Vương. Theo tiếng Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Tỳ Lưu Ly; Trung Hoa dịch là Tăng Trưởng—vị Thiên Vương này có thể làm cho thiện căn của chúng sanh được tăng trưởng. Nam Phương Thiên Vương cũng có chín mươi chín người con trai, và cũng đều gọi là Nhân Ðà La. Bốn vị Thiên Vương này, mỗi vị đều có chín mươi chín (99) người con trai, và đều được gọi là Nhân Ðà La; vì vậy, cả ba trăm chín mươi sáu (396) vị đều có cùng một tên gọi giống nhau.

Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương cũng cai quản, thống lãnh các quỷ thần; trong đó có loài Viễn Quỷ (quỷ xa) và Cận Quỷ (quỷ gần). Vì sao gọi là Viễn Quỷ? Vì loài quỷ này thường tránh xa loài người. Vì sao gọi là Cận Quỷ? Vì loài quỷ này thích làm tổ tiên của người ta, hễ đến nhà người nào thì làm tổ tiên của người đó, cho nên gọi là Cận Quỷ.

Viễn Quỷ có tên gọi là gì? Trong Chú Lăng Nghiêm, Viễn Quỷ được gọi là Cưu Bàn Trà. Ðúng ra, những chữ này phải đọc là “Cưu Bàn Ðồ,” nhưng hiện nay những người tụng Chú đều đọc là “Cưu Bàn Trà”—có lẽ Cưu Bàn Ðồ cũng biết mình bị đổi tên rồi, do vậy quý vị có đọc là “Cưu Bàn Trà” thì cũng được linh ứng như nhau; cho nên, tên gọi thì không có gì là nhất định cả.

Tại sao “Cưu Bàn Ðồ” lại bị đọc nhầm thành “Cưu Bàn Trà”? Vì người ta không nhìn cho rõ chữ “đồ”! Chữ “đồ” và chữ “trà” chỉ khác nhau ở một nét ngang, và hai chữ này cũng chỉ hơn kém nhau một nét ngang ấy mà thôi—phần dưới của chữ “trà” là chữ “mộc,” còn phần dưới của chữ “đồ” là chữ “mạt.” Bởi chỉ sai khác nhau một nét ngang nhỏ, nên người ta lơ đễnh mà lầm lẫn chữ “đồ” ra chữ “trà.” Thế nhưng, khi nghe ai gọi “Cưu Bàn Trà” thì Cưu Bàn Ðồ cũng biết đó là người ta gọi mình.

Hình dạng của Cưu Bàn Trà như thế nào? Cưu Bàn Trà hình thù trông như cái vại hay cái chum lớn tròn tròn, không có đầu, cũng chẳng có chân. Vì loài quỷ này thường tránh xa, không thích ở gần con người, nên gọi là Viễn Quỷ.

Loài Cận Quỷ được gọi là Bệ Lệ Ða, và cũng có được nhắc đến trong Chú Lăng Nghiêm. Ở Trung Quốc, mỗi gia đình đều có thờ cúng bài vị tổ tiên, và loài quỷ này thường lân la tìm đến làm tổ tiên cho từng nhà. Bởi loài quỷ này thích tiếp xúc, thân cận loài người nên được gọi là “Cận Quỷ.”

3) Tây Phương Thiên Vương. Theo tiếng Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Tỳ Lưu Bạc Xoa; Trung Hoa dịch là Tạp Ngữ, ngụ ý rằng vị Thiên Vương này biết nói đủ các thứ tiếng, thông thạo tất cả ngôn ngữ của mọi quốc gia.

Tây Phương Thiên Vương còn được gọi là Quảng Mục Thiên Vương và cũng thống lãnh một số quỷ; đó là loài quỷ nào? Chính là loài quỷ mà trong Chú Lăng Nghiêm gọi là Tỳ Xá Ðồ và Trung Hoa dịch là Ðạm Tinh Khí Quỷ, tức là loài quỷ chuyên ăn tinh khí. “Tỳ Xá Ðồ” còn được dịch là Ðiên Cuồng Quỷ, bởi loài quỷ này có thể làm cho người ta sanh bệnh điên cuồng, bị phát điên phát cuồng. Loài quỷ này lại chuyên ăn tinh khí của con người—chúng đến những nơi xảy ra hành vi tánh dục nam nữ để ăn thứ tinh khí bất tịnh ấy. Một khi quỷ Tỳ Xá Ðồ khiến cho người nào mắc bệnh, thì người đó không còn hay biết gì cả, phải vào bệnh viện tâm thần để điều trị. Tuy nhiên, những người bị loài quỷ này hãm hại, dù có ở bệnh viện tâm thần thì cũng không dễ gì bình phục được.

Tây Phương Thiên Vương còn thống lãnh cả rồng độc (độc long). Loài rồng có nọc độc này, hễ mắt chúng vừa nhác thấy người nào thì người đó liền bị trúng độc của chúng ngay tức khắc. Chẳng những thế, nếu quý vị nghe tiếng của chúng, ngửi thấy mùi của chúng hoặc tiếp xúc, đụng chạm vào chúng, thì cũng đều bị trúng độc cả.

Như vậy, Tây Phương Thiên Vương thống lãnh, cai quản hai loại quỷ thần là quỷ Tỳ Xá Ðồ và loài rồng độc.

4) Bắc Phương Thiên Vương. Trong bốn vị Thiên Vương thì Bắc Phương Thiên Vương là thủ lãnh; cả ba vị Thiên Vương kia đều phải chịu sự chỉ huy của vị thủ lãnh này.

Bắc Phương Thiên Vương cũng cai quản quỷ thần; đó là loài quỷ thần nào? Ðó là hai loài quỷ—quỷ Dạ Xoa và quỷ La Sát. Dạ Xoa có rất nhiều loại—có Dạ Xoa đi dưới đất, có Dạ Xoa du hành trên không trung, có Dạ Xoa ở trên trời… Dạ Xoa còn được gọi là quỷ Tiệp Tật, tức là loài quỷ chạy nhanh, bởi chúng có thể chạy với một tốc độ xấp xỉ tốc độ của ánh sáng. Quỷ La Sát còn được gọi là quỷ Khả Bố (đáng sợ), vì chúng rất tàn ác và có hình thù trông rất đáng sợ.

Bốn vị Thiên Vương cai quản các quỷ thần như thế ở thế gian, và đến lúc cần họp hội nghị thì họ đều quy tụ ở chỗ của Bắc Phương Thiên Vương. Bắc Phương Thiên Vương có tên là Tỳ Sa Môn, Trung Hoa dịch là Ða Văn, vì vị Thiên Vương này có kiến thức rất uyên thâm, hiểu nhiều biết rộng. Cũng chính vì thế mà ba vị Thiên Vương kia đều răm rắp tuân theo hiệu lệnh cùng mọi sự sai bảo của Bắc Phương Thiên Vương.

