BẢO SÁM HỒNG DANH
LỄ TÁM MƯƠI TÁM ĐỨC PHẬT
Việt dịch: Quảng Minh
DUYÊN KHỞI BẢO SÁM HỒNG DANH
LỄ TÁM MƯƠI TÁM ĐỨC PHẬT
Tôi lúc nhỏ đi vào truy môn, ban đầu đọc tụng danh hiệu của 88 Đức Phật, trong lòng yên lắng, được điều chưa từng có! Nay tôi già rồi, mỗi khi xưng niệm danh hiệu, niềm hỷ lạc vẫn như xưa. Có điều tôi chưa xem xét [các danh hiệu ấy] xuất từ Kinh nào? Gần đây tôi tham cứu Đại tạng thì mới biết rằng 35 Đức Phật xuất từ Kinh Đại Bảo Tích, được trình bày rất rõ ràng xuyên suốt bản kinh. Người đương thời góp nhặt danh hiệu 88 Đức Phật, bỏ qua kinh văn, chỉ chép danh hiệu Phật là để giản tiện, nhưng người đọc sẽ không biết xuất xứ từ đâu. Thấy biết không rộng khắp cũng là một sai sót vậy. Tôi nay riêng chọn lấy duyên khởi của hai bản kinh, đưa ra ở phần đầu để hành giả khởi chánh tín, phát đại nguyện, hết lòng cần cầu, lễ kính trì tụng, ngõ hầu chứng đắc Vô thượng bồ-đề. Hơn nữa, chính từ kim khẩu của Đức Thế Tôn tuyên thuyết rằng, Ngài thuở xa xưa, từ nơi Đức Phật Diệu Quang xuất gia học đạo vào thời mạt pháp, được nghe danh hiệu của 35 Đức Phật, tâm sinh hoan hỷ. Rồi lần lượt chuyển dạy cho ba ngàn người đều được thành Phật, chính là một ngàn Đức Phật trong ba đời vậy. Thêm nữa, nghĩ nhớ tội lỗi ba độc sâu nặng của chúng sinh, Ngài đặc biệt dạy bảo lễ lạy 35 Đức Phật để cầu sám hối. Người học Phật bằng chân tâm thì không thể không sinh ý tưởng khó gặp đối với các danh hiệu của chư Phật, không thể không sinh ý niệm hỗ thẹn, để rồi hết sức hành trì, gắng lòng cầu đạt. Đó là vì người trí có thể siêng năng, tự nghiêm khắt vậy.
Thời vua Khang Hy, ngày Phật thành đạo (mùng 8), tháng 12 năm Quý Mão (1663), đất Cổ Sơn, tỳ kheo Đạo Bái[i] trịnh trọng ghi Tựa.
TÁN HƯƠNG
Tâm hương năm phần
Tánh lửa vừa nhen
Khắp hư không pháp giới thơm lừng
Phàm Thánh thảy được xông
Mây khói cuộn vòng
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát ma-ha-tát. (3 lần)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
KỆ KHAI KINH
Pháp vi diệu rất sâu vô thượng
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
BẢO SÁM HỒNG DANH
LỄ NĂM MƯƠI BA ĐỨC PHẬT
Kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát ghi: “Bấy giờ Dược Thượng Bồ tát vì hành giả tuyên nói danh hiệu của 53 đức Phật quá khứ, bảo rằng: ‘Này Pháp tử! Đời quá khứ có Đức Phật tên là Phổ Quang, kế tên Phổ Minh, kế tên Phổ Tịnh, kế tên Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương, kế tên Chiên Đàn Quang, kế tên Ma Ni Tràng, kế tên Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích, kế tên Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tiến, kế tên Ma Ni Tràng Đăng Quang, kế tên Tuệ Cự Chiếu, kế tên Hải Đức Quang Minh, kế tên Kim Cương Lao Cường Phổ Tán Kim