Buổi Tối Không Ăn Có Những Lợi Ích Gì?
Hòa thượng Phật Nguyên 
Hư Thân chuyển ngữ

Người xuất gia chân chính là người thân không có vật sở hữu. Thời đức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Ngài khất thực mỗi ngày chỉ đi đến tối đa bảy nhà, có thì ăn, không có thì nhịn, cơm gạo thô, bánh bao đen cũng đều thọ thực.

Ở một số quốc gia theo hệ Nam truyền, như Thái Lan, chư Tăng ngoài y phục đang mặc trên người ra thì không có sở hữu vật gì, sáng đi khất thực, buổi tối không dùng cơm.

Việc không ăn tối có những lợi ích sau đây:

Thứ nhất, khiến khí huyết lưu thông, không bị ngủ nhiều, không đầy hơi, lửa trong người không bốc mạnh, tâm dâm dục không dễ khởi lên, thân tâm thanh tịnh nhẹ nhàng, cho nên người xuất gia vào buổi tối không nên ăn uống.

Thứ hai, là khởi lòng từ bi thương xót quỷ thần. Theo giáo lý, quỷ thần thường bắt đầu xuất hiện vào khoảng hai, ba giờ chiều, đến khoảng giờ Tý (khoảng 11 giờ đêm) thì trở về, nếu không kịp trở về sẽ không thể quay lại được.

Lúc đức Phật còn tại thế, vì thương xót quỷ thần, Ngài chỉ khất thực vào buổi sáng, buổi tối không nấu ăn.

Hiện nay, chúng ta dùng bát đũa nên nhẹ tay, không gây tiếng động là điều rất tốt, vì chúng sanh ngạ quỷ rất khổ sở, chỉ cần nghe mùi thơm hoặc tiếng động của đồ ăn, là sanh tâm khao khát, nhưng không thể ăn được, khiến lửa đói bốc cháy trong miệng.

Muốn giúp họ, phải trì chú như:

– Biến thực chân ngôn,
– Khai yết hầu chân ngôn,
– Cam lồ thủy chân ngôn,
– Phổ cúng dường chân ngôn…

Hằng ngày chúng ta làm nghi thức phóng Mông Sơn vào buổi tối, dùng vài hạt cơm, một ít nước, trì chú. Chỉ cần trì niệm, các ngạ quỷ liền cảm nhận được, hóa lửa giận thành mát mẻ an lành.

Quỷ cũng có thể trở thành hộ pháp. Chỉ cần rưới một chút cam lồ cho họ, nói một vài lời Phật pháp, thì họ sẽ an tâm an thân, không gây loạn động nữa.

Những điều này, các vị không hiểu được, vì chưa từng trải qua, còn tôi thì từng đích thân trải nghiệm.

Từ năm 1958 đến năm 1960, là thời kỳ vượt qua ải thiếu lương thực, cũng chính là vượt qua cửa ải ngạ quỷ, không có gì để ăn, đói đến gần chết, phải lên núi đào củ “chó vàng” (tức loại củ hoang), ăn dứa rừng, ăn nhiều thì bị phù thũng, có thể chết người, mà chết rồi rất thê thảm, rất đáng thương!

Cho nên, Bồ Tát Quán Âm với lòng đại từ đại bi, dùng thần lực biến hóa các loại đất thành thực phẩm, gọi là “đất Quán Âm”, có thể cứu mạng.

Ngoài ra, còn có một loại thực vật khác cũng do Quán Âm Bồ Tát hóa hiện, tôi đã từng ăn qua, dùng nước suối, tro hương trộn lại, khuấy đều, có thể thành một loại giống như đậu hũ, gọi là “đậu hũ Quán Âm”, cũng có thể cứu mạng.

Nhưng cứu được bao nhiêu người? Vì khắp nơi đều đói, chẳng ai có cơm ăn…

Ngày nay, chúng ta dù có đói cũng không chết đói, nhưng người nhà tôi thì đã có người chết đói rồi.

Anh của tôi chết đói. Con trai của ông ấy cũng chết đói.

Khi ông ấy sắp chết, để lại một cái túi trên bàn, dặn:

“Con đừng khóc, trong cái túi kia có đồ ăn, đợi cha về sẽ lấy cho con ăn.”

Đứa trẻ ôm hy vọng sống, đói gần chết nhưng vẫn cố chờ.

Đợi mãi cha không về, mà tự mình không thể lấy được, đến lúc mở ra xem thì không phải đồ ăn, liền tuyệt vọng mà chết.

Khi còn hy vọng, tinh thần còn gượng chống đỡ được, nhưng một khi mất hy vọng thì chết trong bi thương, thật là thảm thương biết bao!

Khi tôi bị tù đày, trong tù mỗi bữa chỉ có hai lạng gạo, mỗi ngày hai bữa, cộng lại chỉ có bốn lạng, không bắt làm gì cả, xem thử các vị có chịu đói nổi không?

Tôi nghĩ các vị sẽ kêu la om sòm!

Ngồi tù, chính là cửa đóng then cài không được ra ngoài, còn bên ngoài, lính canh nấu cơm ăn, xào rau, mùi hương bay ngào ngạt, họ ăn uống ngon lành, còn tôi thì chịu đựng đói khổ bên trong, các vị nghĩ xem, đó là mùi vị gì?

Chính là mùi vị của ngạ quỷ vậy.

Ngạ quỷ là thấy người khác ăn mà mình không ăn được, chỉ biết nhìn, rất đáng thương!

Cõi người và súc sanh đều rất khổ, con người có tư tưởng, nhưng luôn muốn cái mình không có: đói thì muốn ăn, bị trói buộc thì muốn tự do.

Con trâu bị xỏ mũi buộc vào cây, chỉ có thể quay vòng vòng, nó muốn ăn, muốn được tự do, nhưng không nói ra được, cũng không chạy thoát được.

Khi chúng ta cúng dường chư Thiên, trong văn kinh có câu:

“Kỳ tâm tại tại” , nghĩa là gì?

Tức là giống như chim nhốt trong lồng, luôn nhảy nhót, mong được thoát ra, tâm niệm luôn hướng ra ngoài.

Hiện tại chúng ta đả thất, mà tâm cũng “kỳ tâm tại tại”, suốt ngày vọng tưởng lăng xăng, tâm nghĩ đến việc tụng kinh, lạy sám để kiếm tiền,
muốn đi đây đi đó du ngoạn, trong mộng cũng nghĩ đến ăn uống, mơ thấy ăn thật no, nhưng tỉnh dậy thì bụng vẫn trống không.

Quả thật là:

“Nhật hữu sở tư, dạ hữu sở mộng”

(Ngày nghĩ điều gì, đêm sẽ mộng thấy điều đó).