Lúc bấy giờ, bốn vị Thiên Vương, vốn đang cùng đại chúng nghe Kinh Ðịa Tạng, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay đã phát đại nguyện như thế, vì sao đến nay vẫn độ chưa hết, lại còn phát quảng đại thệ nguyện nữa? Vì sao đến nay Bồ Tát Ðịa Tạng vẫn còn đi độ chúng sanh, vẫn chưa hoàn thành viên mãn hạnh nguyện của mình, lại còn phát lời thệ nguyện rộng lớn nữa? Cúi xin Ðức Thế Tôn dạy cho chúng con rõ. Chúng con kính xin Ðức Phật hãy vì tất cả đại chúng trong Pháp Hội hiện nay mà giảng rõ điều này.

 Kinh văn:

Ðức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: “Lành thay! Lành thay! Ta nay sẽ vì sự lợi ích rộng lớn của các Ông cùng các chúng trời, người ở hiện tại và vị lai, mà nói việc Bồ Tát Ðịa Tạng ở Ta Bà Thế Giới, trong đường sanh tử nơi cõi Diêm Phù Ðề, từ mẫn cứu vớt, phương tiện độ thoát tất cả chúng sanh tội khổ.”

Bốn vị Thiên Vương bạch rằng: “Vâng! Bạch Ðức Thế Tôn, chúng con xin muốn được nghe.”

Lược giảng:

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo bốn vị Thiên Vương rằng: “Lành thay! Lành thay! Các Ông thật là khéo hỏi. Các Ông thỉnh vấn điều này là rất phải! Tốt lắm thay! Ta nay sẽ vì sự lợi ích rộng lớn của các Ông cùng các chúng trời, người ở hiện tại và vị lai, mà nói việc Bồ Tát Ðịa Tạng ở Ta Bà Thế Giới, trong đường sanh tử nơi cõi Diêm Phù Ðề, từ mẫn cứu vớt, phương tiện độ thoát tất cả chúng sanh tội khổ. Bây giờ, vì muốn đem lại lợi ích rộng lớn cho các Ông cũng như cho tất cả chúng sanh ở cõi trời, cõi người, luôn cả các chúng sanh ở địa ngục, ở cõi ngạ quỷ hoặc cõi súc sanh trong đời hiện tại cùng vị lai, Ta sẽ nói về những sự phương tiện của Bồ Tát Ðịa Tạng. Ở thế giới Ta Bà, trong cõi Nam Diêm Phù Ðề, các chúng sanh cứ luẩn quẩn trong sáu nẻo luân hồi sanh tử—sanh ra rồi chết đi, chết đi rồi lại sanh ra. Nay Ta sẽ nói về việc Ðịa Tạng Bồ Tát từ bi thương xót tất cả chúng sanh, khéo dùng vô số phương tiện để cứu độ hết thảy những chúng sanh có tội và đương thọ khổ.

Bốn vị Thiên Vương nghe Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói như thế liền đồng thanh bạch rằng: “Vâng! Bạch Ðức Thế Tôn, chúng con xin muốn được nghe. Chúng con rất vui mừng, rất hoan hỷ được lắng nghe Ðức Thế Tôn khai thị.

Kinh văn:

Ðức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: “Bồ Tát Ðịa Tạng từ bao kiếp lâu xa cho đến nay, độ thoát chúng sanh vẫn còn chưa mãn nguyện. Bồ Tát từ bi thương xót những chúng sanh tội khổ ở đời này, lại quán thấy vô lượng kiếp về sau, nghiệp nhân cứ lây dây chẳng dứt; vì lẽ đó nên lại phát trọng nguyện. Bồ Tát ở Ta Bà Thế Giới, trong cõi Diêm Phù Ðề, dùng trăm ngàn vạn ức phương tiện để giáo hóa.

Lược giảng:

Ðức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: “Bồ Tát Ðịa Tạng từ bao kiếp lâu xa cho đến nay, độ thoát chúng sanh vẫn còn chưa mãn nguyện. Bồ Tát Ðịa Tạng đã từng độ thoát rất nhiều chúng sanh trong Lục Ðạo; song, cho đến nay hạnh nguyện của Bồ Tát vẫn chưa được hoàn tất trọn vẹn. Bồ Tát từ bi thương xót những chúng sanh tội khổ ở đời này trong Ta Bà Thế Giới, lại quán thấy vô lượng kiếp về sau, nghiệp nhân cứ lây dây chẳng dứt.

“Nghiệp nhân cứ lây dây chẳng dứt” nghĩa là liên miên bất tận—dây dưa như loài cỏ dại, cứ sống dai dẳng năm này qua năm khác mà mỗi năm mọc mỗi cao hơn, um tùm hơn. Ðây là tiêu biểu cho nghiệp lực của chúng ta—mỗi đời tích lũy mỗi nhiều thêm, nặng nề hơn, chẳng khác nào cỏ dại, “cứ lây dây chẳng dứt”!

Vì lẽ đó nên lại phát trọng nguyện. Ðức Phật dạy tiếp: “Chính vì thế mà Bồ Tát Ðịa Tạng lại lập thệ nguyện trọng đại.Bồ Tát ở Ta Bà Thế Giới, trong cõi Diêm Phù Ðề, dùng trăm ngàn vạn ức phương tiện để giáo hóa, độ thoát tất cả chúng sanh.

Bây giờ chúng ta nói thêm về vấn đề “nghiệp nhân cứ lây dây chẳng dứt” vừa đề cập ở trên. Nếu đời này chúng ta tạo một ít nghiệp, rồi đời sau lại tạo một ít nghiệp nữa, và cứ như thế thì nghiệp tội của chúng ta càng ngày càng gia tăng, càng ngày càng chồng chất thêm lên—nghiệp tội như thế gọi là “lây dây chẳng dứt.” Nghiệp tội của chúng ta cứ mỗi ngày một thâm trọng, thì đức hạnh của chúng ta sẽ càng ngày càng kém cỏi. Người thiếu đức hạnh hoặc không có đức hạnh, thì không thể thành Phật được, và nếu nghiệp chướng nặng nề thì sẽ phải làm quỷ.

Thế thì, phải như thế nào mới được làm Phật? Muốn làm Phật thì chúng ta cần phải “vạn đức viên dung,” tất cả đức hạnh đều viên mãn, tròn đầy.

Vì sao phải làm quỷ? Vì ác nghiệp đầy dẫy, vì bị muôn vạn ác nghiệp giăng mắc bủa vây, cho nên phải làm quỷ. Có một số người do vô tri vô thức, không hiểu biết, nên mới nói rằng không có quỷ; chứ thật ra, người nào mà nói như thế thì chẳng bằng ngay cả một đứa con nít! Bởi với con nít, nếu quý vị giảng giải cho chúng nghe về đạo lý này, thì chúng đều tin tưởng lãnh hội.

Những người không tin có quỷ thần thường nói: “Hoàn toàn không có quỷ!” Thế nhưng, nếu không có quỷ, thì cũng không có Phật! Làm quỷ hay làm Phật, tất cả chỉ do ở một chữ “chuyển”—chuyển được thì thành Phật, chuyển không được thì thành quỷ, mà con người thì ở giữa mức chuyển được và chuyển không được đó. Do vậy, nếu nghiệp chướng bình thường, vừa phải, thì làm người; nếu ác nghiệp sâu dày thì làm quỷ—đây là điều không có gì phải nghi ngờ nữa cả!

Kinh văn:

Này bốn ông Thiên Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng nếu gặp kẻ sát sanh, thì dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải chết yểu.