Quang, kế tên Đại Cường Tinh Tiến Dũng Mãnh, kế tên Đại Bi Quang, kế tên Từ Lực Vương, kế tên Từ Tạng, kế tên Chiên Đàn Quật Trang Nghiêm, kế tên Hiền Thiện Thủ, kế tên Thiện Ý, kế tên Quảng Trang Nghiêm Vương, kế tên Kim Hoa Quang, kế tên Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Vương, kế tên Hư Không Bảo Hoa Quang, kế tên Lưu Ly Trang Nghiêm Vương, kế tên Phổ Hiện Sắc Thân Quang, kế tên Bất Động Trí Quang, kế tên Hàng Phục Chư Ma Vương, kế tên Tài Quang Minh, kế tên Trí Tuệ Thắng, kế tên Di Lặc Tiên Quang, kế tên Thế Tịnh Quang, kế tên Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương, kế tên Long Chủng Thượng Trí Tôn Vương, kế tên Nhật Nguyệt Quang, kế tên Nhật Nguyệt Châu Quang, kế tên Tuệ Phan Thắng Vương, kế tên Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương, kế tên Diệu Âm Thắng Phật, kế tên Thường Quang Tràng, kế tên Quán Thế Đăng, kế tên Tuệ Uy Đăng Vương, kế tên Pháp Thắng Vương, kế tên Tu Di Quang, kế tên Tu Mạn Na Hoa Quang, kế tên Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương, kế tên Đại Tuệ Lực Vương, kế tên A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang, kế tên Vô Lượng Âm Thanh Vương, kế tên Tài Quang, kế tên Kim Hải Quang, kế tên Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương, kế tên Đại Thông Quang, kế tên Nhất Thiết Pháp Thường Mãn Vương Phật.’
Bấy giờ, Dược Thượng Bồ tát tuyên nói danh hiệu của 53 Đức Phật thời quá khứ xong, yên lặng mà an trú. Khi ấy hành giả liền ở trong định, được thấy bảy Đức Phật Thế Tôn ở quá khứ, thấy Đức Phật Tỳ Bà Thi khen ngợi rằng: ‘- Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ông đã tuyên nói 53 Đức Phật, chính là các Đức Phật ở quá khứ lâu xa, đã từng xuất hiện ở thế giới Ta bà, thành thục chúng sinh rồi nhập Niết-bàn. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân và tất cả chúng sinh khác được nghe danh hiệu của 53 Đức Phật đó, thì người ấy trong trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp chẳng đoạ ác đạo. Nếu có người hay xưng danh hiệu của 53 Đức Phật đó, thì đời đời sinh ra thường gặp gỡ chư Phật mười phương. Nếu có người thường chí tâm kính lễ 53 đức Phật thì trừ diệt được bốn tội trọng, năm tội nghịch và tội chê bai kinh điển Phương đẳng, thảy đều thanh tịnh. Do bản thệ nguyện của chư Phật đó, trong mỗi một niệm liền trừ diệt được các tội vừa nói ở trên.’ Thi Khí Như Lai, Tỳ Xá Phù Như Lai, Câu Lưu Tôn Như Lai, Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai, Ca Diếp Như Lai cũng tán thán 53 Đức Phật, cũng lại khen ngợi thiện nam tử, thiện nữ nhân, người nào nghe được danh hiệu của 53 Đức Phật, có thể xưng danh, kính lễ 53 Đức Phật đó, thì trừ diệt được những tội chướng vừa nói ở trên.
Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo đại chúng rằng: ‘- Ở vô số kiếp trước đây, Ta từng sống trong thời mạt pháp của Đức Phật Diệu Quang, xuất gia học đạo, được nghe danh hiệu của 53 đức Phật, nghe xong chấp tay, tâm sinh hoan hỷ, lại dạy người khác khiến được nghe giữ. Người khác nghe rồi, lần lượt chuyển dạy cho đến ba ngàn người. Ba ngàn người đó khác miệng đồng tiếng, xưng danh hiệu của chư Phật, nhất tâm kính lễ. Do năng lực công đức của nhân duyên kính lễ chư Phật như thế, cho nên siêu việt được vô số ức kiếp sinh tử trọng tội. Một ngàn người đầu tiên, Đức Phật Hoa Quang đứng đầu, xuống đến Đức Phật Tỳ Xá Phù, ở Trang Nghiêm kiếp theo thứ tự thành Phật, tức là một ngàn đức Phật thời quá khứ. Một ngàn người tiếp theo, Đức Phật Câu Lưu Tôn đứng đầu, xuống đến Đức Lâu Chí Như Lai, ở Hiền kiếp theo thứ tự thành Phật, tức là một ngàn đức Phật thời hiện tại. Một ngàn người sau cùng, Đức Nhật Quang Như Lai đứng đầu, xuống đến Tu Di Tướng Như Lai, ở Tinh Tú kiếp theo thứ tự thành Phật, tức là một ngàn đức Phật thời vị lai.’ Đức Phật dạy trưởng giả tử Bảo Tích rằng: ‘Chư Phật hiện tại trong mười phương, như Thiện Đức Như Lai, v.v… cũng từng được nghe danh hiệu của 53 Đức Phật đó, cho nên ở mười phương diện, mỗi vị đều đã thành Phật. Nếu có chúng sinh nào muốn trừ diệt bốn tội trọng cấm, muốn sám hối tội ngũ nghịch thập ác, muốn trừ diệt tội cực trọng là hủy báng chánh pháp mà không có căn do, thì người ấy nên siêng năng tụng thần chú của hai vị Bồ-tát Dược Vương và Dược Thượng nói trên; cũng nên kính lễ mười phương chư Phật nói trên, lại nên kính lễ 7 Đức Phật thời quá khứ, lại nên kính lễ 53 Đức Phật, cũng nên kính lễ một ngàn Đức Phật ở Hiền kiếp, lại nên kính lễ 35 Đức Phật, sau đó kính lễ vô lượng tất cả chư Phật khắp cả mười phương. Ngày đêm sáu thời, tâm tưởng sáng suốt, như dòng nước chảy, hành pháp sám hối.’”[ii]
THẦN CHÚ DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT
A mục khư, ma ha mục khư, tọa lệ, ma ha tọa lệ, sa sí, ma ha sa sí, thường cầu lợi, ma ha thường cầu lợi, ô ma trí, ma ha ô ma trí, sa sí sa sí, ma ha sa sí, đâu đế đâu đế, ma ha đâu đế, a du a du, ma ha a du, lâu già ca, ma ha lâu già ca, đà xa mị đà xa mị, ma ha đà xa mị, đa đâu đa đâu, ma ha đa đâu, ca lưu ni ca, đà xa la sa ha, a trúc khâu a trúc khâu, ma trừng kì, ba đăng thư, già đễ, già lâu ca đễ, phật đà già lê, ca lưu ni ca, sa ha. (3 lần)[iii]
THẦN CHÚ DƯỢC THƯỢNG BỒ TÁT
Nan na mâu, phù trí phù, lưu phù khâu lưu phù khâu, ca lưu ni ca, lễ mâu lễ mâu, ca lưu ni ca, bỉ thê bỉ thê, ca lưu ni ca, a tỳ thê tha, a tiện tha a tiện tha, ca lưu ni ca, san già la, sa ha. (3 lần)[iv]
Đại từ đại bi thương chúng sinh
Đại hỷ đại xả cứu muôn loài
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm
Chúng con chí tâm quy mạng lễ.
