GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
CẤP HAI
Bài 35
TÔNG THÀNH THẬT (phần 2)
VI. CÁC ĐỊA VỊ THÁNH HIỀN
Về địa vị tu hành, tông Thành Thật phân ra có bốn hướng bốn quả; và mục tiêu cuối cùng chỉ đến quả vị A-la-hán mà thôi, chứ chưa đề cập tới Bồ-tát và Phật, cho nên đã không được liệt vào hàng các tông phái đại thừa. Theo tông này, từ địa vị Ngũ-thú1 tu tập cho đến A-la-hán, phải trải qua cả thảy 27 địa vị (nhưng kì thật, nếu đem A-la-hán-hướng cũng kể là một địa vị, thì phải có tới 28 địa vị). Ở đây xin liệt kê 27 địa vị ấy trong đồ biểu sau đây:2
VII. KIẾN TƯ HOẶC BỐN QUẢ THANH VĂN PHẢI ĐOẠN TRỪ
Căn cứ theo những dữ kiện vừa được ghi trong “Đồ Biểu 1” ở trên, cũng có thể đem tất cả các kiến tư hoặc thuộc ba cõi chín địa mà bốn quả Thanh-văn phải đoạn trừ, liệt kê thành “Đồ Biểu 2” sau đây. Trong bốn quả này, mỗi quả đều đoạn trừ các kiến tư hoặc mà quả ấy cần phải đoạn: nếu chưa đoạn sạch hết, đều là “hướng”; đã đoạn sạch hết thì là “quả”.
VIII. QUẢ ĐỨC TÔNG NÀY THÀNH TỰU
Thân lạnh trí diệt, chứng nhập vô dư niết bàn, đó là mục đích của tông này. Sự thành tựu sau cùng của nó là thoát ra ngoài ba cõi, không thọ thân sau27, chỉ an trú trong cảnh giới tịch diệt; nhưng cũng vẫn đầy đủ các quả đức như mười sức28, bốn đức vô úy29, ba niệm trụ đại bi30, và năm phần pháp thân31. Lấy lí mà suy, đó đều là những quả đức của Như Lai, các bậc thánh tiểu thừa chẳng qua chỉ biết trên danh tướng, hoặc có chứng nhập thì cũng chỉ một phần ít nào mà thôi, chứ không thể sánh bằng với chư Phật được.
CHÚ THÍCH
1. Dục giới Ngũ-thú địa cũng gọi là Ngũ-thú tạp-cư địa, tức Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, Nhân, và Thiên. Vì năm cõi này đều cùng có tham dục, cho nên được hợp chung thành một địa.
2. Xin xem lại bài 18 (cả phần chú thích) của sách Sơ Cấp.
3. Thuận theo những điều đã nghe, tin tưởng những lời dạy của thánh hiền mà tu hành, gọi là “Tùy-tínhành”.
4. Nghe theo sự hướng dẫn của chánh pháp mà tu hành, gọi là “Tùy-pháp-hành”.
5. Noãn, Đảnh, Nhẫn, và Thế-đệ-nhất-pháp, gọi là “Bốn-thiện-căn”. Xin xem lại bài 13 ở trước.
6. Lúc từ cõi Dục sắp vãng sinh lên cõi Sắc, thân trung ấm trong khoảng thời gian đó đoạn trừ số phiền não còn lại mà nhập niết bàn, gọi là “Trung-bát”.
7. Sau khi sinh lên cõi Sắc, chẳng bao lâu thì đoạn trừ số phiền não còn lại mà nhập niết bàn, gọi là “Sinh-bát”.
8. Sau khi sinh lên cõi Sắc, trải qua một thời gian dài tu hành tích lũy công đức, rồi đoạn trừ số phiền não còn lại mà nhập niết bàn, gọi là “Hữu-hành-bát”.
9. Sau khi sinh lên cõi Sắc, không cần phải tu hành tích lũy công đức, nhưng trải qua một thời gian bao lâu đó, tự nhiên đoạn trừ số phiền não còn lại mà nhập niết bàn, gọi là “Vô-hành-bát”.
10. Đã sinh lên cõi Sắc, dần dà chuyển sinh lên đến tầng trời cao tột của cõi Tứ-thiền là trời Sắc-cứucánh mà nhập niết bàn, gọi là “Lạc-tuệ” (vì trí tuệ ở đây so ra thì hơn hết đối với các cõi trời thiền ở cõi Sắc).
11. Khi mạng chung ở cõi Sắc thì sinh lên tầng trời cao tột của cõi Vô-sắc mà nhập niết bàn, gọi là “Lạcđịnh” (vì đối với thiền cõi Vô-sắc thì định lực ở đây là hơn hết).
12. Đã chứng được quả Dự-lưu, sau khi tới lui cõi Dục nhiều lần, chứng được quả A-na-hàm, tức chứng quả A-la-hán, gọi là “Chuyển-thế”.
13. Người chứng quả Bất-hoàn, không nhất thiết phải chuyển sinh lên cõi Sắc, tức ngay trong đời sống ở cõi Dục, đoạn trừ số phiền não còn lại mà chứng nhập niết bàn, gọi là “Hiện-bát”.