Nếu gặp kẻ trộm cắp, thì dạy rõ quả báo bần cùng khổ sở.

Nếu gặp kẻ tà dâm, thì dạy rõ quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.

Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thì dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.

Lược giảng:

Ðức Phật dạy tiếp: “Này bốn ông Thiên Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng nếu gặp kẻ sát sanh thì dạy rõ quả báo. Khi gặp những kẻ có tánh hiếu sát, thường hay giết hại sinh vật, Bồ Tát Ðịa Tạng liền nói cho họ biết về quả báo của sự sát sanh. Quả báo ấy như thế nào? Ðó là họ sẽ vì ương lụy đời trước mà phải chết yểu.

Nếu đời này quý vị thích sát sanh, thì đời sau quý vị sẽ phải chịu rất nhiều bệnh tật đau đớn; chẳng những ốm đau khổ sở mà còn bị chết sớm, thọ mạng ngắn ngủi nữa. Vì sao thọ mạng ngắn ngủi? Ðó là vì đời trước đã trót phạm tội sát sanh! Quý vị tước đoạt mạng sống của người khác, khiến họ không được sống lâu hơn, cho nên tánh mạng của chính quý vị rồi cũng không được lâu dài—quý vị phải nhận lãnh quả báo đoản mệnh, chết yểu.

Nếu gặp kẻ trộm cắp, thì dạy rõ quả báo bần cùng khổ sở. Thế nào gọi là “trộm”? Lấy đồ đạc của kẻ khác một cách lén lút, chẳng để cho ai trông thấy; tức là “trộm.” Thế nào gọi là “cắp”? Như người ta vốn không có ý muốn cho quý vị món đồ đó, nhưng quý vị thừa lúc họ không chú ý bèn đoạt lấy—đó là “cắp.”

Nếu gặp những kẻ thường hay ăn cắp ăn trộm đồ đạc của người khác, thì Ðịa Tạng Vương Bồ Tát sẽ nói gì? Ngài sẽ giảng cho họ nghe về quả báo bần cùng khổ sở: “Bây giờ anh ăn trộm tiền bạc của người ta, khiến cho người ta bị lâm vào cảnh túng thiếu, thì đời sau, chính bản thân anh cũng sẽ bị nghèo nàn cơ cực.”

Quý vị thử nhìn xem, trên thế gian này có biết bao người nghèo khổ, thiếu trước hụt sau, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm; đó chẳng qua là quả báo do đời trước họ đã phạm tội trộm cướp mà ra. Bởi trước kia đã trộm cắp đồ đạc hoặc cướp đoạt tiền bạc của người khác, cho nên đời này họ phải sống trong sự bần cùng nghèo khổ! Càng trộm càng nghèo; càng sợ không có thì lại càng không có! Như vậy, đối với hạng người đầu trộm đuôi cướp này, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát giảng về quả báo “bần cùng khổ sở”—bần cùng, túng thiếu là khổ sở nhất!

Nếu gặp kẻ tà dâm… Sinh hoạt tính dục giữa vợ chồng chính thức thì không phải là tà dâm. “Tà dâm” là chỉ những kẻ ngoại hôn, không phải là vợ chồng chính thức, song chỉ vì tham đắm khoái lạc nhất thời mà phạm tà hạnh; và như thế là sai lầm, là tội lỗi. Cho dù là vợ chồng chính thức, nếu có thể giảm bớt sự hành dâm thì vẫn tốt hơn! Chớ cho rằng là vợ chồng thì không xem là phạm tội mà sanh ra tùy tiện; cần phải biết rằng thứ hành vi này làm cho con người bị ngu si, mê muội. Càng mê đắm sắc dục thì con người càng trở nên ngu si một cách tệ hại hơn, và cũng không còn hào quang nữa. Vì sao có hào quang? Do không có thứ hành vi tính dục này cho nên có được trí huệ chân chánh, sáng suốt và có hào quang.

Nếu phạm tà hạnh, có hành vi tính dục nam nữ không chánh đáng—thì đó là phạm Giới. Ðối với hạng người này thì Ðịa Tạng Vương Bồ Tát giảng những gì? Thì dạy rõ quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương. Ngài nói cho họ biết về quả báo phải đầu thai làm cầm thú.

Chim se sẻ là một giống chim rất dâm dật, song chưa bằng chim bồ câu. Bồ câu là loài chim dâm dật nhất, mỗi tháng nó ấp ra một tổ bồ câu con đông lúc nhúc. Thông thường, các loài chim khi giao hợp thì con trống ở trên, duy có bồ câu thì con mái lại ở trên; bởi tính dục của chim mái mạnh, cho nên mỗi tháng nó ấp nở rất nhiều bồ câu con. Còn chim uyên ương thì sao? Uyên ương thì quá nặng về mặt tình cảm, quá giàu tình cảm—chim trống và chim mái dù đáp xuống đất hay bay trên trời cũng đều đi cặp với nhau, từng đôi từng đôi không lúc nào rời nhau. Loài chim tuy nói là tự do song vẫn chỉ là một hạng súc sanh, chẳng có gì tốt đẹp cả.

Vậy, những kẻ hành tà dâm thì đời sau sẽ phải đầu thai làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.

Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thì dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau. “Nói lời thô ác” (ác khẩu) tức là mắng chửi người khác; trong đó bao gồm cả nói đôi chiều (lưỡng thiệt), nói thêu dệt (ỷ ngữ), nói dối (vọng ngôn). Nếu Ðịa Tạng Vương Bồ Tát gặp những kẻ độc ác, hay mắng chửi người khác, thì Ngài giảng về quả báo đời sau bà con thân thuộc của họ luôn xích mích, bất hòa.

Kinh văn:

Nếu gặp kẻ hay hủy báng, thì dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.

Nếu gặp kẻ nóng giận, thì dạy rõ quả báo xấu xí, bệnh hoạn, tàn tật.

Nếu gặp kẻ bỏn xẻn, thì dạy rõ quả báo sở cầu không toại nguyện.

Nếu gặp kẻ ăn uống vô độ, thì dạy rõ quả báo đói, khát, cổ họng đau đớn.

Nếu gặp kẻ săn bắn buông lung, thì dạy rõ quả báo kinh cuồng, mất mạng.

Nếu gặp kẻ ngỗ nghịch với cha mẹ, thì dạy rõ quả báo trời đất đánh chết.

Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cối, thì dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.

Lược giảng:

Nếu gặp kẻ hay hủy báng, thì dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở. Nếu Ðịa Tạng Vương Bồ Tát gặp những kẻ không tiếc lời chê bai Phật, Pháp, Tăng, thì Ngài nói với họ rằng: “Nếu đời này anh cứ nói năng hồ đồ, khinh chê kẻ khác, hủy báng Tam Bảo như thế, thì đời sau anh sẽ phải chịu quả báo không có lưỡi, không nói được, hoặc miệng thường bị ung nhọt, chữa trị mãi vẫn không lành.”