1. Nam mô Phổ Quang Phật
2. Nam mô Phổ Minh Phật
3. Nam mô Phổ Tịnh Phật
4. Nam mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật
5. Nam mô Chiên Đàn Quang Phật
6. Nam mô Ma Ni Tràng Phật
7. Nam mô Hoan Hỉ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật
8. Nam mô Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tiến Phật
9. Nam mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật
10. Nam mô Tuệ Cự Chiếu Phật
11. Nam mô Hải Đức Quang Minh Phật
12. Nam mô Kim Cương Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật
13. Nam mô Đại Cường Tinh Tiến Dũng Mãnh Phật
14. Nam mô Đại Bi Quang Phật
15. Nam mô Từ Lực Vương Phật
16. Nam mô Từ Tạng Phật
17. Nam mô Chiên Đàn Quật Trang Nghiêm Phật
18. Nam mô Hiền Thiện Thủ Phật
19. Nam mô Thiện Ý Phật
20. Nam mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật
21. Nam mô Kim Hoa Quang Phật
22. Nam mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Vương Phật
23. Nam mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật
24. Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật
25. Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật
26. Nam mô Bất Động Trí Quang Phật
27. Nam mô Hàng Phục Chư Ma Vương Phật
28. Nam mô Tài Quang Minh Phật
29. Nam mô Trí Tuệ Thắng Phật
30. Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật
31. Nam mô Thế Tịnh Quang Phật
32. Nam mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật
33. Nam mô Long Chủng Thượng Trí Tôn Vương Phật
34. Nam mô Nhật Nguyệt Quang Phật
35. Nam mô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật
36. Nam mô Tuệ Phan Thắng Vương Phật
37. Nam mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật
38. Nam mô Diệu Âm Thắng Phật
39. Nam mô Thường Quang Tràng Phật
40. Nam mô Quán Thế Đăng Phật
41. Nam mô Tuệ Uy Đăng Vương Phật
42. Nam mô Pháp Thắng Vương Phật
43. Nam mô Tu Di Quang Phật
44. Nam mô Tu Mạn Na Hoa Quang Phật
45. Nam mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật
46. Nam mô Đại Tuệ Lực Vương Phật
47. Nam mô A Súc Tỳ Hoan Hỉ Quang Phật
48. Nam mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật
49. Nam mô Tài Quang Phật
50. Nam mô Kim Hải Quang Phật
51. Nam mô Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật
52. Nam mô Đại Thông Quang Phật
53. Nam mô Nhất Thiết Pháp Thường Mãn Vương Phật.
VĂN SÁM HỐI
Đệ tử con là …, thành tâm sám hối. Từ vô thỉ kiếp, cho tới ngày nay, khi chưa biết Phật, khi chưa nghe Pháp, khi chưa gặp Tăng, không biết thiện ác, không tin nhân quả, gặp duyên bất thiện, gần ác tri thức, động thân khẩu ý, không ác nào chẳng làm. Thân nghiệp bất thiện, làm việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm; khẩu nghiệp bất thiện, vọng ngữ, thêu dệt, ly gián, thô ác; ý nghiệp bất thiện, khởi tham, sân, si. Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, thân Phật chảy máu. Đốt thiêu chùa tháp, phỉ báng Đại thừa, xâm tổn thường trụ, ô uế phạm hạnh, vu khống Tăng già, phạm các giới cấm, hành bất luật nghi, là tự mình làm, hoặc bảo người làm, thấy nghe mừng theo. Các tội như thế, vô lượng vô biên, ngày nay giãi bày, phát lộ sám hối. Xin nguyện Tam bảo, cùng rũ thương xót, khiến tội căn con, một niệm tiêu tan, thảy đều thanh tịnh.
CỬ TÁN
Năm mươi ba Phật
Quá khứ chân từ
Ba ngàn chư Phật chuyền nghe giữ
Lần lượt đắc Bồ-đề
Con nay quy y
Xin nguyện độ người mê.
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-tát Ma-ha-tát. (3 lần)
KỆ HỒI HƯỚNG
Nguyện tiêu ba chướng các phiền não
Nguyện chân trí tuệ thường sáng tỏ
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ
Đời đời thường hành Bồ-tát đạo.
BẢO SÁM HỒNG DANH
LỄ BA MƯƠI LĂM ĐỨC PHẬT
Kinh Đại Bảo Tích ghi: “Tôn giả Xá-lợi-phất bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chư Bồ-tát ấy ở nơi tham sân si chẳng khiếp sợ chăng?
Đức Phật dạy: Này Xá-lợi-phất! Tất cả Bồ-tát có hai điều phạm giới, những gì là hai? Một là tương ưng với sân mà phạm, hai là tương ưng với si mà phạm. Hai điều phạm như vậy gọi là đại phá giới. Này Xá-lợi-phất! Do tham mà phạm thì là lỗi vi tế, khó lòng rời bỏ; do sân mà phạm thì là lỗi thô trọng, nên dễ rời bỏ; do si mà phạm thì là lỗi rất nặng, càng khó rời bỏ. Tại sao? Tham kết là chủng tử cho các hữu, làm cho sanh tử dây dưa, nối nhau chẳng tuyệt, vì lẽ ấy nên vi tế khó dứt. Vì sân mà phạm thì đọa ác đạo, có thể đoạn trừ được mau. Vì si mà phạm thì đọa trong tám đại địa ngục, khó thể giải thoát được.