14. Vì tin tưởng và hiểu rõ chân lí, và y theo đó mà tu hành cho đến khi chứng nhập được niết bàn, gọi là “Tín-giải”.
15. Không phải do nghe người khác giảng dạy, mà chỉ bằng vào sự thấy biết của chính mình mà chứng nhập được niết bàn, gọi là “Kiến-đắc”.
16. Người chứng quả Bất-hoàn có căn tánh nhạy bén, tự thân họ chứng diệt tận định mà nhập niết bàn, gọi là “Thân-chứng”.
17. Các vị A-la-hán mà căn tánh trì trệ, nếu gặp ác duyên thì có thể bị trở lui quả Bất-hoàn, gọi là “Thốipháp- tướng”.
18. Luôn luôn giữ chánh định, không để tán thất, gọi là “Thủ-hộ-tướng”.
19. Chán bỏ thế gian, nhưng sợ thối thất công quả, thường muốn tự sát để nhập vô dư niết bàn, gọi là “Tử-tướng”.
20. Các vị A-la-hán có căn cơ trung bình, công hạnh không tiến cũng không lùi,, gọi là “Trụ-tướng”.
21. Đã được thiền định mà cứ thế tiến lên, gọi là “Khả- tấn-tướng”.
22. Giả sử có gặp ác duyên thì cũng không bị thối lui, gọi là “Bất-hoại-tướng”.
23. Vượt thoát những chướng ngại của trí tuệ mà có được trí tuệ, gọi là “Tuệ-giải-thoát”.
24. Đã thoát khỏi những chướng ngại của tuệ mà có được tuệ, lại vượt thoát những chướng ngại của định mà đạt được định, gọi là “Câu-giải-thoát”.
25. Những công đức đã có được không bao giờ bị mất, gọi là “Bất-thối-tướng”.
26. Các vị Tư-đà-hàm đoạn trừ 6 phẩm đầu của 9 phẩm tư hoặc thuộc cõi Dục, phải trải qua 6 đời, mỗi phẩm hoặc cần hai đời, một đời, hay nửa đời, không nhất định, cộng lại là 6 đời. Các vị A-na-hàm đoạn trừ 3 phẩm tư hoặc chót thuộc cõi Dục, phải trải qua 1 đời, mỗi phẩm chỉ cần nửa đời, hoặc 1/4 đời, không nhất định, cộng lại là 1 đời; con số Ả-rập ghi trong đồ biểu, là chỉ cho ý nghĩa này.
27. Xin xem lại chú thích số 7, bài 18, sách Sơ Cấp.
28. Xin xem chú thích số 11, bài 14, sách Sơ Cấp.
29. Như trên.
30. Đức Phật lấy tâm đại bi để nhiếp hóa chúng sinh, thường an trụ ở ba niệm, cho nên gọi là “đại bi tam niệm trụ”: 1) Chúng sinh tin Phật, nhưng Phật không sinh tâm vui mừng, mà luôn an trụ ở chánh niệm, chánh trí; đó là niệm trụ thứ nhất. 2) Chúng sinh không tin Phật, Ngài cũng không sinh tâm phiền muộn, mà luôn an trụ trong chánh niệm, chánh trí; đó là niệm trụ thứ nhì. 3) Cùng một lúc có chúng sinh tin và có chúng sinh không tin, đức Phật biết rõ nhưng không sinh tâm vui mừng, cũng không sinh tâm phiền muộn, mà luôn an trụ trong chánh niệm, chánh trí; đó là niệm trụ thứ ba.
31. Lấy 5 pháp công đức để thành tựu Phật thân, gọi là “năm phần pháp thân”: 1) Giới pháp thân, nghĩa là đức Như Lai, cả ba nghiệp đều hoàn toàn xa lìa lầm lỗi. 2) Định pháp thân, nghĩa là đức Như Lai chân tâm tịch diệt, hoàn toàn xa lìa vọng niệm. 3) Tuệ pháp thân, nghĩa là đức Như Lai chân trí sáng suốt toàn vẹn, thấy rõ tánh tướng của vạn pháp. 4) Giải thoát pháp thân, nghĩa là đức Như Lai, thân tâm đã hoàn toàn giải thoát mọi ràng buộc vướng bận. 5) Giải thoát tri kiến pháp thân, nghĩa là đức Như Lai có đầy đủ tri kiến, tự biết rõ mình thật sự đã giải thoát. Nhưng trong kinh Đại Niết Bàn Phật dạy: “A-la-hán là hàng vô học có đủ năm phần pháp thân; đó là giới, định, tuệ, giải thoát, và giải thoát tri kiến vậy.” Căn cứ theo lời dạy này thì hàng A-la-hán tiểu thừa cũng có đầy đủ 5 phần pháp thân, chẳng qua không được rốt ráo như chư Phật mà thôi.
BÀI TẬP
1) Hãy giải thích hai từ “Tùy-tín-hành” và “Tùy-pháp-hành”.
2) Các từ “Trung-bát”, “Sinh-bát” và “Hiện- bát” nghĩa là gì?
3) Tuệ-giải-thoát A-la-hán và Câu-giải-thoát A-la-hán khác nhau thế nào?
4) 9 địa là gì?
5) Các quả vị Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, và A-la-hán, phải đoạn hoặc như thế nào?
6) Hàng A-la-hán tiểu thừa cũng có đủ 5 phần pháp thân. Hãy dẫn lời dạy của Phật trong kinh để chứng minh điều đó.