Quý vị thử nghĩ xem, vì sao có những người bị câm, không nói ra tiếng được? Ðó là quả báo do họ đã từng hủy báng, khinh chê Tam Bảo. Tại sao có nhiều người miệng thường bị mụt nhọt lở loét, thuốc thang chạy chữa cách mấy vẫn không trị dứt được, ngay cả “thần y” cũng đành phải bó tay? Chính là vì đời trước họ đã hủy báng Tam Bảo, cho nên nay phải gánh chịu quả báo “không lưỡi, miệng lở.”

Nếu gặp kẻ nóng giận, tánh tình hết sức nóng nảy, rất dễ nổi giận, dễ “phát hỏa,” những kẻ có đầy đủ tánh nết của loài A Tu La, chẳng kém một chút nào, thì Ðịa Tạng Vương Bồ Tát dạy rõ quả báo xấu xí, bệnh hoạn, tàn tật. Quý vị thử nhìn một người đang cơn tức giận xem—mặt mày đỏ bừng, phùng mang trợn mắt, huơ tay huơ chân…—hình dáng bộ điệu rất hung hãn, rất khó coi. Theo tiếng Trung Hoa, chữ “long” có nghĩa là bệnh hoạn, ốm đau quặt quẹo luôn luôn; và cũng có nghĩa là bệnh bí tiểu tiện. Do đó, “long tàn” (bệnh hoạn, tàn tật) cũng có thể giải thích là bệnh về đường tiểu, hoặc là chân bị bệnh tật, không đi đứng được.

Vậy, nếu quý vị thường hay nổi nóng, thì đời sau dung mạo của quý vị sẽ rất xấu xí, lại còn bị tật nguyền và cả trăm thứ bệnh hành hạ xác thân nữa!

 

Nếu gặp kẻ bỏn xẻn… “Bỏn xẻn” tức là keo kiệt, không đành lòng xả bỏ. Những người có tánh bỏn xẻn chỉ thích cầm tiền trong tay mà xoay tới xoay lui, mân mê ngắm nghía, thậm chí tiền có chảy thành nước, họ vẫn không bỏ tay ra! Hạng người keo kiệt này không xả bỏ được nên không muốn làm hạnh bố thí, hễ có tiền là bo bo giữ chặt, chẳng chịu buông ra.

Thì dạy rõ quả báo sở cầu không toại nguyện. Khi Ðịa Tạng Vương Bồ Tát gặp những chúng sanh bỏn xẻn như thế, thì Ngài nói cho họ biết về quả báo mọi điều cầu xin đều không được thỏa mãn, mọi sự mong mỏi đều không được như ý.

Nếu gặp kẻ ăn uống vô độ… Có nhiều người có thói háu ăn, hễ nhìn thấy đồ ăn là ăn ngấu ăn nghiến, ăn rồi lại ăn thêm, ăn xong lại ăn nữa, món này sang món khác, không điều độ, không tiết chế gì cả. Hạng người này rất thích ăn uống; suốt ngày họ không làm gì cả, đầu óc lúc nào cũng bận rộn suy nghĩ về chuyện ăn, cứ ăn rồi ngủ, ngủ dậy lại ăn—đó gọi là “ăn uống vô độ,” ăn uống không giờ giấc, không điều độ.

Ðối với hạng người ăn uống vô độ như thế, thì Ðịa Tạng Vương Bồ Tát dạy rõ quả báo đói, khát, cổ họng đau đớn.Ngài giảng cho họ nghe rằng: “Bây giờ quý vị cứ ăn uống vô độ, ăn rồi lại ăn như thế, thì đến đời sau quý vị sẽ không bao giờ được no bụng, muốn uống miếng nước cũng uống không được, vì sao ư? Vì khi đó quý vị bị bệnh ở cổ họng, không nuốt được thức ăn. Bấy giờ, quý vị muốn ăn lắm, nhưng thức ăn vào tới cổ thì mắc nghẹn, nuốt không xuống được; thậm chí ngay cả nước cũng uống không trôi được. Ðó là quả báo do sự ăn uống vô độ vậy.

Nếu gặp kẻ săn bắn buông lung… Vì sao người ta đi săn? Ở đời, có nhiều người lấy việc săn bắn làm thú vui giải trí—thấy con nai đang nhởn nhơ chạy nhảy liền bắn “đoành” một phát, con nai kia tức thì ngã lăn ra, nằm yên bất động; kẻ đi săn thì vui vẻ reo lên: “Xem kìa, tôi bắn rất chính xác! Chỉ một phát là chết ngay!”

“Buông lung” tức là không giữ quy củ một chút nào cả, chẳng câu chẳng thúc, muốn gì làm nấy. Ðối với những người săn bắn buông lung, chỉ biết săn bắn cho thỏa thích, thì Ðịa Tạng Vương Bồ Tát nói cho họ nghe điều gì? Thì dạy rõ quả báo kinh cuồng, mất mạng. Mắc bệnh kinh cuồng thì có thể bị “hoạnh tử,” tức là chết một cách bất ngờ. (Những cái chết bất ngờ như bị tai nạn xe cộ, rớt máy bay, hoặc bị xe lửa hay xe buýt đụng phải mà chết, … đều gọi là “hoạnh tử.”)

Ðịa Tạng Vương Bồ Tát giảng cho những kẻ thích săn bắn nghe rằng: “Bây giờ anh giết hại chúng sanh, tước đoạt sanh mạng của chúng sanh, thì đời sau anh sẽ mắc phải chứng bệnh kinh hãi điên cuồng. Nếu bây giờ anh bắn giết người ta, thì sau này anh sẽ bị xe đụng mà thiệt mạng.” Nghe Ngài giảng về nhân quả như thế, họ ngẫm nghĩ: “Ồ! Như thế thì nguy hiểm thật!” Và nhờ đó, họ không đi săn nữa.

Bồ Tát Ðịa Tạng gặp người nào thì giảng dạy thứ pháp tương ưng với căn cơ của người đó. Nếu quý vị nhớ được những sự báo ứng nhân quả tuần hoàn này, rồi khi gặp người khác quý vị lại có thể tùy duyên giảng nói cho người đó nghe, thì quý vị chính là hóa thân của Bồ Tát Ðịa Tạng vậy. Bấy giờ, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát cùng quý vị hợp tác, mở một công ty cổ phần, song Ngài không bao giờ đòi chia cổ phần với quý vị!

Sau khi nghe giảng Kinh Ðịa Tạng, biết được sự nhân quả báo ứng rồi, thì quý vị không nên làm những việc sai lầm nữa.

Nếu gặp kẻ ngỗ nghịch với cha mẹ, thì dạy rõ quả báo trời đất đánh chết. Ðối với những kẻ bất hiếu, đánh đập chửi mắng cha mẹ, thì Ðịa Tạng Vương Bồ Tát khuyên răn: “Anh không được bất hiếu với cha mẹ. Kẻ làm con mà không hiếu thảo với cha mẹ tất sẽ bị trời tru đất diệt—bị sét đánh chết, bị cuồng phong thổi cho cây cối ngã đổ đè chết, hoặc nhà sập xuống đè chết.” Ðó gọi là quả báo “trời đất đánh chết,” tức là trời đất ra tay giết chết để trừng phạt. Phàm những người bị chết vì sét đánh, hoặc bị mưa to gió lớn làm sập nhà đè chết, đều là quả báo do không hiếu thảo với cha mẹ.

Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cối, thì dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết. Ðịa Tạng Vương Bồ Tát nói với những người ưa nổi lửa đốt rừng núi, cây cối, rằng: “Anh không nên nổi lửa thiêu hủy núi rừng; bằng không, đời sau sẽ bị cuồng mê, tự tìm cái chết.”

Như thế, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát đi khắp nơi giáo hóa chúng sanh, giảng cho chúng sanh hiểu những đạo lý về nhân quả báo ứng.

Kinh văn:

Nếu gặp kẻ làm cha mẹ trước hoặc cha mẹ sau mà độc ác, thì dạy rõ quả báo sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.

Nếu gặp kẻ đặt lưới, giăng bẫy để bắt các sinh vật còn non yếu, thì dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.

Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, thì dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.

Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.

Nếu gặp kẻ phá hoại của Thường Trụ, thì dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.

Nếu gặp kẻ ô nhục phạm hạnh và vu báng Tăng Già, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh.

Nếu gặp kẻ làm bỏng, đốt, chém, chặt, hoặc đả thương sinh vật, thì dạy rõ quả báo phải luân hồi đền trả lẫn nhau.

Lược giảng:

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy tiếp: Nếu gặp kẻ làm cha mẹ trước hoặc cha mẹ sau mà độc ác, thì dạy rõ quả báo sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.

Ở đời, tùy theo cảnh ngộ mà con cái có thể phải sống với “cha trước, mẹ trước,” với “cha trước, mẹ sau,” với “cha sau, mẹ trước,” hoặc với “cha sau, mẹ sau” của mình. Thế nào gọi là “cha trước” và “mẹ trước”? “Cha trước” tức là cha ruột (cha đẻ), và “mẹ trước” tức là mẹ ruột (mẹ đẻ) của mình. Tuy là cha mẹ ruột song cũng có trường hợp cha mẹ có lòng thiên vị đối với con cái, yêu ghét không đồng đều.

Lại còn có “cha sau” và “mẹ sau” nữa. Nếu cha mất sớm, mẹ tái giá với người đàn ông khác, thì người đàn ông đó là “cha sau” (cha kế, cha ghẻ) của mình; còn “mẹ sau” là thế nào? Ðây là trường hợp mẹ không may qua đời sớm, nên cha tục huyền với người đàn bà khác, thì người đàn bà đó là “mẹ sau” (mẹ kế, mẹ ghẻ) của mình. Ví dụ như cảnh ngộ của Ðại Thuấn ở Trung Hoa, là sống với cha ruột và mẹ ghẻ vậy. Thói thường, cha ghẻ và mẹ ghẻ yêu thương con cái không đồng đều—có đứa yêu, có đứa ghét.

Ở Trung Hoa có một người tên là Mẫn Tử Khiên, vốn là học trò của Ðức Khổng Tử. Mẫn Tử Khiên có cha làm quan Ðại Phu, mẹ chẳng may mất sớm nên cha tục huyền với một người đàn bà khác; và người mẹ kế này thường xuyên ngược đãi Mẫn Tử Khiên. Tiết trời mùa đông giá rét căm căm mà bà chỉ cho Mẫn Tử Khiên mặc áo kép bằng vải thô độn hoa cỏ lau; trong khi đó, con ruột của bà thì sao? Con của bà sinh ra thì được mặc áo kép lót bông mềm mại, ấm áp. Loại áo độn hoa cỏ lau thì không thể nào đủ ấm được, chỉ có áo bông mới có thể chịu đựng nổi với cái giá rét mùa đông.

Một hôm, Mẫn Ðại Phu, cha của Mẫn Tử Khiên, có việc cần đi bèn bảo Mẫn Tử Khiên đánh xe. Thấy Mẫn Tử Khiên run cầm cập, người cha giận dữ quát: “Này! Mày làm sao thế? Hôm nay trời không lạnh lắm, sao lại lóng cóng thế kia?” Nói rồi ông giật phăng cái roi đánh xe và quất mạnh lên mình Mẫn Tử Khiên, làm cho chiếc áo Mẫn Tử Khiên đương mặc bị rách và để lộ lớp hoa cỏ lau độn bên trong. Ðây gọi là “tiên đả lô hoa” (quất ra hoa lau).

Trước cảnh tượng ấy, người cha chợt hiểu tất cả; ông ta ôm mặt khóc và tự trách: “Ta thật có lỗi với đứa con này. Thì ra mẹ ghẻ của nó đối xử tệ bạc, nên nó mới bị lạnh cóng như thế.” Và ông tự hứa với mình là sau khi xong việc, về đến nhà nhất định sẽ bỏ vợ, đuổi đi.

Về nhà, Mẫn Ðại Phu đòi đuổi vợ đi thật. Mẫn Tử Khiên thấy vậy bèn quỳ xuống trước mặt cha, người cha ngạc nhiên hỏi: “Tại sao con làm như vậy?”

Mẫn Tử Khiên thưa: “Xin cha đừng đuổi kế mẫu!”

Người cha hỏi: “Tại sao?”

Mẫn Tử Khiên đáp: “Mẹ ở lại mình con chịu lạnh, mẹ đi rồi hai trẻ bơ vơ.” Ý nói là kế mẫu ở lại thì chỉ có một mình Mẫn Tử Khiên chịu lạnh chịu rét; nếu kế mẫu ra đi tất cha lại cưới vợ khác, đến lúc ấy thì cả hai người con đều phải chịu giá lạnh đơn côi. Cha của Mẫn Tử Khiên nghĩ ngợi, rồi không đuổi vợ nữa. Còn người kế mẫu nghe Mẫn Tử Khiên nói như thế thì rất cảm động, tự nhủ: “Ồ! Ðứa bé này hiền huệ biết bao!” Và từ đó bà cũng yêu thương Mẫn Tử Khiên như con ruột, chẳng còn phân biệt nữa.

Ngoài ra, vì sao còn có trường hợp là con có cả “cha sau, mẹ sau” hoặc “cha ghẻ, mẹ ghẻ”? Giả sử cha mất sớm, mẹ đi tái giá, thì con có “cha ghẻ.” Nếu sau đó mẹ lại qua đời và người cha ghẻ cưới vợ khác, thì con lại có “mẹ ghẻ”—bấy giờ người con thành ra có “cha ghẻ, mẹ ghẻ.”

Trong những tình cảnh như thế, con cái thường phải chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi. Làm con mà gặp phải hoàn cảnh như thế thì rất là bi đát, khổ sở! Ở nước Mỹ thì không biết có tình trạng đó hay không, chứ ở Trung Hoa thì xảy ra rất nhiều. Nói tóm lại, thói thường, nếu không phải là con do mình đẻ ra thì người ta chẳng những không thương, mà còn hất hủi, ngược đãi nữa.

Ðối với những người, bất luận là cha ruột mẹ ruột hay cha ghẻ mẹ ghẻ, mà ăn ở độc ác, khắc nghiệt với con cái, hoặc ngược đãi con riêng của chồng, hành hạ con riêng của vợ, thì Bồ Tát Ðịa Tạng giảng nhân quả báo ứng như thế nào? Ngài cho họ biết là đời sau họ sẽ phải chịu quả báo bị đòn roi.