Lại nữa Xá-lợi-phất! Nếu có Bồ-tát phạm Ba-la-di thì nên đối trước mười vị tỳ-kheo thanh tịnh rồi dùng tâm chất trực mà ân trọng sám hối. Phạm Tăng tàn thì đối trước năm tỳ-kheo thanh tịnh mà ân trọng sám hối. Nếu bị người nữ có nhiễm tâm đụng chạm, và do nhìn nhau mà sanh ái luyến, thì đối trước một hai tỳ-kheo thanh tịnh mà ân trọng sám hối.
Này Xá-lợi-phất! Nếu chư Bồ-tát thành tựu ngũ vô gián tội, phạm Ba-la-di, hoặc phạm Tăng tàn, phạm Tháp, phạm Tăng và phạm những tội khác, thì nên đối trước ba mươi lăm Đức Phật mà ân trọng sám hối. Nên tự xưng rằng: Con tên là …, con xin quy y Phật, con xin quy y Pháp, con xin quy y Tăng.”[v]
KỆ TÁN PHẬT
Trên dưới trời chẳng ai bằng Phật
Mười phương thế giới cũng khó sánh
Thế gian có gì con nhìn thấy
Tất cả không ai bằng Phật vậy.
1. Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
2. Nam mô Kim Cang Bất Hoại Phật
3. Nam mô Bảo Quang Phật
4. Nam mô Long Tôn Vương Phật
5. Nam mô Tinh Tiến Quân Phật
6. Nam mô Tinh Tiến Hỉ Phật
7. Nam mô Bảo Hỏa Phật
8. Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật
9. Nam mô Hiện Vô Ngu Phật
10. Nam mô Bảo Nguyệt Phật
11. Nam mô Vô Cấu Phật
12. Nam mô Ly Cấu Phật
13. Nam mô Dũng Thí Phật
14. Nam mô Thanh Tịnh Phật
15. Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật
16. Nam mô Ta Lưu Na Phật
17. Nam mô Thủy Thiên Phật
18. Nam mô Kiên Đức Phật
19. Nam mô Chiên Đàn Công Đức Phật
20. Nam mô Vô Lượng Cúc Quang Phật
21. Nam mô Quang Đức Phật
22. Nam mô Vô Ưu Đức Phật
23. Nam mô Na La Diên Phật
24. Nam mô Công Đức Hoa Phật
25. Nam mô Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật
26. Nam mô Tài Công Đức Phật
27. Nam mô Đức Niệm Phật
28. Nam mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật
29. Nam mô Hồng Diệm Đế TràngVương Phật
30. Nam mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật
31. Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật
32. Nam mô Thiện Du Bộ Phật
33. Nam mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Đức Phật
34. Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật
35. Nam mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật
Đồng đẳng như vậy, chư Phật Thế Tôn khắp mọi quốc độ thường trú ở đời. Nguyện xin các Ngài thương tưởng đến con, để con sám hối mọi thứ tội lỗi. Là trong đời này, hoặc từ đời trước, vô thỉ sinh tử cho đến ngày nay, bao nhiêu tội lỗi con đã làm ra, bằng cách tự làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm mà lòng mừng theo; hoặc vật của Tháp, hoặc vật của Tăng, vật bốn phương Tăng, mà con tự lấy, con bảo người lấy, con thấy người lấy mà lòng mừng theo; năm tội vô gián mà con tự làm, con bảo người làm, con thấy người làm mà lòng mừng theo; mười thứ ác nghiệp mà con tự làm, con bảo người làm, con thấy người làm mà lòng mừng theo. Bao nhiêu tội lỗi con làm trên đây, hoặc là che dấu, hoặc không che dấu, hoặc đáng sa đọa vào trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, các đường dữ khác, cùng với các xứ, biên địa man dã; hết thảy tội lỗi con đã làm ra, đáng phải sa vào những chỗ như vậy, ngày nay con xin sám hối tất cả.
Ngày nay con xin chư Phật Thế Tôn chứng biết cho con, thương tưởng đến con, con lại đối trước chư Phật Thế Tôn, hết lòng chân thành tác bạch như vầy: Hoặc trong đời này, hoặc mọi đời khác, con làm bố thí cho đến chỉ cho các loài súc vật một viên thực phẩm, hoặc kính tuân giữ giới luật thanh tịnh, hoặc tu tịnh hạnh được bao thiện căn, tác thành chúng sinh được bao thiện căn, tu hành tuệ giác được bao thiện căn, thành Vô thượng trí được bao thiện căn, tất cả thiện căn đã nói trên đây, con tập hợp lại đối chiếu suy nghĩ, đem hồi hướng cả về nơi tuệ giác Vô thượng bồ đề của Phật Thế Tôn. Quá khứ, hiện tại và cả vị lai chư Phật Thế Tôn hồi hướng thế nào, con cũng nguyện làm hồi hướng như vậy.
Các tội đều sám hối
Các phước đều tùy hỷ
Và công đức chư Phật
Nguyện thành trí vô thượng
Khứ lai hiện tại Phật
Tối thắng trong chúng sinh
Biển vô lượng công đức
Nay con quy mạng lễ.[vi]
CỬ TÁN
Ba mươi lăm Phật
Hiện thế Từ Tôn
Mười phương pháp giới mở từ môn
Khắp chốn cứu trầm luân
Nhổ sạch gốc tội
Đều khiến chứng nguồn chân.
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-tát Ma-ha-tát. (3 lần)
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp
Đều bởi vô thỉ tham sân si
Từ thân, miệng, ý mà sinh ra
Tất cả con nay xin sám hối.
Mười phương ba đời tất cả Phật
Chư tôn Bồ-tát ma-ha-tát
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật
Tự quy y Phật
Xin nguyện chúng sinh
Thể theo đạo cả
Phát lòng Vô thượng.
Tự quy y Pháp
Xin nguyện chúng sinh
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng
Xin nguyện chúng sinh
Thống lý đại chúng
Hết thảy không ngại.
San Francisco, 11.08.2021
***
[i] Vi Lâm Đạo Bái (爲霖道霈, Irin Dōhai, 1615-1702): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, tự là Vi Lâm (爲霖), hiệu Lữ Bạc (旅泊), Phi Gia Tẩu (非家叟), xuất thân Kiến An (建安), Tỉnh Phúc Kiến (福建省). Năm 14 tuổi, ông xuất gia ở Bạch Vân Tự (白雲寺) và năm sau học kinh luận. Năm 18 tuổi, ông đến viếng thăm Quảng Ấn (廣 印) ở Bảo Thiện Tự (寳善寺), Phần Thường (汾常), rồi theo sự hướng dẫn của vị nầy ông đến thăm Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢), hầu hạ nhân vật nầy mấy năm, nhưng sau ông lại đến tham vấn Mật Vân Viên Ngộ (密雲圓悟) ở Thiên Đồng Sơn (天童山), được đại ngộ song Mật Vân không hứa khả cho. Ông lại đem sở chứng nầy trình cho Nguyên Hiền, nhưng cũng không được công nhận. Vì vậy, ông giã từ thầy đi du phương tham học, kết am ở Bách Trượng Sơn (百丈山), chuyên tu tịnh nghiệp với mẫu thân trong vòng 5 năm và đến năm thứ 7 (1650) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông lại theo tham học với Nguyên Hiền ở Cổ Sơn (鼓山), cuối cùng được thầy ấn khả cho. Năm sau, ông lui về ẩn cư tại Quảng Phước Am (廣福菴) ở Kiến Ninh (建寧). Đến năm thứ 14 cùng niên hiệu trên, ông làm Thủ Tòa của Cổ Sơn, và đến năm sau khi Nguyên Hiền qua đời, ông kế thừa sự nghiệp thầy và bắt đầu thăng tòa thuyết pháp. Sống được nơi đây 14 năm, ông lại hạ sơn và sống cuộc đời phiêu bạc, nhưng vì Cổ Sơn không có ai lãnh đạo nên ông lại phải trở về. Vào năm thứ 41 niên hiệu Khang Hy (康熙), ông thị tịch, hưởng thọ 88 tuổi. Ông có để lại một số trước tác như Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Bỉnh Phất Ngữ Lục (爲霖道霈禪師秉拂語錄) 2 quyển, Xan Hương Lục (餐香錄) 2 quyển, Hoàn Sơn Lục (還山錄) 4 quyển, Pháp Hội Lục (法會錄) 1 quyển, Lữ Bạc Am Cảo (旅泊菴稿) 4 quyển. Bên cạnh đó, ông còn biên tập bản Thiền Hải Thập Trân (禪海十珍) 1 quyển. [Phật Học Tinh Tuyển]
[ii] Đại Chánh Tân Tu, Tập 20, Kinh Phật Thuyết Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát 佛說觀藥王藥上二菩薩經, No. 1161, tr. 663c08 – 664b06.