Nếu gặp kẻ đặt lưới, giăng bẫy để bắt các sinh vật còn non yếu, thì dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa. Nếu quý vị làm những việc như giăng lưới đánh cá, giăng bẫy để bắt chim chóc, thú vật (đặc biệt là những động vật mới sanh mới nở như cá con, chim non…), thì đời sau quý vị sẽ gặp cảnh cốt nhục bị phân ly, ruột thịt phải chia lìa. Ví dụ, do gặp phải chuyện gì đó nên những người cùng trong một gia đình đều không thể chung sống gần gũi, có khi phải lưu lạc xứ người, không thể gặp mặt nhau—đó là quả báo “cốt nhục chia lìa.”

Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, cố tình bôi nhọ Phật Pháp Tăng, thì dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng. Gặp những người bị đui, điếc, câm, ngọng, thì không hỏi, quý vị cũng có thể biết được rằng trong đời trước hoặc vô lượng kiếp về trước họ đã từng hủy báng Tam Bảo! Những kẻ hủy báng Tam Bảo đều phải đọa địa ngục trong trăm nghìn muôn ức kiếp mới được thoát ra. Ra khỏi địa ngục rồi thì họ phải làm thân súc sanh; và phải trải qua không biết bao nhiêu lần đầu thai làm ngựa, trâu, dê, gà, chó, heo… nữa, rồi mới được thác sanh làm người trở lại. Bấy giờ, tuy được mang thân người, song phải làm người thuộc hạng bần cùng, hạ tiện, hoặc phải chịu mù, điếc, câm, ngọng. Ðó là tội báo do hủy báng Tam Bảo.

Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp, xem thường Phật Pháp hoặc có lòng kiêu mạn đối với Phật Giáo, thì Ðịa Tạng Vương Bồ Tát dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo—vĩnh viễn ở trong địa ngục mà chịu tội.

Nếu gặp kẻ phá hoại của Thường Trụ… “Phá hoại của Thường Trụ” tức là làm hư đồ đạc hoặc những vật dụng chung của Thường Trụ (tức là của chùa chiền)—như vô cớ giẫm lên một tờ giấy, hay vô cớ làm hư tổn một mảnh gỗ. Ðối với những người phá hoại của Thường Trụ như thế, thì Ðịa Tạng Vương Bồ Tát dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.

Nếu gặp kẻ ô nhục phạm hạnh và vu báng Tăng Già… “Ô nhục phạm hạnh” tức là phá hoại phạm hạnh của người khác, làm ô uế hạnh thanh tịnh của người tu Ðạo. “Vu báng” là cố ý đặt điều, nói xấu để bôi nhọ thanh danh người khác. Thí dụ vị Sư nọ vốn không hề lấy trộm vật gì cả, mà có người lại nói: “Chính mắt tôi thấy ông ấy ăn cắp đấy!” Hoặc là vị Sư kia không hề sát sanh, nhưng có kẻ lại hô hoán lên: “Chính tôi nhìn thấy ông ta sát sanh!” Hoặc có kẻ còn dám bịa đặt những điều tệ hại khác: “Tôi thấy Thầy nàỵ ăn thịt. Tôi thấy Thầy đó đến nơi nọ nơi kia uống rượu. Tôi bắt gặp Thầy kia cợt nhả với người nữ…”

Nếu Ðịa Tạng Vương Bồ Tát gặp những kẻ không duyên không cớ, tự dưng đặt điều nói xấu, cố tình vu khống chư Tăng như thế, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh. Người nào phá hoại hạnh thanh tịnh của kẻ khác và vu oan giá họa cho Tăng Già, thì trong tương lai chắc chắn sẽ bị đọa địa ngục, và sau khi ra khỏi địa ngục thì đầu thai vĩnh viễn làm thân súc sanh.

Nếu gặp kẻ làm bỏng, đốt, chém, chặt, hoặc đả thương sinh vật… Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo bốn vị Ðại Thiên Vương rằng: “Nếu Ðịa Tạng Vương Bồ Tát gặp những kẻ dùng nước sôi để giết hại sinh vật, dùng lửa để thiêu đốt sanh mạng, dùng dao để chém đứt mạng sống của chúng sanh, dùng chùy để đập nát sanh mạng của chúng sanh, hoặc gây thương tích cho chúng sanh, thì dạy rõ quả báo phải luân hồi đền trả lẫn nhau.

Ðịa Tạng Vương Bồ Tát nói với những người đó rằng: “Quý vị dùng nước sôi làm bỏng người ta, thì sau này quý vị cũng bị người ta dùng nước sôi làm bỏng lại. Quý vị dùng lửa đốt người khác thì đời sau quý vị cũng bị người khác đốt lại. Quý vị dùng dao chém người khác thì đời sau quý vị cũng bị người khác chém lại. Ðó gọi là “đền trả lẫn nhau” vậy.

“Ðền trả lẫn nhau” cũng có nghĩa là luân hồi tới lui, hỗ tương trao qua trả lại. Quý vị giết người ta, người ta giết lại quý vị; người ta giết quý vị, quý vị lại giết người ta—đó gọi là quả báo hỗ tương đền trả qua lại.

Kinh văn:

Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thì dạy rõ quả báo làm thân cầm thú đói khát.

Nếu gặp kẻ phá hủy vật dụng một cách phi lý, thì dạy rõ quả báo mọi sở cầu đều thiếu hụt.

Nếu gặp kẻ kiêu mạn cống cao, thì dạy rõ quả báo làm nô dịch hèn hạ.

Nếu gặp kẻ nói hai lưỡi gây xích mích, thì dạy rõ quả báo không lưỡi hoặc trăm lưỡi.

Nếu gặp kẻ tà kiến, thì dạy rõ quả báo thọ sanh ở vùng biên địa.

Lược giảng:

Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thì dạy rõ quả báo làm thân cầm thú đói khát. Phàm đã thọ giới rồi thì phải giữ giới, tuyệt đối không được phá giới. Thế nào gọi là “phá giới”? Ðó là trường hợp “minh tri cố phạm”—biết rõ là sai mà vẫn cố ý vi phạm. Trước kia quý vị vì không biết nên mới phạm sai lầm, thì còn tha thứ được; nhưng một khi quý vị đã biết rõ như thế là sai mà vẫn cố ý làm, thì tội lỗi lại càng nặng thêm.

Thí dụ, quý vị đã thọ giới Không Sát Sanh rồi mà vẫn còn đi sát sanh, như thế là quý vị đã phạm giới; đã thọ giới Không Trộm Cướp rồi mà lại đi ăn trộm ăn cướp, thì đó là phạm giới; đã thọ giới Không Tà Dâm mà sau đó lại làm điều dâm loạn, thì đó là phạm giới; đã thọ giới Không Vọng Ngữ rồi mà còn nói dối nói vọng, thì đó là phạm giới; đã thọ giới Không Uống Rượu mà còn rượu chè say sưa, thì đó là phạm giới. Những sự vi phạm như vậy thì đều rõ rệt, chỉ nhìn qua sự việc cũng biết được là phạm giới rồi.