[iii] Sđd, tr. 661b17-27: “Khi Đức Phật tuyên nói như vậy, Dược Vương Bồ-tát thừa uy thần của Phật liền nói thần chú: A mukha maha-mukha, jvale maha-jvale, daksi mahadaksi, Janguli maha-janguli, umati maha-umati, daksi daksi maha daksi, dyote maha-dyoti, ayu ayu maha-ayu, rucaka maha-rucaka, dhasame maha-dhasame, tattvo tattvo mahatattvo, karunika dhasala svaha. A caksu, A caksu, matangi patamge cate, carudgate, budha-caye karunika, svaha. Khi Đại Bồ-tát Dược Vương nói thần chú xong, bạch Đức Phật rằng: – Bạch Đức Thế Tôn! Thần chú này, quá khứ 80 ức Đức Phật đã tuyên thuyết. Nay đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở hiện tại và một ngàn Đức Phật Hiền kiếp ở vị lai cũng nói thần chú đó. Sau khi Đức Phật diệt độ, nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nghe được thần chú này, tụng chú này, trì niệm chú này, thì nhanh chóng diệt sạch các nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng. Với thân hiện tại tu tập các tam muội, trong mỗi một niệm thấy sắc thân của Phật, cuối cùng không quên mất cái tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các loài Dạ xoa, Phú-đơn-na, La-sát, Cưu-bàn-trà, Cát-già, Tỳ-xá-đồ, tất cả các loài quỷ dữ nuốt tinh khí con người đều không thể xâm hại. Khi lâm chung được mười phương chư Phật tới nghênh đón, tuỳ ý vãng sinh Tịnh độ ở phương khác.”
[iv] Sđd, tr. 661c01-20: “Bấy giờ Dược Thượng Bồ-tát cũng ở trước đức Phật tuyên đọc thần chú: Dana muc, bhuti bhuh, rupa-aksa rupa-aksa karunika, ripu ripu karunika, viti viti karunika, abhitista, atyanta atyanta, karunika sankara svaha. Dược Thượng Bồ tát tuyên nói thần chú xong, liền bạch Phật rằng: – Con nay ở trước Đức Như Lai tuyên nói Đà-la-ni tên là Hàng Phiền Não Hải Quán Đảnh. Chú Đà-la-ni này được ba đời chư Phật tuyên nói. Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nghe được thần chú này, tụng thần chú này, trì niệm thần chú này, được mười công đức lợi ích. Thế nào là mười: 1. Do năng lực uy thần của thần chú này, tội sát sinh nhanh chóng được tiêu sạch; 2. Các tội phá huỷ cấm giới được trừ diệt tất cả; 3. Loài người và các loài phi nhân không được tuỳ tiện xâm hại; 4. Phàm chỗ tụng niệm, nhớ giữ chẳng quên giống như tôn giả A-nan; 5. Được Thích Phạm, chư thiên hộ thế tôn trọng; 6. Được quốc vương, đại thần kính trọng; 7. Chín mươi lăm loại tà luận sư không thể khuất phục; 8. Tâm du hành trong thiền định, không ưa lạc thú thế gian; 9. Được mười phương chư Phật và các Bồ-tát hộ niệm, các vị Thanh văn tới thăm hỏi, thọ nhận; 10. Lúc sắp lâm chung, diệt trừ sạch các nghiệp chướng, được mười phương chư Phật phóng hào quang sắc vàng tới nghênh đón, vì người ấy tuyên nói pháp vi diệu, được tuỳ ý vãng sinh về Phật quốc thanh tịnh.”
[v] Đại Chánh Tân Tu, Tập 11, Kinh Đại Bảo Tích 大寶積經, No. 310, Pháp Hội Ưu-ba-ly, tr. 515c08-26, do Bồ-đề-lưu-chí (菩提流志, 562–727) dịch. Cần biết Pháp Hội Ưu-ba-ly này tương đương với Kinh Phật Thuyết Quyết Định Tỳ Ni 佛説決定毘尼經, No. 325, do Đôn Hoàng Tam tạng dịch. Đôn Hoàng Bồ-tát 敦煌菩薩 (Dharmaraksa), dịch âm: Đàm ma la sát (曇摩羅剎 / 曇摩羅察), cũng gọi Trúc Pháp Hộ (竺法護), Đôn Hoàng Tam tạng (敦煌三藏), Nguyệt Chi Bồ-tát (月支菩薩). Ngài gốc người nước Nguyệt Chi, nên mặc dầu tổ tiên nhiều đời sống ở Đôn Hoàng nhưng vẫn lấy họ Chi. Ngài xuất gia năm lên tám, thờ vị sa môn người Ấn độ là Trúc Cao Tòa (竺高座) làm thầy, nên đổi lấy họ Trúc, người đời gọi là Trúc Pháp Hộ. Ngài tính tình thuần hậu hiếu học, thông suốt sáu kinh (Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc, Xuân thu. Hiện nay kinh Nhạc không còn, chỉ có năm kinh, nên thường gọi là Ngũ kinh của Nho giáo), am tường bách gia (100 nhà, gọi chung các nhà chuyên môn thời Xuân thu Chiến quốc nước Tàu). Vào thời Vũ đế nhà Tây Tấn, ngài theo thầy sang Ấn Độ, học tất cả 36 thứ ngôn ngữ các nước, đồng thời thỉnh một số lớn kinh tiếng Phạm mang về Trung Quốc và ngài phiên dịch luôn trên đường về, siêng năng không mệt mỏi. Cứ theo Xuất Tam Tạng Ký Tập, quyển 2, thì trong khoảng 40 năm từ 268-308, ngài lần lượt dịch các kinh như: Chính Pháp Hoa, Hiền Kiếp, Văn-thù-sư-lợi Tịnh Luật, Như lai Hưng Hiển, v.v… gồm hơn 150 bộ, hơn 300 quyển. Vào những năm cuối đời vua Vũ Đế, ngài ở ẩn trong núi sâu, không bao lâu, ngài lại làm chùa ngoài cửa Thanh Môn, thành Trường An. Sau ngài qua lại các nơi như Lạc Dương, Thương Viên, giảng thuyết kinh điển và hướng dẫn chúng Tăng tu học. Ngài thị tịch vào khoảng năm Kiến Hưng, không rõ tuổi thọ. [X. Lương cao tăng truyện Q.1; Khai nguyên thích giáo lục Q.2].
[vi] Sđd, tr. 515c27 – 516b04: “Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật … quy mạng lễ.” Trong Phật Thuyết Tam Thập Ngũ Phật Danh Lễ Sám Văn 佛說三十五佛名禮懺文, No. 326 (Xuất từ Kinh Ưu-ba-ly Sơ Vấn), do Tam tạng sa-môn Bất Không (不空) dịch, có ghi: “Ngũ Thiên Trúc quốc tu hành Đại thừa nhân, thường ư lục thời lễ sám bất khuyết. 五天竺國修行大乘人, 常於六時禮懺不闕.” (Những người tu hành Đại thừa ở Năm nước Thiên Trúc thường lễ sám [35 Đức Phật này] trong sáu thời, không thiếu thời nào.)