Ngoài ra, có những trường hợp phạm giới mà khó thể thấy rõ được—bởi tuy là phạm giới mà vẫn có vẻ như không phạm; thế nhưng, cho dù người ta không thể nào biết được đi nữa thì mình cũng là kẻ phạm giới rồi! Về sự phạm giới thì có loại “hữu hình” (có hình tướng) và cũng có loại “vô hình” (không có hình tướng). Sự phạm giới thuộc loại “hữu hình” thì mọi người đều thấy rõ; riêng loại “vô hình” thì trong Phật Pháp cho là phạm giới, còn đa số người đời thì không hề biết tới.

Có bốn trường hợp phạm giới mà dường như không phạm:

1) Trường hợp thứ nhất, là vị Tỳ Kheo có thể thọ trì cấm giới, có thể giữ gìn Giới Pháp, đồng thời cũng có thể thực hành đầy đủ; nhưng trong sự trì giới của vị ấy còn có sự hiện hữu của “ngã tướng”—vị ấy vẫn còn thấy có một cái “tôi” biết thọ giới, cái “tôi” biết trì giới, cái “tôi” biết giữ giới! Nói tóm lại là vị ấy luôn luôn thấy có một cái “tôi” hiện diện bên trong, và đó chính là lòng chấp trước.

Như vậy, tuy chưa chính thức phạm giới, song vị Tỳ Kheo này cũng đã không giữ giới một cách chân chánh rồi. Trong việc giữ giới, quý vị cần phải không biết mình là người đang giữ giới, và phải không cảm thấy là mình cao siêu hơn người khác mới được!

2) Trường hợp “phạm mà dường như không phạm” thứ hai, là vị Tỳ Kheo có thể tụng trì Kinh, Luật, và có thể thủ hộ Giới Pháp, nhưng đối với “thân kiến” thì lại “chẳng rời, chẳng động”—lúc nào cũng thấy có sự tồn tại của một cái “thân kiến,” và cứ luôn nói về cái thân thể này của mình. Vị này thì không nói về cái “ngã” hay cái “tôi,” mà lại bám chấp vào cái “thân” của mình!

Chấp trước cái thân này như thế nào? Ðó là không chịu “cải biến thân thể,” không chịu sửa đổi các tập khí cũ của mình—như thích giải đãi thì cứ giải đãi, thích lười biếng thì cứ lười biếng. Nói tóm lại là không muốn bắt cái thân này phải chịu cực chịu khổ một chút nào cả, suốt ngày cứ chăm chút, lo toan cho cái thân này mà thôi—và đó gọi là “thân kiến.”

Vậy, tuy vị ấy có thể thủ hộ Giới Luật và dường như không vi phạm gì cả, song trên thực tế thì vị ấy đã không tuân thủ, không giữ vững Giới Luật.

3) Trường hợp “phạm mà dường như không phạm” thứ ba, thì có liên quan đến những vị Tỳ Kheo thực hành Mười Hai Hạnh Ðầu Ðà. “Ðầu-đà” là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “đẩu tẩu tinh thần,” có nghĩa là tinh thần phấn chấn, hăng hái chiến đấu với sự lười biếng.

Chẳng hạn, vị Tỳ Kheo tu khổ hạnh có thể nghĩ rằng: “Tôi không thấy buồn ngủ cũng không thấy đói chút nào cả. Thay vì nằm ngủ thì tôi ngồi tham Thiền. Người ta thì cần ăn uống, chứ tôi thì ngay cả nước lã tôi cũng chẳng đụng đến nữa!”

Trong trường hợp này, vị Tỳ Kheo tu hành Mười Hai Hạnh Ðầu Ðà, nhưng lại chưa nhận thức được “nhân không, Pháp không,” vẫn còn thấy tất cả các pháp là hiện hữu. Bởi vị đó chưa đạt được cảnh giới “chư pháp không tướng,” lại còn cho rằng hết thảy các pháp đều hiện hữu, cho nên, nhìn thì có vẻ như vẫn đang thủ giới, song thực tế thì công phu giữ giới của vị ấy không được viên mãn.

4) Trường hợp “phạm mà dường như không phạm” thứ tư, là vị Tỳ Kheo có tâm từ bi đối với hết thảy chúng sanh, nhưng nếu nghe được rằng “pháp bổn vô sanh tướng,” tất cả các pháp đều là không, chẳng có sanh mà cũng chẳng có diệt, thì vị ấy liền sanh lòng hoang mang, sợ hãi. Do đó, giới hạnh của vị đó cũng không được viên mãn.

Trên đây là bốn trường hợp tuy rằng không phạm giới một cách cụ thể, song cũng không phải là thủ giới một cách chân chánh!

Bây giờ chúng ta nói đến vấn đề “phạm trai.” “Trai” có nghĩa là chay tịnh, không ăn thịt; vậy, “phạm trai” tức là ăn thịt. Tuy nhiên, không phải chỉ ăn thịt mới gọi là “phạm trai,” mà ngay cả “ăn phi thời” (ăn trái giờ) cũng xem là “phạm trai.”

Thế nào gọi là “ăn phi thời”? Nếu quý vị đã phát nguyện là quá giờ ngọ hay quá trưa rồi thì không ăn gì nữa (quá ngọ bất thực), nhưng sau giờ ngọ rồi mà quý vị vẫn cứ ăn, thì đó là “ăn phi thời.” “Ăn phi thời” còn bị kết vào tội trộm cắp; bởi quý vị đã nguyện là “quá ngọ bất thực,” thế mà nói xong lại không giữ lời, quá ngọ rồi mà vẫn cứ lấy thức ăn để ăn, do đó phạm giới trộm cắp. Như thế, quý vị chẳng những phạm giới “không ăn quá ngọ,” lại còn phạm luôn cả giới “không trộm cắp” nữa. Rồi đến khi có người hỏi là quý vị đã ăn gì chưa, nếu quý vị tìm cách che đậy: “Ồ, tôi chưa ăn gì cả!”—như thế là quý vị phạm luôn giới “không vọng ngữ.” Như vậy, tổng cộng quý vị đã phạm đến ba giới.

Ngoài ra, kẻ nào cung cấp thức ăn cho người phạm giới, thì chính bản thân kẻ ấy cũng phạm cùng những giới như vậy, và cũng bị kết vào những tội giống như phạm nhân vậy.

Ðức Phật có dạy rằng: “Những kẻ phạm giới đều không phải là đệ tử của Phật!”

Những kẻ phạm giới thì như thế nào? Họ ví như loài chim ó vậy. Loài chim này có tiếng kêu rất kỳ quái, những người nghe thấy tiếng kêu của chúng đều lấy làm lạ. Những kẻ phạm giới lại ví như loài quỷ đói chuyên ăn phẩn vậy; bởi đói khát mà không có gì ăn, chúng đành phải ăn những đồ dơ dáy như thế.

Những kẻ “phá giới phạm trai” là hạng người hạ cấp, bần tiện nhất trong xã hội loài người, và đời sau họ chắc chắn phải chịu quả báo làm thân cầm thú, súc sanh. Do đó, nếu gặp những người phá giới phạm trai thì Ðịa Tạng Vương Bồ Tát dạy cho họ biết rằng đời sau họ sẽ phải làm loài cầm thú và luôn bị đói khát, thiếu thốn thức ăn.

Nếu gặp kẻ phá hủy vật dụng một cách phi lý, thì dạy rõ quả báo mọi sở cầu đều thiếu hụt.

“Phi lý” tức là không hợp lý. Tất cả mọi thứ đồ đạc như cái ly, cái chén…, toàn là những đồ còn dùng được, mà quý vị lại cầm lên rồi vô duyên vô cớ ném một cái “xoảng” cho vỡ đi, thì đó gọi là “phá hủy một cách phi lý”—không có lý do chánh đáng để đập bể đồ đạc. Không riêng gì một cái ly, cái chén, mà hết thảy mọi vật dụng thuộc về Thường Trụ, tài sản của nhà chùa, chúng ta đều không được phung phí phá hoại; và ngay cả những đồ đạc của tư nhân, chúng ta cũng không nên phá hủy. Bằng không, nếu quý vị hủy hoại một cách bừa bãi, thì đời sau phải chịu quả báo mong cầu cái gì cũng không được toại ý, và thường phải chịu đựng nỗi khổ “cầu mà không được” (cầu bất đắc khổ).

Nếu gặp kẻ kiêu mạn cống cao, thì dạy rõ quả báo làm nô dịch hèn hạ. “Cống cao” tức là thấy mình là tài giỏi hơn người, tự đánh giá mình quá cao.

Những kẻ mà đời này có “ngã kiến” nặng nề, cái gì cũng “tôi” cả, coi cái “tôi” này còn to lớn hơn cả núi Tu Di, ngông nghênh ngạo mạn, thì đời sau phải làm kẻ tôi đòi hèn hạ, nô lệ cho người khác.

Nếu gặp kẻ nói hai lưỡi gây xích mích, thì dạy rõ quả báo không lưỡi hoặc trăm lưỡi. “Nói hai lưỡi” (lưỡng thiệt) tức là xúi xiểm, gây xích mích để ly gián. Những kẻ ưa nói lời đâm thọc, khích bác, khiến cho xảy ra chuyện thi phi gây gỗ, thì đời sau sẽ bị quả báo không có lưỡi, không thốt ra tiếng được, hoặc phải làm thân chim se sẻ.

Nếu gặp kẻ tà kiến, thì dạy rõ quả báo thọ sanh ở vùng biên địa. “Tà kiến” tức là không tuân giữ quy củ phép tắc. Những người không tuân theo quy củ, chẳng giữ gìn phép tắc đều là hạng người có tà kiến, có kiến giải sai lầm. Ðối với hạng người này, Bồ Tát Ðịa Tạng bảo cho họ biết rằng đời sau họ sẽ chịu quả báo thác sanh vào vùng biên địa hạ tiện, nơi bần cùng nghèo khổ nhất 

Kinh văn:

Trăm ngàn sự báo ứng kết quả bởi tập khí xấu ác từ thân khẩu ý nghiệp của chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề như thế, nay chỉ nói sơ lược đó thôi.

Nghiệp cảm của chúng sanh trong chốn Diêm Phù Ðề sai biệt như thế, nên Bồ Tát Ðịa Tạng phải dùng trăm ngàn phương tiện để giáo hóa. Các chúng sanh ấy, trước tiên phải thọ lãnh các quả báo như thế, sau đó lại đọa vào địa ngục, trải qua nhiều kiếp không có kỳ hạn thoát ra. Vì thế cho nên, các Ông phải hộ nhân hộ quốc, chớ để những nghiệp chướng đó làm mê hoặc chúng sanh.”

Bốn vị Thiên Vương nghe xong, rơi lệ than thở, chắp tay lễ Phật mà lui ra.

Lược giảng:

Ðức Phật lại bảo bốn vị Thiên Vương rằng: Trăm ngàn sự báo ứng kết quả bởi tập khí xấu ác từ thân khẩu ý nghiệp của chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề như thế, nay chỉ nói sơ lược đó thôi.

Vừa rồi, Ðức Phật nói về vấn đề nhân duyên quả báo, song đó chỉ là nói sơ lược mà thôi. Tất cả chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề gây tạo ác nghiệp qua thân, khẩu và ý; đó là những ác nghiệp gì? Thân, khẩu và ý có thể gây ra mười ác nghiệp; trong đó, thân có ba ác nghiệp là sát sanh, trộm cắp, tà dâm; khẩu (miệng) có bốn ác nghiệp là nói lời hung ác, nói đôi chiều, nói thêu dệt, nói dối; và ý có ba ác nghiệp là tham lam, sân hận, si mê.

Chúng sanh do tập nhiễm tánh ác, lâu dần trở thành thói quen ác độc, kết quả là đời sau phải hứng chịu vô số quả báo khổ sở, sự báo ứng có đến cả trăm ngàn loại khác nhau. Song, bây giờ Ðức Phật chỉ nói sơ lược đó thôi, chứ không đi sâu vào chi tiết một cách tường tận.

Nghiệp cảm của chúng sanh trong chốn Diêm Phù Ðề sai biệt như thế, nên Bồ Tát Ðịa Tạng phải dùng trăm ngàn phương tiện để giáo hóa. Nghiệp ác do tất cả chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề gây tạo vốn không giống nhau, cho nên quả báo do các nghiệp dữ đó cảm vời ra cũng có nhiều khác biệt; vì thế Ðịa Tạng Bồ Tát đã phải dùng trăm phương ngàn chước để dạy dỗ, cảm hóa những chúng sanh này.

Các chúng sanh ấy, trước tiên phải thọ lãnh các quả báo như thế, sau đó lại đọa vào địa ngục, trải qua nhiều kiếp không có kỳ hạn thoát ra. Những chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề này, trước hết là phải chịu các quả báo nói trên. Sau khi đã thọ lãnh xong những quả báo đó, họ lại bị đọa vào địa ngục, trải qua vô lượng kiếp số, mãi mãi không bao giờ ra khỏi được.

Vì thế cho nên, các Ông—bốn vị Thiên Vương—phải hộ nhân hộ quốc, chớ để những nghiệp chướng đó làm mê hoặc chúng sanh.”

Ðức Phật dặn dò bốn vị Thiên Vương phải phù hộ những chúng sanh này và bảo vệ các cõi nước này, đừng để cho các quả báo ác nghiệp bủa vây, khiến cho chúng sanh bị trầm luân mê muội.

Bốn vị Thiên Vương nghe xong, rơi lệ than thở, chắp tay mà lui ra. Sau khi nghe Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng giải về những nhân duyên quả báo xong, bốn vị Thiên Vương đều bùi ngùi xúc động, rơi lệ thở dài; vì sao? Vì họ một mặt thì thương xót những chúng sanh phải chịu thống khổ, mặt khác họ tự thấy hổ thẹn bởi chính mình chưa làm tròn trách nhiệm, chưa bảo hộ chúng sanh tới nơi tới chốn. Chính vì có những cảm tưởng như vậy, cho nên họ mới rơi lệ và thở dài xót xa. Rồi cả bốn vị Thiên Vương đồng cung kính chắp tay đảnh lễ Ðức Phật và lui sang một bên.

(Hết quyển Thượng)